Áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương mại quốc tế - Kinh nghiệm các nước và bài học đối với Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính tất yếu của đề tài Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Trong thế giới ngày càng phụ thuộc, gắn bó chặt chẽ và tác động lẫn nhau thì nhu cầu giao lưu văn hóa, hợp tác kinh tế nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau để cùng phát triển vì lợi ích dân tộ

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương mại quốc tế - Kinh nghiệm các nước và bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c càng trở nên cấp thiết. Với một môi trường quốc tế thuận lợi như vậy, Việt Nam đang từng bước đẩy nhanh và tiến sâu hơn vào quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển đất nước. Tuy nhiên quá trình hội nhập bên cạnh việc tạo ra những cơ hội phát triển cũng đạt ra cho các quốc gia những thách thức không nhỏ, đặc biệt là trong vấn đề cạnh tranh và một loạt các biện pháp phòng vệ đã được hình thành trong đó có biện pháp phi cạnh tranh đó là bán phá giá. Trong thời gian gần đây, các vụ kiện bán phá giá đang có xu hướng gia tăng trên thế giới, gây thiệt hại đáng kể cho ngành thương mại toàn cầu. Trước tình hình đó, hầu hết các nước đều xây dựng hệ thống văn bản pháp luật quy định về vấn đề này nhằm bảo vệ ngành sản xuất nội địa và bảo đảm hoạt động kinh doanh lành mạnh. Từ năm 2004, Việt Nam đã có Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành cũng như những Nghị định, Thông tư quy định chi tiết việc thi hành một số điều của Pháp lệnh, hướng dẫn cụ thể việc thực thi các vấn đề liên quan và cho đến nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chống bán phá giá của Việt Nam đã tương đối hoàn thiện. Nhờ đó Nhà nước đang từng bước quản lý có hiệu quả ngành sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế đất nước, tạo cho cộng đồng doanh nghiệp một môi trường kinh doanh an toàn, lành mạnh, giảm thiểu thiệt hại do các hoạt động bán phá giá hay trợ cấp gây nên. Điều này đặt ra yêu cầu thực tế và cấp bách là Việt Nam cần thiết phải có những biện pháp tổng thể và hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thuế chống bán phá giá cho Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Từ những lý do trên, đề tài: “Áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương mại quốc tế - Kinh nghiệm các nước và bài học đối với Việt Nam” được chọn để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thuế chống bán phá giá, Hiệp định chống bán phá giá của WTO cũng như thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới và Việt Nam trong thời gian qua trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, bài nghiên cứu rút ra những đánh giá cụ thể làm cơ sở cho việc đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng của đề tài là việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Phạm vi nghiên cứu: Về mặt không gian, đề tài tập trung nghiên cứu việc triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá ở một số nước như: Hoa Kỳ, EU, và ở Việt Nam. Về mặt thời gian, phần thực trạng được phân tích với các số liệu từ năm 2004 đến nay và định hướng cũng như giải pháp đến năm 2020. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong bài nghiên cứu là phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể được sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp và phương pháp thống kê. 5. Những đóng góp của đề tài - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về thuế chống bán phá giá - Tổng kết và đánh giá thực trạng hoạt động thực tiễn của việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại một số nước trên thế giới cũng như của Việt Nam. - Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thuế chống bán phá giá cho Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Kết cấu đề tài: Chương 1: Cơ sở lý luận của việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Chương 2: Thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới và ở Việt Nam. Chương 3: Các giải pháp liên quan tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 1.1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá 1.1.1. Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá Bán phá giá: Trong ngôn ngữ tiếng Việt, “bán phá giá” thường được hiểu là hành động bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá hiện hành của mặt hàng đó trên thị trường, làm cho những người bán hàng khác phải hạ giá bán. Như vậy ở đây có sự so sánh về giá trên cùng một thị trường. Tuy nhiên, khái niệm bán phá giá trong thương mại quốc tế hàm ý so sánh về giá ở hai thị trường khác nhau: thị trường nước nhập khẩu và thị trường nước xuất khẩu, mặc dù giá bán ở thị trường tiêu thụ (nước nhập khẩu) có thể không khác nhau, thậm chí có thể xảy ra trường hợp giá bán cao hơn giá hiện hành. Nhìn chung, các tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện tượng “bán phá giá” xảy ra khi hàng hoá xuất khẩu được bán sang một nước khác với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa (của nước xuất khẩu). Thuế chống bán phá giá: là một sắc thuế mà nước nhập khẩu đánh vào một mặt hàng nhập khẩu được bán phá giá với mục đích ngăn cản sự tiếp diễn của việc bán phá giá đó để tránh gây thiệt hại cho ngành sản xuất mặt hàng tương tự ở trong nước. 1.1.2. Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá Tác động của việc bán phá giá được đánh giá một cách đơn giản theo hình dưới đây. Trước khi có việc hàng của nước khác được bán vào thị trường một nước với giá thấp hơn giá hiện hành, cung và cầu mặt hàng đó cân bằng ở điểm E, với giá P1 và lượng tiêu thụ Q1, hoàn toàn là hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, khi có nguồn hàng nước ngoài bán với giá thấp hơn là P2, lượng tiêu thụ tăng lên Q2, trong đó lượng hàng sản xuất trong nước giảm xuống chỉ còn Q'2, lượng hàng nhập khẩu là Q2-Q'2. Đồ thị 1.1. Tác động của bán phá giá (Nguồn: Tác giả tự tổng hợp) Dx P2 P1 C Q2 Q'2 E D Sx SF P Q Q1 A B Từ hình này cho thấy thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một lượng bằng diện tích hình thang ABDE, trong khi đó thặng dư của nhà sản xuất trong nước giảm một lượng bằng diên tích hình thang ABCE. Như vậy có thể thấy tác động của việc bán phá giá là: gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nhưng lại mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Về tổng thể, toàn xã hội được lợi bằng diện tích tam giác CDE. Xuất phát từ thành kiến cố hữu, việc "bán phá giá" thường được coi là có tác động tiêu cực, thường vì lý do làm giảm lợi nhuận của những người bán hàng khác hoặc gây thiệt hại cho các nhà sản xuất cùng một mặt hàng của nước nhập khẩu, cho nên người ta thường tìm biện pháp để chống lại hành động này. Tuy nhiên, cần phải có sự phân tích thấu đáo bản chất của mọi trường hợp bán phá giá để xem có phải tất cả mọi hành động bán phá giá đều có hại hay không để từ đó có biện pháp đối phó thích ứng. Có các trường hợp bán phá giá sau đây: Thứ nhất, giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nước xuất khẩu nhưng vẫn cao hơn chi phí sản xuất; Thứ hai, giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên là thấp hơn giá thị trường trong nước. Trong trường hợp này còn có thể xảy ra một số tình huống khác nhau, tuỳ thuộc vào định nghĩa chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay chi phí "chi phí lề". * Trường hợp thứ nhất: giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nhưng cao hơn chi phí sản xuất. Trường hợp này có thể xảy ra khi một hãng chiếm vị thế độc quyền hoặc gần như độc quyền ở thị trường nội địa xuất phát từ điều kiện tự nhiên hoặc do được hưởng lợi thế từ hàng rào thương mại, nhưng phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu. Trong trường hợp này, vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, hãng đó sẽ lợi dụng vị thế độc quyền của mình để ấn định giá bán trong nước cao hơn, chừng nào thị trường đó còn chấp nhận được. Trong khi đó, do phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu, hãng đó chỉ có thể bán với giá đang tồn tại ở thị trường đó. Như vậy đã xảy ra việc bán phá giá như định nghĩa ở trên. Nếu việc bán phá giá này không làm giá ở thị trường nước nhập khẩu thay đổi (do cạnh tranh ở đây hoàn hảo), sẽ không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần thiết phải có biện pháp chống lại. Tuy nhiên, nếu việc bán phá giá này xảy ra với một lượng lớn và trong thời gian dài, làm giảm giá ở thị trường nước nhập khẩu, sẽ gây tác động đến lợi ích của nước nhập khẩu. Người tiêu dùng sẽ được lợi từ giá thấp, nhưng ngược lại các nhà sản xuất và công nhân trong ngành công nghiệp đó sẽ bị thiệt hại vì lợi nhuận và lương bị giảm. Lợi ích cuối cùng của nước nhập khẩu phụ thuộc vào việc lợi ích của người tiêu dùng có lớn hơn thiệt hại của người sản xuất và công nhân hay không. Ngay cả trong trường hợp về tổng thể nước nhập khẩu bị thiệt hại cũng khó có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa của hãng đó nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hãng đó có thể lập luận rằng do điều kiện thị trường của nước nhập khẩu là cạnh tranh, bất kỳ hãng nào cũng có thể tham gia thị trường đó và làm cho giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khắc phục thiệt hại, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp được phép khác như tự vệ. * Trường hợp thứ hai: Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất. Trước hết, để hiểu được ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá thấp hơn chi phí, cần phân biệt các loại chi phí. Thông thường, chi phí sản xuất được phân biệt theo 2 loại: chi phí bình quân (average cost) và chi phí lề (marginal cost). - Chi phí bình quân được tính bằng tổng tất cả các chi phí một hãng phải chịu chia cho lượng sản phẩm sản xuất ra. - Chi phí lề là chi phí phải bỏ ra để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm. Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có một phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính chi phí lề là yếu tố quyết định trong việc định giá của một hãng trong thời gian ngắn hạn khi phải chịu chi phí nhất định để thâm nhập một thị trường. Khi nhu cầu của thị trường bị giảm, kéo theo giá thị trường giảm, và các hãng theo đó cũng phải giảm giá bán. Nếu giá bán thấp hơn chi phí bình quân, hãng đó sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, khi một phần chi phí là cố định không phụ thuộc vào lượng sản xuất, mức độ lỗ sẽ phụ thuộc vào lượng hàng bán ra và vào mức chi phí lề. Nếu giá bán vẫn cao hơn chi phí lề, hãng vẫn tiếp tục bán với hy vọng sau một thời gian ngắn thị trường sẽ phục hồi, hoặc chỉ để giảm thiệt hại trước khi rút lui khỏi thị trường đó. Đây là sự phản ứng rất bình thường của các hãng đối với sự thay đổi của thị trường, kể cả các hãng nước ngoài và hãng nội địa. Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập khẩu là bất hợp lý vì như vậy sẽ đối xử không công bằng giữa hãng nội địa và hãng nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể áp dụng các chính sách hỗ trợ cho các hãng nội địa giảm nhẹ thiệt hại dưới hình thức các biện pháp tự vệ. * Cũng có những trường hợp các hãng bán với giá thấp hơn chi phí lề. Trong các trường hợp này không thể xem xét hành động của các hãng với mục tiêu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận mà vì các mục tiêu khác như: - Chiếm lĩnh thị trường. Một hãng nước ngoài, với mục tiêu thiết lập vị thế độc quyền ở thị trường nội địa, thực hiện chính sách bán sản phẩm của mình với giá thấp hơn chi phí lề cho đến khi đẩy hết các đối thủ cạnh tranh khác ra khỏi thị trường mặt hàng đó. Sau khi chiếm được thị trường, hãng đó lại nâng giá để khai thác lợi thế độc quyền của mình. Ngoài tác động làm cho các nhà sản xuất trong nước bị phá sản, hành động này còn làm giảm lợi ích của toàn xã hội như trong trường hợp độc quyền khác, và do vậy cần có biện pháp ngăn cản. - Cạnh tranh giành thị phần. Một trong những biện pháp marketing các hãng có thể sử dụng để cạnh tranh nhằm tăng thị phần trên một thị trường là bán với giá thấp hơn chi phí lề trong một thời gian ngắn với hy vọng lượng hàng bán tăng trong tương lai với giá bình thường sẽ bù đắp phần lỗ. Tóm lại, có rất nhiều trường hợp các hãng nước ngoài có thể xuất khẩu hàng của mình sang thị trường nước khác với giá thấp hơn giá nội địa và thậm chí thấp hơn cả chi phí sản xuất, nhưng không phải tất cả mọi trường hợp đều có thể gọi là "bán phá giá" để áp dụng các biện pháp ngăn cản. Trong nhiều trường hợp làm như vậy chỉ tạo ra một sự bảo hộ không cần thiết cho ngành sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu dùng cũng như của toàn xã hội. 1.1.3. Vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất Biện pháp được phép sử dụng trong chống bán phá là thuế theo tỷ lệ phần trăm. Tác động về mặt lợi ích đối với xã hội của biện pháp này được phân tích như sau: Khi một sắc thuế T được áp dụng, làm cho giá trong nước của sản phẩm tăng lên một lượng bằng T. Do vậy, với các yếu tố về cầu của thị trường nội địa đối với sản phẩm đó không đổi, lượng tiêu thụ giảm từ Q1 xuống Q'1, trong đó lượng hàng sản xuất trong nước tăng từ Q2 lên Q'2, lượng hàng nhập khẩu giảm xuống chỉ còn bằng Q'1-Q'2. Như vậy có thể thấy rõ tác động bảo hộ của thuế chống bán phái giá đối với sản xuất trong nước. Các nhà sản xuất trong nước được hưởng lợi rõ ràng khi giá trị thặng dư của họ được gia tăng thêm một lượng bằng diện tích tứ giác ACJG. P1 P2 T N M C H J Q1 Q'1 Q'2 Q2 G E B A Sx Dx SF SF+T P Q Đồ thị 1.2. Tác động của việc áp dụng thuế chống bán phá giá (Nguồn: Tác giả tự tổng hợp) Tuy nhiên, cùng với việc các nhà sản xuất được hưởng lợi thì người tiêu dùng lại bị thiệt hại: giá trị thặng dư của họ bị giảm một lượng bằng diện tích tứ giác ABHG. Nhà nước cũng được hưởng lợi khi ngân sách thu vào từ thuế nhập khẩu tăng một lượng bằng diện tích hình chữ nhật MNHJ. Thế nhưng, xét về tổng thể, toàn xã hội sẽ bị thiệt khi lợi ích mang lại cho các nhà sản xuất trong nước và Nhà nước không thể bù đắp cho thiệt hại về lợi ích của người tiêu dùng. Lượng thiệt hại của xã hội bằng diện tích tam giác CMJ cộng diện tích tam giác NBH. 1.2. Giới thiệu hiệp định chống bán phá giá của WTO Năm 1948 hệ thống thương mại đa biên được thiết lập với sự ra đời của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Trải qua gần một nửa thế kỷ, những qui định của GATT về thương mại đa biên, trong đó có qui định về chống bán phá giá (Điều VI) tỏ ra chưa chặt chẽ. Cùng với sự ra đời của WTO, Hiệp định Chống bán phá giá đã có những qui định chặt chẽ và chi tiết hơn nhiều so với Điều VI của GATT. Theo Hiệp định này, nước nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi: Hàng nhập khẩu bị bán phá giá; Gây thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất trong nước; và Cuộc điều tra phá giá được tiến hành theo đúng thủ tục. Hiệp định Chống bán phá giá của WTO qui định rất chi tiết nguyên tắc xác định phá giá, cách tính biên độ phá giá và thủ tục điều tra phá giá như sau: 1.2.1. Xác định việc bán phá giá a. Định nghĩa phá giá Một sản phẩm được coi là bị bán phá giá khi: - giá xuất khẩu sản phẩm đó thấp hơn giá có thể so sánh được trong điều kiện thương mại thông thường (giá trị thông thường). - giá của sản phẩm tương tự khi tiêu thụ ở thị trường nước xuất khẩu: WTO không đề cập đến trường hợp bán phá giá sản phẩm tương tự trong thị trường nội địa của một nước. Sản phẩm tương tự (SPTT): là sản phẩm giống hệt hoặc có các đặc tính gần giống với sản phẩm là đối tượng điều tra. Điều kiện thương mại thông thường: không có định nghĩa. Ví dụ: khi giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu thấp hơn giá thành sản xuất thì có thể coi như là không nằm trong điều kiện thương mại thông thường. b. Nguyên tắc xác định phá giá: Biên độ phá giá (BĐPG) = giá trị thông thường (GTTT) - giá xuất khẩu (GXK) BĐPG > 0 à có phá giá BĐPG < 0 à không phá giá Biên độ phá giá có thể tính bằng trị giá tuyệt đối hoặc theo phần trăm theo công thức: BĐPG = (GTTT-GXK) / GXK c. Tính biên độ phá giá Cách tính GTTT: Trường hợp không có giá nội địa của SPTT ở nước xuất khẩu do: - SPTT không được bán nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại thông thường; hoặc - có bán ở nước xuất khẩu nhưng trong điều kiện đặc biệt; hoặc - số lượng bán ra không đáng kể (< 5% số lượng SPTT bán ở nước nhập khẩu) thì” GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang nước thứ ba ; hoặc GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành chính, bán hàng,…) + lợi nhuận Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ một nước có nền kinh tế phi thị trường (giá bán hàng và giá nguyên liệu đầu vào do chính phủ ấn định) thì các qui tắc trên không được áp dụng để xác định GTTT. Cách tính GXK: GXK = giá mà nhà sản xuất nước ngoài bán SPTT cho nhà nhập khẩu đầu tiên. Trường hợp giá bán SPTT không tin cậy được do: - giao dịch xuất khẩu được thực hiện trong nội bộ công ty; hoặc - theo một thỏa thuận đền bù nào đó thì: GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lần đầu tiên cho một người mua độc lập ở nước nhập khẩu. So sánh GTTT và GXK: Để so sánh một cách công bằng GTTT và GXK, Hiệp định qui định nguyên tắc so sánh như sau: - So sánh hai giá này trong cùng điều kiện thương mại (cùng xuất xưởng/bán buôn/bán lẻ), thường lấy giá ở khâu xuất xưởng; - Tại cùng một thời điểm hoặc thời điểm càng gần nhau càng tốt. Việc so sánh GTTT và GXK là cả một quá trình tính toán rất phức tạp, vì không phải bao giờ cũng có sẵn mức giá xuất xưởng của GTTT và GXK mà chỉ có mức giá bán buôn hoặc bán lẻ của SPTT ở thị trường nước xuất khẩu (GTTT+) và giá tính thuế hải quan, giá hợp đồng hoặc giá bán buôn/bán lẻ SPTT của nhà nhập khẩu (GXK+) nên thường phải có một số điều chỉnh để có thể so sánh GTTT và GXK một cách công bằng. Điều chỉnh các chênh lệch trong: - Điều kiện bán hàng - Các loại thuế - Số lượng sản phẩm - Đặc tính vật lý của sản phẩm - Những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc so sánh hai giá Ví dụ: khi lấy giá bán SPTT cho một người mua độc lập ở nước nhập khẩu làm GXK+ thì GXK sẽ được xác định bằng cách điều chỉnh như sau: GXK = (GXK+) - (lợi nhuận) - (các loại thuế + chi phí phát sinh từ khâu nhập khẩu đến khâu bán hàng) Cách so sánh: - Trung bình GTTT so với trung bình GXK; hoặc - GTTT (từng giao dịch) so với GXK (từng giao dịch); hoặc - Trung bình GTTT so với GXK (từng giao dịch) 1.2.2. Xác định thiệt hại Định nghĩa thiệt hại: - Thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt hại hiện tại); hoặc - Nguy cơ gây thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt hại tương lai); hoặc - Làm trì trệ sự phát triển một ngành sản xuất trong nước (không có qui định cụ thể) Như vậy, để xác định thiệt hại cần xem xét các nhân tố sau: * Khối lượng hàng nhập khẩu bị bán phá giá: có tăng một cách đáng kể không? * Tác động của hàng nhập khẩu đó lên giá SPTT: Giá của hàng nhập khẩu đó: - Có rẻ hơn giá SPTT sản xuất ở nước nhập khẩu nhiều không? - Có làm sụt giá hoặc kìm giá SPTT ở thị trường nước nhập khẩu không? Việc khảo sát tác động của hàng nhập khẩu bị bán phá giá đối với một ngành sản xuất trong nước phải xem xét tất cả các yếu tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến ngành sản xuất đó, gồm những yếu tố sau: - Năng suất - Thị phần - Biên độ phá giá - Giá nội địa ở nước nhập khẩu - Suy giảm thực tế và nguy cơ suy giảm doanh số bán hàng - Số lượng hàng tồn kho - Sản lượng - Tình trạng thất nghiệp - Lương - Tác động tiêu cực đến luồng tiền - Huy động năng lực - Lợi nhuận - Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư - Đầu tư - Khả năng huy động vốn - Tốc độ tăng trưởng Khi xác định mối liên hệ giữa việc bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt hại cho một ngành sản xuất trong nước: cần tính đến những yếu tố khác (ngoài việc bán phá giá), nếu các yếu tố này gây thiệt hại cho ngành sản xuất đó thì không được quy thiệt hại của ngành sản xuất đó do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra. Nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước Để xác định nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước cần xem xét: - Tốc độ tăng nhập khẩu và khả năng tăng nhập khẩu trong tương lai. - Khả năng tăng năng lực xuất khẩu của nhà xuất khẩu dẫn đến khả năng tăng nhập khẩu. - Tình hình hàng nhập khẩu làm sụt giá SPTT ở nước nhập khẩu; - Số lượng tồn kho SPTT ở nước nhập khẩu 1.2.3. Ngành sản xuất trong nước Ngành sản xuất trong nước là toàn bộ các nhà sản xuất trong nước sản xuất ra SPTT hoặc một số nhà sản xuất có sản lượng chiếm đa số tổng sản lượng trong nước Có thể xuất hiện một số trường hợp đặc thù dẫn tới việc xác định cụ thể ngành sản xuất trong nước sau: - Nhà sản xuất và nhà xuất khẩu/nhập khẩu có liên quan với nhau: ngành sản xuất trong nước là các nhà sản xuất còn lại. - Lãnh thổ nước nhập khẩu bị chia thành nhiều thị trường riêng: các nhà sản xuất ở mỗi thị trường có thể coi là một ngành sản xuất riêng nếu: + Bán toàn bộ hoặc phần lớn sản phẩm liên quan ra thị trường đó; và + Nhu cầu của thị trường đó đối với SPTT nhập khẩu từ nước khác là không đáng kể. 1.2.4. Nộp đơn yêu cầu tiến hành điều tra chống phá giá Việc điều tra nhằm xác định sự tồn tại, mức độ và tác động của một sản phẩm bị bán phá giá sẽ được tiến hành khi: Có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước đề nghị điều tra phá giá. - Không có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước nhưng cơ quan điều tra có đầy đủ bằng chứng về việc bán phá giá, thiệt hại và mối liên hệ giữa hai yếu tố này. Đơn đề nghị điều tra phá giá phải bao gồm những thông tin sau: Tên người nộp đơn, số lượng và giá trị của sản phẩm tương tự do người nộp đơn sản xuất trong nước. Nếu đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất trong nước thì đơn phải nêu danh sách tất cả các nhà sản xuất sản phẩm tương tự trong nước và số lượng, giá trị của các sản phẩm tương tự do các nhà sản xuất này sản xuất. Mô tả sản phẩm đang nghi ngờ bị bán phá giá, xuất xứ hàng hóa, tên nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất nước ngoài. Giá sản phẩm liên quan khi tiêu thụ ở thị trường trong nước sản xuất hoặc nước xuất khẩu, hoặc giá mà sản phẩm liên quan được bán cho người mua độc lập đầu tiên ở nước nhập khẩu. Số lượng nhập khẩu của sản phẩm đang bị nghi ngờ phá giá, ảnh hưởng của việc nhập khẩu này lên giá sản phẩm tương tự ở thị trường nước nhập khẩu và ảnh hưởng đối với ngành sản xuất trong nước. Cơ quan điều tra sẽ xác minh tính chính xác và đầy đủ của các bằng chứng nêu trong đơn để xác định xem đã có đủ lý do hợp lệ để tiến hành điều tra chưa. Cơ quan điều tra sẽ không tiến hành điều tra phá giá trừ khi xác định được rằng đơn xin điều tra được nộp bởi ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự, nghĩa là: sản lượng sản xuất sản phẩm tương tự của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất trong nước phản đối đơn; và sản lượng của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của ngành sản xuất trong nước. Cuộc điều tra phá giá sẽ bị chấm dứt ngay lập tức nếu cơ quan điều tra xác định được rằng: biên độ phá giá nhỏ hơn 2% giá xuất khẩu; hoặc số lượng nhập khẩu hàng bị nghi ngờ bán phá giá từ một nước nhỏ hơn 3% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu, trừ trường hợp từng nước xuất khẩu có lượng hàng nhập khẩu dưới 3%, nhưng lượng hàng nhập khẩu của tất cả các nước xuất khẩu chiếm trên 7% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu. Thủ tục hải quan vẫn được tiến hành trong khi điều tra phá giá. Trừ trường hợp đặc biệt, một cuộc điều tra phá giá sẽ được tiến hành trong vòng 1 năm, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được quá 18 tháng. 