Áp dụng Marketing địa phương cho việc phát triển ngành du lịch Ninh Bình

Lời mở đầu Cùng với sự quan tâm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngành du lịch luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đúng mức, ở mỗi thời kỳ đều xác định vị trí của du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Trong quá trình đổi mới đất nước, du lịch nước ta đã đạt được những thành quả ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả quy mô và chất lượng, dần khẳng định vai trò, vị trí của mình là ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kin

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1656 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Áp dụng Marketing địa phương cho việc phát triển ngành du lịch Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế quốc dân. Du lịch không những tạo ra việc làm và thu nhập mà nó còn tạo ra những quyết định mang lại lợi ích phụ liên quan đến các địa điểm kinh doanh hoặc cư dân mới. Do đó, các địa phương luôn chủ động tìm cách tăng thị phần trong ngành du lịch nhằm thu được hiệu quả cao nhất. Hiện nay, các địa phương đều rất coi trọng phát triển ngành du lịch của địa phương mình. Hơn nữa các địa phương ngày càng chú trọng hơn đến việc làm marketing địa phương nhằm cải thiện tình hình kinh tế hiện tại và tạo ra lợi thế so với các địa phương khác nhằm thu hút khách hàng mục tiêu, đặc biệt là các du khách. Nình Bình ngày càng chuyển mình để phù hợp với xu hướng đó. Ninh Bình được đánh giá là địa phương đứng thú 2 cả nước về tiềm năng phát triển du lịch chỉ sau Quảng Ninh. Đề tài vận dụng marketing địa phương áp dụng cho phát triển ngành du lịch của tỉnh Ninh Bình sẽ nêu lên một cách khái quát những lợi thế của Ninh Bình về tiềm năng du lịch cũng như các chiến lược ưu đãi của chính quyền đối với các nhà đầu tư trong ngành du lịch. Bên cạnh đó, cũng nêu lên những hạn chế vẫn còn tồn tại trong ngành du lịch Ninh Bình và kiến nghị một số giải pháp marketing nhằm giảm thiểu hạn chế còn tồn tại và đưa ngành du lịch Ninh Bình phát triển xứng tầm với tiềm năng vốn có của nó. ÁP DỤNG MARKETING ĐỊA PHƯƠNG CHO VIỆC PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH NINH BÌNH I/Giới thiệu tổng quan về Ninh Bình 1.1 Điều kiện địa lý tự nhiên 1.1.1 Vị trí địa lý     Ninh Bình nằm ở cực Nam đồng bằng Bắc Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam, phía Đông Nam giáp biển Đông, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Thanh Hoá, phía Tây và phía Đông Bắc giáp tỉnh Hoà Bình. Nằm trên tuyến đường giao thông xuyên Bắc – Nam, cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km, ngoài quốc lộ 1A, đường sắt Bắc – Nam, Ninh Bình còn có hệ thống cảng biển, đường sông, đường biển thuận lợi, tạo điều kiện giao lưu, hợp tác, phát triển toàn diện với các tỉnh khác trong cả nước và quốc tế. 1.1.2. Đặc điểm địa hình     Ninh Bình có 1 thành phố, 1 thị xã và có 6 huyện với 144 xã, phường. Mật độ dân số trung bình 657 người/km2. Địa hình của Ninh Bình được chia thành 3 vùng rõ rệt gồm: vùng đồi núi, nửa đồi núi; vùng đồng bằng; vùng ven biển và biển. dãy núi đá vôi ở phía tây của tỉnh chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bắt nguồn từ vùng rừng núi Hoà Bình chạy ra biển tạo thành vùng phù sa cổ ven chân núi. Do qua trình tạo sơn hơn 200 triệu năm về trước, dãy núi đá vôi ở phía Tây của tỉnh có nhiều hang động đẹp như: Bích Động, Tam Cốc, Địch Lộng, Xuyên Thuỷ Động, Bàn Long, Hoa Sơn… Tiếp đó là vùng đồng chiêm trũng ở các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô, chứng tỏ khi biển bồi trong điều kiện kín sóng, lại bị núi đồi, bao bọc che chở, nên không đủ phù sa bồi đắp để sót lại vùng sâu trũng ngày nay. Biển bồi dần tạo nên vùng đồng bằng ven biển nam Yên Khánh, Yên Mô, Kim Sơn. 1.1.3. Khí hậu     Ninh Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu ven biển. