Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách Mạng

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM ----- [ \ ----- NGUYỄN THỊ NGỌC VI LỚP DH5C1 KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGÀNH NGỮ VĂN ÂM HƯỞNG DÂN GIAN TRONG MỘT SỐ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN BÍNH TRƯỚC CÁCH MẠNG Giảng viên hướng dẫn Ths.TIÊU MINH ĐƯƠNG An Giang, 5/2008 Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU:..................................................................

pdf69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3208 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách Mạng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
............................. 1 I. Lí do chọn đề tài: ........................................................................................... 1 II. Lịch sử vấn đề: ............................................................................................. 2 III. Mục đích nghiên cứu: ................................................................................. 7 IV. Phạm vi nghiên cứu: ................................................................................... 7 V. Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................ 8 VI. Đĩng gĩp đề tài:.......................................................................................... 8 VII. Cấu trúc luận văn:...................................................................................... 9 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 10 Chương I:Cơ sở lí luận:..................................................................................... 10 1. Âm hưởng theo từ điển Tiếng Việt: .............................................................. 10 2.  m hưởng dân gian trong văn chương bác học:.......................................... 10 2.1.Trong văn học trung đại: ............................................................................. 10 2.2. Trong phong trào Thơ Mới: ....................................................................... 13 Chương II: Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính: ...... 15 1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng của tác giả Nguyễn Bính: ................... 15 1.1. Vài nét về tiểu sử: ...................................................................................... 15 1.2. Các tập thơ tiêu biểu: ................................................................................. 15 2. Mấy vấn đề về phong cách thơ Nguyễn Bính:............................................. 15 3.  m hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính: .................... 17 3.1. Nguồn chất liệu đời sống cho việc kiến tạo nội dung thơ:......................... 17 3.1.1. Đề tài: ...................................................................................................... 17 3.1.2. Chủ đề: .................................................................................................... 25 3.1.3. Cảm hứng tư tưởng thẩm mỹ: ................................................................. 42 3.2. Khơng gian và thời gian nghệ thuật trong thơ: .......................................... 46 3.2.1. Khơng gian nghệ thuật ............................................................................ 47 Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 3.2.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................... 48 3.3. Ngơn ngữ: .................................................................................................. 51 3.3.1. Cách xưng hơ: ......................................................................................... 52 3.3.2. Thành ngữ: .............................................................................................. 54 3.3.3. Chữ số: .................................................................................................... 56 3.3.4. Giọng điệu................................................................................................ 59 4. Hình thức thể loại:........................................................................................ 61 PHẦN TỔNG KẾT:.......................................................................................... 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….66 Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 LỜI CẢM ƠN Đầu tiên tơi xin bày tỏ lịng biết ơn đến: ™ Ba, mẹ và anh chị. ™ Ban giám hiệu trường Đại học An Giang. ™ Quý thầy cơ tổ bộ mơn Ngữ Văn khoa Sư phạm trường Đại học An Giang. ™ Các phịng ban trong Ban giám hiệu trường Đại học An Giang. ™ Bạn bè và những người thân khác. Đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ chúng tơi trong quá trình thực hiện khố làuận. Đặc biệt, xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình chu đáo của giảng viên hướng dẫn - thầy Tiêu Minh Đương, đã chỉ bảo, giúp đỡ chúng tơi hồn thành khố luận này! Sinh viên thực hiện. Nguyễn Thị Ngọc Vi Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 1 PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Thơ ca là nơi để con người bộc lộ tâm tư tình cảm. Thơ là tiếng nĩi của tâm hồn của niềm mơ ước. Thơ bộc lộ ý tưởng đẹp đẽ và cao thượng. Sự cĩ mặt của thơ ca chân chính gĩp phần chứng minh cho sự tồn tại của những gì tích cực của con người luơn thiết tha tìm đến và đấu tranh cho một lẽ sống tốt đẹp. Nhà thơ Sĩng Hồng xác định “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Cịn nhà thơ Huy Cận cũng cĩ cùng quan niệm về thơ như thế “cái chỗ đến cuối cùng của thơ là phải đem đến một cái gì nâng sự sống lên”. Nĩi đúng hơn thơ ca là một động lực kì thú để nâng cuộc sống cao hơn, đồng thời nâng tầm vĩc chúng ta cao bằng cuộc sống”. Nhưng nếu chỉ dừng ở đấy thì cũng chưa thể nĩi hết được bản chất của thơ ca. Bởi ngồi việc khơi dậy những hồi bão cao đẹp và rộng lớn của con người và thời đại thì thơ cịn là tiếng nĩi tình cảm cá nhân, là ước vọng giao hồ giữa con người với thiên nhiên, với cộng đồng xã hội. Thơ mới lần đầu tiên xuất hiện trên thi đàn như “một cơn giĩ mạnh từ xa thổi đến. Cả một nền tảng xưa một phen bị điên đảo lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là một cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỉ”(Hồi Thanh). Và đĩ cũng là lần đầu tiên “cái tơi cá nhân, trữ tình” được bộc lộ một cách mạnh mẽ và quyết liệt nhất. Là một đứa con của phong trào ấy Nguyễn Bính được xem như một hiện tượng khá đặc biệt, đĩ như một “thanh âm trong trẻo” vang lên vẻ đẹp của hồn quê, trong tình cảm dạt dào chân quê mà Hồi Thanh gọi “quê mùa như Nguyễn Bính…” Đối với “lâu đài nghệ thuật” ấy cĩ một sức cuốn hút mạnh mẽ nhưng khơng phải là dễ dàng khám phá ra chân lý, nĩ là cả quá trình tìm tịi, khám phá, suy ngẫm. Trong quá trình ấy thì việc tìm hiểu “Âm hưởng dân gian trong sáng tác của nhà thơ là một điều cĩ ý nghĩa khơng nhỏ. Hay nĩi cụ thể hơn, là nhà thơ cĩ “sự tiếp thu trọn vẹn nền văn minh thơn dã, nền văn hố xĩm làng” mà trước hết âm hưởng dân gian trong sáng tác. Hay nĩi đúng hơn, nếu đặt trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, thơ Nguyễn Bính cĩ dịng chảy riêng trong dịng chảy chung của thời đại. Đĩ là một âm hưởng rất riêng rất độc đáo, khác hẳn với các nhà thơ khác cùng thời. Đây chính là điều hấp dẫn, lơi cuốn chúng tơi tiến hành chọn làm nội dung nghiên cứu Tìm hiểu “Âm hưởngdân gian” trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám cịn là cơ hội để chúng tơi tìm hiểu sâu sắc hơn về một phong cách, một tài năng, một tâm hồn xưa đất nước. Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 2 Với tất cả lý do trên, người viết quyết định lựa chọn đề tài “Tìm hiểu âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng tháng Tám” làm đề tài nghiên cứu của khố luận. II. Lịch sử vấn đề Đối với tác phẩm văn chương, để tồn tại bao giờ cũng được thử thách bởi thời gian và cơng chúng. Thơ Nguyễn Bính khơng nằm ngồi qui luật ấy, và cho đến nay thơ ơng luơn hằng tồn trong lịng bạn đọc yêu thơ. Cĩ được sức sống bền vững ấy, phần nào khơng thể phủ nhận vai trị to lớn của việc chiếm hữu thẩm mỹ từ nguồn sữa ngọt ngào dân gian của tác giả. Và cũng vì sức sống đĩ mà nghiên cứu thơ Nguyễn Bính cũng được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề mà đề tài thực hiện các nhà nghiên cứu thường ít tập trung lí giải mà chỉ thể hiện rải rác trong các cơng trình nghiên cứu. 1.Trước hết các nhà nghiên cứu đã tiếp cận thơ Nguyễn Bính từ gĩc độ xã hội học,việc lý giải thường tập trung ở phương diện đề tài nghĩa là các nhà nghiên cứu xem vấn đề xã hội thể hiện trong thơ Nguyễn Bính. Giáo sư Hà Minh Đức nhận định. Khơng thốt khỏi quy luật chung Nguyễn Bính như mang nỗi buồn thế hệ. Đĩ là cái buồn của con người bị hất ra ngồi các quan hệ cố định nhưng cũng chưa tìm được vị trí của mình trong cuộc đời. Thời đại mà mỗi con người tự cảm thấy mình là những cá nhân cơ đơn lạc lõng, bơ vơ đang đi tìm vị trí cho mình. Đĩ là thời đại của buồn rầu, chán nản, mộng mơ, đợi chờ, mong mỏi vơ định”(Trần Đình Sử). Chính vì vậy ta thấy trong thơ Nguyễn Bính luơn chất chứa tâm trạng của cái tơi cơ đơn. “Tác giả Mã Giang Lân thì xác định “Cũng như nhiều bài thơ của các nhà Thơ mới khác. Cái thiên nhiên ấy rất đẹp, đơi lúc được thi vị hố, mà cũng rất buồn, một cái buồn mang tính thời đại”. Sống giữa thời đại mà “sự đụng chạm với phương Tây đã làm tan rã bao nhiêu bức thành kiên cố”, bên cạnh một ơng Tây sang trọng như Xuân Diệu (chữ của Hồi Thanh), thì Nguyễn Bính xuất hiện như một ngơi sao mang ánh sáng truyền thống chiếu rọi và đem đến phong vị ngọt ngào giữa thời đại bấy giờ, cảm nhận sâu sắc sự phơi pha của đời sống bởi nhưng phong trào “Âu hố`”, cảm nhận cuộc sống đơ thị phồn hoa nhưng đầy lo âu và bất trắc, đồng thời cảm nhận bản thân mình khơng hồ nhập được với lối sống thị thành nên cảm thấy bơ vơ lạc lỏng, tăng thêm “mối sầu đơ thị”. Và để trút mối sầu ấy, nhà thơ đã quay về với nơng thơn, về với cội nguồn dân tộc cũng như về với chính bản thân mình, cho nên bên cạnh giọng điệu thơ buồn ấy ta cịn bắt gặp những bài thơ mang sắc thái tươi trẻ, trong sáng. Đĩ là khi nhà thơ viết về quê hương về làng quê với những phong tục tập quán, những sinh hoạt văn hố, những hội hè đình đám “Bầu trời quê trong sáng, giếng nước gốc đa thanh bình, hương bưởi hương cau man mác trong đêm, câu hát câu ca đậm sắc trữ tình” (Hà Minh Đức). Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 3 Quay về với cội nguồn, tìm thấy sự thanh thản của tâm hồn, để gĩp phần giữ gìn sự trong trẻo thanh khiết của miền đất quê hương, cũng cĩ nghĩa là chống lại sự thay đổi bởi những tác động của đời sống đơ thị hĩa lúc bấy giờ, đã “hơn một lần ơng muốn giữ lại cái đẹp chân quê, chống lại lối sống loè loẹt phấn son thị thành của phong trào Âu hố”.Và đĩ cĩ thể xem là một tuyên ngơn cho quan niệm sáng tác trong thơ Nguyễn Bính. Tìm về với cội nguồn cũng đồng thời là tìm với cái đẹp. Nguyễn Bính là nhà thơ cĩ ý thức suy tơn cái đẹp, những giấc mộng đẹp, cuộc đời đẹp của làng quê, của tình yêu đơi lứa. Thơ ơng luơn hướng về cái đẹp trước hết ở sự lựa chọn đề tài, ơng ít miêu tả những cảnh sống nghèo khổ ở nơng thơn, những cuộc đời lam lũ vất vả kiếm sống, những bức tranh u tối trong thiên nhiên. Nguyễn Bính quan tâm phát hiện cái thi vị của con người và cảnh vật. 2. Nhìn nhận từ gĩc độ văn hố thẩm mỹ Cĩ nhiều ý kiến đĩng gĩp xác đáng chân thật khách quan về thơ Nguyễn Bính: Nhà văn Tơ Hồi bàng hồng xúc động khi đọc những câu thơ Nguyễn Bính và phải thốt lên “Tầm vĩc, thật tầm vĩc, mỗi câu thơ của Nguyễn Bính” và nhà văn khẳng định “Khi nào anh cũng là người của các xứ đồng của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa thưa mưa bụi, giữa nơi cơng ăn việc làm vất vả sương nắng. Bởi đấy là cốt lõi cuộc đời và tâm hồn thơ Nguyễn Bính”[8;150] Giáo sư Hà Minh Đức lại nhận xét “trong những bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã miêu tả được văn hố của làng quê. Cộng đồng làng xĩm tồn tại từ ngàn đời đã sản sinh ra nền văn hố của riêng nĩ. Theo ơng “đĩ là những nền nếp phong tục tập quán, thế giới tâm làinh qua tín ngưỡng tơn giáo và cách xử sự trong quan hệ giữa ngươi với người. Đĩ cũng là nền thẩm mỹ đượm màu dân tộc, giản dị chân quê trong sinh hoạt hằng ngày, lịng hiếu học, giấc mơ quan trạng. Tình yêu thề bồi tình cảm gia đình sâu nặng. Cho đến nhưng ngày hội xuân những đêm hát chèo, buổi lễ chùa, lớp học thầy đồ…Tất cả đều là những bộ phận nhỏ của văn hố làng quê. Chính tầng văn hố này đã thâu giữ sâu kín hồn quê và thơ Nguyễn Bính khai thác thành cơng nếp văn hố làành mạnh, giàu chất thẩm mỹ”[12;135] Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thuý trong hành trình đến với thơ Nguyễn Bính cĩ một số nhận xét sau “Hình ảnh nơng thơn như một cái gì đĩ bất biến trong khơng gian và thời gian gắn l iền với những đêm hội chèo, mỗi cá nhân được nghĩ ngơi, được tiếp thêm sức mạnh trong cộng đồng và bởi cộng đồng. Nơng thơn là nơi cĩ cuộc sống giản dị và thơ mộng”.[12;183] “Khơng dàn dựng khơng bố trí, thơ nĩi với ta bằng cái tình cảm thơn dã đã cĩ từ ngàn năm trước của các cơ gái Việt…Nếu như nhà thơ khơng tiếp nhận văn hố dân gian thì khơng thể cĩ câu thơ giản dị và đẹp như thế” [12;196.] Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 4 “Cái hố thân từ những bài ca dao dân ca tủi hờn đau đớn của ơng thấm vị chát đắng từ thưở nằm trong nơi, cái chát đắng của dịng nước mắt âm thầm trong kho tàng văn hố dân gian của dân tộc việt”.[12; 198] Tác giả Đồn hương cĩ những phát hiện mới mẻ, đĩ là mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, giữa văn hố làng xã với văn hố quốc gia “một mảng đề tài khác mà nhà thơ khơng chú tâm lắm nhưng đã đem lại bộ tinh thần riêng cho thơ ơng, đĩ là sự chuyển tải nghệ thuật đời sống làng quê việt Nam vào đời sống văn hố chung của dân tộc”[12;194] “Bằng sự hồ nhập giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa thi ca và đời sống dân dã, Nguyễn Bính đã mang lại cho chúng ta những bài thơ như chính bản thân đời sống”. “Văn hố dân gian đặc biệt là thơ ca dân gian đã bắt rễ trên mảnh đất màu mỡ trong tâm hồn nhà thơ và bản thân nhà thơ đến lượt mình chịu ảnh hưởng một cách tự nhiên gần như vơ thức của nĩ” “Cũng như văn hố dân gian, thơ Nguyễn Bính đến với chúng ta một cách bình dị, nĩ âm thầm bồi đắp cho chúng ta một quan điểm giản dị về cái đẹp về tình người. Chúng ta thuộc nĩ lúc nĩ khơng hay, vận nĩ vào mình lúc nào khơng biết. Nĩ là cội nguồn của cảm hứng về cái đẹp khởi phát từ dịng sơng văn hố chảy trong đời sống tâm làinh dân tộc. Cĩ lúc nĩ cĩ thể bị vùi dập, bị tạm quên lãng đi, nhưng nĩ vẫn chảy âm thầm và mạnh mẽ trong dịng chảy của một nền văn học dân tộc Việt Nam”. Từ những cơ sở trên, Đồn Hương đi đến kết luận “Chắc chắn nếu khơng cĩ người thầy lớn là văn hố dân gian mà ơng đã tiếp nhận từ thưở trong lịng mẹ thì chúng ta đã khơng cĩ Nguyễn Bính” [13;204] Cĩ thể nĩi tất cả những ý kiến, nhận xét, đánh giá trên của Đỗ Lai Thuý đồng thời cũng đã giải thích vì sao độc giả Việt Nam từ bậc trí giả đến người ít chữ, từ kẻ thành thị đến người nơng thơn nhiều thế hệ độc giả đã hơn nữa thế kỉ nay, đều dễ dàng tiếp nhận và yêu mến thơ Nguyễn Bính. Nhà nghiên cứu Đồn Đức Phương cùng một cái nhìn với những ý kiến trên, ơng nĩi “Đọc thơ Nguyễn Bính người ta như sống lại những ngày tết cổ truyền, những ngày hội xuân, những ngày hội làng, những đêm hát chèo những buổi lễ chùa, những nét tín ngưỡng tơn giáo và những phong tục tập quán, lớp học thầy đồ, những trị vui dân dã, cách ăn mặc và nếp sống xa xưa, giấc mơ quan trạng…”. “Ơng khơng chỉ tài ba khi dựng cảnh những ngày hội quê mà cịn rất am hiểu và khéo léo khi đặc tả những nét văn hố làng quê, cách ăn mặc, qua những nét duyên dáng bề ngồi của người quê”.[13;219] Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Sanh khi nghiên cứu về vấn đề này cĩ nhận xét “Sáng tác của anh thắm thiết chất dân ca, vì thế nên nĩ chuyển động dễ dàng vào tâm linh người đọc ở nhiều lứa tuổi. Một tình quê thật tình tha thiết, một hồn quê nặng Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 5 nghĩa lưu luyến với mọi người tình, mọi người bạn, mọi quan hệ thiết cốt, mọi nhười đọc gần xa”.[13; 232] Tác giả Đồn Hương đĩng gĩp thêm ý kiến “Thơ ơng cĩ một đời sống riêng, một vị trí riêng, trong một gĩc như sâu kín nhất của đời sống tâm linh văn hố người Việt Nam, cái gĩc nhỏ mà “chú cũng khơng lấy được” Nhà phê bình Hồi Thanh đã phát biểu một cách chân thành thắm thiết khi đọc nhưng vần thơ của thi sĩ đồng quê “Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê ẩn náo trong lịng ta. Ta bổng thấy vườn cau bụi chuối là hồn cảch tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính tình căn bản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tơi chắc người đã làm những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người bây giờ đã cĩ vơ số những nhà thơng thái biết đến”.[2; 337] 3. Từ gĩc độ thi pháp học. Tác giả Tơn Phương Lan cĩ nhìn nhận sau “Nguyễn Bính mang đến cho phong trào Thơ Mới một phong cách mộc mạc chân quê, một lối ví von đậm đà màu sắc ca dao. Cĩ lẽ vì thế mà thơ ơng dễ đi vào lịng người trong câu hát ru, dễ trở nên gần gũi với tình cảm của những người quanh năm sống trong lũy tre làng, gắn bĩ cuộc đời. Nhà nghiên cứu Đồn Đức Phương tiếp tục cơng việc nghiên cứu hình thức thơ dân gian Nguyễn Bính. Ơng nĩi “đến với thơ Nguyễn Bính là đến với những hình thức dân gian dân tộc, đến với những giá trị văn hố truyền thống của quãng đại nhân dân. Tác giả cịn đặc biệt chú ý đến nội dung thơ Nguyễn Bính “Nguyễn Bính cĩ lối tư duy hết sức dân dã, cách cảm cách nghĩ của nhà thơ luơn là của đơng đảo những người bình dân, những người sáng tạo và giữ gìn dịng thơ dân gian mà Nguyễn Bính chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thưở bé: cụ thể, sinh động, cách diễn đạt mộc mạc bình dị mà gợi cảm thấm đẫm hồn người chân quê”. Tiếp tục ý kiến của Đồn Đức Phương, Đồn Hương cĩ ý kiến sau “Chính cái thi pháp thơ của thơ ca dân gian đã đến sự phĩng khống và sức mạnh cho bút pháp của Nguyễn Bính “Cĩ lẽ ở thế kỉ này Nguyễn Bính làà một trong những nhà thơ đã thành cơng làớn khi đem thi pháp của thơ ca dân gian vào trong thi ca hiện đại” [13;200]. “Thành cơng của thơ Nguyễn Bính là sự thành cơng của một sự tiếp nhận những nguyên tắc mỹ học và thi pháp mà ơng đã học được từ văn hố dận gian” [13;193]. “Thi pháp của thơ ơng làà được rút ra từ trong cái bản chất của thơ ca dân gian chứ khơng phải là sự bắt chước những câu giải mã hình thức” [13;201]. Giáo sư Hà Minh Đức nhận xét về nghệ thuật thơ nguyễn Bính như sau “Cĩ thể ơng đã chịu ảnh hưởng của điệu than của lààn điệu dân ca. Điệu than đã đưa cảm xúc Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 6 của người đọc đến với những vùng mà sự rung động của trái tim trào lên bao cảm thương với chuyện đời dang dỡ đắng cay” [13;165]. “Chất dân gian trong thơ Nguyễn Bính đẹp và gợi cảm.Tác giả đã làm sống lại ca dao trong nguyên thể của nĩ và cĩ những cách tân sáng tạo” [13;163]. Cĩ thể nĩi Nguyễn Bính “đã chọn được trong thi pháp ca dao những đặc điểm yếu tố thích hợp với thời kì hiện đại. Đĩ làà một cơng việc cĩ ý nghĩa cách tân sáng tạo và hồn tồn khơng dễ dàng” . Cùng với các ý kiến trên, Ngọc Giao đĩng gĩp ý kiến của mình “Điều khiến tơi lạ là Nguyễn Bính chưa bao giờ đăm chiêu vị tĩc về việc hồn chỉnh một thi phẩm dài ngắn và khĩ dễ. Anh thường ứng khẩu đọc trước mọi người, coi việc sáng tao một bài thơ dễ dàng như tớp rượu”. 4. Từ gĩc độ tác động nghệ thuật Đỗ Lai Thuý càng tinh tế hơn khi nhận xét vế hiệu ứng thẫm mỹ của thơ Nguyễn Bính. Ơng nĩi “Người ta thuộc thơ ơng lúc nào khơng biết, như ca dao tục ngữ đâu đĩ nằm sẵn trong vơ thức của mỗi người” và “Trong số các nhà thơ cùng thời viết về nơng thơn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đồn Văn Cừ… cĩ lẽ chỉ cĩ Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thơn quê trước cuộc xâm lăng của đơ thị. Nếu thơ của các thi sĩ trên chỉ là những “bức tranh quê”, những bài “thơn ca”, những hoạ phẩm phong tục và lịch sử quý giá, thì thơ Nguyễn Bính là những nhớ thương lo âu khắc khoải về sự phơi pha của quê hương. Bởi vây sự khác nhau cơ bản giữa thơ họ là một đằng là nghệ thuật mang tính chất khơng gian, một đằng là nghệ thuật động, đậm tính thời gian. Sức trẻ của thơ Nguyễn Bính, cĩ lẽ, là thơ của sự thay đổi của cái dường như khơng thay đổi” [13;185]. Tác giả Nguyễn Tấn Long thì so sánh với nguồn mạch thơ mới và nhận ra thơ Nguyễn Bính cĩ: “Mạch thơ như nguồn nước chảy tuơn, tác giả đã sử dụng thơ lục bát tạo âm điệu nhẹ nhàng êm dịu, buồn lân lân len sâu vào tìm thức, khơi dậy niềm xúc cảm nghẹn ngào”[13; 281]. Đĩ cũng làà khả năng sáng tạo ngơn ngữ thơ. Đĩ làà việc “dùng một ngơn ngữ rất bình dân, những yếu tố thi pháp rất độc đáo của thơ ca dân gian đem lại cho nĩ một sinh khí mới mẽ kỳ lạ và tính hiện đại”. Tĩm lại thơ Nguyễn Bính “Đĩ chính là chất thơng tuệ khốc y phục giản dị, chất hiện đại trong nâu sồng dân dã. Trí tuệ trong thơ nguyễn Bính là trí tuệ của sương mù, của hoa bướm, của lửng lơ mây khĩi” [13;247]. Trên đây là một số cơng trình nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính đã bàn luận đến âm hưởng dân gian trong sáng tác của ơng nĩi riêng. Nhìn chung những ý kiến nhận định trên cĩ một vai trị ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc khẳng định tài năng tâm hồn thơ cũng như sự đĩng gĩp của nhà thơ vào trong phong trào Thơ mới, vào nền văn học 30-45 này. Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 7 Tuy nhiên, như chúng ta biết một tác phẩm văn chương nào cũng là sự thống nhất giữa hình thức và nội dung. Nội dung muốn chuyển tải được thì phải cần một phương tiện là hình thưc diễn đạt, ngược lại hình thức sử dụng mà phù hợp, hay và hấp dẫn thì mới lột tả hết được cái ý nghĩa mà nội dung muốn thơng báo. Các nhà nghiên cứu trên chuyên đi sâu vào một gĩc độ, một khía cạch nên chưa thể cĩ một cái nhìn đầy đủ, chân xác nhất ý nghĩa giá trị thơ Nguyễn Bính. Chẳng hạn, khi đứng dưới gĩc độ xã hội học, các nhà nghiên cứu chỉ nhìn vấn đề ở khía cạnh là nĩ phản ánh đời sống như thế nào, cĩ như cái “nguyên thể” vốn cĩ của nĩ khơng mà ít chú tâm đến hình thức biểu đạt. Ngược lại, dưới cái nhìn của các nhà thi pháp học, thì lại quan trọng về phương diện hình thức mà thiếu đi sự quan tâm về nội dung bên trong. Chúng tơi với tinh thần học tập, kế thừa, những ý kiến bổ ích của các nhà nghiên cứu, đi vào tìm hiểu “âm hưởng dân gian” trong một số sáng tác của nhà thơ trước Cách mạng tháng Tám. III. Mục đích nghiên cứu Nhà nghiên cứu Ngơ Thảo cĩ nhận xét “Thế giới vẫn cĩ những con người tồn thiện và những vật phẩm tồn bích! Nhưng cĩ lẽ những thứ đĩ để đặt trên bàn thờ. Cịn thế gian vẫn sống với những con người chưa tồn thiện và phát triển trong quá trình sử dụng những vật phẩm chưa tồn bích”[13,374]. Thật vậy, con người chúng ta đã sống, đang sống và sẽ sống với những gì gọi là chưa tồn thiện và tồn bích âý. Theo tơi con đường mà con người đi tìm cuộc sống nĩ chỉ là “một quá trình”, là một quá trình để con người tìm kiếm phát hiện, suy ngẫm, thưởng thức và trân trọng giữ gìn những giá trị trở thành cổ xưa đã đi vào quá khứ. Dù vậy, nĩ cũng khơng hề “nằm im dưới đáy mồ” mà luơn được khai quật lên, tìm kiềm phát hiện ra trong đĩ những tì vết cũng như những ánh hào quang của nĩ để thế hệ sau cĩ một cái nhìn đúng đắn khách quan hơn, để những gì là “chân giá trị” sẽ trở về “chân giá trị”của nĩ. Cuộc đời – thơ Nguyễn Bính cũng thế, khơng cĩ điểm dừng, nĩ là cả một hành trình để con người tìm kiếm khám phá vẻ đẹp của bức chân dung tồn thiện và bức tranh thơn quê tồn bích ấy. Tiến hành tìm hiểu âm hưởng dân gian trong một số sáng tác Nguyễn Bính, nhằm mục đích khám phá ra những giá trị trong thơ của tác giả trên hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật. IV. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu âm hưởng dân gian trong một số sáng tác thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám chúng tơi đi vào tìm hiểu hai phương diện. Đĩ là phương diện nội dung và phương diện hình thức thơ. Tất nhiên nội dung và hình thức nghệ thuật bao giờ cũng là một sự thống nhất hài hịa và cao độ. Vì vậy hình tượng thơ khơng thể khơng dung chứa hai mặt đĩ. Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 8 Vì thế phạm vi nghiên cứu của chúng tơi được xác lập từ cơ sở nĩi trên. Và chúng tơi xem hệ thống tác phẩm được chọn lọc cho nghiên cứu như là một chỉnh thể thống nhất, trong đĩ người viết sẽ đi vào trọng tâm một số tập thơ tiêu biểu của Nguyễn Bính trước cách mạng tháng Tám như “Lỡ bước sang ngang”, “Tâm hồn tơi”, “Hương cố nhân”… V. Phương pháp nghiên cứu Lập trường duy vật biện chứng là cơ sở cho việc khám phá đối tượng nghiên cứu. Đĩ là Âm hưởng dân gian trong một số bài thơ của Nguyễn Bính trước cách mạng tháng Tám. Thế nhưng, nếu chỉ dừng lại đĩ thì vẫn là cơ sở, vì vậy để nội dung nghiên cứu sáng rõ, chúng tơi sử dụng phương pháp như sau. 1. Phương pháp phân tích - tổng hợp. Chúng tơi tiến hành phương pháp này vì phương pháp này giúp chúng tơi cĩ thể đi sâu vào vấn đề, bằng hệ thống những luận điểm và những luận cứ rõ ràng chính xác là cơ sở để thuyết phục người đọc. Với đề tài này, chúng tơi đi vào làm sáng rõ âm hưởng dân gian trong thơ Nguyễn Bính trên ba phương diện đề tài, chủ đề, cảm hứng thẩm mỹ và thơ của ơng trước cách mạng tháng Tám là những dẫn chứng phong phú và chủ yếu khi tiến hành phương pháp này. 2. Phương pháp hệ thống. Đây là phương pháp cĩ ý nghĩa khơng kém. Phương pháp này giúp chúng tơi cĩ thể trình bày các vấn đề cĩ tính hệ thống, lơgíc nhờ sự sắp xếp các dẫn chứng và các luận điểm, luận cứ theo một trình tự nhất định. Với đề tài này, chúng tơi cịn hệ thống lại các cơng trình nghiên cứu về cuộc đời và thơ Nguyễn Bính chủ yếu âm hưởng dân gian trong sáng tác của ơng, trên cơ đĩ cĩ một cái nhìn khái quát tồn diện hơn về đề tài này. 3. Trên tinh thần lý giải và khám phá, phần nào chúng tơi cĩ sử dụng phương pháp so sánh. Phương pháp này giúp chúng tơi cĩ một cái nhìn sâu sắc hơn, xem xét thơ Nguyễn Bính trong mối liên quan với các nhà thơ cùng thời đặc biệt là nội dung âm hưởng dân gian được thể hiện trong sáng tác trong âm hưởng chung của thời đại cĩ điểm gì hay mới mẽ. VI. Đĩng gĩp của đề tài Với đề tài “tìm hiểu âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng”, người viết mong muốn gĩp phần vào việc Giúp chúng ta cĩ một cách nhìn nhận đánh giá đúng đắn sâu sắc về thơ Nguyễn Bính, gĩp phần phục vụ cho việc học tập và giảng dạy tốt hơn. Gĩp phần nhỏ giúp các bạn sinh viên trong học tập, nghiên cứu và đánh giá về những đĩng gĩp của thi sĩ vào tiến trình của nền văn học dân tộc. Khẳng định vị trí của nhà thơ trên thi đàn văn học nước nhà. Đồng thời ở một chừng mực nào đĩ, gĩp phần vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hố cổ Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 9 xưa của cha ơng, giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng, giàu đẹp của ngơn ngữ dân tộc trong giai đoạn hiện nay. VII. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm ba phần chính Phần mở đầu Phần nội dung Phần kết luận Trong đĩ, trọng tâm là phần nội dung với hai chương Chương I: Cơ sở lí luận của đề tài [từ trang 10 đến trang 15] Ở phần cơ sở lí luận chúng tơi đi vào tìm hiểu một số vấn đề sau: Âm hưởng theo từ điển Tiếng Việt. Âm hưởng dân gian trong văn chương bác học. Trong văn chương trung đại. Trong phong trào Thơ mới. Chương II: Tìm hiểu âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng [từ trang 16 đến trang 62] Phần nội dung gồm những vấn đề sau: Âm hưởng dân gian thể hiện trên ba phương diện đề tài, chủ đề và cảm hứng thẩm mỹ. Đề tài chính trong thơ Nguyễn Bính đề tài về tình yêu và ơng đi sâu vào những mối tình dở dang, trắc trở nhưng thơ của ơng khơng mang màu sắc bi quan bởi nĩ được dựng trên cái nền của những sinh hoạt văn hĩa đậm màu sắc thái dân gian. Ngồi những phần cơ bản, luận văn cịn cĩ phần mục lục ở phía trước và tài liệu tham khảo ở phía sau. Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 10 PHẦN NỘI DUNG [] Chương I Những cơ sở lí luận của đề tài 1. Âm hưởng theo từ điển tiếng Việt Từ trước đến nay chưa cĩ một giáo trình nào cĩ một khái niệm cụ thể về thuật ngữ này nhưng nĩ lại cĩ mặt thường xuyên trên các sách báo.Theo Từ Điển Tiếng Việt do ơng Nguyễn Ngọc Bích, Trần Thu Hằng và Chu Anh Tuấn, Quang Quý, Quang Minh và theo tự điển do nhĩm tác giả Trần Khắc phi, Lê Bá Hán biên soạn cùng cách giải thích “Âm hưởng là tính cách truyền âm của một phịng hay một rạp hát”. Và nếu chiết tự ra thì ta hiểu rõ hơn về thuật ngữ này. Âm là âm thanh, tiếng động cịn hưởng là tiếng vọng lại, như vậy âm hưởng là âm thanh vọng lại.Với cách lí giải ấy, chúng tơi hiểu âm hưởng nĩ như cái âm thanh vang vọng bao trùm lên khơng gian nào đĩ và tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ và lâu dài. Trên cơ sở đĩ, chúng tơi hiểu âm hưởng dân gian đĩ là cái bầu khơng khí dân gian tỏa khắp trong các tác phẩm văn học qua các giai đoạn, các thời kỳ và đã được độc giả đĩn nhận bằng tấm lịng thành kính và tơn trọng. Âm hưởng dân gian đối với văn học viết nĩ như một bầu sữa ngọt đã nuơi dưỡng dịng chảy ấy đi đến ngọn nguồn. Nền văn học viết - một đứa con sinh sau đẻ muộn - thừa hưởng những tinh hoa của văn hĩa dân tộc, đến lượt mình khơng những đã giữ gìn mà cịn phát huy cái tinh hoa ấy đến mức tối cao. Nĩ đem cái khơng khí cổ kính xa xưa với những ngày tết cổ truyền rồi những ngày hội hè phả vào trong khơng khí thời đại và chính cái mát dịu của làn dân gian phần nào làm vơi đi cái nĩng bức của thời đại. Mặt khác, sự tồn tại của làn khơng khí dân gian trong các tác phẩm văn học viết phần nào cũng ._.là minh chứng cho sự tồn tại hồn dân tộc vẫn luơn là mạch nguồn chung của mọi nền văn học. Cĩ thể nĩi, âm hưởng dân gian đối với văn học viết thể hiện như “cái hồn”,“cái tinh thần” vì thế nĩ tác động trên cả hai mặt nội dung và hình thức của các tác phẩm văn học viết. 2. Âm hưởng dân gian trong văn chương bác học 2.1 Trong văn học trung đại Mỗi một giai đoạn của văn học đều mang đặc điểm riêng. Bên cạnh một nền văn học dân gian truyền thống lâu đời, lưu giữ ở nơi đấy những kinh nghiệm sống, một nếp cảm, một nếp nghĩ và lối nĩi năng quen thuộc từ cửa miệng nhân dân, là sức sống, là kinh nghiệm đấu tranh với xã hội và thiên nhiên, là trí tuệ thơng minh và chất phác và là tất cả những cách ứng xử, những sinh hoạt văn hĩa hàng ngày của người dân lao động thì một nền văn học viết (văn học thành văn, văn học bác học) ra đời cũng là minh chứng cho sự phát triển văn học dân tộc. Một nền văn học đã Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 11 khẳng định được vị trí của mình bằng những tên tuổi của những cây đại thụ. Một Nguyễn Trãi tài năng uyên bác, một Nguyễn Du sâu sắc tình người, một Hồ Xuân Hương độc đáo táo bạo, một ơng già mù bến ngự, một Nguyễn Khuyến thanh thốt chốn làng quê, một Tú Xương ngang tàng phĩng túng của chốn thị thành. Dù sống và sáng tác trong hồn cảnh “chịu ảnh hưởng khá nặng nề từ thơ Đường Trung Quốc” với những quy định khá nghiêm ngặt về niêm, luật, vần, kết cấu, …nếu khơng khéo và thiếu bản lĩnh thì các nhà văn, nhà thơ của chúng ta sẽ dễ rơi vào khuơn sáo. Như một quy luật “nơi cĩ hồn cảnh khắc nghiệt nhất cũng là nơi để cho những thiên tài bộc lộ khả năng, tài năng và trí tuệ của mình”. Rõ ràng cha ơng ta đã đủ bản lĩnh để vượt qua thử thách đĩ. Họ khơng chỉ biết vay mượn mà cịn biết vận dụng một cách khéo léo và sáng tạo, để những lối thơ xa lạ trở thành một phương tiện hữu hiệu bộc lộ những tâm tình, ước vọng của những con người Việt Nam. Những thiên tài ấy, họ đã đặt cuộc đời mình trong cuộc đời chung nhân loại, tạo cho ngịi bút của mình một nền tảng vững chắc khơng những bằng bản lĩnh và khả năng độc đáo riêng mà cịn bằng “dịng sữa mẹ” ngọt ngào ấm áp, chiếc nơi đầu đời – dịng văn học dân gian đặc biệt là ca dao – dân ca. Nền văn học dân gian phong phú hơn, giàu cĩ hơn nhờ sự đĩng gĩp khơng nhỏ của những câu ca dao, dân ca giàu nhạc điệu, tình cảm. Những người dân lao động vất vả sớm hơm nhưng trên mơi vẫn luơn nở nụ cười và cất cao những điệu hị thân thương; những lời trêu ghẹo, tán tỉnh ngây thơ, trong sáng của những đơi trai gái… những câu ca dao cĩ từ thời nào, từ khi nào cho đến khi nền văn học viết hình thành, nĩ vẫn tồn tại, vẫn khơng cũ. Khơng khéo léo và nghèo nàn mà vẫn tươi mới sinh động và đầy sức sống. Cho đến một ngày khi dịng thơ Nơm (văn học dân tộc) xuất hiện vào khoảng thế kỉ XIV, XV bên cạnh đỉnh cao là nền Hán học thì thơ ca dân gian nhất là lục bát vẫn cịn khá phổ biến và sự ảnh hưởng của nĩ tới các nhà văn, nhà thơ thời kì này khá đậm. Nguyễn Trãi một nhà nho Hán học uyên thâm, dành trọn cuộc đời mình cho dân cho nước. Những áng văn hùng hồn, khơng chỉ là những cáo trạng đanh thép, bản tuyên ngơn của một thời đại mà cịn ở mọi