1.2.5. Thu thập thông tin Cơ quan điều tra sẽ gửi thông báo cho tất cả các bên có quan tâm đến cuộc điều tra phá giá đề nghị cung cấp bằng văn bản mọi bằng chứng liên quan đến cuộc điều tra. Thời hạn trả lời câu hỏi điều tra là 30 ngày và có thể được gia hạn thêm 30 ngày hoặc lâu hơn nếu cần thiết. Ngay khi bắt đầu điều tra, cơ quan điều tra sẽ gửi nguyên văn đơn đề nghị điều tra cho các nhà xuất khẩu và cơ quan liên quan ở nước xuất khẩu và các bên quan tâm khi có yêu cầu. Trong suốt quá trình điều tra, cơ quan điều tra sẽ tạo đầy đủ điều kiện cho các bên quan tâm bảo vệ quyền lợi của mình, gặp các bên có quyền lợi đối nghịch để trao đổi quan điểm và đưa ra thỏa thuận. Các bên quan tâm có quyền trình bày các thông tin khác bằng miệng, nhưng sẽ chỉ được cơ quan điều tra lưu ý tới khi được soạn lại bằng văn bản và gửi cho các bên quan tâm khác. Bất kỳ thông tin nào có tính bí mật (chẳng hạn, bị đối thủ cạnh tranh lợi dụng hoặc gây tác hại cho người cung cấp thông tin) hoặc được các bên cung cấp một cách bí mật sẽ không được tiết lộ nếu không được bên cung cấp cho phép. Cơ quan điều tra có thể tiến hành điều tra ở nước ngoài nếu cần thiết để thẩm định các thông tin cung cấp hoặc để tìm hiểu thêm chi tiết với điều kiện được sự đồng ý của các công ty liên quan và thông báo cho đại diện chính phủ nước này và nước này không phản đối. Cơ quan điều tra sẽ tính biên độ phá giá riêng cho từng nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất sản phẩm đang bị điều tra. Trường hợp không tính được biên độ phá giá riêng do số nhà xuất khẩu, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc loại sản phẩm liên quan quá lớn thì cơ quan điều tra có thể giới hạn diện điều tra tới một số nhà sản xuất, xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc giới hạn ở một số loại sản phẩm nhất định bằng cách sử dụng mẫu thống kê, hoặc giới hạn ở tỷ lệ phần trăm lớn nhất của khối lượng hàng xuất khẩu từ nước liên quan. Việc chọn các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu hoặc loại sản phẩm để điều tra giới hạn sẽ được tiến hành trên cơ sở tham khảo ý kiến và có sự đồng ý của các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu có liên quan. Trong trường hợp cơ quan điều tra giới hạn diện điều tra như nêu trên, họ vẫn có thể tính biên độ phá giá riêng cho các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất mà ban đầu không được đưa vào diện điều tra nhưng đã cung cấp thông tin đúng thời hạn. Cơ quan điều tra sẽ tạo điều kiện cho người tiêu dùng sản phẩm đang điều tra hoặc tổ chức đại diện người tiêu dùng cung cấp thông tin liên quan đến cuộc điều tra nếu sản phẩm được bán lẻ rộng rãi. 1.2.6. Áp dụng biện pháp tạm thời Biện pháp tạm thời có thể được áp dụng dưới các hình thức: Thuế; hoặc Đặt cọc khoản tiền tương đương với khoản thuế chống bán phá giá dự kiến; hoặc Cho thông quan nhưng bảo lưu quyền đánh thuế và nêu rõ mức thuế nhập khẩu thông thường và mức thuế chống bán phá giá dự kiến sẽ áp dụng. Trên thực tế, biện pháp tạm thời hay được áp dụng nhất là đặt cọc. Điều kiện áp dụng biện pháp tạm thời: cơ quan điều tra tiến hành điều tra theo đúng thủ tục, gửi thông báo và tạo điều kiện cho các bên quan tâm cung cấp thông tin và trình bày ý kiến; có kết luận sơ bộ về việc xảy ra bán phá giá và dẫn đến thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước; và cơ quan điều tra kết luận rằng biện pháp tạm thời là cần thiết để ngăn chặn thiệt hại trong quá trình điều tra. Biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là 60 ngày sau khi bắt đầu điều tra và sẽ được duy trì càng ngắn càng tốt, không được quá 4 tháng hoặc trong trường hợp cần thiết thì cũng không được quá 6 tháng. Trường hợp cơ quan điều tra xác định được rằng khoản thuế thấp hơn biên độ phá giá đã đủ để khắc phục thiệt hại thì thời hạn áp dụng biện pháp tạm thời có thể là 6 tháng hoặc 9 tháng. 1.2.7. Cam kết giá Việc điều tra có thể ngừng hoặc kết thúc mà không cần áp dụng biện pháp tạm thời hoặc thuế chống bán phá giá nếu một nhà xuất khẩu tự nguyện cam kết tăng giá lên hoặc ngừng xuất khẩu phá giá vào khu vực thị trường đang điều tra và được cơ quan điều tra nhất trí rằng biện pháp này sẽ khắc phục được thiệt hại. Mức giá tăng không nhất thiết phải lớn hơn mà thường là nhỏ hơn biên độ phá giá nếu như đã đủ để khắc phục thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Cơ quan điều tra sẽ không chấp nhận cho các nhà xuất khẩu cam kết giá nếu thấy việc cam kết không khả thi, chẳng hạn như khi số lượng nhà xuất khẩu thực tế quá lớn. Trong trường hợp này, cơ quan điều tra sẽ giải thích rõ lý do không chấp nhận cam kết giá với các nhà xuất khẩu. Nếu cơ quan điều tra chấp nhận việc cam kết giá thì cuộc điều tra phá giá và thiệt hại vẫn có thể được hoàn tất nếu nhà xuất khẩu muốn như vậy và cơ quan điều tra đồng ý. Trong trường hợp này, nếu điều tra đi đến kết luận là không có phá giá hoặc không gây thiệt hại thì việc cam kết giá sẽ đương nhiên chấm dứt, trừ khi kết luận trên được rút ra trong bối cảnh đã cam kết giá rồi. Trường hợp này, cam kết giá sẽ được duy trì trong thời hạn hợp lý. Cơ quan điều tra có thể đề nghị nhà xuất khẩu cam kết giá nhưng nhà xuất khẩu không bắt buộc phải cam kết. Các cơ quan hữu quan của nước nhập khẩu có thể yêu cầu bất kỳ nhà xuất khẩu nào đã chấp nhận cam kết giá cung cấp thông tin định kỳ về việc thực hiện cam kết giá. Trường hợp nhà xuất khẩu vi phạm cam kết giá, cơ quan điều tra có thể lập tức áp dụng biện pháp tạm thời trên cơ sở các thông tin mà họ có (best information). 1.2.8. Áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá Việc quyết định có đánh thuế chống bán phá giá hay không và đánh thuế tương đương hay nhỏ hơn biên độ phá giá sẽ do cơ quan điều tra của nước nhập khẩu quyết định. Đối với một sản phẩm bị bán phá giá, cơ quan chức năng sẽ xác định biên độ phá giá riêng cho từng nhà xuất khẩu/sản xuất. Thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng cho từng trường hợp, trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu từ tất cả các nguồn được coi là gây thiệt hại, trừ trường hợp đã cam kết giá. Trị giá thuế chống bán phá giá áp dụng sẽ không được vượt quá biên độ phá giá. Có 2 hình thức thu thuế chống bán phá giá: - Kiểu tính thuế hồi tố (kiểu của Hoa Kỳ): việc tính mức thuế được căn cứ vào số liệu của thời điểm trước khi điều tra (6 tháng - 1 năm). Sau khi điều tra, cơ quan chức năng bắt đầu áp dụng một mức thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu yêu cầu đánh giá lại mức thuế (do giá xuất khẩu tăng lên) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xác định lại số tiền thuế phải nộp trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được yêu cầu. Sau đó mức thuế mới sẽ được áp dụng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày sau khi xác định lại mức thuế cuối cùng phải nộp. - Kiểu tính thuế ấn định (kiểu của EU): cơ quan điều tra lấy số liệu của thời điểm trước khi điều tra để tính biên độ phá giá và ấn định biên độ này cho cả quá trình áp dụng thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu đề nghị hoàn thuế với phần trị giá cao ._.hơn biên độ phá giá (do giá xuất khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được đề nghị hoàn thuế kèm theo đầy đủ bằng chứng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày kể từ khi ra quyết định hoàn thuế. Thu thuế với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra: Trường hợp số nhà xuất khẩu/sản xuất sản phẩm bán phá giá quá lớn, không tính riêng biên độ phá giá được thì cơ quan chức năng sẽ giới hạn việc điều tra ở một số nhà xuất khẩu/sản xuất nhất định trên cơ sở trao đổi với các nhà xuất khẩu/sản xuất liên quan. Mức thuế đối với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra không được vượt quá bình quân gia quyền BĐPG của các nhà xuất khẩu có điều tra. Sau mỗi đợt rà soát, hàng nhập khẩu thuộc diện không điều tra sẽ được hoàn lại khoản thuế bằng: Bình quân gia quyền BĐPG (cũ) - bình quân gia quyền BĐPG (mới) Khi có yêu cầu từ các nhà xuất khẩu không điều tra, cơ quan chức năng sẽ tính lại mức thuế bằng: Bình quân gia quyền GTTT (nhà XK có điều tra) - giá xuất khẩu (nhà XK không điều tra) Phải loại trừ các biên độ bằng không và biên độ tối thiểu (2%) khi tính bình quân gia quyền BĐPG. Hàng nhập khẩu mới, nghĩa là: chưa được xuất khẩu sang nước nhập khẩu trong giai đoạn điều tra - nhập khẩu từ nguồn không liên quan đến các nhà xuất khẩu đang bị đánh thuế chống bán phá giá sẽ được cơ quan chức năng rà soát để xác định BĐPG riêng và không bị đánh thuế chống bán phá giá trong thời gian tiến hành rà soát. Tuy nhiên, hàng nhập khẩu này có thể bị truy thu thuế kể từ ngày bắt đầu rà soát nếu cơ quan chức năng xác định được là có bán phá giá. 1.2.9. Truy thu thuế Các biện pháp tạm thời và thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng với sản phẩm được đưa ra bán sau thời điểm quyết định áp dụng biện pháp tạm thời (60 ngày sau khi điều tra) hoặc quyết định đánh thuế chống bán phá giá (1 năm - 18 tháng sau khi điều tra) có hiệu lực. Có thể truy thu thuế trong các trường hợp sau: (1) quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào thiệt hại vật chất; hoặc (2) quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào nguy cơ gây thiệt hại và thiệt hại thực tế đã có thể xảy ra nếu không áp dụng biện pháp tạm thời Trong các trường hợp này có thể truy thu thuế kể từ ngày bắt đầu áp dụng biện pháp tạm thời. (3) có thể truy thu thuế đến tận 90 ngày trước khi áp dụng biện pháp tạm thời nếu cơ quan chức năng xác định được: có cả một quá trình bán phá giá gây ra thiệt hại hoặc nhà nhập khẩu đã hoặc lẽ ra phải nhận thức được rằng nhà xuất khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá đó có thể gây thiệt hại; và thiệt hại bị gây ra bởi khối lượng rất lớn hàng nhập khẩu trong thời gian ngắn trước khi áp dụng biện pháp tạm thời (trường hợp này nhà nhập khẩu được phép trình bày ý kiến). Tuy nhiên, không được truy thu thuế với sản phẩm được nhập khẩu trước ngày bắt đầu điều tra. Phải hoàn thuế trong những trường hợp sau: Nếu mức thuế cuối cùng xác định được thấp hơn mức thuế tạm thời đã thu thì phải hoàn lại khoản chênh lệch cho nhà nhập khẩu, nếu cao hơn thì không được thu thêm. Nếu kết luận điều tra cuối cùng khẳng định việc bán phá giá sẽ có thể dẫn đến thiệt hại hoặc làm chậm sự phát triển của ngành sản xuất trong nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được đánh từ ngày ra kết luận điều tra cuối cùng và phải hoàn lại số tiền đặt cọc đã thu khi áp dụng biện pháp tạm thời. Nếu kết luận cuối cùng là không đánh thuế chống bán phá giá thì khoản tiền đặt cọc khi áp dụng biện pháp tạm thời sẽ được hoàn trả. 1.2.10. Rà soát Sau khi áp dụng thuế chống bán phá giá một thời gian, cơ quan chức năng sẽ tự tiến hành rà soát việc tiếp tục đánh thuế hoặc theo đề nghị của bất kỳ bên liên quan nào về vấn đề: - có cần tiếp tục đánh thuế không; hoặc - nếu ngừng đánh thuế hoặc thay đổi mức thuế thì có dẫn đến thiệt hại không. Cơ quan chức năng sẽ quyết định ngừng đánh thuế nếu, sau khi rà soát, xác định được rằng không cần thiết tiếp tục đánh thuế nữa. Về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng tối đa trong 5 năm. Trước khi hết thời hạn trên, cơ quan chức năng sẽ tự tiến hành rà soát hoặc theo đề nghị của đại diện ngành sản xuất trong nước. Nếu như sau khi rà soát (thường trong vòng 12 tháng), cơ quan chức năng xác định được là việc ngừng đánh thuế có thể dẫn đến thiệt hại thì có thể tiếp tục đánh thuế. 1.2.11. Thông báo công khai và giải thích các kết luận Khi cơ quan điều tra thấy rằng đã có đầy đủ bằng chứng để tiến hành điều tra phá giá thì họ sẽ gửi thông báo cho nước hoặc các nước có sản phẩm bị điều tra và các bên có quan tâm khác. Thông báo này gồm những thông tin sau: tên (các) nước xuất khẩu sản phẩm liên quan; ngày bắt đầu điều tra; căn cứ về hành vi phá giá ở trong đơn xin điều tra; tóm tắt các yếu tố được coi là cơ sở xác định thiệt hại; địa chỉ liên hệ để liên lạc với đại diện của các bên; thời hạn đưa ra quan điểm cho các bên. Cơ quan điều tra phải gửi thông báo trong các trường hợp sau: kết luận sơ bộ hay kết luận cuối cùng về việc có xảy ra phá giá hay không; nhà xuất khẩu chấp nhận cam kết giá và khi chấm dứt cam kết giá; áp dụng biện pháp tạm thời ; kết luận về cuộc điều tra và áp dụng, chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá. Mỗi một thông báo như nêu trên phải được soạn dưới dạng một báo cáo riêng, trong đó nêu đầy đủ các thông tin và kết luận về mọi khía cạnh cả về mặt pháp lý và mặt thực tế. Thông báo về việc áp dụng biện pháp tạm thời và biện pháp cuối cùng (thuế chống bán phá giá) phải giải thích rõ kết luận sơ bộ hay kết luận cuối cùng về phá giá và thiệt hại và phải bao gồm những thông tin như sau: - tên (các) nhà cung cấp sản phẩm hoặc trường hợp không có thông tin thì phải nêu tên nước cung cấp sản phẩm đó; - mô tả sản phẩm; - biên độ phá giá, giải thích phương pháp so sánh giá xuất khẩu với giá trị thông thường; chứng minh thiệt hại; - lý do chính dẫn đến kết luận sơ bộ, lý do chấp nhận hoặc phản đối các kiến nghị của các nhà xuất khẩu và nhập khẩu. 1.2.12. Cơ chế khiếu kiện độc lập Tất cả những thành viên WTO mà luật pháp quốc gia có qui định về biện pháp chống bán phá giá phải đảm bảo một cơ chế hành chính, trọng tài hoặc tòa án độc lập với cơ quan điều tra nhằm rà soát lại các quyết định hành chính liên quan đến việc ra kết luận cuối cùng về việc có áp dụng thuế chống bán phá giá hay không và việc điều chỉnh thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá. 1.2.13. Chống bán phá giá thay mặt nước thứ ba Một nước thứ ba có thể nộp đơn đề nghị điều tra chống bán phá giá ở nước khác. Đơn này phải nêu các thông tin về giá để chứng minh rằng hàng nhập khẩu bị bán phá giá và gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước liên quan ở nước thứ ba. Chính phủ nước thứ ba phải tạo mọi điều kiện cho cơ quan điều tra của nước nhập khẩu điều tra các thông tin cần thiết. Khi xử lý đơn của nước thứ ba, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu sẽ xem xét tác động của việc bán phá giá nêu trong đơn tới toàn bộ ngành sản xuất liên quan của nước thứ ba, nghĩa là không chỉ đánh giá thiệt hại do tác động của việc bán phá giá đối với xuất khẩu của ngành đó sang nước nhập khẩu hay thậm chí đối với toàn bộ xuất khẩu của ngành đó. Việc quyết định có tiến hành điều tra hay không sẽ do nước nhập khẩu quyết định. 1.2.14. Thành viên đang phát triển Các thành viên phát triển của WTO sẽ lưu ý đến tình hình riêng của thành viên đang phát triển khi xem xét áp dụng thuế chống bán phá giá. 1.2.15. Ủy ban chống bán phá giá Ủy ban chống bán phá giá bao gồm đại diện các thành viên WTO được thành lập nhằm thực hiện các nghĩa vụ qui định trong Hiệp định này và tạo điều kiện cho các thành viên trao đổi với nhau về các vấn đề liên quan đến việc thực hiện Hiệp định Chống bán phá giá. Ủy ban này họp ít nhất 2 lần mỗi năm, Ban Thư ký WTO sẽ thực hiện chức năng thư ký cho Ủy ban này. Các thành viên WTO phải thông báo cho Ủy ban chống bán phá giá: - Ngay lập tức khi họ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời hay lâu dài; - Nửa năm một lần (theo mẫu qui định) về các biện pháp chống bán phá giá mà họ áp dụng trong vòng 6 tháng trước đấy. Các thành viên có thể tham khảo thông báo này tại Ban Thư ký WTO; - Cơ quan nào ở nước mình có thẩm quyền điều tra phá giá, luật qui định thủ tục điều tra phá giá của nước mình. 1.2.16. Trao đổi và giải quyết tranh chấp Các qui định trong Biên bản về Giải quyết Tranh chấp (DSU) của WTO sẽ được áp dụng cho việc trao đổi và giải quyết tranh chấp liên quan đến Hiệp định chống bán phá giá của WTO, trừ khi có qui định khác đi. 1.2.17. Điều khoản cuối cùng Các thành viên WTO chỉ được áp dụng biện pháp đối phó với hàng xuất khẩu bị bán phá giá từ các nước thành viên khác theo qui định của GATT 1994 và được diễn giải bởi Hiệp định này. Các Thành viên cũng phải đảm bảo luật, các qui định và các thủ tục hành chính về chống bán phá giá của mình phù hợp với Hiệp định này. 1.3. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Ngày nay, cùng với quá trình phát triển kinh tế là việc gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tự do hoá thương mại và liên kết kinh tế đang là trào lưu nổi bật thì hội nhập kinh tế quốc tế không những ngày càng trở thành một xu thế khách quan mà còn đóng vai trò là một công cụ hữu hiệu để phát triển nhanh và bền vững nếu được nắm bắt và vận dụng một cách tích cực. Xu hướng chung hiện nay của các quốc gia và các tổ chức kinh tế-tài chính-thương mại quốc tế là tăng cường mở cửa, bang giao kinh tế thông qua đàm phán cắt giảm thuế quan, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cản trở thương mại, các hình thức cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại, mở cửa các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh để tạo thuận lợi cho thương mại, v.v… Phù hợp với tiến trình đổi mới và đứng trước những đòi hỏi cấp bách của tình hình quốc tế và kinh tế trong nước, Đại hội Đảng lần thứ VII đã chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới của nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) đã quyết định “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII (29/12/1997) đã nêu nguyên tắc hội nhập quốc tế của ta là “tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế” và nhấn mạnh nhiệm vụ “chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp, và nhất là các sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và quốc tế”. Tháng 4/2001, Đại hội Đảng IX đã tiếp tục khẳng định đường lối hội nhập và phát triển kinh tế phù hợp xu thế toàn cầu hoá với mục tiêu: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị tháng 11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế cũng đưa ra mục tiêu: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa…” Với chủ trương, đường lối hội nhập của Đảng và Nhà nước nói trên, sau khi khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF, WB năm 1992, ngày 25/7/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và ký Nghị định thư tham gia Hiệp định CEPT/AFTA, từ 1/1/1996 đã bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên AFTA. Việt Nam cũng là một trong số 25 thành viên sáng lập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) vào tháng 3/1996, và tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình dương (APEC) từ tháng 11/1998. Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa kỳ được ký kết vào ngày13/7/2000, tiếp đó từ ngày 11/12/2001 có hiệu lực đã đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực chuẩn bị đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Kể từ khi chính thức nộp đơn xin gia nhập WTO ngày 4/1/1995, ta đã chủ động và khẩn trương tiến hành những bước đi cần thiết để triển khai quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức này. Cho tới nay, Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO đã tổ chức thành công 5 phiên họp với nội dung chính là làm rõ cơ chế, chính sách kinh tế-thương mại, cơ bản kết thúc giai đoạn minh bạch hóa để bắt đầu bước sang giai đoạn mới quan trọng - đàm phán thực chất về mở cửa thị trường. Cắt giảm thuế quan là một trong những nội dung quan trọng nhất của mở cửa thị trường hàng hóa. Tuy nhiên, việc mở cửa thị trường thông qua các cam kết giảm thuế sẽ không có ý nghĩa nếu như các hàng rào phi thuế quan vẫn được áp dụng. Một mặt hàng được cam kết giảm thuế từ 100% xuống thậm chí 0% vẫn không thể kinh doanh được nếu áp đặt một lệnh cấm nhập khẩu. Chính vì thế, loại bỏ hàng rào phi thuế quan luôn là yêu cầu đồng hành với cắt giảm thuế quan trong mọi hình thức đàm phán mở cửa thị trường hàng hoá một cách thực chất. 1.3.1. Cam kết trong ASEAN Hiệp định CEPT quy định rằng các biện pháp hạn chế định lượng (cấm, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu) phải được dỡ bỏ ngay khi thuế suất của một mặt hàng thuộc diện CEPT được giảm xuống thấp hơn hoặc bằng 20%. Các hàng rào phi thuế khác sẽ phải loại bỏ dần trong vòng 5 năm tiếp theo, nhưng không muộn hơn 1/1/2006. 1.3.2. Cam kết trong APEC APEC yêu cầu các thành viên phải tuân thủ nghiêm túc những quy định của WTO, giảm dần các biện pháp phi thuế quan và đảm bảo rằng các biện pháp phi thuế quan phải luôn được công bố rõ ràng. 1.3.3. Cam kết với IMF/World Bank Việt nam đã cam kết xoá bỏ hàng rào phi thuế đối với 17 mặt hàng. Các hàng rào phi thuế phải xóa bỏ gồm: hạn chế định lượng nhập khẩu và đầu mối nhập khẩu. Từ đầu năm 2000, ta đã chủ động thuế hóa và bãi bỏ hạn chế định lượng nhập khẩu đối với 7 nhóm hàng trong danh mục trên (ban hành kèm theo Quyết định 242/1999/QĐ-TTg ngày 30/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ), bao gồm xút lỏng, hàng tiêu dùng bằng sành sứ và thủy tinh, bao bì nhựa thành phẩm, chất hóa dẻo DOP, đồ sứ vệ sinh, quạt điện, xe đạp. Đến năm 2001, ta tiếp tục công bố thời hạn xóa bỏ hạn chế định lượng và thuế hoá đối với danh sách 6 nhóm hàng (Công văn số 0992/TM-KH ngày 20/3/2001), bao gồm: dầu thực vật tinh chế dạng lỏng, xi măng - clinker, giấy các loại, gạch ốp lát ceramic và granit, kính xây dựng, và một số chủng loại thép. 1.3.4. Đàm phán gia nhập WTO WTO có những quy định hết sức chi tiết về nhiều biện pháp phi thuế quan. WTO quy định rằng các nước thành viên không được áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu. WTO yêu cầu các thành viên mặc dù được tiếp tục duy trì doanh nghiệp thương mại nhà nước (tức là các doanh nghiệp được Nhà nước giành cho những đặc quyền thương mại, không phân biệt hình thức sở hữu) song phải cam kết các hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp này phù hợp với các nguyên tắc chung về đối xử không phân biệt với các doanh nghiệp khác và phải hoạt động hoàn toàn dựa trên tiêu chí thương mại. Theo Hiệp định về Xác định trị giá hải quan của WTO, các nước phải sử dụng trị giá giao dịch làm cơ sở để xác định trị giá hải quan và không được phép áp đặt trị giá một cách tuỳ tiện như sử dụng biện pháp áp giá nhập khẩu tối thiểu để tính thuế. Ngoài ra, WTO không cho phép thu các khoản phí và phụ thu vì các mục đích bảo hộ hay thu ngân sách. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia hoặc gây hạn chế hay bóp méo thương mại như “quy định về tỉ lệ nội địa hoá”, “hạn chế tiếp cận ngoại hối”, “yêu cầu tự đảm bảo cân đối ngoại tệ” bị WTO cấm áp dụng và yêu cầu các nước đang sử dụng phải nhanh chóng xoá bỏ, v.v… Như vậy, Việt nam sẽ không được phép duy trì các biện pháp phi thuế mà không có lý do chính đáng theo các quy định của WTO, APEC, ASEAN/AFTA, IMF/WB. Điều này đồng nghĩa với việc các biện pháp “cấm nhập khẩu” không phù hợp với WTO hoặc tương tự như “tạm ngừng nhập khẩu” hay “chưa cho phép nhập khẩu, kể cả các biện pháp mang tính chất hạn ngạch kiểu “chỉ tiêu định hướng” dần dần phải loại bỏ. Các ngành hàng xi măng, thuốc lá, ô tô, xe máy, xăng dầu, v.v… lâu nay được bảo hộ, trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua những hạn chế số lượng nhập khẩu này sẽ phải đối diện với những khó khăn gay gắt do phải cạnh tranh trên thương trường bằng chính nội lực của mình. Tuy nhiên, các ngành sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có điều kiện giảm chi phí kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh, đồng thời các nhà xuất khẩu của Việt Nam cũng được đảm bảo chắc chắn hơn về thị trường xuất khẩu. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 2.1. Tổng quan về tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới 2.1.1. Tổng quan Năm 1995, vòng đàm phán Uruguay kết thúc với sự ra đời của WTO và một số các hiệp định liên quan đến thương mại quốc tế, trong đó có Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Đây chính là cơ sở pháp luật quốc tế mà các nước thành viên WTO phải tuân theo khi thực thi và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. WTO đã thành lập một Uỷ ban về chống bán phá giá (Anti-dumping Committee) để kiểm soát việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước thành viên, kịp thời cung cấp những thông tin cần thiết cho các nước thành viên. Các nước chưa là thành viên WTO cũng được khuyến nghị nên thực hiện theo quy định của WTO, trong đó có quy định liên quan đến chống bán phá giá. Kể từ khi WTO ra đời, tính đến thời điểm cuối năm 2001, trên thế giới đã có tất cả 2132 cuộc điều tra về chống bán phá giá và có tất cả là 1066 lần áp dụng thuế chống bán phá giá (chiếm 50% tổng số cuộc điều tra). Điều này thể hiện, không phải tất cả các cuộc điều tra về chống bán phá giá đều có kết luận dẫn đến việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Các loại mặt hàng chịu thuế chống bán phá giá thường là các sản phẩm dệt may, giầy dép, sắt thép, kim loại và một số sản phẩm công nghiệp cơ khí, v.v… Trên thực tế, các nước áp dụng thuế chống bán phá giá thường bị nước xuất khẩu hàng hoá là đối tượng chịu thuế chống bán phá giá khởi kiện đến WTO, cụ thể là Cơ quan Giải quyết tranh chấp. Các vụ việc giải quyết tranh chấp về việc chống bán phá giá luôn là vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi. Đôi khi, kết quả thường dẫn đến các hành vi trả đũa trong thương mại, gây ra rất nhiều mâu thuẫn, ảnh hưởng xấu đến tình hình thương mại chung trên thế giới. Vì vậy, các quốc gia thường rất thận trọng khi quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá vào nước mình. Trong thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới, đã có nhiều nước áp dụng biện pháp này trước khi WTO ra đời. Căn cứ thống kê từ năm 1990, việc áp dụng thuế chống bán phá giá hiện nay luôn thể hiện sự tiến bộ và xu hướng phát triển của các nước đang phát triển so với các nước phát triển. Điều này được thể hiện bằng biểu đồ dưới đây: Đồ thị 2.1. Xu hướng áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước phát triển và đang phát triển (Nguồn: báo cáo của Ban Thư ký WTO và Uỷ ban chống bán phá giá WTO) Một điểm cần quan tâm là không chỉ có các nước phát triển áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước đang phát triển và ngược lại. Các nước phát triển còn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước phát triển khác và điều này cũng xảy ra tương tự đối với các nước đang phát triển. 2.1.2. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước phát triển Kể từ năm 1995 cho đến cuối năm 2001, có 12 nước phát triển đã tiến hành 899 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 502 lần áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá. Cũng trong thời gian đó, hàng hoá xuất khẩu của 32 nước phát triển lại là đối tượng của 745 cuộc điều tra chống bán phá giá và chịu 430 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu. Trong số các nước phát triển, Hoa Kỳ và EU luôn đi đầu trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, nhưng cũng không tránh khỏi là đối tượng bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước khác. Hoa Kỳ đã tiến hành 255 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 169 lần áp dụng thuế chống bán phá giá, tuy nhiên chỉ 57 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. EU cũng gần tương đương Hoa Kỳ với 246 cuộc điều tra và có 153 lần áp dụng thuế chống bán phá giá và cũng chỉ 18 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Hàn quốc cũng 28 lần áp dụng thuế chống phá giá và 70 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Nhật Bản thì tương đối đặc biệt khi chỉ áp dụng thuế chống bán phá giá có 1 lần nhưng 60 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. 2.1.3. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước đang phát triển Trong giai đoạn từ năm 1995 đến cuối năm 2001, có 23 nước đang phát triển đã tiến hành 946 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 564 lần áp dụng thuế chống bán phá giá. Cũng trong thời gian đó, hàng hóa xuất khẩu của 60 nước đang phát triển là đối tượng của 1100 cuộc điều tra chống bán phá giá và 736 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu. Ấn Độ là nước đang phát triển đi đầu trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, đã tiến hành 248 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 155 lần áp dụng thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, Ấn Độ chỉ là đối tượng 37 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Achentina và Braxin cũng nhiều lần áp dụng thuế chống phá giá tương ứng với 97 và 51 lần. Họ cũng là đối tượng tương ứng 7 và 45 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Trung Quốc thì tương đối đặc biệt khi chưa áp dụng thuế chống bán phá giá lần nào nhưng bị áp dụng thuế chống bán phá giá tới 178 lần. Đây có thể được coi là quốc gia "đi đầu" trong việc bán phá giá hàng hóa sang các nước khác. Tất nhiên, một lý do quan trọng gây bất lợi cho các nhà xuất khẩu của Trung quốc là nhiều nước phát triển chưa coi nền kinh tế Trung quốc là kinh tế thị trường, do đó dễ dẫn tới kết luận là hàng xuất khẩu bị bán phá giá, mặc dù trên thực tế có thể không phải như vậy. 2.2. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ 2.2.1. Văn bản pháp quy về chống bán phá giá của Hoa Kỳ Chính sách chống phá giá của Hoa Kỳ được thể hiện thông qua Luật chống bán phá giá năm 1921. Kho bạc Nhà nước Hoa Kỳ lúc đó được giao nhiệm vụ điều tra các hành vi bán phá giá và ấn định mức thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, nhiệm vụ này đã được chuyển giao cho Bộ Thương mại Hoa Kỳ đảm nhận sau khi Nghị viện Hoa kỳ thông qua một đạo luật mới về thực thi hiệp định thương mại (Trade Agreement Act), trong đó có quy định liên quan đến việc điều tra, áp dụng thuế chống phá giá vào năm 1979. Sau khi WTO ra đời trên cơ sở kết quả đàm phán của vòng Uruguay vào năm 1995, các quy định của Hoa Kỳ về chống bán phá giá phải tuân thủ theo Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Trên cơ sở đó, Hoa Kỳ đã ban hành Quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp vào năm 1997, trong đó hướng dẫn tiến trình thực hiện về điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá. 2.2.2. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá Hoa Kỳ quy định việc áp dụng thuế chống bán phá giá phải dựa vào kết quả của quá trình điều tra xem việc bán phá giá hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ có gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất trong nước hay không. Không thể tùy tiện áp dụng thuế chống bán phá giá khi chưa có điều tra và việc áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ phải tuân thủ quy định của WTO. a. Cơ sở tiến hành điều tra Việc tiến hành điều tra chống phá giá thường bắt đầu trên cơ sở tổ chức hoặc cá nhân đại diện cho ngành sản xuất mặt hàng liên quan trong nước nộp đơn đề nghị điều tra phá đối với một mặt hàng nhập khẩu. Đơn này được coi là hợp lệ nếu sản lượng của các nhà sản xuất ủng hộ đơn chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng của toàn ngành sản xuất mặt hàng liên quan trong nước và lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất phản đối đơn. Đơn đề nghị điều tra phá giá sẽ được gửi đồng thời đến hai cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra chống bán phá giá của Hoa Kỳ là Bộ Thương mại (Department of Commerce - DOC) và Hội đồng Thương mại Quốc tế (International Trade Commission - ITC). Trong trường hợp không có đơn của tổ chức hoặc cá nhân trong nước, DOC và ITC vẫn có thể tiến hành điều tra nếu như có bằng chứng rõ ràng chứng minh được hành vi bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ gây ra thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, trường hợp này rất hiếm khi xảy ra. b. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá Sau 20 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị điều tra phá giá, DOC sẽ ra quyết định nêu rõ có tiến hành điều tra hay không và lý do cụ thể dẫn tới quyết định này. Trong trường hợp đặc biệt, thời hạn ra quyết định trên có thể là 40 ngày kể từ ngày nhận được đơn. Hoa Kỳ quy định DOC là cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành điều tra về việc bán phá giá. Còn ITC chịu trách nhiệm điều tra về mức độ thiệt hại xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra đối với ngành sản xuất trong nước và mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá với thiệt hại hoặc nguy cơ xảy ra thiệt hại. Sau 45 ngày (hoặc trong trường hợp đặc biệt là 65 ngày) kể từ ngày nhận được đơn, ITC sẽ có đánh giá sơ bộ (preliminary determination) về thiệt hại xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra đối với ngành sản xuất trong nước theo như những thông tin được cung cấp trong đơn. Nếu đánh giá sơ bộ cho thấy không có thiệt hại hay nguy cơ thiệt hại thì ITC sẽ không tiếp tục tiến hành điều tra nữa. Sau 115 ngày kể từ ngày ITC có đánh giá sơ bộ trên, DOC cũng sẽ có đánh giá sơ bộ về việc có hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra theo đề nghị trong đơn hay không. Nếu đánh giá sơ bộ cho thấy có hành vi bán phá giá thì DOC có thể áp dụng biện pháp tạm thời đối với hàng hóa thuộc đối tượng điều tra để hạn chế thiệt hại xảy ra cho ngành sản xuất trong nước. Trong trường hợp đánh giá sơ bộ cho thấy không có hành vi bán phá giá thì DOC có thể ra quyết định chấm dứt điều tra. Việc đánh giá sơ bộ của DOC và ITC tiếp tục được làm sáng tỏ thông qua các buổi tham vấn giữa các bên liên quan đến quá trình điều tra do hai cơ quan trên tổ chức. Các buổi tham vấn được tổ chức nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên tham gia và có liên quan đến quá trình điều tra. Các bên có quyền đưa ra và bảo vệ ý kiến của mình nhằm hạn chế tối thiểu thiệt hại trong nước có thể xảy ra khi có hành vi bán phá giá hay thiệt hại của phía nước ngoài do bị áp dụng thuế chống bán phá giá gây ra. Sau 235 ngày kể từ ngày có hồ sơ yêu cầu tiến