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23oC, nhiệt độ trung bình thấp nhất (tháng 1) khoảng 13 – 15oC và cao nhất (tháng 7) khoảng 28,5oC. Lượng mưa trung bình hàng năm trên 1.800 mm nhưng phân bố không đều, tập trung 70% lượng mưa vào mùa hạ (từ tháng 5 đến tháng 9) mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. 1.2 Tài nguyên thiên nhiên 1. Tài nguyên đất     Ninh Bình có tổng diện tích đất tự nhiên là 143.300 ha với các loại đất: đất phù sa được bồi và đất phù sa không được bồi (thuộc vùng đồng bằng ven biển) tạo điều kiện cho nuôi trồng thuỷ sản và cây công nghiệp; đất phù sa cũ, chua, nghèo… (tập trung ở vùng đồng bằng trũng) thích ứng cho thâm canh lúa, hoa màu; đất feranít (vùng nửa đồi núi) thích hợp phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp, cây dược liệu. Trong tổng diện tích đất tự nhiên của Ninh Bình, đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất với 6.900 ha, chiếm 46,5% diện tích đất tự nhiên.  2. Tài nguyên rừng     Tổng diện tích đất lâm nghiệp có 32.700 ha, chiếm 21,4% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh và được quy hoạch; đất có rừng phòng hộ là 16.500 ha, rừng đặc dụng 14.300 ha và rừng sản xuất (kinh tế và cây ăn quả) là 1.900 ha.     Diện tích rừng hiện có là 14.368 ha (chiếm 45% diện tích đất lâm nghiệp). Trong đó, rừng tự nhiên có 11.392 ha với tổng trữ lượng gỗ ước khoảng 1,1 triệu m3, đây là rừng nguyên sinh trong phạm vi Vườn Quốc gia Cúc Phương được bảo vệ. Còn lại là diện tích rừng trồng chủ yếu thuộc đối tượng rừng phòng hộ mới trồng. 3. Tài nguyên khoáng sản     Ninh Bình có nhiều loại khoáng sản, nhưng đáng kể nhất là đá vôi. Tỉnh có nhiều núi đá vôi với diện tích 1,2 vạn ha, trữ lượng hàng chục tỷ mét khối và hàng chục triệu tấn đôlômít, chất lượng tốt. Đây là nguồn nguyên liệu lớn cho sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt là xi măng và một số hoá chất. Ngoài ra, Ninh Bình còn có đất sét, phân bố rải rác ở các vùng núi thấp thuộc thị xã Tam Điệp, các huyện Gia Viễn, Yên Mô, dùng để sản xuất gạch ngói và là nguyên liệu cho ngành đúc. Than bùn có trữ lượng 2 triệu tấn/năm, phân bố ở Gia Sơn, Sơn Hà (Nho Quan) dùng để sản xuất phân vi sinh. 1.3. Tiềm năng kinh tế 1. Những lĩnh vực kinh tế lợi thế Nông nghiệp hiện nay vẫn là ngành tập trung nhiều lao động và diện tích đất đai nhất, với hơn 80% dân số và 47% diện tích đất tự nhiên. Vì thế sản xuất nông nghiệp của Ninh Bình vẫn được coi là mặt trận chính.    Trong những năm tới, các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ như công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt là xi măng, đá, gạch phải phát triển trở thành khâu đột phá, đưa nền kinh tế Ninh Bình tăng tốc và ưu tiên hàng đầu là công nghiệp sản xuất xi măng.     Phát triển đa dạng ngành kinh tế thuỷ sản, trong đó nuôi thuỷ, hải sản là trọng tâm, được coi là một khâu đột phá của ngành nông nghiệp và nền kinh tế của tỉnh.     Với các khu du lịch, danh lam thắng cảnh nổi tiếng, đặc biệt khu cố đô Hoa Lư, Tam Cốc – Bích Động là thế mạnh của tỉnh trong phát triển du lịch. 2. Tiềm năng du lịch     Sự kỳ thú của thiên nhiên với những danh lam thắng cảnh đẹp, đa dạng như Vườn Quốc gia Cúc Phương, khu hang động Tam Cốc – Bích Động, khu Địch Lộng, Vân Long… cùng với tài nguyên nhân văn như Cố đô Hoa Lư, quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm, chùa Non Nước, phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn… tạo điều kiện cho Ninh Bình phát triển những tuyến du lịch hấp dẫn, đưa tỉnh trở thành địa bàn du lịch quan trọng của vùng Bắc Bộ và cả nước. 1.4. Điều kiện xã hội Nình Bình là một tỉnh lâu đời, đã từng là kinh đô của đất nước với nhiều truyền thống về con người, văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc. Sau khi bị hai cuộc chiến tranh tàn phá, Ninh Bình hợp nhất với hai tỉnh Nam Định và Hà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh và mới được tách tỉnh năm 1992. Sau 15 năm tái lập tỉnh, Ninh Bình đã có nhiều bước chuyển biến mới trong xây dựng đời sống mới cho nhân dân và cơ sở hạ tầng cho