thời đại. Thế nhưng, trường tồn cùng thời gian khơng chỉ là một Nguyễn Trãi với một giọng điệu hào hùng, sang sảng mà ta cịn bắt gặp một Nguyễn Trãi thanh thốt, nhẹ nhàng nhưng cũng khơng thiếu cái hài hước, giọng mỉa mai pha lẫn khi ngẫm nghĩ về thế thái nhân tình mang đầy chất triết lí dân gian. Ca dao cĩ câu “Sơng sâu cịn cĩ kẻ dị Lịng người nham hiểm ai đo cho cùng” Cũng với cách so sánh về lịng dạ con người, Nguyễn Trãi cĩ câu “Biển hiểm nhân gian ai kẻ biết. Ghê thay thế nước vị qua mềm…” Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 12 Hay “Ngồi chưng mọi chốn đều thơng hết, Bui một lịng người cực hiểm thay”. Khơng dừng lại ở đấy, nếu như chiếc nơi ấm áp của thơ ca dân gian gĩp phần làm phong phú hơn cho giọng điệu hào hùng của nhà nho Nguyễn Trãi thì bầu sữa ngọt ngào kia cũng đã mang lại cho tiếng thơ Nguyễn Du thêm mềm mại, trữ tình hơn. Với kiệt tác truyện kiều, Nguyễn Du đã đưa thể thơ lục bát lên vũ đài vinh quang của dân tộc. Bên cạnh một Nguyễn Trãi đầy triết lí dân gian, một Nguyễn Du mềm mại trữ tình thì nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng khơng thua kém gì, đã thâu tĩm được trong khiếu trào lộng của mình nụ cười châm biếm, hĩm hỉnh của dân gian bằng lối ngụ ý bĩng giĩ dè chừng của những câu đố, những cách chơi chữ, cách nĩi khẩu ngữ dân gian đã được nữ sĩ họ Hồ vận dụng một cách triệt để. “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung, Năm thì mười họa hay chăng chớ Một tháng đơi lần cĩ cũng khơng”. ( Làm lẽ- Hồ Xuân Hương ) Tiếp nối tính hài hước, hĩm hỉnh của Hồ Xuân Hương thì hơn nửa thế kỷ sau khơng ai bằng Nguyễn Cơng Trứ. Nhưng đĩ là cái hài hước, hĩm hỉnh đậm đà phong vị dân gian. Tác giả đã xây dựng thành thục thể phú, mang lại cho nĩ một giá trị cao. Trong đĩ Hàn nho phong vị phú rất giàu hình ảnh và chất liệu dân gian. Bên cạnh Nguyễn Cơng Trứ, Tú Xương cũng đầy tính hĩm hỉnh dân gian khi quan sát và miêu tả sự vật xung quanh “Trên ghế bà đầm ngoi đích vịt Dưới sân ơng cử ngẩng đầu rồng” ( Trần Tế Xương ) Khơng dừng lại nơi phồn hoa đơ hội, chất dân gian ấy cịn lan tận đến những nơi làng quê hẻo lánh và Nguyễn Khuyến là người đã thể hiện sâu sắc điều đĩ. Đĩ là những chất liệu ca dao tục ngữ được tác giả sử dụng một cách nhuần nhuyễn. Chỉ riêng một câu thơ khĩc vợ, cũng đã chứa đựng nhiều hình ảnh và cách nĩi năng quen thuộc, Từ bà lão “hay lam hay làm thắt lưng bĩ que, xắn váy quay cuồng, tất tả chân đấm đá chân chiêu” đến ơng lão vất vơ vất vưởng, búi tĩc củ hành, buơng quần lá tọa” đĩ là cảm hứng lành mạnh về một phong cảnh làng quê thanh bình êm ả. Cánh cị hình ảnh quen thuộc trong ca dao xưa “Con cị mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 13 Cĩ xáo thì xáo nước trong Đừng xáo nước đục đau lịng cị con”. Nó trở thành biểu tượng cho nổi vất vả, chịu thương chịu khĩ của người phụ nữ Việt Nam xưa, hơn thế nĩ cịn là biểu tượng cho phẩm chất cao quí - tấm lịng thủy chung son sắt của những người mẹ, người vợ Việt Nam. Một lần nữa hình ảnh “cánh cị” dầm sương dãi nắng ấy đã đi vào thơ Trần Tế Xương một cách rất nhẹ nhàng, chân thành, thấm đượm nghĩa tình “Lặn lội thân cị khi quảng vắng Eo sèo mặt nước buổi đị đơng Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản cơng”. Phan Bội Châu một nhà cách mạng, một chiến sĩ yêu nước, suốt đời dùng ngịi bút làm vũ khí đấu tranh, đã vận dụng nhiều thể loại như hát dặm hát nĩi, hát phường vải để phục vụ cho việc tuyên truyền tư tưởng yêu nước. Ảnh hưởng của thơ ca dân gian đến các nhà thơ cĩ nhiều mức độ khác nhau và tùy thuộc vào quan điểm của các tác giả. Cĩ người học tập được trong thơ ca dân gian như nghĩa nhân đạo, tinh thần lạc quan, ý thức đúng đắn về vai trị của quần chúng lao động…Cĩ người ở mức độ hạn chế hơn thiên về việc khai thác các thể loại thơ ca, dân gian và những phương tiện biểu hiện. Nhưng dù thế nào, chúng ta cĩ thể khẳng định một điều rằng: Các nhà thơ lớn của trung đại và các dân tộc khác trong cùng thời kì này đều tìm thấy ở thơ ca dân gian một nguồn mạch trong sáng, tươi mát và dồi dào sức sống. 2.2. Trong phong trào Thơ Mới Khơng dừng ở đây, âm vang của thơ ca dân gian lan tỏa đến cả nền văn học hiện đại, đặc biệt giai đoạn 1930 – 1945. In đậm dấu ấn cuả thời kì này là sự xuất hiện của phong trào Thơ mới. Cái “tơi” lãng mạn cũng đã nhanh chĩng được chấp nhận và đi vào tình cảm và cuộc sống của cả một thế hệ. Vì sao Thơ Mới lại cĩ một sức ảnh hưởng mạnh như thế ? Nĩi như Hồi Thanh “Thơ mới là thơ của cái tơi trữ tình” các nhà Thơ Mới lần đầu tiên đã đổi mới cảm xúc, tạo ra cho mình một cảm xúc mới, nhìn và cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ, con người và cuộc sống trong mối quan hệ hịa hợp. Bằng chính rung động của con tim và khối ĩc Thơ mới đã nĩi lên tiếng nĩi tâm tình của con người một cách chân thành và thiết tha nhất”. Huy Cận con đẻ của dịng Thơ mới từng nhận xét và phát biểu một cách khách quan và chân thành về người đã sinh ra mình. Ơng cho rằng Thơ mới là thơ của người, của đời, số phận con người, vui buồn của con người, của cuộc đời là chất Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 14 liệu của thơ. Cĩ lúc người đã thốt lên tiên làm thơ tiên hoặc cĩ người đã chủ trương thơ điên. Nhưng thật ra thơ tiên cũng nĩi chuyện trần gian và dịng thơ điên vẫn tỉnh và nhiều khi nĩi chuyện đời tha thiết da diết tình đời, tình người… Khi Thơ mới xuất hiện trên thi đàn, nĩ đã bị thơ cũ đã kích kịch liệt, số phận của nĩ phải “ba chìm bảy nổi”. Cĩ người cho rằng Thơ mới là tiếng nĩi lãng mạn xa vời, thốt li đã vơ tình quên đi cái nĩng lửa của thực tiễn. Nhưng nếu đánh giá như vậy thì cĩ quá “bất nhẫn” cho nền Thơ mới chăng? Lên tiếng cho vấn đề này, tác giả Nguyễn Xuân Sanh nhấn mạnh “Thơ mới là những trăn trở sâu xa để tự giải thốt, là nổi niềm, là những khát khao vui buồn cĩ thật, đợi chờ ước mơ nhớ nhung suy ngẫm, ảo vọng, lí tưởng, tưởng tượng, những ưu tư xáo động” nhiều tình cảm sĩt xa, nhiều tâm niệm bồi hồi, tơi cho cũng điều là mầm mống của sự sống và niềm vui: niềm vui của trăm nổi lo đời, thầm thỉ mà le lĩi, long lanh. Cũng là tĩnh lặng của giấc mơ. Song khơng phải khơng mang theo hơi thở và những hứa hẹn trầm tĩnh hay phong ba của thời đại của tương lai. Đúng như Giáo sư Trần Đình Sử phát biểu, đĩ là “thời đại của những hy vọng và thất vọng lớn, thời đại của những rung chuyển tồn bộ xã hội, trong đĩ con người bị hất ra ngồi các quan hệ cố định nhưng cũng chưa tìm được vị trí của mình trong cuộc đời. Thời đại mà mỗi con người tự cảm thấy mình là những cá nhân cơ đơn lạc lõng, bơ vơ đang đi tìm vị trí cho mình. Đĩ là thời đại của buồn rầu, chán nản, mộng mơ, đợi chờ, mong mỏi vơ định”. Nhìn nhận cá nhân trong mối quan hệ với thời đại, cĩ vậy mới cảm thấu được nỗi buồn của họ - cái buồn thế hệ. Hồi Thanh đã rất sâu sắc khi thâu tĩm được “cái hồn thời đại” và phác họa nĩ lên trên từng gương mặt. Hiểu được khơng khí thời đại, giúp ta hiểu hơn hơi thở của các nhà Thơ mới thời bấy giờ, sống trong thời đại như vậy, đặc biệt ảnh hưởng từ nền thơ Pháp họ càng hiểu sâu sắc hơn nguyên nhân cái buồn ấy.Vậy là mỗi người đã tìm con đường đi cho riêng mình. Nếu Thế Lữ thốt lên tiên, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử quay về giá trị xa xưa, Xuân Diệu đắm say trong trường tình, vội vã trước dịng thác thời đại thì Nguyễn Bính - đứa con của phong trào ấy, cứu cánh giúp thi sĩ vượt qua cái buồn chung là sự trở về với cội nguồn dân tộc, tìm về khung trời đầy kêu gọi, an ủi vổ về của dịng suối dân gian trong lành và mát lạnh. Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 15 CHƯƠNG II Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính )*( 1. Vài nét về tác giả và sự nghiệp sáng tác Nguyễn Bính 1.1. Vài nét về tiểu sử Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 (khoảng cuối xuân Mậu Ngọ) tại xĩm Trạm, thơn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là tỉnh Hà Nam Ninh), trong một gia đình nhà nho nghèo. Mồ cơi mẹ từ bé, được cậu ruột là ơng Bùi Trịnh Khiêm đưa về nuơi và cho ăn học. Do cảnh nhà túng thiếu, nên mới hơn hai mươi tuổi, Nguyễn Bính phải rời quê theo người anh cả là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Đơng, Hà Nội kiếm sống. Nguyễn Bính làm thơ khá sớm, tài năng cuả thi sĩ thật sự nảy nở với thi phẩm “Cơ hái mơ” và đĩ cũng là tiền đề cho những tập thơ tiếp theo. Trong ba năm, từ 1940 đến 1942, Nguyễn Bính cho ra mắt bạn đọc khắp Bắc Trung Nam liền bảy tập thơ. Với những thi phẩm đĩ, đặc biệt là “Lỡ bước sang ngang”, “Tâm hồn tơi”, Nguyễn Bính nhanh chĩng được nhiều bạn đọc chú ý. Từ năm 1943 trở về sau, Nguyễn Bính lưu lạc nhiều nơi và đĩng gĩp nhiều cơng sức trong cơng cuộc kháng chiến chống pháp. 1.2. Các tập thơ tiêu biểu Sau hơn 20 năm cầm bút và sáng tác, Nguyễn Bính để lại cho đời hơn 10 tập thơ trước và sau cách mạng. Tiêu biểu: Tâm hồn tơi (1940),Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941), Người con gái ở lầu hoa (1942), Mười hai bến nước (1942), Mây Tần (1942), Khơng nhan sắc (truyện 1942), Trả ta về (1955), Đồng Tháp Mười (1955), Gởi người vợ miền Nnam (1955), Đêm sao sáng (1962)… 2. Mấy vấn đề về phong cách thơ Nguyễn Bính 2.1. Phong cách mộc mạc, chân quê Sự gặp gỡ nhiều nhà nghiên cứu khi tìm hiểu thơ Nguyễn Bính, cho rằng phong cách chính trong thơ thi sĩ là một phong cách mộc mạc, chân quê. Tác gỉa Tơn Phương Lan trong khi tìm hiểu về phong cách thơ Nguyễn Bính, cĩ nhìn nhận sau “ khi Xuân diệu, Chế Lan Viên và phần lớn các nhà thơ đương thời chịu ảnh hưỡng của thơ phương Tây và chính nĩ đã đem lại cho phong trào Thơ mới Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 16 những đặc sắc thì Nguyễn Bính mang đến cho phong trào Thơ mới một phong cách mộc mạc, chân quê, một lối ví von đậm đà màu sắc ca dao. Cĩ lẽ vì thế mà ơng dễ đi vào lịng người trong câu hát ru, dễ trở nên gần gũi với tình cảm của những người quanh năm sống trong lũy tre làng, gắn bĩ cuộc đời cùng đồng ruộng” [12;209]. Và “Chân quê” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách ấy của tác giả. Bài thơ là lời kêu gọi của chàng trai mong cơ gái trở về với chính bản chất thực của mình “đơn sơ, chất phác, giản dị là nét đẹp tự nhiên của con người. Tác giả mong con người giữ nguyên “quê mùa” ấy cũng là cách gìn giữ “tâm hồn dân tộc”. Chính đặc điểm phong cách này chi phối rất lớn đến các sáng tác của thi sĩ. Tác giả quay về nơng thơn, tìm chất liệu sáng tác trong những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân quê. Chính đc điểm này làm cho thơ Nguyễn Bính dễ dàng thấm sâu vào lịng người đọc như phù sa âm thầm bồi đắp cho dịng ơng. Ta hãy lắng nghe những câu thơ thật ngọt ngào sau “Thong thả dân gian nghỉ việc đồng Lúa thì con gái mượt như nhung Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng Ngào ngạt hương bay bướm vẻ vịng” (Xuân về – 1937) 2.2 Cái tơi cơ đơn của một tình yêu dang dở Mỗi con người sống trên đời khơng ai khơng yêu, tình yêu con người vốn rất phức tạp, nhiều cung bậc, đa dạng phong phú, khĩ nắm bắt. tình yêu cĩ thể nâng con người lên tột đỉnh hạnh phúc, nhưng cũng cĩ thể đẩy con người xuống vực thẳm của s ự đau khổ. T ình yêu trở thành đề tài muơn thưở của văn chương từ xưa đến nay, là nguồn cảm hứng vơ tận cho các nhà văn nhà thơ xưa nay nhất là các nhà thơ trong phog trào Thơ mới. Trên thi đàn văn học, thơ Nguyễn Bính cất lên như tiếng lịng buồn bã của một trái tim đang thổn thức yêu đương “Tâm hồn tơi là một bình rượu Rĩt lần lần giọt mãi xuống nàng Oanh” Thế nhưng “ Khơng xua tay nàng vẫn cứ vơ tình Hất ly rượu hồn tơi qua cửa sổ” (Tựa đề một thiên tình sử) Tình yêu trong thơ thi sĩ lúc nào cũng chân thực và xúc động nhưng lại hay dang dở như chính sự dở dang trong cuộc đời thi sĩ. Cĩ lẽ vì vậy mà bao trùm lên trong thơ ơng là một giọng điệu buồn thương: “Tình là gì, tình là chi, mà ngàn năm trước cho đến ngàn năm sau nhân loại vẫn khổ đau vì tình. Chính vì v ậy, thơ Nguyễn Bính hay nĩi đến những mối tình đơn phương, một phía “Dối lịng, Diệu vợi, Người con gái ở lầu hoa, Cơ hái mơ, Vẩn vơ, Một nghìn cửa sổ…” Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 17 Cĩ thể nĩi, chính sự đồng cảnh ngộ ấy giúp thi sĩ Nguyễn Bính dễ dàng thấu hiểu cảm thơng và chia sẻ với những mối tình đơn phương tuyệt vọng của nhân vật của mình. Đĩ cũng chính là lí do cho sự trường tồn th ơ Nguyễn Bính trong lịng bao thế hệ độc giả. 3. Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính 3.1. Nguồn chất liệu đời sống cho việc kiến tạo nội dung thơ 3.1.1. Đề tài Theo giáo trình Lí luận văn học tập II do Giáo sư Trần Đình Sử biên soạn, đề cập Đề tài nh ư sau “đề tài là một phạm vi miêu tả trực tiếp trong tác phẩm để khái quát lên một phạm vi hiện thực đời sống nhất định cĩ ý nghĩa sâu rộng[15;122]. Phạm vi hiện thực ấy thường được biểu hiện một cách trực tiếp thơng qua các nhan đề hay tên tập thơ. Vớí khái niệm này soi rọi vào trong các tác phẩm thơ Nguyễn Bính với những thi phẩm “Lỡ bước sang ngang”, Tâm hồn tơi” hay “ Người con gái ở lầu hoa”…thì rõ ràng đề tài xuyên suốt trong thơ Nguyễn Bính là một đề tài tình yêu. Tình yêu luơn là đề tài muơn thuở của cuộc sống và con người. Đã cĩ bao mối tình vĩ đại đã đi vào trong sử sách và ảnh hưởng mạnh mẻ cho các thế hệ sau. Hai chữ tình yêu mới nghe tưởng như rất đơn giản nhưng khơng phải ai cũng tìm được một định nghĩa đích thực và tuyệt đối cho tình yêu, mà ở mỗi người sẽ cĩ một cách cảm, cách nghĩ về tình yêu theo riêng mình. Đương nhiên cái suy nghĩ chủ quan khơng thốt ly hiện thực mà nĩ luơn được đặt trên một nền tảng vững chắc đĩ chính là lịch sử thời đại. Mỗi một giai đoạn, một thời kì sẽ cĩ những quan niệm về cuộc sống, con người, tình yêu khác nhau. Cĩ khi ngay trong cùng một giai đoạn,một thời kì, thậm chí ngay một nhà văn nhà thơ trong từng thời điểm, từng hồn cảnh khác nhau, quan niệm về tình yêu cũng khơng giống nhau. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ cĩ sự khác lạ như vậy. Với những thi sĩ khác, tình yêu được bộc lộ một cách trực tiếp, khơng cĩ một chút dè dặt “Tơi yêu em đến nay chừng cĩ thể Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai “ (Tơi yêu em – Puskin) Kiểu tỏ bày tình cảm của người phương Tây là thế, khác xa người người phương Đơng chúng ta. Nhưng ta hãy nghe những câu thơ sau đây “Anh nhớ em nhớ hình nhớ tiếng Anh nhớ em, nhớ lắm em ơi” (Chế Lan Viên) Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 18 “Hãy sát đơi mơi hãy kề đơi ngực Hãy trộm nhau đơi mái tĩc ngắn dài” (Xuân Diệu) Táo bạo hơn cả Puskin, Xuân Diệu - một con người rất Á Đơng, gương mặt tiêu biểu của thơ ca giai đoạn 30-45 này lại cĩ những vần thơ đến thế là cùng. Nhưng khơng phải ai và lúc nào cĩ cùng cách suy nghĩ “mạnh mẽ, dữ dội và cuồng nhiệt” như Xuân Diệu, Nguyễn Bính một trong những người tiên phong đi ngược lại cách suy nghĩ “nổi loạn” ấy . “Hoa chanh nở giữa vườn chanh Thầy u mình với chúng mình chân quê” (Chân quê – 1936) Những câu thơ bất tử cùng thời gian cũng chính là tuyên ngơn nghệ thuật của một nhà thơ suốt cuộc đời đã gìn giữ cho bằng được cái “hồn quê” dân tộc, cái nét đơn sơ, chân chất, giản dị mà cũng thật nhẹ nhàng, duyên dáng của người Á Đơng ta thời cịn trong chiếc nơi của mẹ Âu Cơ và Lạc Long Quân. Một con người với quan niệm như vậy thì cĩ một cái nhìn và suy nghĩ về tình yêu mang đầy chất dân gian là khơng cĩ gì lạ. Cĩ thể nĩi “mộc mạc, giản dị, chân thật, thanh đạm, đầm thấm, nhẹ nhàng mà thiết tha sâu nặng nghĩa tình” là tất cả những từ ngữ dùng để chỉ đặc điểm thơ tình yêu của Nguyễn Bính. Tình yêu của thi sĩ họ Nguyễn sẽ khơng dừng lại ở đấy, sâu rộng hơn đĩ cịn là tình cảm tác giả đối với làng xĩm láng giềng, giếng nước, gốc đa mái đình…tất cả những gì là cuộc sống con người đã đi vào trong thơ ơng một cách tự nhiên và chính những chất liệu dân gian này giúp thơ thi sĩ thấm sâu vào lịng người đọc. Trước hết, tơi xin điểm qua đơi nét về làng quê Nguyễn Bính, Thiện Vịnh làng quê đã sinh ra và nuơi dưỡng tâm hồn thi sĩ họ Nguyễn, một nhân tố cĩ sức tác động mạnh mẽ, gĩp phần quyết định sự thành bại trong cuộc đời của nhà thơ. Như Tơ Hồi nhận xét “sức mạnh sáng tạo của Nguyễn Bính cũng từ nơi đồng đất trắng trời trắng nước này. Làng Thiện Vịnh, làng quê trơn rau cắt rốn của ơng, cái làng đồng trũng mà chắc đến mùa nước lũ thì con đê huyện kia chỉ cịn là một sợ chỉ mỏng manh bên làng nước giữa gị đất bờ bụi, tre phao. Sao mà lắm giĩ thế, giĩ trên đồng đêm ngày giật lên gào lên từng cơn. Làng nước sám ngắt, quanh cảnh tiêu điều lam lũ, ảm đạm nheo nhĩc”. Thế nhưng, đọc tồn bộ thơ của thi sĩ chúng ta khĩ tìm ra được những hình ảnh cơ cực, lam lũ, vất vả của người dân trước thiên nhiên khắc nghiệt mà chỉ tồn là những vần thơ bay bỏng lãng mạn. “Bửa ấy,mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy” (Mưa xuân – 1936) Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 19 Sự gặp gỡ của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình khi tìm hiểu thơ Nguyễn Bính ở chỗ cho rằng thơ ơng quá lãng mạn “hình bĩng nĩ trong thơ lại tươi sáng thơ mộng và chứa chang thi vị” [13;132 ]. Tơi khơng phủ nhận Nguyễn Bính là một nhà thơ lãng mạn, nhưng cĩ phải chúng ta nên cĩ một sự suy xét cân nhắc và kỹ lưỡng hơn vấn đề này. Đặc điểm này được lý giải như thế nào và nĩ cĩ liên quan gì đến chất dân gian trong thi sĩ họ Nguyễn? đặc điểm này trong thơ Nguyễn Bính giúp chúng tơi liên tưởng đến những phẩm chất quý báu của cha ơng ta bao đời – một nét đẹp tinh thần, đĩ là tinh thần bất khuất, can trường vượt lên từ gian khĩ bằng một nghị lực phi thường và bằng một trái tim bay bổng. Xuất thân từ người nơng dân, cha ơng ta phải luơn chống chọi với thiên tai lũ lụt, luơn đấu tranh chống ngoại xâm, những gánh nặng ấy nếu khơng phải là người nơng dân thì khĩ lịng mà hiểu nổi. Vậy mà bên cạnh cái “nợ đời” ấy, ta vẫn luơn bắt gặp một ánh mắt long lanh trong sáng hồn nhiên, một nụ cười nhẹ nhàng duyên dáng, một giọng hát êm ái thiết tha, một bàn tay khơ cứng nhưng ấm áp nghĩa tình. Những thứ mà người dân cĩ được là gì- tài sản vơ giá, đĩ là một tình yêu, một lịng nhân ái, đĩ là một ước mơ, một hồi bảo, một khát vọng và một niềm tin mãnh liệt vào tài năng và trí tuệ của những con người đất Việt. Tất cả những thứ ấy là một sức mạnh vơ giá để con người sống, chiến đấu và chiến thắng moị kẻ thù qua các thời đại. Cĩ thể nĩi rằng, nếu khơng cĩ nguồn mạch từ dân gian, khơng tiếp thu những suy nghĩ tình cảm, những quan niệm của cha ơng xưa thì Nguyễn Bính khĩ cĩ được cách nhìn thấu đáo đến như vậy. Viết lên những vần thơ lãng mạn, khơng nhằm lý tưởng hĩa vấn đề như một số người nhận định về thơ ơng, phải chăng qua những vần thơ bay bổng đĩ, Nguyễn Bính muốn hướng con người đến ý nghĩa khác “lý tưởng ước mơ cùng niềm tin và nghị lực sẽ giúp con người vượt lên trên những gian khĩ”. Học tập tinh thần cha ơng và đem tinh thần đĩ vào trong thơ mình phải chăng là sự bày tỏ tấm lịng tơn kính của mình đối với những giá trị của dân tộc Dõi theo hành trình thơ Nguyễn Bính ta thấy được tấm lịng ấy trong mảng đề tài tình yêu của thi sĩ Nguyễn Bính. Là con người ai cũng cĩ cội nguồn. Một bờ tre xanh, đồng lúa chín,, một cánh diều, một dịng sơng, một con suối, một đêm trăng ….tất cả nhưng thứ ấy nĩ như bầu sữa ngọt đã nuơi lớn bao tâm hồn con người. Nguyễn Bính cũng lớn lên từ bầu sửa mẹ ngọt ngào ấy, hơn ai biết thi sĩ là người hiểu sâu sắc tình cảm của mình với con người và cuộc sống nơi làng quê. Cuộc sống ấy hiện lên trước nhất với một thiên nhiên thanh bình, ấm áp “một bầu trời quê trong sáng, giếng nước gĩc đa thanh bình, hương bưởi, hương cau man trong đêm, câu hát đậm sắc trữ tình….”. Thiên nhiên đề tài khơng lạ và được miêu tả bằng chất liệu thi ca truyền thống thì khơng hiếm trong văn chương xưa nay và Nguyễn Bính cũng tìm về với những Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 20 chất liệu quen thuộc ấy nhưng lại cĩ cách biểu hiện của riêng mình. Một cánh đồng mà ở đĩ cịn thơm mùi cỏ rạ, ở đĩ chiều chiều những em thơ ra thả diều, chăn trâu và dưới ánh trăng những cơ cậu trai gái thì hẹn hị đối đáp bằng những câu hị, điệu hát băng quơ nào đĩ. Thiên nhiên sẽ khơng cĩ hồn nếu thiếu đi con người. Đĩ là những người cha, người mẹ ngày ngày lao động vất vả ngồi đồng ruộng, chiều chiều trở về cùng quây quần bên mái ấm gia đình.Cuộc sống cứ lặng lẽ trơi qua cùng nhịp đập thời gian, sẽ khơng cĩ thay đổi gì nếu ngày xuân khơng đến. Truyền thống của nhân dân từ xưa đến nay mỗi khi tết về mỗi người dù đi gần hay xa thì phải về bên gia đình đồn tụ cùng cha mẹ, anh chị em.Ttết về là cơ hội để gia đình hợp mặt và mẹ là người vất vả nhất, cĩ thể nĩi mọi gánh nặng điều trút lên đơi vai gầy cịm của người mẹ. Tất cả những lo toan ấy đã được Nguyễn Bính phát hiện và miêu tả một cách chân thật và xúc động qua bài thơ “Tết của mẹ tơi”. “Mẹ tơi đi chợ buổi hơm nay Tết đến mẹ tơi vất vả nhiều Mẹ tơi lo toan đủ thứ trăm điều” (Tết của mẹ tơi- 1942) Hình ảnh của người mẹ mỗi khi tết về cùng với bao niềm vui mừng hạnh phúc và bao gánh nặng lo toan nhưng mẹ vẫn cảm thấy vui và hạnh phúc. Hình ảnh người mẹ chuẩn bị đĩn tết về gợi lên một bức tranh làng quê trong ngày hội xuân với bao ánh mắt, nụ cười tưng bừng hớn hở từ cụ già đến trẻ thơ. Làng quê trong thơ Nguyễn Bính hiện lên với những nét “văn hĩa”,những phong tục tập quán, những sinh hoạt cổ truyền bao đời. Đúng như nhận định của Hà Minh Đức về thơ Nguyễn Bính “đĩ là những nề nếp, phong tục tập quán, thế giới tâm linh qua tính ngưỡng tơn giáo và cách xử sự trong quan hệ giữa người với người”. Bên cạnh tình yêu đối với làng quê thì tình yêu đơi lứa là đề tài nổi trội nhất. Tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ, ba thuật ngữ này luơn đi liền nhau. Vì vậy khơng phải ngẫu nhiên trong bốn mùa xuân hạ thu đơng thì mùa xuân xuất hiện nhiều nhất trong thơ của thi sĩ họ Nguyễn. Mùa xuân là của những lễ hội, mùa an lành hạnh phúc, là muà “hồi sinh” của đất trời, cây cối nảy lộc đâm chồi sau những ngày đơng giá lạnh, xơ xác tiêu điều. Đây cũng là dịp