hành điều tra, DOC sẽ có đánh giá cuối cùng (final determination) khẳng định việc bán phá giá hàng nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra và chỉ rõ biên độ phá giá (dumping margin) cùng các số liệu liên quan như giá trị thông thường (GTTT), giá xuất khẩu (GXK), v.v… Sau 280 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị điều tra phá giá, ITC sẽ có đánh giá cuối cùng khẳng định có thiệt hại hay nguy cơ gây ra thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước do bán phá giá hàng nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra gây ra hay không. c. Kết thúc điều tra Để kết thúc quá trình điều tra phá giá, sau khi cân nhắc đánh giá cuối cùng của DOC, ITC sẽ ra một trong hai quyết định như sau: áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra với một mức thuế suất cụ thể; hoặc không áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra. Các bản đánh giá cuối cùng của hai cơ quan DOC và ITC và quyết định trên của ITC sẽ được công bố công khai cho tất cả các bên liên quan được biết. 2.2.3. Nguyên tắc xác định giá trị thông thường và giá xuất khẩu Trên thực tế, không thể phủ nhận vai trò đề xuất chính của Hoa Kỳ trong quá trình đàm phán đa phương xây dựng các qui định về chống bán phá giá, mà cụ thể ở đây là Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Do vậy, việc xác định giá trị thông thường và giá xuất khẩu của Hoa Kỳ cũng phù hợp theo quy định của WTO. 2.2.4. Áp dụng thuế chống bán phá giá a. Thuế tạm thời Trên cơ sở đánh giá sơ bộ cho thấy có hành vi bán phá giá hàng hoá nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra, DOC sẽ áp dụng biện pháp tạm thời đối với hàng hoá nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra như thuế tạm thời hay ký quỹ một khoản tiền nhất định đủ để đảm bảo triệt tiêu việc bán phá giá, đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh với nhà sản xuất trong nước sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp. Thời hạn áp dụng các biện pháp tạm thời không được vượt quá 4 tháng. Trong trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài thời hạn áp dụng trên nhưng tổng thời gian áp dụng không được vượt quá 6 tháng. Trong trường hợp đã áp dụng mức thuế tạm thời cao hơn so với mức thuế chống bán phá giá được áp dụng sau khi kết thúc điều tra, phần chênh lệch thuế đó sẽ được hoàn trả lại cho nhà nhập khẩu hàng hoá thuộc đối tượng áp dụng thuế chống bán phá giá này. Đôi khi, thuế tạm thời có thể được hoàn trả lại toàn bộ nếu cơ quan điều tra ra kết luận không áp dụng thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, việc truy thu thuế sẽ không được phép nếu mức thuế tạm thời được áp dụng thấp hơn so với mức thuế chống bán phá giá được áp dụng sau khi kết thúc điều tra. b. Tính thuế và thu thuế chống bán phá giá Quy định của Hoa Kỳ về vấn đề này đều tuân thủ theo quy định của WTO. c. Rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá Hoa Kỳ quy định DOC là cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá sau khi đã áp dụng được 5 năm với trình tự thủ tục được quy định như áp dụng thuế chống bán phá giá ban đầu. Nội dung của việc rà soát này là xem xét hiệu quả của việc áp dụng thuế chống bán phá giá để có thể đưa ra một trong ba quyết định như sau: (i) Giữ nguyên mức thuế chống bán phá giá đã áp dụng; (ii) Giảm mức thuế chống bán phá giá đã áp dụng; (iii) Bãi bỏ thuế chống bán phá giá đã áp dụng. Trong trường hợp vẫn tiếp tục áp dụng thuế chống bán phá giá, DOC sẽ tiếp tục tiến hành rà soát trong 5 năm tiếp theo. 2.2.5. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ Các cuộc điều tra phá giá hàng năm của Hoa Kỳ ngày càng giảm từ khi Hiệp định chống bán phá giá._.áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001. 3.2.2. Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước Áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ tạo ra sự bảo hộ cao hơn đối với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở trong nước. Mức bảo hộ tăng lên bằng biên độ phá giá, hay là sự chênh lệch giữa giá bán của sản phẩm đó tại nước xuất khẩu và giá xuất khẩu (GTTT - GXK). Do đó, nhà sản xuất hàng hóa tương tự ở trong nước không thể bán sản phẩm của mình ở mức giá cao hơn giá bán của sản phẩm đó ở nước xuất khẩu cộng thêm các chi phí liên quan tới xuất khẩu như bảo hiểm, vận tải, môi giới, v.v… nhân với thuế nhập khẩu. Thực tế cho thấy chỉ có các ngành sản xuất có qui mô đáng kể, có sự liên kết khá chặt chẽ, có sức mạnh chính trị nhất định mới có thể phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ để áp dụng thành công thuế chống bán phá giá. Như vậy, trong ngắn hạn,việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ góp phần duy trì sản xuất của những ngành đó, qua đó tạo ra sự ổn định chính trị, giảm thất nghiệp và sự phá sản của một số nhà sản xuất. Mặc dù áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ có lợi cho nhà sản xuất trong nước do bán được sản phẩm với giá cao hơn nhưng sẽ gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng. Nhiều nghiên cứu về khía cạnh kinh tế của hiện tượng bán phá giá cho rằng bán phá giá là một hiện tượng kinh tế phổ biến và bình thường, cả trong trường hợp giá bán trong nước thấp hơn giá xuất khẩu, tức là có sự phân biệt đối xử về giá, cũng như trường hợp giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất, kể cả chi phí cố định. Lợi ích tăng lên đối với các nhà sản xuất trong nước không đủ bù đắp thiệt hại của người tiêu dùng, hay nói cách khác là thiệt hại chung đối với toàn xã hội. Ngoài ra, áp dụng thuế này cũng sẽ gây ra thiệt hại đối với những nhà sản xuất sử dụng sản phẩm liên quan làm nguyên liệu cho sản xuất các hàng hóa khác. Ví dụ rõ ràng là các nhà chế tạo ô tô Hoa Kỳ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh với các đối thủ Châu Âu và Nhật bản do họ phải sử dụng thép với giá cao hơn khi chính phủ áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ các nhà sản xuất thép. Thuế chống bán phá giá cũng có thể làm giảm tính cạnh tranh dài hạn. Thật vậy, thuế này chỉ được áp dụng trong một giai đoạn nhất định. Do nhiều nguyên nhân, các nhà sản xuất nước ngoài có thể hạ được chi phí sản xuất và không bán phá giá nữa. Trong trường hợp này giá xuất khẩu có thể không đổi, thậm chí ngày càng thấp đi. Nếu các nhà sản xuất trong nước không nhận thức rõ điều này mà chậm đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, v.v... quá dựa dẫm vào sự bảo hộ cao hơn do áp dụng thuế này mang lại thì về dài hạn họ sẽ mất khả năng cạnh tranh với các nhà sản xuất hàng hóa tương tự của nước xuất khẩu. Các doanh nghiệp được bảo hộ cần nhận thức sau một giai đoạn nào đó, thường là vài năm, hiện tượng bán phá giá có thể biến mất nhưng hàng nhập khẩu vẫn ngày càng rẻ, do đó phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh càng sớm càng tốt. 3.2.3. Dự kiến tình hình phát triển kinh tế Việt nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá Việt nam đang xây dựng nền kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đang chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Sau hơn một thập kỷ phát triển kinh tế khá ngoạn mục, Việt nam đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 với mục tiêu tăng gấp đôi GDP sau mười năm và đến năm 2020 Việt nam sẽ là nước công nghiệp. Đường lối phát triển này của Việt nam có liên quan rất lớn tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Trong tương lai sẽ xuất hiện ngày càng nhiều ngành sản xuất hàng hóa lớn mạnh. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển, những ngành này là những ngành non trẻ với những đặc điểm điển hình là đầu tư vào sản xuất lớn nhưng chưa thu hồi vốn, giá thành cao. Ngoài ra, là nước đi sau nên phần lớn những ngành này là những ngành sử dụng nhiều lao động. Trong những năm qua đã hình thành một số ngành sản xuất như vậy. Trong lĩnh vực công nghiệp là những ngành như dệt may, da giầy, sắt thép, xi măng, phân hóa học, v.v... Trong lĩnh vực nông nghiệp là một số ngành trồng trọt như mía đường, gạo, cà phê, cao su thiên nhiên, hạt tiêu, v.v... Trong lĩnh vực thủy sản là nuôi tôm, nuôi cá. Có thể thấy rằng những ngành sản xuất Việt nam có lợi thế so sánh cao như lúa gạo hay nuôi cá thì khả năng bị nước ngoài áp dụng thuế chống bán phá giá khá lớn. Ngược lại, những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ tương đối tiên tiến như sắt thép, xi măng lại được bảo hộ rất cao bằng các công cụ thuế quan và hạn chế định lượng. Do đó, mặc dù có nhiều khả năng nước ngoài đã bán phá giá vào Việt nam một số mặt hàng, chẳng hạn sắt thép hay xi măng, nhưng nhu cầu sử dụng công cụ thuế chống bán phá giá chưa xuất hiện. Trong những năm tới tình hình sẽ thay đổi. Một mặt, nhiều ngành sẽ xuất hiện với qui mô sản xuất hàng hóa như công nghiệp hóa dầu, điện tử, chăn nuôi lợn, chế biến sữa, chế biến nông sản, v.v... Mặt khác, do các cam kết với các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực, Việt nam sẽ dần dần phải cắt giảm và tiến tới loại bỏ các biện pháp hạn chế định lượng. Phần lớn những ngành này có sức cạnh tranh chưa cao nên nhu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ sẽ ngày càng lớn. Ngoài ra, đường lối lâu dài của Việt nam là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong một số lĩnh vực sản xuất hàng hóa, nhưng các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển nhanh về số lượng cũng như qui mô. Điều này đặt ra vấn đề triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá như thế nào để đảm bảo được lợi ích cao nhất cho toàn xã hội. Rõ ràng là các doanh nghiệp lớn có sức mạnh chính trị đáng kể nên có nhiều cơ hội hơn trong việc vận động các cơ quan có thẩm quyền điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá cho các sản phẩm của họ. Nhưng với hàng trăm doanh nghiệp tư nhân, trong nhiều trường hợp là hàng vạn hộ nông dân, thì sức mạnh chính trị của họ nhiều khi lại không cao. Do đó, cần có cơ chế thực thi thích hợp để có thể bảo hộ được nhóm các nhà sản xuất này. 3.2.4. Một số vấn đề liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt nam Như đã phân tích ở trên, khi áp dụng thuế chống bán phá giá thì lợi ích chung về mặt kinh tế của toàn xã hội có thể bị giảm. Vấn đề đầu tiên đặt ra là có nên áp dụng thuế này không ngay cả khi các điều kiện cần thiết để áp dụng thuế này đã được tuân thủ. Nói cách khác, ngay cả khi đã có đủ các điều kiện để áp dụng thuế chống bán phá giá theo các qui định của Hiệp định về thuế chống bán phá giá của WTO, cơ quan chức năng vẫn cần cân nhắc mọi yếu tố liên quan để quyết định có nên áp dụng thuế này không. Ví dụ, thịt cừu của New Zealand bị bán phá giá vào Việt nam và gây thiệt hại cho một số nông dân nuôi cừu. Nhưng một mặt chính phủ thấy rằng hiệu quả của việc nuôi cừu ở Việt nam rất thấp nên cần khuyến khích những nông dân đó nuôi dê, mặt khác chính phủ đang khuyến khích phát triển du lịch, trong đó việc cung cấp thịt cừu chất lượng cao với giá thấp là một yếu tố thúc đẩy du khách vào Việt nam. Trong trường hợp đó không nhất thiết phải áp dụng thuế chống bán phá giá với thịt cừu nhập khẩu từ New Zealand. Thứ hai, hiện nay Việt nam vẫn chưa có văn bản pháp lý làm cơ sở áp dụng thuế chống bán phá giá. Trong bối cảnh nhiều ngành xản xuất hàng hoá đang phát triển khá nhanh, việc áp dụng thuế chống bán phá giá có thể là cần thiết để bảo hộ một số nhà sản xuất nhất định. Do đó, Việt nam cần nhanh chóng xây dựng và ban hành văn bản pháp lý về thuế chống bán phá giá dựa trên Hiệp định tương ứng của