tỉnh. Năm 2007, thị xã Ninh Bình được công nhận là thành phố cấp 3 với nhiều ưu đãi từ phía nhà nước và thu hút được nhiều nhà đầu tư. Với sự ổn định trong các ban ngành lãnh đạo, kinh tế của Ninh Bình đang ngày càng phát triển không ngừng, bộ mặt của tỉnh được thay đổi từng ngày. Con người Ninh Bình cần cù và ham học hỏi, có truyền thống hiếu học và chăm chỉ làm ăn từ muôn đời nay. Không chỉ có dân tộc Kinh, tại đây còn có một số ít các dân tộc thiểu số khác như Mường tại khu vực huyện Nho Quan, các chính sách phát triển xã hội luôn phải quan tâm đến nhiều mặt trong đời sống. II/Thực trạng ngành du lịch Ninh Bình 1.Đánh giá chung về cơ sở phát triển ngành du lịch 1.1 Cơ sở hạ tầng Kiến trúc Công tác quy hoạch: đã lập xong quy hoạch tổng thể cho 2 thị xã, 6 thị trấn huyện lỵ trong tỉnh và lập trình duyệt 12 dự án quy hoạch chi tiết. Đã và đang tiến hành lập quy hoạch cho 127 xã và trung tâm cụm dân cư trong tỉnh. Đã thẩm định trên 1.700 lượt công trình và hạng mục công trình với tổng dự toán trên 900 tỷ đồng. Tham gia cùng các ngành trong tỉnh xây dựng giá và quản lý các chính sách về đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh ngày càng có hiệu quả hơn Xây dựng cơ bản Những năm gần đây đã khắc phục được tình trạng đầu tư dàn trải mà tập trung cho các công trình trọng điểm để khai thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh như: Nhà máy xi măng Tam Điệp, dây chuyền chế biến dứa Đồng Giao, Nhà máy cán thép Tam Điệp. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn như: kênh 12B, hồ Yên Thắng, đường chống lũ quét, cơ sở hạ tầng nuôi tôm Kim Sơn, các cơ sở hạ tầng giao thông và thoát nước đô thị cũng được chú trọng như: đường 59A, WB2, nhà máy nước, hệ thống thoát nước tây bắc thị xã Ninh Bình, dự án tây sông Vân; các công trình phục vụ cho SeaGames 22 như: nhà thi đấu TDTT, sân vận động... Nhiều công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng phát huy được hiệu qủa đầu tư, góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội của tỉnh phát triển. Giao thông vận tải Tỉnh Ninh Bình nằm ở cực nam đồng bằng Bắc bộ có hệ thống giao thông thuận tiện cả đường bộ, đường thuỷ và đường sắt. Đường bộ có quốc lộ 1A, số 10, 12A, 12B, 12C và quốc lộ 59A với tổng chiều dài là 120 km, đường tỉnh lộ với 24 tuyến là 308 km; đường sông có tổng chiều dài là 387,3 km trong đó đường sông trung ương (sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Vạc...) là 165,5 km, đường sông địa phương là 221,8 km, có cảng Ninh Bình tàu từ 100- 400 tấn có thể ra vào thuận lợi, năng lực bốc xếp 1,4 triệu tấn/năm; đường sắt có chiều dài 20 km với 4 ga (Ninh Bình, Cầu Yên, Ghềnh, Đồng Giao). Đường bộ, đường sắt chiếm vị trí rất quan trọng trong toàn bộ hệ thống giao thông vận chuyển hàng hoá, giao lưu kinh tế với các vùng, miền trong cả nước Những năm gần đây ngành giao thông đã tranh thủ sự hỗ trợ của Bộ GTVT, các dự án Quốc tế, các ngành và các cấp để tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông: đường quốc lộ rải nhựa 39,5 km (trong đó có 6,8 km đường bê tông nhựa); xây dựng 7 cầu (190,9m); 01 đập tràn 120 m; đường tỉnh: rải nhựa 84,7 km; các công trình được đầu tư đảm bảo chất lượng, kỹ, mỹ thuật đạt hiệu quả và phát huy tác dụng tốt. Về vận tải: Kết quả vận tải từ năm 1992- 2001 đạt 28.873.000 tấn hàng hoá, luân chuyển 657,8 triệu tấn; vận tải hành khách đạt 15.412.000 người; doanh thu vận tải đạt 596.767 triệu đồng. Ngành đã điều tiết và duy trì hoạt động thường xuyên 53 tuyến vận tải hành khách nội tỉnh, ngoại tỉnh đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. 