Bàn về hệ thống nguyên tắc và phương pháp tính giá hàng tồn kho trong các Doanh nghiệp

Lời mở đầu Vào cuối những năm 80, việc chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế đã trở thành một nhu cầu bức xúc, một sự cần thiết khách quan vươn tới sự phồn vinh của đất nước ta. Hoà nhập với xu thế phát triển chung của thời đại, Đại hội toàn quốc lần thứ VI ( tháng 12/86 ) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển hướng này đã kéo theo s

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Bàn về hệ thống nguyên tắc và phương pháp tính giá hàng tồn kho trong các Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự thay đổi sâu sắc bộ mặt nền kinh tế nước ta nói chung và trong các hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ cung – cầu, quan hệ thị trường được mở rộng, do vậy hoạt động sản xuất kinh doanh không còn phụ thuộc quá nhiều vào Nhà nước nữa mà họ có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của mình từ việc chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho tới việc phân chia lợi nhuận trong doanh nghiệp. Yếu tố đầu vào ( hàng tồn kho ) là một yếu tố đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì nếu thiếu nó thì quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể tiến hành được. Hàng tồn kho là một phần quan trọng trong tài sản lưu động của doanh nghiệp. Do vậy, tính giá hàng tồn kho có ảnh hưởng tới việc xác định tình hình tài chính và kết quả lãi, lỗ của các hoạt động của doanh nghiệp. Căn cứ vào đặc điểm, qui mô sản xuất, ngành nghề kinh doanh, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp mà doanh nghiệp lựa chọn phương pháp tính giá hàng tồn kho thích hợp. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, qua một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu, em đã quyết định đi sâu vào nghiên cứu đề tài:“ Bàn về hệ thống nguyên tắc và phương pháp tính giá hàng tồn kho trong các doanh nghiệp.” Do thời gian có hạn và kiến thức còn hạn chế nên việc nghiên cứu đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn để đề án được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo – Thạc sĩ Phạm Bích Chi đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Hà nội ngày 15/06/2003 Sinh viên Nguyễn Thị Kim Dung phần I Khái quát chung về các phương pháptính giá hàng tồn kho I. Phương pháp tính giá 1. Khái niệm và sự cần thiết của phương pháp tính giá 1.1. Khái niệm về phương pháp tính giá Đối tượng của hạch toán kế toán là vốn của các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp với tính hai mặt, tính đa dạng và tính vận động. Vốn của các đơn vị bao gồm rất nhiều loại, có nhiều hình thái biểu hiện khác nhau. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, cùng với sự vận động của vốn là sự biến đổi không ngừng cả về hình thái hiện vật và giá trị của tài sản. Để ghi nhận và phản ánh được giá trị tiền tệ của tài sản vào sổ sách, chứng từ, báo cáo, kế toán sử dựng phương pháp tính giá. Như vậy, thực chất tính giá là phương pháp thông tin và kiểm tra về sự hình thành và phát sinh chi phí có liên quan đến từng loại vật tư, sản phẩm, hàng hoá, tài sản và công vụ. Nói cách khác, tính giá là việc xác định giá trị ghi sổ của tài sản, tức là dùng thước đo giá trị để biểu hiện các loại tài sản khác nhau nhằm phản ánh, cung cấp các thông tin tổng hợp cần thiết và xác định giá trị tiền tệ để thực hiện các phương pháp phản ánh khác của kế toán. 1.2. Sự cần thiết của phương pháp tính giá Trong điều kiên kinh tế thị trường, nhờ sử dụng phương pháp tính giá, kế toán đã theo dõi, phản ánh được một cách tổng hợp và kiểm tra được các đối tượng hạch toán kế toán bằng thước đo tiền tệ. Đồng thời, nhờ có tính giá, kế toán tính toán và xác định được toàn bộ chi phí bỏ ra có liên quan đến việc thu mua, sản xuất, chế tạo và tiêu thụ từng loại vật tư, sản phẩm. Từ đó, so với kết quả thu được để đánh giá hiệu quả kinh doanh nói chung cũng như hiệu quả kinh doanh từng mặt hàng, từng loại sản phẩm, dịch vụ và từng hoạt động kinh doanh nói riêng. Có thể nói, không có phương pháp tính giá thì các doanh nghiệp không thể thực hiện tốt các chế độ hạch toán kinh doanh được. Là một phương pháp của hạch toán kế toán, tính giá vừa có tính độc lập tương đối lại vừa có quan hệ chặt chẽ với các phương pháp