WTO. Để có thể triển khai được công cụ này trên thực tế, văn bản pháp lý cần phải có những qui định rất cụ thể về các cơ quan thực thi, đặc biệt là các cơ quan điều tra phá giá và cơ quan đánh giá thiệt hại. Thứ ba, song song với việc ban hành văn bản pháp lý về thuế chống bán phá giá, Việt nam cần nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan tới áp dụng thuế này. Chẳng hạn, cần có kế hoạch đào tạo sớm các luật sư chuyên về thương mại quốc tế để họ có thể tham gia giải quyết tranh chấp liên quan tới việc áp dụng thuế này. Thật vậy, việc áp dụng thuế chống bán phá giá phải tuân thủ nghiêm ngặt các qui định của WTO. Do đó có nhiều tình huống Việt nam phải đương đầu với cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này. Nếu không có sự đào tạo các luật sư có đủ năng lực thì Việt nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá. Thứ tư, Việt nam cũng cần củng cố và khuyến khích các nhà sản xuất thành lập các hiệp hội. Thông qua hiệp hội các nhà sản xuất sẽ dễ dàng hơn trong việc nộp đơn yêu cầu cơ quan chức năng khởi đầu điều tra phá giá. Ngoài ra, chính các hiệp hội mới có nhiều điều kiện để cung cấp và thẩm định nhiều thông tin liên quan tới việc nhà xuất khẩu bán phá giá, giá bán trong nước, chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu, v.v... Nhà nước cần có kế hoạch phổ biến cho các hiệp hội về các vấn đề liên quan tới thuế chống bán phá giá. Cuối cùng, Việt nam cần tích cực theo dõi những diễn biễn của Vòng đàm phán Doha về “Các qui tắc mới” (New Rules), trong đó có khả năng các thành viên WTO sẽ xem xét, sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiệp định về thuế chống bán phá giá. Đồng thời Việt nam cũng cần nghiên cứu về xu hướng áp dụng thuế này trên thế giới để có thể có những quyết định thích hợp với các đối tác thương mại, vừa cân bằng được lợi ích của nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng trong nước, vừa không gây căng thẳng trong quan hệ thương mại, ngoại giao với các nước trong khu vực và trên thế giới. 3.3. Kiến nghị về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã vạch ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực. Chính sách thương mại của Việt Nam đang có những thay đổi sâu sắc theo đúng đường lối đó, cụ thể là chính sách thương mại ngày càng tự do hóa và phù hợp dần với các nguyên tắc và quy định của luật thương mại quốc tế. Về thuế quan, thuế suất với hầu hết các mặt hàng sẽ giảm dần. Đồng thời, Việt Nam cũng phải cam kết ràng buộc với phần lớn biểu thuế nhập khẩu. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam không thể tăng thuế suất một cách tùy tiện. Về các hàng rào phi thuế quan, Việt Nam có thể duy trì các hàng rào phi thuế quan không phù hợp với thông lệ quốc tế trong vòng vài năm nữa. Nhưng chắc chắn sau đó các hàng rào này sẽ phải loại bỏ. Khi đó, chỉ có thuế quan là công cụ bảo hộ trực tiếp cho một số ngành sản xuất hàng hóa trong nước hiện nay sức cạnh tranh còn kém. Ngoài ra, Việt Nam đang tham gia khá chủ động và tích cực vào các khu vực thương mại quốc tế và khu vực, kể cả các khu vực mậu dịch tự do (FTA). Việt Nam đã là thành viên của Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái bình dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM). Sự tham gia các tổ chức thương mại này sẽ gắn nền kinh tế Việt Nam ngày càng chặt chẽ với các nền kinh tế khác. Việt Nam cũng đang cùng các nước ASEAN khác đàm phán thành lập hai khu vực thương mại tự do mới. Đó là Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – CER giữa ASEAN với Australia và New Zealand và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung quốc. Song song với việc tham gia các tổ chức thương mại khu vực hoặc đàm phán để thành lập các khu vực thương mại tự do mới, Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Như vậy có thể thấy rằng trong vòng năm đến mười năm nữa chính sách thương mại của Việt Nam tương đối tự do và phù hợp với các chuẩn mực của luật thương mại quốc tế. Rõ ràng là từ nay trở đi các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước, cả thuế quan lẫn phi thuế quan - đặc biệt là các biện pháp hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu không tự động, sẽ ngày càng giảm. Việt Nam cần phải áp dụng các công cụ mới vừa có tác động bảo hộ sản xuất trong nước theo hướng tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng vừa phù hợp với luật thương mại quốc tế. Thuế chống bán phá giá là một công cụ như vậy. Bán phá giá là một hiện tượng kinh tế bình thường, không bị cấm theo qui định của luật thương mại quốc tế. Khi mà Việt Nam phải cắt giảm các biện pháp hạn chế định lượng thì khả năng hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam sẽ càng tăng. Vì vậy, Việt Nam cần phải nhanh chóng áp dụng thuế chống bán phá giá. Đây vừa là công cụ bảo hộ hợp pháp cho sản xuất trong nước, vừa đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng với các nhà sản xuất của nước ngoài. 3.4. Giải pháp liên quan tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam Như phần trên đã phân tích, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam cần cân nhắc tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá phù hợp với các qui định liên quan của WTO. Muốn vậy, Việt Nam cần nhanh chóng ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thuế chống bán phá giá, xây dựng bộ máy thực thi có hiệu quả và đặc biệt là phải làm tốt công tác tuyên truyền cho các doanh nghiệp nắm rõ về biện pháp này. 3.4.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về áp dụng thuế chống bán phá giá Thuế chống bán phá giá đã được áp dụng trên thế giới cách đây gần 100 năm và ngày càng được áp dụng nhiều hơn không những ở các nước phát triển mà cả ở các nước đang phát triển. Việt Nam đã cân nhắc tới việc áp dụng thuế này. Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 đã cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu được bán phá giá vào Việt Nam. Quyết định của Thủ Tướng Chính phủ số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 – 2005 cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001. Mặc dù vậy, những qui định tại hai văn bản pháp quy này còn quá sơ sài. Muốn áp dụng được thuế chống bán phá giá phù hợp với qui định của WTO Việt Nam cần sớm xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thuế chống bán phá giá trên cơ sở các quy định của Hiệp định về Chống bán phá giá của WTO, có tham khảo tới luật và thực tiễn áp dụng của một số thành viên WTO. 3.4.2. Tổ chức bộ máy thực thi thuế chống bán phá giá Trên thực tế ban hành Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá đã khó nhưng thực thi nó còn khó hơn. Cần phải có bộ máy thực thi hiệu quả thì mới đạt được mục tiêu của Pháp lệnh cũng như tránh được các tranh chấp quốc tế do việc áp dụng thuế chống bán phá giá không phù hợp với Hiệp định về Chống bán phá giá. Tháng 6 năm 2002 Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh về tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu. Song song với xây dựng Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá, Việt Nam cũng đang xây dựng Pháp lệnh về thuế chống trợ cấp. Đây là những biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo hộ nhà sản xuất trong nước với điều kiện chung là hàng nhập khẩu gây ra hoặc có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà sản xuất hàng hóa tương tự trong nước. Do đó cần cân nhắc tới bộ máy duy nhất thực thi cả ba biện pháp này. Trong hoàn cảnh Việt Nam đang cải cách hành chính, tinh giản bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước, có lẽ khó có thể thành lập một cơ quan chuyên trách. Hơn nữa, kim ngạch nhập khẩu hàng năm của Việt Nam cũng chưa quá lớn nên nếu lập một cơ quan chuyên trách có thể không hiệu quả. Như vậy có thể thành lập một bộ phận không chuyên trách phụ trách cả ba biện pháp. Các thành viên của bộ phận này là các cán bộ có chuyên môn sâu về thương mại quốc tế, luật quốc tế, kế toán, v.v... 3.4.3. Nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp Muốn áp dụng được thuế chống bán phá giá cần có sự tham gia phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan từ trung ương tới địa phương và doanh nghiệp. * Các cơ quan quản lý nhà nước Cần nhanh chóng tổ chức các khóa đào tạo về áp dụng thuế chống bán phá giá cho đông đảo cán bộ các bộ ngành. Nội dung của các khóa đào tạo này sẽ bao gồm những vấn đề kinh tế liên quan tới bán phá giá, những qui định về thuế chống bán phá giá của WTO, kinh nghiệm áp dụng thuế chống bán phá giá của một số nước và những vấn đề đang nổi lên tại Vòng đàm phán Doha của WTO liên quan tới vấn đề chống bán phá giá. * Các cơ quan nghiên cứu Các cơ quan nghiên cứu cần triển khai nghiên cứu các đề tài về chống bán phá giá và tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách về những ưu điểm cũng như nhược điểm của hệ thống chính sách hiện tại liên quan tới chống bán phá giá. Đồng thời, các cơ quan nghiên cứu cũng phải đi tiên phong trong việc đưa ra các khuyến nghị về áp dụng thuế chống bán phá giá trong các trường hợp cụ thể, đặc biệt là khi cơ quan chức năng đã quyết định điều tra. * Các doanh nghiệp Cần tổ chức, tuyên truyền cho các doanh nghiệp có những hiểu biết nhất định về quyền của họ đối với việc tiến hành điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá, nghĩa vụ tham gia của họ trong tiến trình điều tra, v.v... Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần biết rõ nguy cơ hàng xuất khẩu của họ cũng có thể bị nước nhập khẩu áp dụng thuế chống bán phá giá. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu một loại mặt hàng nên hợp tác với nhau dưới hình thức hiệp hội để thường xuyên trao đổi thông tin, tìm biện pháp đối phó khi mặt hàng mình xuất khẩu bị nước ngoài điều tra phá giá. KẾT LUẬN Trong thương mại quốc tế bán phá giá là một hiện tượng kinh tế bình thường. Tuy nhiên những năm gần đây song song với thương mại toàn cầu ngày càng tự do hoá thì các biện pháp chống bán phá giá được áp dụng ngày càng tăng. Đã có những ý kiến cho rằng biện pháp này đã bị lạm dụng như một hàng rào phi thuế quan để bảo hộ cho sản xuất trong nước. Nhìn chung qui định của các nước về chống bán phá giá đều dựa trên Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Hiệp định này đưa ra định nghĩa cụ thể khi nào hàng nhập khẩu bị coi là bán phá giá dựa trên hai tiêu chí là giá xuất khẩu thấp hơn giá bán trong nước hoặc thấp hơn chi phí sản xuất. Hiệp định cũng qui định chặt chẽ về điều tra thiệt hại của ngành sản xuất hàng hoá tương tự ở trong nước do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra. Mỗi thành viên của WTO chỉ có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi hàng nhập khẩu bị bán phá giá dẫn tới thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự trong nước. Khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về thuế chống bán phá giá cần phải cân nhắc cẩn thận tới ý nghĩa kinh tế của hiện tượng bán phá giá để có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong văn bản luật phải coi lợi ích toàn xã hội cao hơn lợi ích riêng của các nhà sản xuất. Trên cơ sở kinh nghiệm của các nước khác trong lĩnh vực này thì mức thuế chống bán phá giá tốt sẽ là mức thuế cân bằng được lợi ích của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Chính sách thương mại của Việt nam đã tiến một bước dài theo hướng tự do hóa và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Chính sách này đã góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định của Việt nam trong những năm qua. Song song với việc tiếp tục cải cách chính sách thương mại theo hướng tự do hoá hơn nữa để có thể trở thành thành viên WTO trong vài năm tới, Việt nam cũng cần nhanh chóng ban hành Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá để có cơ sở pháp lý áp dụng công cụ này như một công cụ bảo hộ mới có hiệu quả và phù hợp với luật thương mại quốc tế. Ngoài ra Việt Nam cũng cần đẩy mạnh hoạt động đào tạo cán bộ có kiến thức vững vàng về biện pháp này và tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp có những hiểu biết nhất định về các vấn đề liên quan tới bán phá giá. Điều này vừa là tiền đề cần thiết để sử dụng tốt biện pháp chống bán phá giá như một công cụ bảo hộ cho nền sản xuất trong nước, vừa để tăng khả năng đối phó một cách có hiệu quả với những tình huống khi hàng xuất khẩu của Việt Nam bị các nước khác điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá trên thị trường các quốc gia này. PHỤ LỤC I CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU TỪ VIỆT NAM BỊ ĐIỀU TRA VÀ ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY Năm Nước Mặt hàng Tiến trình điều tra 1. 