1.2 Các điểm hấp dẫn 1.2.1Các điểm hấp dẫn về thắng cảnh Khu du lịch sinh thái Tràng An Phủ Khống - Khu du lịch sinh thái Tràng An Năm 2007 các nhà khảo cổ học đầu ngành của nước Anh và các nhà khoa học Việt Nam đã có những chuyến khảo sát Hang Báng - một trong những hang động thuộc khu du lịch sinh thái Tràng An. Các nhà khoa học đã phát hiện những công cụ chặt bằng đá cuội thuộc thời kỳ văn hoá Sơn Vi, những mảnh gốm thuộc thời kỳ văn hoá Đa Mút Trước đó, trong quá trình nạo vét các thung, các hang động, rất nhiều các cổ vật từ có niên đại từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIV cũng được tìm thấy. Đây là những tư liệu quý để các nhà khoa học tìm hiểu về thời đại đồ đá cũ, về đời sống của người nguyên thuỷ, tìm hiểu về các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần. Những phát hiện mới này sẽ là tiền đề quan trọng để tỉnh Ninh Bình có hướng khoanh vùng bảo vệ, quy hoạch và đầu tư lớn vào khu du lịch sinh thái Tràng An Bên cạnh giá trị lịch sử khảo cổ học, Tràng An còn được biết đến như là một khu sinh thái độc đáo với hơn 30 thung lớn nhỏ và gần 50 hang động thung ao, kéo dài 20 km. Cùng với khu hang động, khu du lịch Văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính được xác định là điểm nhấn quan trọng trong khu du lịch sinh thái Tràng An. Tại đây đã xây dựng những ngôi chùa lớn. Trong chùa đặt một pho tượng Phật bằng đồng cao 10m, nặng 100 tấn đã được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác lập là pho tượng phật bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam; 3 pho tượng Tam thế bằng đồng, mỗi pho nặng 50 tấn; 2 quả chuông đồng, một quả nặng 27 tấn, một quả nặng 36 tấn; Đặc biệt khu núi chùa Bái Đính còn có tượng các vị La Hán bằng đá nguyên khối với số lượng lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Dự kiến đến đầu năm 2008, nhân kỷ niệm 1040 năm Vua Đinh Tiên Hoàng lên ngôi hoàng đế - đó cũng là thời điểm diễn ra tuần lễ du lịch Ninh Bình. Khu du lịch sinh thái Tràng An được đưa vào khai thác sẽ tạo lên bản sắc riêng và sức bật mới cho du lịch Ninh Bình, góp phần đưa Ninh Bình trở thành địa bàn quan trọng trong không gian du lịch Bắc Bộ. Nhà thờ đá Phát Diệm - Tỉnh Ninh Bình Nhà thờ đá Phát Diệm Nhà thờ Phát Diệm ở cách Hà Nội 130 km về phía Nam, được xây dựng vào những năm 1875 - 1899. Ðây là một quần thể kiến trúc phương Ðông gồm có (từ hướng Nam đi vào): Ao hồ, Phương Ðình, Nhà thờ lớn với bốn Nhà thờ cạnh ở hai bên, ba hang đá nhân tạo, Nhà thờ đá. Ao hồ hình chữ nhật, ở giữa là một hòn đảo nhỏ, trên có đài chúa Giê su làm vua. Phương Ðình là một kiến trúc đồ sộ bằng đá (chiều ngang 24m, chiều sâu 17m, chiều cao 25m), trên vách phía ngoài và phía trong có những bức phù điêu bằng đá. Bên trong phía trên có treo một chiếc trống cái và một quả chuông (đúc năm 1890, cao 1,4m, đường kính 1,1m, nặng gần hai tấn). Nhà thờ lớn dài 74 mét, rộng 21m, xây năm 1891, có bốn mái và sáu hàng cột gỗ lim. Hai hàng giữa là 16 cột gỗ lim (cao 11m, chu vi 2,35m). Bàn thờ chính là một phiến đá dài 3 mét, rộng 0,9 mét, cao 0,8 mét, trên ba mặt có chạm khắc hoa lá. Hai bên nhà thờ lớn có bốn Nhà thờ nhỏ hơn, mỗi nhà thờ một kiểu. ở tận cuối phía Bắc là 3 cái hang đá, đẹp nhất là hang đá Lộ Ðức ở phía Ðông Bắc. Sau cùng ở góc phía Tây Bắc là Nhà thờ nhỏ, còn gọi là Nhà thờ đá vì tất cả cột, xà, tường, chắn song, tháp đều bằng đá. Nhà thờ Phát Diệm là một điểm hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Cố đô Hoa Lư - Tỉnh Ninh Bình Cố đô Hoa Lư Hoa Lư là kinh đô của nước Ðại Cồ Việt (tên xa xưa của nước Việt Nam) có cách đây gần 10 thế kỷ thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, Cố đô Hoa Lư trước đây rộng khoảng 300 ha được bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ. Khoảng trống giữa các sườn núi được xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch bó, đắp cao từ 8-10 mét. Kinh đô Hoa Lư bao gồm Thành Ngoại, Thành Nội và Thành Nam. Thành Ngoại rộng khoảng 140 ha thuộc địa phận thôn Yên Thành xã Trường Yên. Ðây là cung điện chính mà khu vực đền Ðinh, đền Lê là Trung tâm và cũng chính là nơi vua Ðinh Tiên Hoàng cắm cờ nước. Trước cung điện có núi Mã Yên tương truyền vua Ðinh lấy núi làm án. Thành Nội thuộc thôn Chi Phong, xã Trường Yên có tên là Thư Nhi xã, nơi nuôi trẻ em và những người giúp việc trong cung đình. Thành Nam (thành ở phía Nam, từ hang