khác như chứng từ, đối ứng tài khoản, tổng hợp – cân đối kế toán. Nhờ có tính giá, kế toán mới ghi nhận, phản ánh được các đối tượng khác nhau của kế toán vào chứng từ, tài khoản và tổng hợp các thông tin khác nhau qua các báo cáo. Mặt khác, tính giá vật tư, tài sản, hàng hoá, dịch vụ không thể tiến hành một cách tuỳ tiện được mà phải dựa trên thông tin do chứng từ, tài khoản và các báo cáo cung cấp rồi tổng hợp lại. Đặc biệt là hầu hết tài sản của doanh nghiệp đều không thể hình thành ngay một lúc được mà hình thành dần dần trong một khoản thời gian nhất định thông qua quá trình thu mua, xây dựng, lắp đặt, chế tạo, ... Điều đó đòi hỏi kế toán phải kết hợp các phương pháp hạch toán khác nhau để ghi nhận sự hình thành giá trị tài sản ( kể cả giá trị ban đầu và giá trị tăng thêm). 2. Yêu cầu của phương pháp tính giá Để thực hiện tốt chức năng thông tin và kiểm tra về giá trị các loại tài sản của mình, tính giá phải bảo đảm hai yêu cầu: chính xác và thống nhất. 2.1. Chính xác Việc tính giá cho các loại tài sản phải đảm bảo chính xác, phù hợp với giá cả đương thời và phù hợp với số lượng, chất lượng của tài sản. Nếu việc tính giá không chính xác, thông tin do tính giá cung cấp sẽ mất tính xác thực, không đáng tin cậy, ảnh hưởng đến việc đề ra quyết định kinh doanh. Tính giá chính xác còn cho thấy sự khác biệt chủ yếu giữa thước đo hiện vật và thước đo giá trị: Thước đo hiện vật chỉ có thế biểu hiện tài sản về phương diện số lượng, trong khi đó, thước đo giá trị có khả năng biểu hiện tài sản không chỉ trên phương diện số lượng mà còn bổ sung ý niệm về chất lượng tài sản. 2.2. Thống nhất Việc tính giá phải thống nhất về phương pháp tính toán giữa các doanh nghiệp khác nhau trong nền kinh tế quốc dân và giữa các thời kỳ khác nhau. Có như vậy, số liệu tính toán ra mới đảm bảo so sánh được giữa các thời kỳ và các doanh nghiệp với nhau. Qua đó đánh giá được hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp, từng thời kỳ khác nhau. Để thực hiện tốt các yêu cầu trên, đòi hỏi Nhà nước phải qui định thống nhất việc tính giá các loại tài sản trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đồng thời phải có biện pháp kiểm tra thích hợp nhằm khắc phục và loại trừ các hiện tượng tính giá không đúng, bảo đảm được tính chính xác, trung thực và hợp pháp của các chỉ tiêu do hạch toán kế toán cung cấp. 3. Nguyên tắc của phương pháp tính giá Để thực hiện tốt các yêu cầu tính giá, ngoài việc đòi hỏi người kế toán phải có tinh thần trách nhiệm cao, chấp hành tốt các qui định tính giá, kế toán còn phải quán triệt các nguyên tắc chủ yếu sau: Xác định đối tượng tính giá phù hợp, phân loại chi phí hợp lý và lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí thích ứng. 3.1. Nguyên tắc 1: Xác định đối tượng tính giá phù hợp Nhìn chung, đối tượng tính giá phù hợp với đối tượng thu mua, sản xuất và tiêu thụ. Đối tượng đó có thể là từng loại vật tư, hàng hoá, tài sản mua vào, từng loại sản phẩm, dịch vụ thực hiện, ... Tuy nhiên, trong những điều kiện nhất định, đối tượng tính giá có thể mở rộng hoặc thu hẹp lại. Việc mở rộng hay thu hẹp đối tượng tính giá phải dựa vào đặc điểm vật tư, hàng hoá, sản phẩm mua vào, sản xuất ra; vào đặc điểm tổ chức sản xuất; vào trình độ và yêu cầu quản lý; ... Chẳng hạn, đối tượng tính giá ở khâu thu mua có thể là từng loại vật tư, hàng hoá hay từng nhóm, từng lô hàng; còn ở khâu sản xuất có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay chi tiết, bộ phận sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm; ... 3.2. Nguyên tắc 2: Phân loại chi phí hợp lý Từ nội dung của tính giá có thể thấy chi phí là bộ phận quan trọng cấu thành nên giá của các loại tài sản, vật tư, hàng hoá, dịch vụ, sản phẩm. Do chi phí sử dụng để tính giá có nhiều loại có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tính giá, có loại lại liên quan gián tiếp. Bởi vậy, cần phân loại chi phí một cách hợp lý, khoa học để tạo điều kiện cho việc tính giá. Việc phân loại chi phí được tiến hành bằng nhiều cách khác nhau, có thể phân theo lĩnh vực chi phí (chi phí thu mua, sản xuất, bán hàng), theo chức năng chi phí (sản xuất, tiêu thụ, quản lý), theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành ( biến phí, định phí ), ... Mỗi một cách phân loại có một tác dụng khác