1994 Colombia Gạo Không đánh thuế vì mặc dù có bán phá giá ở mức 9,07% nhưng không gây tổn hại cho ngành trồng lúa gạo của Colombia. 2. 1998 EU Mì chính Đánh thuế chống bán phá giá, mức: 16,8%. 3. 1998 EU Giầy dép Không đánh thuế vì thị phần gia tăng nhỏ so với Trung quốc, Indonesia và Thái lan. 4. 2000 Ba lan Bật lửa Đánh thuế chống bán phá giá, mức: 0,09 Euro/chiếc. 5. 2001 Canada Tỏi Đánh thuế chống bán phá giá, mức: 1,48 dollar Canada/Kg. 6. 2002 Canada Giày không thấm nước Bắt điều tra từ tháng 26/4/2002 7. 2002 EU Bật lửa Bắt đầu điều tra từ 28/6/2002 8. 2002 Hoa Kỳ Cá da trơn Bắt đầu điều tra từ 19/7/2002 PHỤ LỤC II CÁC MẶT HÀNG NHẬP KHẨU VÀO VIỆT NAM CÓ THỂ BỊ BÁN PHÁ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG TỚI SẢN XUẤT TRONG NƯỚC TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY I. Khả năng bán phá giá hàng hóa vào thị trường Việt Nam Bán phá giá là một hiện tượng kinh tế phổ biến và không bị cấm theo qui định của WTO. Theo thống kê, các mặt hàng bị bán phá giá trên thị trường quốc tế chủ yếu là hàng phi nông sản như: sắt thép, xi măng, hóa chất, hàng điện tử, hàng dệt. Việt Nam chưa ban hành văn bản pháp quy về chống bán phá giá nên chưa tiến hành cuộc điều tra phá giá nào. Trên thực tế, trong 10 năm vừa qua, Việt Nam đã áp dụng khá chặt chẽ các biện pháp hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu, đồng thời quyền kinh doanh nhập khẩu cũng chưa được tự do hóa nên hàng nhập khẩu cho dù được bán phá giá vào thị trường Việt Nam cũng khó gây ra thiệt hại lớn cho sản xuất hàng hóa tương tự trong nước. Việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế như: tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, ký hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa kỳ, cam kết với IMF/World Bank, và đàm phán gia nhập WTO sẽ dẫn đến kết quả là Việt Nam dần dần thực hiện mở cửa thị trường thông qua cắt giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Khi đó nếu hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá chắc sẽ gây ra nhiều thiệt hại lớn cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong nước. II. Các mặt hàng nhập khẩu có khả năng bị bán phá giá vào thị trường Việt Nam và tác động tới sản xuất trong nước Vì Việt Nam chưa bao giờ điều tra phá giá nên không có số liệu chính thức về hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam. Trên thực tế những mặt hàng sau đây có khả năng bị bán phá giá: Xi măng Các nước trong khu vực như Thái lan, Trung quốc là những nước sản xuất xi măng rất mạnh. Sản lượng xi măng của các nước này tại một thời điểm nào đó có thể bị dư thừa so với nhu cầu trong nước do khủng hoảng kinh tế hoặc bất hợp lý trong khâu lập kế hoạch sản xuất, v.v…, khi đó rất có khả năng Thái lan hoặc Trung quốc sẽ bán phá giá xi măng sang Việt Nam vì Việt Nam là thị trường tương đối lớn trong khu vực và có tốc độ xây dựng phát triển mạnh. Việc bán phá giá xi măng vào thị trường Việt Nam trước hết sẽ có lợi cho người tiêu dùng và ngành xây dựng. Tuy nhiên, đối với ngành công nghiệp xi măng của ta, vốn là một ngành được bảo hộ cao, thì đây lại là một khó khăn lớn. Sắt thép Ở Hoa Kỳ thì sắt thép là mặt hàng nhập khẩu bị điều tra phá giá nhiều nhất (chiếm một nửa số vụ điều tra phá giá). Từ năm 2001 trở về trước, Việt Nam duy trì giấy phép nhập khẩu đối với thép xây dựng nên ta chưa quan tâm tới việc sắt thép nhập khẩu có bị bán phá giá hay không. Tuy nhiên có nhiều khả năng một số sắt thép nhập khẩu từ Nga, Hàn quốc đã bị bán phá giá vào Việt Nam. Ngành thép của các nước phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật bản hiện nay đều đang gặp khó khăn. Khi Việt Nam đã bỏ giấy phép nhập khẩu và các nước có nền công nghiệp thép mạnh như Hàn quốc, Nhật bản, các nước thuộc khối SNG bán phá giá sắt thép vào Việt Nam thì thiệt hại cho ngành sắt thép trong nước sẽ rất lớn. Tuy nhiên khi đó các ngành công nghiệp sử dụng sắt thép làm nguyên vật liệu đầu vào sẽ có lợi. Giấy Trong 6 tháng đầu năm 2002, các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Giấy Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn vì có khả năng giấy nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam: giá giấy nhập khẩu là 380 USD/tấn, trong khi giá bột giấy nhập khẩu đã là 400 USD/tấn. Tuy nhiên muốn khẳng định điều này đúng hay không cần phải tiến hành điều tra vì các giá trên có thể chưa được so sánh một cách xác đáng. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Hiệp định về Chống bán phá giá của WTO Pháp luật Chống bán phá giá của Hoa Kỳ Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam và hướng dẫn thi hành TS. Đinh Thị Mỹ Loan – “Chủ động ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá trong thương mại quốc tế” – NXB Lao động xã hội – 2006 TS. Đinh Thị Mỹ Loan – “Các vụ kiện chống bán phá giá, các đặc điểm cần lưu ý đối với doanh nghiệp Việt Nam” – www.tapchicongsan. org.vn Đoàn Văn Trường – “Bán phá giá và các biện pháp chính sách chông bán phá giá hàng nhập khẩu” – NXB Thống kê – 1998 Đoàn Văn Trường – “Bán phá giá - Phương pháp xác định mức phá giá và mức độ thiệt hại” – NXB Khoa học kỹ thuật – 2006 Đoàn Văn Trường – “Chống bán phá giá đã trở thành trở ngại hàng đầu trong thương mại quốc tế” - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 6/2006 GS. TS Đỗ Đức Bình, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng – Giáo trình Kinh tế quốc tế – NXB Lao động xã hội - 2005 TS. Nguyễn Hữu Khải – “Hàng rào phi thuế quan trong thương mại quốc tế” – NXB Lao động xã hội – 2005 Hà Anh - “Số lượng điều tra các vụ bán phá giá gia tăng” – www.viettrade.gov.vn TS. Hà Thị Ngọc Oanh – “Kinh tế đối ngoại, những nguyên lý và vận dụng tại Việt Nam” – NXB Tài chính – 2007 GS.TS. Võ Thanh Thu – “Quan hệ kinh tế quốc tế” – NXB Thống kê – 2008 ThS. Nguyễn Tiến Vinh – “Chống bán phá giá trong thương mại quốc tế” – www.chongbanphagia.vn ThS. Nguyễn Trần Duy – “Pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế” - Luận văn ThS - 2008 “Số liệu các vụ kiện chống phá giá và trợ cấp của EU” – www.ec. europa.eu “Kiện bán phá giá” – www.chongbanphagia.vn “Cơ chế chống bán phá giá và tự vệ - Kinh nghiệm của Canada và Thái Lan” – www.chongbanphagia.vn “Thái Lan – thông tin về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ” – www.chongbanphagia.vn DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT STT Chữ cái viết tăt Nghĩa của từ Tiếng Anh Tiếng Việt 01 AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN 02 APEC ASIA Pacific Economic Cooperation Diễn đàn hợp tác Châu Á – Thái Bình Dương 03 ASEAN Association of Southeast Asian Nations Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á 04 ASEM Asia Europe Meeting Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu 05 EU European Union Liên minh Châu Âu 06 ĐPT Đang phát triển 07 FTA Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do 08 Mutrap Multilateral Trade Assistance Project Dự án hỗ trợ thương mại đa biên 09 NĐ Nghị định 10 PGS Phó giáo sư 11 PT Phát triển 12 RFC Reference Centre Trung tâm dữ liệu thông tin 13 TS Tiến sĩ 14 TTg Thủ tướng chính phủ 15 UBND Uỷ ban nhân dân 16 UBQG Ủy ban quốc gia 17 WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 3 1.1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá 3 1.1.1. Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá 3 1.1.2. Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá 3 1.1.3. Vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất 7 1.2. Giới thiệu hiệp định chống bán phá giá của WTO 8 1.2.1. Xác định việc bán phá giá 8 1.2.2. Xác định thiệt hại 11 1.2.3. Ngành sản xuất trong nước 12 1.2.4. Nộp đơn yêu cầu tiến hành điều tra chống phá giá 12 1.2.5. Thu thập thông tin 14 1.2.6. Áp dụng biện pháp tạm thời 15 1.2.7. Cam kết giá 16 1.2.8. Áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá 17 1.2.9. Truy thu thuế 18 1.2.10. Rà soát 19 1.2.11. Thông báo công khai và giải thích các kết luận 20 1.2.12. Cơ chế khiếu kiện độc lập 21 1.2.13. Chống bán phá giá thay mặt nước thứ ba 21 1.2.14. Thành viên đang phát triển 21 1.2.15. Ủy ban chống bán phá giá 22 1.2.16. Trao đổi và giải quyết tranh chấp 22 1.2.17. Điều khoản cuối cùng 22 1.3. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 22 1.3.1. Cam kết trong ASEAN 24 1.3.2. Cam kết trong APEC 24 1.3.3. Cam kết với IMF/World Bank 25 1.3.4. Đàm phán gia nhập WTO 25 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 27 2.1. Tổng quan về tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới 27 2.1.1. Tổng quan 27 2.1.2. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước phát triển 28 2.1.3. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước đang phát triển 29 2.2. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ 30 2.2.1. Văn bản pháp quy về chống bán phá giá của Hoa Kỳ 30 2.2.2. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá 30 2.2.3. Nguyên tắc xác định giá trị thông thường và giá xuất khẩu 32 2.2.4. Áp dụng thuế chống bán phá giá 33 2.2.5. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ 34 2.3. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá trong EU 34 2.3.1. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trong liên minh châu Âu 34 2.3.2. Cơ quan điều tra và thủ tục điều tra 35 CHƯƠNG 3: CÁC KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP LIÊN QUAN TỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM 46 3.1. Đánh giá về khó khăn của Việt Nam khi phải đối mặt với tranh chấp bán phá giá 46 3.2. Khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam 49 3.2.1. Các qui định hiện tại của Việt Nam liên quan đến thuế chống bán phá giá 49 3.2.2.Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước 50 3.2.3. Dự kiến tình hình phát triển kinh tế Việt nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá 51 3.2.4. Một số vấn đề liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt nam 52 3.3. Kiến nghị về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam 54 3.4. Giải pháp liên quan tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam 55 3.4.1.Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về áp dụng thuế chống bán phá giá 56 3.4.2. Tổ chức bộ máy thực thi thuế chống bán phá giá 56 3.4.3. Nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp 57 KẾT LUẬN 58 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7350.doc
Tài liệu liên quan