luồn trở vào trong, nằm đối diện và nối liền với khu Thành Ngoại). ở đây xung quanh có núi cao bao bọc, án ngữ phía Nam kinh thành, bảo vệ mặt sau, từ đây bằng đường thuỷ có thể nhanh chóng rút ra ngoài. Phía Ðông kinh thành có núi Cột cờ, nơi có lá quốc kỳ Ðại Cồ Việt, có ghềnh tháp-nơi vua Ðinh duyệt thuỷ quân, hang Tiền nơi lưu giữ tài sản quốc gia, động Thiên Tôn- tiền đồn của Hoa Lư và là hang nhốt hổ, báo để xử kẻ có tội. Ðến đời Lê Hoàn đã cho xây thêm nhiều cung điện lộng lẫy: điện Bách Thảo Thiên Tuế, điện Phong Lưu ở phía Ðông, điện Vinh Hoa ở phía Tây, điện Bồng Lai bên tả, điện Cực Lạc bên hữu, lầu Hoả Vân và điện Trường Xuân, điện Long Lộc được lợp ngói làm bằng bạc. Trải qua mưa nắng hơn 10 thế kỷ, các di tích lịch sử ở cố đô Hoa Lư hầu như bị tàn phá, đổ nát. Hiện nay chỉ còn lại đền vua Ðinh và đền vua Lê được xây dựng vào thế kỷ XVII. Vườn quốc gia Cúc Phương Vườn quốc gia Cúc Phương Được thành lập ngày 7 tháng 7 năm 1962, Cúc Phương đã trở thành Vườn Quốc Gia đầu tiên và cũng là đơn vị bảo tồn thiên nhiên đầu tiên của Việt Nam. Với nhiều lợi thế về cảnh quan thiên nhiên, sự đa dạng về hệ sinh thái, các giá trị văn hoá lịch sử, từ lâu Cúc phương đã trở thành điểm du lịch sinh thái nổi tiếng và hấp dẫn. Cúc phương có đặc trưng là rừng mưa nhiệt đới, xanh quanh năm. Hàng chục người ôm mới hết chu vi những cây đại thụ ngàn năm cao trọc trời từ 45 đến 75mét như cây Đăng cổ thụ cao 45m đường kính 5m, cây Chò Chỉ cao 70m đường kính 1,5m, cây Sấu cổ thụ cao 45m đường kính 1,5m, cây Chò xanh ngàn năm cao 45m, chu vi gốc 25m. Chẳng thua kém thế giới thực vật, khu hệ động vật Cúc Phương cũng rất đa dạng và phong phú. Theo số liệu điều tra mới nhất Cúc Phương có 89 loài thú, 307 loài chim, 110 loài bò sát và lưỡng cư, 65 loài cá, và gần 2000 dạng côn trùng. Trong các loài thú Cúc Phương, nhiều loài đã được xếp vào loại quý hiếm, như báo gấm, báo lửa, gấu ngựa...và nhiều loài được là đặc hữu của Cúc Phương như sóc bụng đỏ. ở Cúc Phương có một loài thú linh trưởng rất đẹp, ngoài Việt Nam ra chúng không còn tồn tại nơi nào khác trên thế giới, đó là loài Voọc mông trắng – một báu vật của tạo hoá, loài vật này đã được chọn làm biểu tượng của Vườn Quốc Gia Cúc Phương. Thế giới côn trùng Cúc Phương cũng đa dạng muôn hình muôn vẻ. Mùa bướm nở, rừng già như trẻ lại tưng bừng lấp lánh ngàn vàng, bướm nhiều vô kể đủ dạng, đủ mầu phơi bầy một bức tranh kỳ ảo. Từ xa xưa Cúc Phương còn là nơi cư trú và sinh sống của đồng bào Mường với những nét văn hoá riêng. Đó là những nếp nhà sàn, những trang phục, những phong tục tạp quán, lễ hội cồng chiêng, những điệu hò ... mang đận sắc thái văn hoá dân tộc Mường. Tam Cốc – Bích Động Tam Cốc Ðộng nằm trong dãy núi Ngũ Nhạc Sơn thuộc địa phận thôn Ðam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Năm 1773, cụ Nguyễn Nghiễm (thân sinh của đại thi hào Nguyễn Du) đã đến thăm động. Nhìn toàn cảnh núi, động, sông nước, đồng ruộng, bầu trời ở đây đều phủ một màu xanh ngợp mắt nên cụ đã đặt cho động một cái tên rất đẹp và mộng mơ "Bích Ðộng" (có nghĩa là Ðộng Xanh). Ðến đây du khách sau khi viếng thăm chùa, con thuyền nhỏ sẽ đưa du khách đi quanh co trong hang núi huyền ảo. Bích Ðộng đã được mệnh danh là "Nam Thiên đệ nhị động" (động đẹp thứ nhì ở trời Nam). Từ Bích Ðộng du khách tiếp tục ngồi thuyền đi thăm Tam Cốc. Tam Cốc nghĩa là ba hang: hang Cả, hang Hai và hang Ba. Lúc thuyền luồn vào ba hang, du khách sẽ cảm thấy mát lạnh. Thạch nhũ từ trần hang rủ xuống lô nhô óng ánh như những khối châu ngọc kỳ ảo 1.2.2 Các điểm hấp dẫn về các loại hình văn hoá phi vật thể Các di sản văn hoá phi vật thể bao gồm nghệ thuật hát chèo, hát ca trù, hát xẩm, hát rằng thường, mo Mường và hàng loạt các lễ hội được tổ chức khắp nơi. Nghệ thuật hát chèo ở Ninh Bình có từ rất lâu. Lịch sử ghi lại bà tổ chèo Phạm Thị Trân đã được Vua Đinh Tiên Hoàng (thế kỷ thứ X) phong chức "Ưu bà" chuyên dạy hát chèo trong cung đình. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, nghệ thuật chèo ở Ninh Bình luôn được bảo tồn, phát triển và trở thành một trong những cái nôi chèo có tiếng của cả nước. Nhiều tích chèo, vở chèo như: Suý Vân, Tiếng gọi non sông...đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng yêu nghệ thuật. Một loại hình nghệ thuật lưu tồn nhiều năm qua là hát xẩm. Tiêu biểu là Nghệ sỹ ưu tú Hà Thị Cầu (Yên Phong, Yên Mô) nay đã gần 80 tuổi vẫn tay kéo nhị, chân dập phách, miệng nhai trầu và hát xẩm rất hay. Người Mường (Nho Quan) có hát Rằng thường, Mo Mường trong (lễ tang của người Mường), hát Đúm, hát Sắc Bùa (là cả một nghi lễ)  diễn ra  vào dịp mùa xuân với những bài hát rất đa dạng mang tính đặc thù, đặc trưng  của địa phương. Trong nhân dân còn lưu truyền hàng trăm câu chuyện, văn thơ về vua Đinh, vua Lê, về nhà Trần. Đặc biệt là những di sản văn hoá phi vật thể gắn liền với nhiều làng nghề truyền thống như đá mỹ nghệ, thêu ren, nghề chạm khắc gỗ, tạc tượng, trồng dâu nuôi tằm, se đay, chẻ cói, dệt chiếu... Và có biết bao nhiêu sự tích gắn liền với văn hoá dân gian truyền miệng có giá trị thẩm mỹ, có tính giáo dục cao mà ngày nay cần thống kê, sưu tầm, nghiên cứu để bảo tồn và phát huy về giá trị nhân văn, đậm đà bản sắc dân tộc. Việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá ở Ninh Bình là một sự nghiệp lớn với quy mô cả bề rộng và chiều sâu có tầm quan trọng cả trước mắt và lâu dài. 1.2.3 Lễ hội Ninh Bình là vùng đất có nhiều lễ hội truyền thống. Hàng năm có lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư được tổ chức từ 8-10/3 âm lịch do nhà nước (cấp tỉnh) tổ chức trang trọng gồm 2 nội dung: phần lễ có lễ rước nước sông Hoàng Long, lễ dâng hương, lễ tế cổ truyền tại đền Đinh, đền Lê và nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ. Phần hội có hội trại truyền thống Hoa Lư, thi mâm ngũ quả, thi thư pháp, biểu diễn văn nghệ, đấu vật, đấu bóng chuyền, đấu cờ tướng, chọi gà, bắn cung, bắn nỏ, thi người đẹp văn hoá Hoa Lư, thi giọng hát chèo hay Ninh Bình, múa rồng, thả rồng vàng, biểu diễn tích cờ lau tập trận, biểu diễn võ thuật, múa rối nước... Lễ hội đã thu hút hàng vạn lượt người trảy hội tưởng niệm tiền nhân, tham quan du lịch. Lễ hội Báo Bản ở làng Nộn Khê xã Yên Từ, (Yên Mô) diễn ra ngày 14 tháng Giêng hàng năm mang đậm nét văn hoá truyền thống tâm linh. Trong lễ hội này, con cháu tụ hội tế lễ Thành Hoàng báo công với tiền nhân- Những người xưa kia đã có công khai phá đất đai, xây dựng xóm làng. Trong văn tế có đoạn viết "Bí bồng phạt dịch, hữu khai tất tiền, quyết cư vĩnh diện, công đức bất bất thiên" (Cắt cỏ phạt gai, đầu tiên lập nên cơ sở chắc chắn, lâu dài, công đức ấy không bao giờ mất). Hàng năm còn có lễ hội Đền Dâu, lễ hội Đền Thái Vi và một số lễ hội khác có ảnh hưởng sâu sắc trong khu vực. Mùa xuân ở Ninh Bình còn có nhiều hội làng mang đậm tinh thần truyền thống uống nước nhớ nguồn, cầu may đầu xuân gắn liền với nhiều hoạt động văn hoá thể thao. 1.2.4 Đặc sản Nhất hưởng thiên kim (cơm cháy) Cơm cháy không có nghĩa là cháy cơm ở đáy nồi. Thực ra cơm cháy là một đặc sản của Ninh Bình mà hầu như du khách nào đến Ninh Bình cũng thử một lần cho biết, để rồi không bao giờ quên. Cơm cháy được làm từ cơm, thịt bò sào hoặc tim, cật lợn sào và rau sào là không thể thiếu như hành tây, nấm rơm, cà rốt và cà chua. Sau khi cơm được nấu kỹ, cơm được dàn mỏng ra thành hình tròn, để cho nguội và khô. Khi các miếng cơm khô đi thì bỏ chúng vào chảo dầu rán cho đến khi cơm cháy ròn, thơm và kêu xèo xèo. Đồng thời thịt bò thăn thái lát đem ướp gia vị và đem sào đều với các loại rau, sau đó đổ lên cơm cháy đã được rán ròn. Thế là quý khách có một món ăn tuyệt vời với đầy đủ hương vị sông, núi Ninh Bình. Rượu cần Nho Quan Rượu cần là loại rượu không qua chưng cất lửa. Người ta dùng gạo nếp xay (gạo nứt) nấu thành cơm trộn đều với men đem ủ vào trong ang hoặc vỏ sành từ 3 tháng trở lên mới được uống. Khi sắp uống, đem đổ nước vào ang. Nước đầu bao giờ cũng ngon và ngọt, đổ nước tiếp, rượu sẽ nhạt