con người gặp gỡ nhau. Người già cao niên thì vui lễ hội, đình chùa tuổi trẻ thì say sưa trong nhưng điệu múa câu hị câu hát của nhưng đêm hội làng. Mùa xuân trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ nhất là với các nhà Thơ mới. Anh Thơ nhà thơ nữ trong nhĩm Đồng Quê, bằng vài nét phác họa đã gợi lên một bức tranh mùa xuân với những hình ảnh thật ấm áp thanh bình “Quán tranh đứng im lìm trong vắng Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 21 Bên chồm xốn hoa tím rung tơi bời” (Anh thơ) Khơng thua kém gì Anh Thơ, ĐồnVăn Cừ với một Đám cưới xuân thật tuyệt “Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân Chỉ cĩn nghe văng vẳng tiếng chim xuân Ca ảnh ơi trên cánh xuân tấm nắng” ( Đồn Văn Cừ) Vẫn là đề tài ấy, nhưng nếu như Anh Thơ và Đồn Văn Cừ miêu tả thiên nhiên nĩi chung và cảnh mùa xuân nĩi riêng mang tính “tả chân ” cảnh như thế nào thì miêu tả như vậy, thì Nguyễn Bính miêu tả cảnh mà vẫn cĩ tình, điểm khác biệt giữa Nguyễn Bính và các nhà thơ khác chính là ở đĩ “Đã thấy xuân về với giĩ đơng Với trên màu áo gái chưa chồng Bên hiên hàng xĩm cơ hàng xĩm Ngước mắt nhìn đời đơi mắt trong” (Xuân về- 1937) Một bức tranh xuân thật trong sáng tươi vui, một thiên nhiên như hồi sinh. Một bức tranh xuân thật cĩ “hồn” và “đơi mắt trong” của cơ gái chính là cái hồn ấy. Đối với nhà thơ, mùa xuân khơng chỉ là mùa của an lành hạnh phúc, mùa của tuổi trẻ gắn liền với tình yêu mà cịn là mùa của những đơi trai gái hẹn hị nhớ nhung là mùa của những hy vọng đầy hứa hẹn Mùa xuân là cả một mùa xanh Giời ở trên cao lá ở cành Luá ở đồng tơi và lúa ở Đồng nàng và lúa ở đồng quanh (Mùa xuân xanh – 1937) Mùa xuân khơng chỉ cĩ ý nghĩa với chúng ta hơm nay, từ lâu nĩ cĩ vị trí trong lịng dân tộc. Nhưng điều cĩ ý nghĩa đặc biệt hơn, mùa xuân đối với làng quê của thi sĩ càng rộn ràng náo nhiệt hơn với những sinh hoạt, những lễ hội cổ truyền. Chính nét văn hĩa dân gian in đậm trong tiềm thức nhà thơ như một nền tảng vững chắc giúp ơng thấu hiểu hơn và nĩi lên tiếng nĩi tâm tình của những cơ gái một cách chân thành và tha thiết Thế mà hơm nọ hát bên làng Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 22 Năm tao bảy tuyết anh hị hẹn Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng! ( Mưa xuân – 1936) Chính đặc điểm này đã làm cho thơ Nguyễn Bính vừa mang chất dân gian nhưng cũng rất mới mẽ và hiện đại chính là gì vậy. Cĩ ý kiến cho rằng thiên nhiên chỉ là cái nền để tác giả nĩi hộ lên tiếng nĩi tình yêu của những trai làng, gái làng. Vì vậy ta thấy xuất hiện rất nhiều trong thơ thi sĩ là những hình ảnh quen thuộc gần gũi của làng quê. Những thơn Đơng thơn Đồi con đị, bến sơng, giàn trầu, buồng cau, giậu mồng tơi, khung cửi đều như nĩi lên tiếng nĩi của trai gái yêu đương. Láng giềng đã đỏ đèn đâu Chờ em chừng dập miếng giầu em sang (Chờ nhau – 1937) Câu thơ đọc lên nghe như thoang thoảng một mùi hương quen thuộc, hình như trong ca dao xưa thì phải.. một giậu mồng tơi, một giàn trầu hay một khung cửi đều mang dáng dấp từ trong dân gian. Dân gian cĩ câu “miếng trầu là đầu câu chuyện” từ xưa đến nay cĩ biết bao trai gái gặp gỡ, nên duyên chồng vợ cũng chính là nhờ vào những miếng trầu xanh ấy “trầu xanh thắm đượm nghĩa tình” một trong những lễ vật khơng thể thiếu của nhà trai đưa sang nhà gái trong ngày rước dâu chính là miếng trầu. Nguyễn Bính đã mượn hình ảnh “lá trầu” trong dân gian để làm thành một bài thơ tình yêu thật tuyệt. Nĩi vậy khơng cĩ nghĩa là “copy” hịan tồn mà là sự “vay mượn” cĩ sáng tạo. Nhờ vậy những câu thơ đọc lên rất tự nhiên, nhẹ nhàng và cũng thật dí dỏm hồn nhiên “em nghe họ nĩi mong manh hình như họ biết chúng mình với nhau” (Chờ nhau – 1937) Với hình ảnh lá trầu xanh, Nguyễn Bính đã mang lại cho người đọc một cảm giác sảng khối ngọt ngào như vừa được tắm mình nơi dịng suối mát lạnh. Bên cạnh lá ._.sĩ Nguyễn Bính mang đặc điểm này. Trong c ách x ưng h ơ trong quan hệ thân thuộc rất tự nhiên gần gũi. “Thầy u mình với chúng mình chân quê” (Chân quê – 1940) “Chị Nhi thường nĩi với u tơi” (Hoa với rượu – 1941) Cách xưng hơ trong quan hệ gia đình giữa mẹ và con cái hết sức tự nhiên và thân thiện nhưng điều cĩ ý nghĩa nhất chính là tình cảm được thể hiện trong cách xưng hơ, dù cách xưng hơ bề ngồi cĩ vẻ lạnh lùng nhưng khơng gì cĩ thể đo điếm được tình cảm bên trong của mẹ d ành cho con cái. “Tơi cịn mạnh chán khiến cơ thương (Lịng mẹ – 1936) Giữa chị và em “Em ơi! Em ở lại nhà… …Chị đi một bước trăm đường xĩt xa” (Lỡ bước sang ngang – 1939) Với cách xưng hơ giữa những người cĩ quan hệ huyết thống với nhau, chúng ta hình dung ra cuộc sống hết sức hiền hịa và ấm áp của những con người trong cái xã hội đĩ. Khơng chỉ cĩ thế, ta cịn tìm gặp ở đĩ một lối xưng hơ rất quen thuộc của ca dao bao đời Lối xưng hơ bằng những đại từ phiếm chỉ khơng xác định rõ đối tượng là một đặc điểm của ca dao, đĩ là sự khơn khéo của những chàng trai và cơ gái trong các bài ca dao. Nguyễn Bính đã tận dụng triệt để cách xưng hơ ấy của ca dao. Vì vậy ta thấy xuất hiện xuyên suốt trong các bài thơ của thi sị họ nguyễn hầu hết là các đại từ phiếm cỉ với những cách xưng hơ “Cơ-Tơi”, “Cơ- Ta”, “Tơi-Em”... tuy bên cạnh cách xưng hơ theo lối ca dao, thơ Nguyễn Bính cũng cĩ cách xưng hơ rất hiện đại “Anh-Em”nhưng chiếm số lượng nhiều nhất vẫn là cách xưng hơ “Cơ-Tơi” “Một hơm thấy cơ cười cười Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 53 Tơi yêu yêu quá nhưng hơi mất lịng” (Qua nhà – 1936) Hay ... “Nghĩa là ghen quá đấy mà thơi Thế nghĩa là yêu qía mất rồi Và nghĩa là cơ là tất cả Cơ là tất cả của riêng tơi” (Ghen) Với cách xưng hơ vừa gần mà xa ấy thì cái “cớ” để những chàng trai tỏ bày tình cảm cũng là một đặc điểm của ca dao Việt Nam. Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh chưa cĩ mẹ già chưa khâu” (Ca dao) Chàng trai trong bài ca dao rất khơn khéo mượn cớ “áo thì sức chỉ mẹ thì già” để bày tỏ tình cảm của mình, đồng thời cịn muốn ngỏ lời “cưới xin” với cơ gái nhưng chàng trai của thi sĩ Nguyễn Bính trong thi phẩm “Đàn tơi” cũng khơng thua kém gì. “Đàn tơi đứt hết dây rồi Khơng người nĩi hộ khơng người thay cho” Bài thơ được mở đầu bằng một cái cớ rất duyên dáng và khéo léo của ca dao, vì vậy bao trùm lên bài thơ là hơi thở ấm áp nồng nàn của những câu ca dao dân ca xưa. Đặc điểm này xuất hiện trong nhiều tác phẩm khác của tác giả Nguyễn Bính. Cĩ thể nĩi, Nguyễn Bính tiếp thu đặc điểm này của ca dao và vận dụng một cách sáng tạo trong nhiều thi phẩm của mình. 3.3.2. Thành ngữ Một thực tế trong các sáng tác của thi sĩ mà ta tìm thấy đĩ là sự xuất hiện của các Thành ngữ. Thành ngữ vốn là đơn vị cĩ cấu trúc bền chặt, cĩ ý nghĩa bĩng bẩy và được sử dụng tự do trong lời nĩi như từ. Nguyễn Bính khơng những biết tiếp thu những tinh hoa của văn hĩa dân gian mà cịn biết sử dụng đúng chỗ và hợp lý. Khi nĩi đến lời hẹn hị của cặp tình nhân thì cĩ thành ngữ “Chờ em chừng giập miếng giầu em sang”, chỉ cĩ những con người vùng thơn quê mới cĩ cách nĩi như vậy “rất giản dị mà duyên dáng” hay khi nĩi đến tâm trạng tương tư của một ai đĩ thì ngay lập tức lại cĩ thành ngữ mới xuất hiện “Thơn Đồi ngồi nhớ thơn Đơng Một người chín nhớ mười mong một người” Khơng chỉ thế, theo các nhà nghiên cứu văn học thống kê cho biết, tần số xuất hiện của các thành ngữ là dày đặc trong các sáng tác của thi sĩ và chiếm số lượng 58 Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 54 thành ngữ trong thơ ơng và trong đĩ “Lỡ bước sang ngang” là một bài thơ cĩ sức chứa nặng nhất của những câu thành ngữ Việt Nam “Lỡ bước sang ngang, Một nắng hai sương, giấc mộng vàng, miếu thiêng vụn kén người thờ, nhà hương khĩi lạnh, mấy mươi con sơng sâu, sĩng giĩ ngang sơng, trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh, tuổi non nhạt phấn phai đào, bảy nổ ba chìm, trăm cay nghìn đắng, đào sâu chơn chặt, lịng lạnh như tiền, một lầm hai lở, máu trở về tim, má đỏ mơi hồng, ngang sơng đắm đị…” Thế kỷ 18, một người phụ nữ đầy cá tính trong bài thơ Bánh trơi nước nổi tiếng của mình, rất tinh tế khi mượn hình ảnh “bảy nổi ba chìm” (đặc trưng của bánh trơi nước) để ví thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vâng người tơi muốn nĩi đây chính là nữ sĩ Hồ Xuân Hương.Với “Bánh trơi nước”, tơi nghĩ nhà thơ hiểu sâu sắc ý nghĩa của những câu thành ngữ, tục ngữ Việt Nam ta. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm hay trăm đắng nghìn cay” đều muốn nĩi lên sự vất vả, long đong, lận đận của một thân phận chẳng vui sướng, an nhàn của một kiếp người và nhất là người phụ nữ. Tiếp nối tài năng của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính đã vận dụng những thành ngữ ấy một cách sáng tạo khi nĩi đến thân phận của người con gái lỡ bước sang ngang, bởi chỉ cĩ những thành ngữ này mới cĩ thể diễn tả chính xác và sâu sắc những “bất hạnh” và “khổ đau” của người phụ nữ trong xã hội xưa, mà người đọc cũng dễ tiếp nhận và hiểu được bởi đĩ là những thành ngữ do dân gian sáng tạo. Đến đây, nhìn lại ý kiến của giáo sư Hồng Như Mai, ta thấy đĩ là một nhận xét thật chính xác. Nếu như khơng cĩ sự “cộng hưỏng”, sự phối hợp ăn ý của những từ ngữ thành ngữ, tục ngữ hay những hình ảnh mà tác giả đã khéo léo lựa chọn và vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo từ trong chiếc nơi của văn hĩa và văn học dân gian thì những “đau khổ” và “bất hạnh” của người con gái trong bài thơ khĩ tìm được sự đồng cảm sâu xa đến như vậy. Nếu như những thành ngữ trong bài thơ “Lỡ bước sang ngang” rất phù hợp với thân phận bất hạnh của những cơ gái quê khi bước về nhà chồng cùng với một tâm trạng chán chường, bi quan và tuyệt vọng thì cũng với những thành ngữ ấy đến với những tác phẩm khác lại mang một ý nghĩa mới lạ. Chẳng hạn, với thành ngữ “năm tao bảy tuyết” trong “Mưa xuân” thì đĩ lại là lời trách mĩc nhẹ nhàng của cơ gái trước một tình duyên khơng trọn vẹn. “Năm tao bảy tuyết anh hị hẹn Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng” Khơng dừng lại ở “Lỡ bước sang ngang”, “Mưa xuân”, trong một số tác phẩm khác những thành ngữ Việt Nam thường xuyên xuất hiện với những màu sắc khác nhau. Chẳng hạn, trong “Giời mưa ở Huế” sự xuất hiện của thành ngữ “ba bốn tao ân ái” đĩ là một tâm trạng chán nản về kiếp tình duyên của chính thi sĩ trên con đường hoạn lộ của mình. Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 55 “Chao ơi! ba bốn tao ân ái Đã đủ tan tành một kiếp trai” Hay ở bài thơ khác, ta lại bắt gặp sự xuất hiện của một thành ngữ khác “Trăm sầu nghìn tủi mình tơi chịu Ba bốn năm rồi năm sáu năm Khĩc vụn mỗi lần tơi nhớ lại Men nồng gạo nếp nước hoa cam” (Hoa với rượu) Xuất hiện trong hồn cảnh này, thành ngữ “trăm sầu nghìn tủi” khơng cịn là nỗi tủi hờn của những cơ gái khi về nhà chồng mà nĩ là nỗi tủi hờn, tiếc nuối của chính thi sĩ về thờ thơ ấu của mình với một mối tình thật đẹp, thật trong sáng, hồn nhiên và tinh khiết với em Nhi. Cĩ thể nĩi, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hồn cảnh, tác giả đã rất linh hoạt vận dụng sáng tạo những thành ngữ tục ngữ Việt Nam. Chính vì vậy đọc tồn bộ tác phẩm thơ Nguyễn Bính “chúng ta cứ như cảm nhận rằng câu nào cũng mượt mà cách nĩi âm điệu dân gian dẫu cho ơng đang nĩi tới câu chuyện quá buồn trong cuộc đời”[12;355]. 