nhau trong quản lý và hạch toán. Để phục vụ cho việc tính giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cần phân loại chi phí theo lĩnh vực ( phạm vi ) chi phí. Theo cách này, chi phí sẽ được chia làm bốn loại sau: Chi phí thu mua: Bao gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc thu mua vật tư, tài sản, hàng hoá như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản, chi phí bộ phận thu mua, chi phí lắp đặt, chạy thử, chi phí kho hàng, bến bãi, ... Chi phí sản xuất: Là những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện lao vụ, dịch vụ trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất. Thuộc chi phí sản xuất bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là những chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu mà đơn vị bỏ ra có liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp: là số thù lao phải trả cho số lao động trực tiếp chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ cùng với các khoản trích cho các quĩ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm Y tế, Kinh phí công đoàn theo chế độ qui định. Chi phí sản xuất chung: bao gồm toàn bộ các chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất ( trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp). Chi phí bán hàng: Là chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ như chi phí nhân viên bán hàng, chi phí vật liệu, bao gói, chi phí dụng cụ bán hàng, ... Chi phí quản lí doanh nghiệp: Bao gồm toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến việc tổ chức, điều hành, quản lí hoạt động sản xuất kinh doanh ( chi phí quản trị doanh nghiệp và chi phí quản lí hành chính ). 3.3. Nguyên tắc 3: Lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí thích ứng Trong một số trường hợp và trong những điều kiện nhất định, có một số khoản chi phí có liên quan trực tiếp đến nhiều đối tượng tính giá nhưng không thể tách riêng ra được. Vì thế, cần lựa chọn tiêu thức phân bổ hợp lý sao cho gần sát với mức tiêu hao thực tế nhất. Thuộc những chi phí cần phân bổ này có thể bao gồm cả chi phí vật liệu, nhân công trực tiếp ( do trong cùng một khoản thời gian, một nhóm công nhân cùng tham gia chế tạo ra một số sản phẩm bằng cùng một lượng nguyên vật liệu), chi phí sản xuất chung ( là những chi phí chung phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất ), chi phí vận chuyển, bốc dỡ,... Tiêu thức phân bổ chi phí cho từng đối tượng tính giá phụ thuộc vào quan hệ của chi phí với đối tượng tính giá. Thông thường, các tiêu thức được lựa chọn là tiêu thức phân bổ chi phí theo hệ số, theo định mức, theo giờ máy làm việc, theo tiền lương công nhân sản xuất, theo chi phí vật liệu chính, theo số lượng, trọng lượng vật tư, sản phẩm, dịch vụ, ... Công thức phân bổ như sau: Mức chi phí Tổng tiêu thức phân bổ Tổng chi phí phân bổ cho = của từng đối tượng x từng loại từng đối tượng Tổng tiêu thức phân bổ cần phân bổ của tất cả đối tượng Việc chọn lựa tiêu thức phân bổ nào cần căn cứ vào tình hình cụ thể, dựa trên quan hệ của chi phí với đối tượng tính giá. Chẳng hạn, chi phí vận chuyển, bốc dỡ vật tư, hàng hoá thu mua có thể phân bổ theo trọng lượng hay theo số lượng vật tư, hàng hoá chuyên chở, bốc dỡ ( nếu không phải là hàng cồng kềnh ). Hoặc chi phí sản xuất chung có thể phân bổ theo tiền lương công nhân sản xuất ( nếu trình độ cơ giới hoá đồng đều và tiền lương công nhân sản xuất chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí, hay theo chi phí vật liệu chính tiêu hao ( nếu chi phí vật liệu chính chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất ) hoặc theo số giờ máy làm việc ( nếu xác định được số giờ máy làm việc cho từng đối tượng ) ... II. Các phương pháp tính giá hàng tồn kho 1. Hàng tồn kho 1.1. Khái niệm và phân loại hàng tồn kho Hàng tồn kho là toàn bộ số hàng mà doanh nghiệp đang nắm giữ với mục đích để bán hoặc dự trữ trong kho cho mục đích sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá hoặc dịch vụ mà có thể bán ra bên ngoài. Với doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá thì hàng tồn kho là hàng hoá doanh nghiệp mua về để bán, bao gồm: hàng hoá mà doanh nghiệp đã mua đang dự trữ trong kho, hàng mua đang đi trên đường, hàng gửi đi bán hoặc hàng hoá gửi đi gia công chế biến. Với doanh