dần. Uống rượu cần không dùng chén, mà phải có các cần rượu làm bằng thân các cây trúc được thông rỗng bên trong cắm vào ang rượu. Rượu cần ngon hay không là do men làm có chất lượng không. Men rượu phải là vỏ cây mun cùng với củ giềng, củ gừng, lá ổi xanh theo tỷ lệ nhất định, đem giã vắt lấy nước rồi trộn với bột gạo nếp. Sau đó nặn thành bánh tròn bằng quả ổi nhỏ ủ vào trấu cho phồng lên, để khô khoảng 10 ngày mới dùng được. Rượu Lai Thành Lai Thành là miền quê nằm ở cực Nam huyện Kim Sơn, có nhiều đặc sản như gạo tám xoan, dự hương, nếp mùa, nếp hoa cau, chiếu cải.... Nhưng nổi tiếng hơn cả vẫn là thứ rượu được chưng cất từ gạo trồng trên chính đất này. Hạt gạo tròn, thơm, vỡ ra trắng như mầu sữa, thoang thoảng một vị hương dịu ngọt.... Mỗi năm, người Lai Thành đều giành một phần quỹ đất để trồng thứ lúa nếp truyền thống đó. Lúa nếp gặt về, phơi khô, sàng sẩy thật kỹ đưa vào chum bảo quản để nấu rượu. Ở đây đã có nhiều gia đình hàng chục đời theo nghề nấu rượu, có vài tộc họ chuyên làm men rượu và họ có những bí quyết riêng, nên men của họ dù có để hàng năm vẫn thơm và khô. Để có một loại men quý họ còn dùng cả một vài thứ dược liệu có tác dụng lưu thông khí huyết, diệt khuẩn, nên rượu Lai Thành, khi nấu ra càng để lâu rượu uống càng ngon, càng chắc. Nem Yên Mạc (Yên Mô) Nem chua Yên Mạc có từ lâu lắm rồi, nhưng hiện nay ở Yên Mạc số người làm được loại nem đặc biệt này không nhiều, bởi ngoài bí quyết nhà nghề đòi hỏi phải có niềm đam mê, yêu nghề. Quy trình chế biến phải tuân thủ nghiêm ngặt: nem làm ra bảo đảm phải sạch, thơm ngon, mầu sắc tươi, sợi thái phải đều, để hàng tuần vẫn dùng được và không bị biến chất. Nem Yên Mạc sau thời gian ủ men là ăn được ngay, để từ 5 đến 7 ngày mở ra sắc vẫn hồng, hương vị thơm và ngọt. Dù ăn ngay hay để lâu, khi gỡ nem ra vẫn rời, tơi cho lên đĩa gắp từng dúm nhỏ, lấy lá ổi tầu, lá sung, cùng rau thơm cuộn lại, chấm với nước mắm chanh, tỏi giã nhỏ thêm ớt hoặc hạt tiêu người ăn sẽ cảm nhận đủ vị ngọt, cay, thơm lan toả khắp cơ thể. Tái dê Hoa Lư Nhiều địa phương khác cũng có món Tái Dê nhưng món Tái Dê ở vùng cố đô Hoa Lư có hương vị riêng, không chỉ vì nó là đặc sản của vùng cố đô mà nó hấp dẫn bởi không gian, vị trí đến cách làm thịt dê, chế biến món ăn, gia vị... Người ta bắt dê được chăn thả trên những dải núi đá vôi quanh co uốn lượn của vùng cố đô Hoa Lư đem về làm lông, thui vàng, mổ ra ướp với lá hương nhu hoặc lá cúc tần hơn chục phút, rồi lọc lấy thịt (để cả da) đem nhúng vào nước sôi cho tái, sau đó thái nhỏ, mỏng đều (thái ngang xớ) Lấy vừng đã giã dập cùng các gia vị: xả, lá chanh, gừng ớt tỏi thái nhỏ, nước chanh, bột ngọt cho vào thịt dê tái đã thái tất cả chộn đều thành tái dê. Ăn tái dê nhất thiết phải có tương bần, và kèm theo lá sung, quả chuối xanh, khế, lá mơ… Tái dê là một món ăn có hương vị phong phú hấp dẫn bởi nó thơm ngon, chua ngọt, chát bùi, tươi mát, nhẹ nhàng thú vị. Tất cả quyện thành một hương vị riêng không giống món ăn nào khác. Du khách về đây thưởng thức đặc sản tái dê dù chỉ một lần cũng đủ để lại ấn tượng tốt đẹp khó quên. 1.3 Con người Ngoài đức tính cần cù chịu khó, Ninh Bình còn là mảnh đất sản sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước. Những danh nhân nổi tiếng nhất Ninh Bình có thể kể đến vua Đinh Tiên Hoàng, thái hậu Dương Vân Nga, thái phó Trương Hán Siêu, công chúa Phất Kim,… - Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng) sinh ngày Rằm tháng Hai,năm Giáp Thân (924) ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay là thôn Vân Bòng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) Thân phụ là Đinh Công Trứ, làm quan Thứ sử Hoan Châu (Nghệ An) thời Dương Đình Nghệ (930 – 937) đến thời Ngô Vương Quyền (939 – 944). Khoảng đầu những năm Sáu mươi của thế kỷ X, lúc bấy giờ trong nước loạn lạc, sử gọi là loạn Thập nhị sứ quân. Nhờ thông minh, có khí phách, lại có tài thao lược, Đinh Bộ Lĩnh, chính thức dựng cờ dấy nghĩa, mong lập nghiệp lớn, dân quanh vùng theo về rất