3.3.3. Sử dụng con số Một sở trường khác của nhà thơ chân quê trên hành trình tìm về cội nguồn dân tộc chính là việc dùng những “con số”. Tài năng của tác giả ở chỗ từ những con số vơ hình, lạnh lùng, vơ cảm của tốn học (mơn khoa học tự nhiên) qua bàn tay của mình, thi sĩ đã phả vào trong nĩ một cái “hồn dân tộc” gắn với mỗi con số là mỗi một tâm trạng của một cá nhân nào đĩ. Tơi nhớ cĩ một nhạc sĩ đã sáng tác một bài hát rất nổi tiếng “con gái của mẹ” trong đĩ cĩ câu “ mười hai bến nước, biết bến nào đục, bến nào trong”. Tơi tin chắc rằng nhạc sĩ kia là người khá nhuần nhuyễn trong các sáng tác dân gian, nhờ vậy sáng tác nên những câu hát mang đầy tính dân gian đến thế. Dân gian ta mỗi khi nĩi đến thân phận người phụ nữ – nhất là những cơ gái sắp đi lấy chồng thì hay mượn hình ảnh “mười hai bến nước” hay hình ảnh “chiếc bách giữa dịng”. Dù là hình ảnh nào đi nữa tất cả đều nhằm nĩi lên tính chất của sự lênh đênh vơ định, bé nhỏ khơng làm chủ được số phận của người phụ nữ. Với ý nghĩa đĩ Nguyễn Bính cĩ câu thơ rất tuyệt “Cách mấy mươi con sơng xấu Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh” (Lỡ bước sang ngang) Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 56 Nếu như ca dao chỉ dừng lại ở con số 12 thì con số Nguyễn Bính dùng lên tới hàng mấy mươi, rồi trăm, nghìn, vạn…con số nĩ cứ tăng lên mãi và nếu như ở kia chỉ là bến nước, may mắn cịn cĩ chỗ nương nhờ nhưng cịn con sơng sâu và nhịp cầu chênh vênh, tính chất của sự lắc lẻo, sự chơng chênh càng tăng, đồng nghĩa với nĩ là sự hy vọng càng mong manh hơn. Cĩ thể nĩi Nguyễn Bính đã sử dụng rất đạt, rất hay những con số trong từng ngữ cảnh. Để nĩi về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất cao quý, ca dao câu “Một đồng là một trăm xu Tiễn chàng lên tận chiến khu ngàn trùng (ca dao) Cũng với hình thức ấy, Nguyễn Bính sáng tác nên một câu thơ rất tuyệt để biểu dương ca ngợi về những đức tính đáng quý của người phụ nữ thời trước -yêu thương chồng con, gánh vác cơng việc gia đình, dành dụm tiền cho chồng lên kinh ứng thí. “Một quan là sáu trăm đồng Chắc chiu tháng tháng cho chồng đi thi” (Thời trước) Khơng dừng lại ở đĩ, tiếp tục hành trình trên con đường tìm về với những con số trong sáng tác của Nguyễn Bính, chúng ta càng phát hiện nhiều điều lí thú. Dân gian ta mỗi khi nĩi đến những gì là đơi là cặp thì người ta liền nghĩ đến con số 2 (đơi vành khuyên, đơi mâm trầu…) nĩ là biểu tượng của sự hạnh phúc. “Võng anh đi trước võng nàng Cả hai chiếc võng cùng sang một đị” nhưng trong một số trường hợp khác nĩ lại mang ý nghĩa trái ngược, biểu tượng của sự chia cắt và “Giấc mơ anh lái đị” là một bằng chứng thiết thực nhất “Con sơng nĩ cĩ hai bờ Tơi chưa đổ trạng cơ thơi lại nhà” Khi một người đang trong tâm trạng hạnh phúc thì nhìn cái gì nĩ cũng tồn màu hồng, chính tình yêu làm con người thêm yêu đời và căng tràn sức sống “Lịng thấy giăng tơ một mối tình Em ngừng thoi lại giữa tay xinh Hình như hai má em bừng đỏ Cĩ lẽ là em nghĩ đến anh” Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 57 Hơn thế, tình yêu cịn là nguồn sức mạnh tiếp sức cho con người vượt qua bao thử thách của khơng gian thời gian. “ Bốn bên hàng xĩm đã lên đèn Em ngửa bàn tay trước mái hiên Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh Thế nào anh ấy chẳng sang xem!” Trong quan niệm của người phương đơng, con số 9 là con số may mắn hy vọng và chỉ cần một con số “một” nữa là nĩ đạt đến sự trọn vẹn nhưng chàng trai trong bài thơ “Giấc mơ anh lái đị” cĩ lẽ vì thiếu con số may mắn đĩ mà khơng cưới được vợ “Đồn rằng đám cưới cơ to Nhà giai thuê chí chiếc đị đĩn dâu Nhà gái ăn chín buồng cau Tiền cheo tiền cưới chừng đâu chín nghìn Lang thang anh dạm bán thuyền Cĩ người giả chín quan tiền lại thơi!” Nhiều ý kiến cho rằng Nguyễn Bính hay tương tư, đa sầu đa cảm và đây cũng là m ột trong những phong cách thơ của Nguyễn Bính và “Tương tư” là mộ bài thơ thể hiện sâu sắc điều đĩ. Xuất phát từ hình ảnh mang tính biểu trưng “thơn Đồi” và “thơn Đơng”, để rồi ơng lưỡng phân đo điếm tất cả Thơn Đồi ngồi nhớ thơn Đơng Một người chín nhớ mười mong một người” Ở chổ khác, chẳng hạn trong bài “Lỡ b ước sang ngang” ta thấy xuất hiện rất nhiều những thành ngữ bốn âm tiết mang con s ố: “Một nắng hai sương, Trăm cay ngàn đắng, Bảy nổi ba chìm… Nĩi đến thời gian, dân gian thường mượn con số 10 “mười năm”, nĩ là khoảng thời gian cụ thể nhưng đối với sự chờ đợi của một con người cĩ khi nĩ đã trở thành thời gian của tâm tưởng – thời gian ước lệ “Mười năm gối hận bên giường Mười năm nước mắt bữa thường thay canh Mười năm đưa đám một mình Đào sâu chơn chặt mối tình đầu tiên Mười năm lịng lạnh như tiền Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 58 Tim đi máu hết cái duyên khơng về” Với một vài con số kể trên thì rõ ràng chưa thể nĩi hết và đầy đủ một khía cạnh trong bút pháp nghệ thuật của tác giả Nguyễn Bính, nhưng tơi nghĩ nĩ cũng đủ cho chúng ta hiểu thêm về một diện mạo trong cách sử dụng ngơn ngữ của thi sĩ đồng thời hiểu thêm một ý nghĩa thật sâu sắc mà tác giả muốn gởi gắm vào trong đĩ “Trong cuộc sống này khơng cĩ gì là vơ ích, vơ nghĩa nếu con người biết vận dụng nĩ vào trong những hồn cảnh thích hợp thì nĩ sẽ phát huy được hiệu quả tối cao”. Đĩ là tất cả những gì mà ơng cha ta bằng kinh nghiệm thực tiễn đã trãi qua và đúc kết nên và muốn thế hệ trẻ chúng ta đĩn nhận nĩ bằng một tấm lịng tri ân, tiếp tục thừa hưởng và phát huy cái tinh hoa ấy phải chăng là mục đích chính của thi sĩ Nguyễn Bính khi quyết định chọn những thành ngữ và những con số mang đầy tính dân gian vào trong thơ ca của mình. 3.3.4. Giọng điệu Một phương diện khá quan trọng trong nghệ thuật sáng tác Nguyễn Bính khơng thể khơng kể đến “giọng điệu”. Chính cái giọng điệu này gĩp phần hịan thiện tài năng của tác giả. Sự gặp gỡ của các nhà nghiên cứu phê bình khi tìm hiểu về phương diện nghệ này đều thống nhất cho rằng giọng điệu chính trong thơ thi sĩ là buồn, “Âm điệu chung của thơ Nguyễn Bính là buồn”( Đồn Đức Phương). Điều này như phần lý giải chủ đề chúng tơi đã đề cập đến (bản thân, gia đình và xã hội) là những nhân tố cĩ sức tác động mạnh nhất. Bên cạnh đĩ, nguyên nhân cĩ sức tác động khơng nhỏ, đĩ chính là sự tiếp thu và chịu ảnh hưởng từ trong chiếc nơi dân gian. Giáo sư Hà Minh Đức phát biểu về vấn đề này như sau “Cĩ thể ơng đã chịu ảnh hưởng của điệu than của nhiều làn điệu dân ca. Điệu than đã đưa cảm xúc của người đọc tới những vùng mà sự rung động của trái tim trào lên bao cảm thương với chuyện đời dang dở, đắng cay…Cĩ biết bao nhiêu điều đáng than thở, than vãn trong tình yêu “Tơi rĩt hồn tơi xuống mắt nàng Hồn tơi là cả một lời van Tơi van nàng đấy! Van nàng đấy! Ai cĩ yêu đương chả vội vàng? (Người con gái ở làu hoa) Than vãn cho thân phận một đời người “Thày đừng nhớ, mẹ đừng thương Cầm như đồng kẽm ngang đường bỏ đi”… (Thư gởi thày mẹ) Than vãn khi tâm sự với người thân Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 59 “Tết này chưa chắc em về được Em gởi về đây một tấm lịng Chao ơi, tết đến mà khơng được Trơng thấy quê hương thật não nùng!” (Xuân tha hương) Giọng điệu chính trong thơ Nguyễn Bính khơng dừng lại ở điệu than chịu ảnh hưởng từ làn điệu dân ca nĩi riêng và âm hưởng dân gian nĩi chung, bên cạnh đĩ ta cịn bắt gặp một giọng điệu thứ hai giọng nhà quê, giọng điệu này được thể hiện rỏ nhất mỗi khi ngịi bút tác giả viết về quê hương, về cuộc sống, sinh hoạt của người dân quê Bên cạnh những con người sống nội tâm thầm lặng thì cũng cĩ những con người luơn mạnh dạn bày tỏ lịng mình, phơi bày một tình cảm một cách trực tiếp cơng khai, nhờ vậy tạo được cảm giác gần gũi, thân thiện và dễ cảm thơng tin tưởng lẫn nhau. Tiếp nhận đặc điểm trong tâm lý của người Việt Nam, vì vậy ta cịn bắt gặp giọng điệu khác trong thơ thi sĩ, đĩ là giọng kể lể, tâm sự của thơ dân gian. Nhiều bài thơ của ơng như một câu chuyện nhỏ, những kỉ niệm thú vị và hấp dẫn, những nỗi buồn thương day dứt, trong đĩ giọng kể chuyện thể hiện rõ nhất ở các bài thơ cĩ dung lư ợng dài của tác giả và “Lỡ bước sang ngang” là bài thơ tiêu biểu cho chất giọng này. Dù nĩi về mình hay thác lời cho số phận khác, bao giờ Nguyễn Bính cũng muốn thanh minh lí giải, biện hộ cho những tình cảm tốt đẹp của con người mà khơng phải ai cũng thấu hiểu. Chính giá trị nhân văn cao đẹp hài hịa nhu ần nhuyễn trong cái tài hoa của giọng kể, lời tâm sự đã là cho th ơ Nguyễn Bính dễ tìm được sự cảm thơng giao hịa với mọi người. Cũng như nhiều nhà thơ tài năng khác của dân tộc, Nguyễn Bính biết cách làm giàu cho sáng tác của mình tr n mảnh đất văn hĩa dân gian, từ đĩ khai thác và khơi nguồn cảm hứng để tạo nên những thi phẩm mới. Bằng lối tư duy dân gian, Nguyễn Bính đã sáng tạo cho mình giọng điệu ca dao dân ca, đĩ là những thể hát nĩi cổ truyền dân tộc. Đối với người bình dân Việt Nam, điều quan trọng là đơn giản hĩa những đ ều phức tạp. Tiếp nhận đặc điểm này, thơ Nguyễn Bính vì vậy cũng rất đơn giản, dễ dàng như những nghệ sĩ dân gian thường gặp ở kh ắp các vùng quê Nếu ca dao cĩ câu “Em về dọn quán bán hàng Để anh là khách đi đàng chú c ân Ta lại gặp cách nĩi tương tự trong thơ thi sĩ “Lịng em là quán bán hàng Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 60 Dừng chân cho khách qua đàng mà thơi” (Em v ới anh) Đến đây ta cĩ thể khẳng định, giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính thật đa d ng phong phú và dù mang một chất giọng gì chăng nữa, ta vẫn ắt gặp giọng điệu chung trong các sáng tác thi sĩ - chất giọng dân gian. 4. Hình thức thể loại Ca dao – một bộ phận của văn học dân gian, được người xưa rất yêu thích, dù trong bất cứ hồn cảnh nào thì người dân quê vẫn cất lên những câu hị tiếng hát ca dao đầy nghĩa tình. Đến lượt mình thi sĩ đồng quê ấy đã mang cả một kho tàng ca dao như muốn “khoe” với mọi người “viên ngọc quý báu” của dân tộc Việt. Nhưng điều đĩ khơng cĩ nghĩa là một sự “bắt chước rập khuơn”, mượn thể thơ dân tộc để nĩi lên cái hồn Việt bằng một cách nĩi rất riêng của mình. Vấn đề này Giáo sư Hà Minh Đức cĩ ý kiến “Chất dân gian trong thơ Nguyễn Bính đẹp và gợi cảm. Tác giả đã làm sống lại ca dao trong nguyên thể của nĩ và cĩ những cách tân sáng tạo”. Và ơng cũng đã giải thích trước sự băn khoăn của một số người khi cho rằng Nguyễn Bính khơng thật sự giữ được cái “Chân quê” trong một số bài thơ lục bát của mình, ơng nĩi “Thực ra thì Nguyễn Bính khơng trở về với ca dao theo lối mơ phỏng, viết những cái giống như ca dao mà quan trọng hơn là tìm được sự hịa hợp giữa hồn quê trong ca dao với những ý tưởng và tình cảm của cuộc đời …[12;164] Thật vậy ca dao của Nguyễn Bính khơng chỉ đi vào khai thác tâm lý cộng đồng dân tộc mà ơng cịn chú ý hơn đến những biểu hiện tâm trạng của mỗi cá nhân trong cộng đồng đĩ. Mỗi một khía cạnh tâm hồn con người được ơng quan tâm sâu sắc với những sắc thái tình cảm và những rung động khác nhau. Đây là nổi nhớ của một chàng trai “Chiều nay thương nhớ nhất chiều nay Thống bĩng em trong cốt rượu đầy Tơi uống cả em và uống cả Một trời quan tái mấy cho say” (Một trời quan tái) Và đằng kia là tâm trạng khắc khoải cơ đơn “Tơi vào sâu quá và xa quá Đường lụt sương mù lụt lá rơi” (Diệu vợi) Khơng dừng ở đấy, âm hưởng văn hĩa dân gian cịn vang v ọng ở thể lục bát - thể loại đi ển hình nhất của ca dao dân ca. Thơ lục bát đã cĩ truyền thống lâu đời với sự tuần hồn điều đặn của hai câu sáu tám, với vần chân và vần lưng luơn hiệp Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 61 vần theo thanh bằng, thể thơ này rất phù hợp cho giọng kể lể, lời tâm sự, cho những nỗi niềm buồn đau xĩt thương, buâng khuâng nhớ nhung… Nếu như Nguyễn Du với kiệt tác truyện Kiều trở thành ơng vua của sở trường lục bát thì hơn hai thế kỉ sau, khơng phụ tấm lịng của cha anh mình, cùng với Huy Cận Nguyễn Bính đã đưa thể thơ lục bát (ca dao) lên vũ đài vinh quang của dân tộc. Giáo sư Hà Minh Đức nhận xét “Về mặt thể loại, Nguyễn Bính làm thơ trữ tình, viết truyện thơ, sử dụng nhiều thể thơ nhưng thành thục hơn cả là thể lục bát…Thể lục bát ca dao mang vẻ hồn nhiên, tươi thắm của chất trữ tình đồng quê, vừa trong sáng, mềm mại vừa thiết tha, gợi cảm…Những bài thơ lục bát của Nguyễn Bính như Chân quê, Tương tư, Người hàng xĩm, Lỡ bước sang ngang vừa thanh thốt, gợi cảm vừa chải chuốt, điêu luyện.”