đông. Biết lực lượng của mình còn mỏng, Đinh Bộ Lĩnh sang xin theo sứ quân Trần Lãm (Trần Minh Công) ở Bố Hải Khẩu. Thấy mình tuổi đã cao, sức yếu, Trần Lãm giao toàn bộ binh quyền cho Đinh Bộ Lĩnh. Bố Hải Khẩu là vùng duyên hải, đất rộng, người đông, nhưng không có thế hiểm yếu để dụng binh, Đinh Bộ Lĩnh quyết định đưa toàn quân ở về hội nhập với quân động Hoa Lư, chiếm giữ một vùng Hoa Lư hiểm yếu, chiêu mộ hào kiệt, hùng cứ một phương. Cuối năm 967 Đinh Bộ Lĩnh thừa cơ phát đại binh đánh lớn, chỉ trong khoảng hơn một năm, dẹp yên các sứ quân, bốn phương ca khúc khải hoàn, non sông thu về một mối, chấm dứt thời kỳ loạn mười hai sứ quân kéo dài hơn hai mươi năm trời. Năm Mậu Thìn (968)Vạn Thắng Vương lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt (nước Việt to lớn), đóng đô ở Hoa Lư, dựng cung điện, đặt triều nghi, “định trăm quan, đặt sáu quân, chế độ gần đủ”(toàn thư). Nước Nam ta được chính thống kể từ đây. Năm 969,vua Đinh phong cho con trưởng Đinh Khuông Liễn là Nam Việt Vương. Vào đêm Trung Thu năm Kỷ Mão (979), tức đêm 9-9-979 vua Đinh và con trưởng là Nam Việt Vương Đinh Liễn bị tên hậu cận, chức Chi hậu nội nhân là Đỗ Thích sát hại Đại thắng Minh Hoàng đế mất, được triều thần tôn là Tiên Hoàng đế, linh cữu táng ở Sơn Lăng – Núi Mã Yên ở Trường Yên, Hoa Lư Đại Thắng Minh Hoàng đế ở ngôi 12 năm (968-979), Thọ 56 tuổi. Đền thờ ông được dựng dưới chân núi Mã Yên ở Trường Yên, Hoa Lư, ngay trên nền cung điện cũ. - Thái Hậu Dương Vân Nga(?-1000) Thái hậu Dương Vân Nga Dương Vân Nga, sử cũ chép là Dương Hậu (Hoàng hậu họ Dương) Theo truyền ngôn, thân phụ bà là Dương Thế Hiển, quê ở thôn Nga My, xã Gia Thuỷ (huyện nho Quan) quê mẹ ở thôn Vân lung, xã Gia Vân ( huyện gia Viễn) tỉnh Ninh Bình, sinh thời, cha mẹ chỉ gọi bà là Dương Nương ( cô gái họ Dương), sau khi vào cung Hoa Lư, được gọi ghép tên làng cha với tên làng mẹ thành Vân – Nga. Nhân dân địa phương gọi là Dương Vân Nga. Đêm rằm Trung Thu năm 979, Đại Thắng Minh hoàng đế và Nam  Việt Vương Đinh Liễn bị Nội nhân Đỗ Thích giết hại. Triều thần tôn Vệ Vương Đinh Toàn lên ngôi Hoàng đế, tôn Dương Vân Nga làm Hoàng Thái Hậu . Đinh Toàn lúc này mới lên 6 tuổi. Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn được Dương Thái hậu chọn làm Nhiếp chính, sau lại tự xưng là Phó Vương. Định Quốc Công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền và Tướng quân Phạm Hạp ngờ Lê Hoàn chiếm ngôi nhà Đinh. Biết Kinh thành Hoa Lư có biến, phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn hơn một nghìn chiến thuyền quân Chiêm Thành tiến đánh nước ta. ở biên giới phía Bắc. giặc Tống lợi dụng tình hình đại Cồ Việt rối ren, đang chuẩn bị cất binh xâm lược nước ta. Thái Hậu Dương Vân Nga sai Lê Hoàn chọn tướng sĩ để chống cự, lại cử Phạm Cự Lượng làm Đại tướng tiên Phong. Hành động này của Dương thái Hậu bị các đại thần trung thành với nhà Đinh chống lại quyết liệt. Các nhà nho phong kiến và dư luận, kể cả sau này hết sức chỉ trích. Song, trong tình thế đất nước lúc đó hết sức cấp bách bởi nguy cơ xâm lược của nhà Tống đã  hiện ra trước mắt, Dương Thái Hậu đã có cái nhìn vô cùng sáng suốt, đặt lợi ích dân tộc và quốc gia lên trên lợi ích dòng tộc, chọn Lê Hoàn là một thống soái quân đội, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, có khả năng tập hợp và tài năng chỉ huy quân dân ta lúc đó đương đầu với quân xâm lược, loại bỏ được nguy cơ mất nước. Năm Nhâm Ngọ (982), Lê đại Hành lập Dương Vân Nga là Đại Thắng Minh Hoàng hậu, là một trong năm hoàng hậu của vua Lê. Năm Canh Tý (1000), Hoàng hậu Dương Vân Nga qua đời. Hiện nay, đền thờ Lê Hoàn ở Trường Yên (Hoa Lư), đền vua Đinh, vua Lê ở Trung Trữ (Ninh Giang, Hoa Lư) và đền làng Bách Cốc (xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) đều có tượng  Dương Vân Nga. Tượng bà ở đền Lê Đại Hành( trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình) gọi là Bảo Qua._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docF0177.doc
Tài liệu liên quan