[12;162]. Trong các sáng tác của mình trước Cách mạng, thể thơ này chiếm số lượng khá lớn tới 45%. Tác giả đã phát huy cao độ sự phù hợp giữa đặc trưng của thể loại lục bátlà mềm mại, uyển chuyển, giàu nhạc điệu với phong cách thơ mộc mạc, đằm thắm, dịu dàng của tác giả. Tác giả thường dùng kiểu ngắt nhịp 2-2 - kiểu ngắt nhịp truyền thống tạo âm hưởng trầm buồn, tha thiết. Nhưng Nguyễn Bính khơng sáng tác theo kiểu mơ phỏng ca dao, ơng luơn cĩ những cách tân sáng tạo.Tác giả Đồn Hương đĩng gĩp ý kiến“Những bài lục bát của ơng luơn luơn đổi mới, muơn màu muơn vẻ, tránh được cảm giác làm dáng của một nhịp thơ, một hịa âm cố định mà thể thơ lục bát thường hay dẫn đến”. Chính vì vậy, bên cạnh những câu thơ cĩ cách ngắt nhịp theo kiểu truyền thống cũng cĩ những câu thơ cĩ cách ngắt dịp hết sức linh động, kiểu ngắt nhịp 3/3/2 ở câu tám là cho lời thơ sinh động hẳn lên “ Bao giờ bến mới gặp đị Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau” (Tương tư) Hay ở một bài thơ khác cũng cĩ cách ngắt nhịp tương tự như vậy “Hơm nay dưới bến xuơi đị Thương nhau qua cửa tị vị nhìn nhau Anh đi đấy, anh về đâu? Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm… (Khơng đề- -1938) Đồn Thị Đặng Hương trên con đường đến với thơ Nguyễn Bính tiếp tục cĩ ý kiến “ơng là nhà thơ đầu tiên trên thi đàn thơ hiện đại của thế kỷ này đã dùng hình thứ của thơ ca dân gian (đặc biệt của ca dao, dân ca) để chuyển tải nội dung thẩm mỹ của Thơ mới”. Ta hãy lắng nghe lời thơ sau “Đêm tàn chẳng cĩ chiêm bao Đêm tàn cĩ mấy chùm sao cũng tàn Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 62 Chén sầu đổ ướt tràng giang Canh gà bên nớ giằng sang bên này” (Một con sơng lạnh- -1941) Hay “Chừ đây bên nớ bên tê Sương thu xuống giĩ thu về bồng bênh Đàn ai dứt một dây tình Nổi lên một tiếng buồn tênh rồi chìm” (Lửa đị- -1941) Với nhận xét này tơi nghĩ bài thơ “Chân quê” là một ví dụ tiêu biểu hơn cả. Bài thơ như một lời trách mĩc của chàng trai trước sự đổi thay của cơ gái đang chạy theo lối sống thị thành mà đang dần đánh mất đi cái duyên dáng, chân chất, bình dị của người dân quê nhưng hàm ẩn đằng sau nĩ là quan niệm chống đối lại lối sống đang làm biến chất diện mạo và tâm tính con người. Đây là một tư tưởng hết sức mới mẻ, hiện đại nhưng nĩ lại được chuyển tải trong khuơn khổ của những câu thơ mang chất ca dao bình dị và gợi cảm “Hoa chanh nở giữa vườn chanh Thầy u mình với chúng mình chân quê Hơm qua em đi tỉnh về Hương đồng giĩ nội bay đi ít nhiều” Bốn câu thơ là sự quy tụ của những từ ngữ và hình ảnh đồng quê “hoa chanh, vườn chanh, hương đồng giĩ nội, thầy u, chúng mình…nĩ đã hịa hợp nhau và tạo nên một âm hưởng ca dao trữ tình độc đáo. Cĩ thể nĩi rằng cái kho tàng lục bát ca dao của thi sĩ Nguyễn Bính, chúng ta cĩ tìm hiểu, nghiên cứu cả đời cũng chưa thể hết bởi nĩ chính là kho tàng văn hĩa dân gian nhưng tơi nghĩ với một vài điều trích dẫn trên cũng đủ cho chúng ta tiếp cận diện mạo phong phú trong nghệ thuật sáng tác của thi sĩ Nguyễn Bính. Bên cạnh nội dung thì nghệ thuật là một phương diện khá quan trọng, là một đĩng gĩp quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của một tác giả. Khi nghiên cứu bất kì một vấn đề gì cũng cần quan tâm đến cả hai phương diện này. Trong một tác phẩm văn học nĩi chung và trong tác phẩm thơ nĩi riêng, hai mặt này thống nhất gắn chặt với nhau như một thực thể khơng thể tách rời. Hình thức là một phương tiện để chuyển tải nội dung và nội dung muốn hay, hấp dẫn được người đọc (ngồi vấn đề mà nĩ đang đề cập) thì nĩ cần cĩ một hình thức phù hợp thì mới cĩ thể phát huy tối cao giá trị ý nghĩa của tác phẩm. Và thi sĩ Nguyễn Bính đã đáp ứng được yêu cầu ấy, đã chuyển tải một vấn đề văn học dưới một lớp vỏ hình thức phù hợp. Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 63 PHẦN TỔNG KẾT ]^ Sự trở về nguồn cội giữ gìn bản sắc khơng chỉ là chủ trương xuất phát từ một chính sách chính trị, mà thực sự là một nhu cầu bên trong tinh thần tình cảm, tâm linh, đạo lý của một lớp người thấm trong máu mình dịng văn hĩa dân tộc. Trong hành trình về nguồn ấy, họ tìm thấy cuộc đời và thơ Nguyễn Bính là một bậc tiên tri đã chọn đúng đường, giữa buổi giao thời nhốn nháo, lúc đang cịn ở tuổi đơi mươi. Thật vậy, Nguyễn Bính là một trong những đứa con của phong trào Thơ mới, tìm cho mình một phong cách riêng rất độc đáo “tìm về chiếc nơi ấm dân gian” làm mạch nguồn cảm hứng sáng tác. Chính vì vậy, tồn bộ sáng tác Nguyễn Bính thấm nhuần chất dân gian. Điều này lí giải vì sao thơ Nguyễn Bính chiếm được tình cảm lớn trong đơng đảo cơng chúng. Trước hết là những người thuộc lớp “cơng chúng mộc mạc” (chữ của Hồi Thanh). Bao trùm lên thơ Nguyễn Bính là một tình yêu và tình yêu gắn liền với cuộc sống làng quê với những đêm hội làng, những hẹn hị lứa đơi với những mảnh vườn, bờ ao, cánh đồng, đêm trăng… Viết về làng quê, Nguyễn Bính khơng nhắm vào những cơ cực, những hình ảnh lam lũ của con người, cũng khơng nhằm lí tưởng hĩa làng quê của mình. Làng quê hiện lên với những tình cảm cộng đồng, gắn bĩ và thâm tình. Làng quê ấy hiện lên thật trong sáng, thanh bình và ấm áp nghĩa tình. Nĩ là một bức tranh vẽ lên đầy đủ những sinh hoạt văn hĩa dân gian, những phong tục tập quán và cả những quan niệm, suy nghĩ, tình cảm con người. Thành cơng khác của thi sĩ là xây dựng hình tượng nhân vật. Khi xây dựng nhân vật, Nguyễn Bính khơng nhằm vào mục tiêu miêu tả sự nghèo khổ cùng cực của họ. Mục đích chủ yếu của ơng nhằm phát hiện ở họ những phẩm chất tốt đẹp, những suy nghĩ và tình cảm chân chất, trong sáng của dân quê. Một con người lớn bên trong sự khao khát tình cảm (tình yêu, tình mẹ con) vì vậy, chiếm phần lớn trong thơ Nguyễn Bính đĩ là một tình yêu-tình yêu đối với làng quê, cuộc sống con người, đặc biệt là tình yêu đơi lứa dở dang, thường khơng trọn vẹn. Nhưng điều đặc biệt, đĩ khơng phải là tình yêu theo lối hiện đại, cái tình yêu ấy được diễn ra trên cái nền của hội hè đình đám, trong những ngày tết cổ truyền. Thơ Nguyễn Bính làm rung động tới những gì cổ xưa, mến thương nhất của tâm linh người Việt là vì thế. Ra đời đến nay hơn nửa thế kỉ, nhưng thi sĩ họ Nguyễn vẫn hằng tồn tại trong lịng bạn đọc yêu thơ, bất chấp cái “ba chìm bảy nổi” của cuộc đời nhà thơ, bất chấp cái “ba chìm bảy nổi” của những lời bình phẩm đánh giá thơ ơng, thơ Nguyễn Âm hưởng dân gian trong một số sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Thị Ngọc Vi-DH5C1 64 Bính cứ sống cái đời lam lũ của riêng mình hơn nửa thế kỉ nay trong đời sống dân dã. Mượn lời của tác giả Đồn Hương thay cho lời kết luận “Thơ Nguyễn Bính đã và sẽ tồn tại với qui luật giản dị của văn học dân gian. Sự lớn lao trong bĩng dáng thơ ca của ơng trên văn đàn lại hiện hữu như điều đan giản nhất của cuộc sống” thơ ca mãi mãi là dỉnh cao nổi tiếng ấy, cao hơn tất cả các ngọn núi Anpơ, nằm lăn lốc trong cỏ, trước chân ta, đến độ chỉ cần cúi xuống một chút là ta cĩ thể nhìn thấy nĩ và nhặt làên nĩ. Câu nĩi nổi tiếng ấy của nhà thơ Nga phải chăng cũng chính làà nĩi về thơ Nguyễn Bính: những vần thơ giản dị của ơng cứ tồn tại và sống đời sống riêng của nĩ. Nĩ tồn tại như lẽ tự nhiên của cuộc đời vốn tồn tại như vậy”. Cĩ thể nĩi rằng, âm hưởng văn hĩa dân gian tồn tại trong thơ Nguyễn Bính khơng chỉ được thể hiện trên phương diện đề tài mà cịn thể hiện cả trên phương diện hình thức. Với hai mặt vừa trình bày trên làm thành một chỉnh thể thống nhất trong nội dung nghiên cứu của tác phẩm, gĩp phần giúp chúng ta hiểu thêm diện mạo mới trong sự nghiệp sáng tác của tác giả Nguyễn Bính. Tuy rằng, đề tài thể hiện một cách khá đầy đủ các phương diện cần nghiên cứu, cơ bản đáp ứng được yêu cầu của đề tài ngh ên ứu, tìm hiểu, phân tích và trình bày khá rõ về âm hưởng dân gian trên các mặt đ ề tài, chủ đề, tư tưởng thẩm mỹ; chắc lọc những dẫn chứng phục vụ cho yêu cầu của bài làm nhưng nhìn chung người nghiên cứu cũng chưa khám phá thật sâu những vấn đề trình bày, đơi chổ kiến thức diễn đạt cịn vụng về, sơ sài. Vì vậy bản thân thiết nghĩ, đây là một khuyết điểm mà bản thân cần cố gắng khắc phục, đạt được hiệu quả tốt hơn cho quá trình học tập và rèn luyện sau này. Âm hưởng Dân Gian trong một số sáng tác Nguyễn Bính trước cách mạng NGUYỄN THỊ NGỌC VI-DH5C1 - 64- Tư liệu tham khảo [\ ] 1. Hà Minh Đức(chủ biên). 1997. lí luận văn học. Hà Nội. NXB:Giáo dục. 2. Hịai Thanh-Hồi Chân. 2006. Thi nhân Việt Nam. Hà Nội. NXB: Thanh Hĩa. 3 .Hữu Đạt. Ngơn ngữ thơ Việt Nam: NXB Giáo dục 4. Huy Cận-Hà Minh Đức (chủ biên). 1993. Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca:NXB Giáo dục. 5. Kiều Văn. Những gương mặt tiêu biểu thi ca Việt Nam:NXB Văn học. 6. Lê Đình Kỵ. 1998. Phê bình nghiên cứu văn học. 7. Lê Trí Viễn.1978. Lịch sử văn học Việt Nam Tập I – Văn học dân gian phần 1. Sách Đại học sư phạm. NXB Giáo dục. 8. Mã Giang Lân. 2000. Tìm hiểu thơ. Hà Nội: NXB Văn hĩa thơng tin. 9. Nguyễn Xuân Kính. 1992. Thi pháp ca dao. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội 10. Nguyễn Bính. Thơ và đời. Hà Nội. NXB: Văn học 11. Nguyễn Bính. 2000. Nhà thơ chân quê. Hà Nội:NXB: Văn hĩa thơng tin. 12. Nguyễn Bính. Về tác gia và tác phẩm: NXB Giáo dục. . 13. Nguyễn Bính. 2001. tuyển tập Nguyễn Bính. Hà Nội: NXB:Văn học 14. Trần Đình Sử (chủ biên).Giáo trình LÍ luận văn học tập II -tác phẩm và thể loai văn học: NXB Đại học Hà Nội. 15. Trần Đình Sử. 1997. Những thế giới nghệ thuật thơ(tiểu luận). Hà Nội: NXB Giáo dục. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1228.pdf
Tài liệu liên quan