nghiệp sản xuất, chế tạo sản phẩm thì hàng tồn kho bao gồm nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ tồn kho, gửi đi gia công chế biến, đã mua đang đi trên đường; sản phẩm dở dang, chưa hoàn thành và sản phẩm hoàn thành chưa làm thủ tục nhập kho thành phẩm; thành phẩm tồn kho và thành phẩm gửi đi bán. 1.2. Các phương pháp quản lý hàng tồn kho Để quản lí hàng tồn kho, các doanh nghiệp có thể sử dụng một trong hai phương pháp: Kê khai thường xuyên hoặc kiểm kê định kỳ. 1.2.1. Phương pháp kê khai thường xuyên Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi một cách thường xuyên tình hình hiện có, biến động tăng, giảm hàng tồn kho trên các tài khoản phản ánh chúng. Điều này có nghĩa là tất cả các nghiệp vụ mua, bán, nhập, xuất hàng tồn kho đều được ghi chép trực tiếp lên các tài khoản hàng tồn kho ngay khi các nghiệp vụ này phát sinh. Các đặc điểm của phương pháp này bao gồm: Việc mua hàng hoá để bán hay mua nguyên, vật liệu cho việc sản xuất sản phẩm được ghi vào bên Nợ TK “Hàng tồn kho” chứ không ghi vào TK “Mua hàng”. Các chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hàng mua trả lại, giảm giá và chiết khấu hàng mua được ghi trên các tài khoản phản ánh hàng tồn kho chứ không phải tài khoản riêng biệt. Việc xác định giá vốn hàng tiêu thụ được xác định bằng cách cộng phát sinh bên Nợ TK “Giá vốn hàng bán”. Để theo dõi chi tiết từng loại hàng tồn kho, kế toán sử dụng các tài khoản chi tiết cho hàng tồn kho. Trên các tài khoản chi tiết các đối tượng không chỉ được ghi chép bằng thước đo giá trị mà còn bằng cả thước đo hiện vật. Phương pháp kê khai thường xuyên có ưu điểm là nó theo dõi, phản ánh một cách liên tục, thường xuyên các thông tin về hàng tồn kho một cách kịp thời và cập nhật. 1.2.2. Phương pháp kiểm kê định kỳ Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi một cách thường xuyên, liên tục tình hình biến động của hàng tồn kho trên các tài khoản hàng tồn kho, mà chỉ theo dõi giá trị hàng tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của chúng trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ. Theo phương pháp kiểm kê đinh kỳ, giá trị hàng mua vào trong kỳ được kế toàn ghi Nợ TK “Mua hàng”. Tổng giá trị hàng mua trong kỳ được cộng vào giá trị hàng mua tồn đầu kỳ để có được chỉ tiêu hàng tồn kho cả tồn và nhập. Cuối kỳ, căn cứ vào kết quả kiểm kê cuối kỳ, kế toán xác định được tổng giá trị hàng tồn kho xuất trong kỳ để bán hoặc dùng cho sản xuất sản phẩm bằng cách lấy số tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ trừ đi số tồn cuối kỳ. Phương pháp này có ưu điểm là tiết kiệm được công sức ghi chép, tuy nhiên độ chính xác không cao. Không kể doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên hay phương pháp kiểm kê định kỳ, việc kiểm kê cuối kỳ được thực hiện vào cuối năm, mỗi năm tiến hàn một lần. Tuy nhiên, hầu hết các công ty cần các thông tin cập nhật về hàng tồn kho nhằm tránh được sự thiếu hụt, mất mát, tồn đọng quá nhiều về hàng tồn kho, hơn nữa có kế hoạch tài chính cho việc mua sắm, cung cấp hàng tồn kho. 2. Các phương pháp tính giá hàng tồn kho Tính giá hàng tồn kho là xác định giá trị ghi sổ của hàng tồn kho. Về nguyên tắc, hàng tồn kho phải được ghi sổ theo giá gốc (giá thực tế), giá gốc được qui định cụ thể cho từng loại hàng. 2.1.Tính giá hàng nhập kho 2.1.1. Nội dung và trình tự tính giá hàng mua vào Để tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có 3 yếu tố cơ bản là lao động ( sức lao động ), tư liệu lao động và đối tượng lao động. Các yếu tố này được hình thành chủ yếu do doanh nghiệp mua sắm ( mua sắm nguyên vật liệu, hàng hoá, ... ). Bởi vậy, việc tính giá các yếu tố chi phí đầu vào về thực chất là tính giá hàng tồn kho mua vào. Hàng tồn kho mua vào bao gồm nhiều loại, với tính chất và mục đích sử dụng khác nhau, do đó việc tính giá của chúng cũng có những khác biệt nhất định. Các loại nguyên, vật liệu được mua với mục đích sử dụng cho sản xuất, chế tạo sản phẩm; hàng hoá được mua với mục đích để bán, ... Tuy khác nhau về tính chất và mục đích sử dụng nhưng việc tính giá hàng tồn kho mua vào phải phản ánh được giá ban đầu của hàng tồn kho, nghĩa là tất cả các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc hình thành hàng tồn kho. Có thể khái quát trình tự tính giá hàng tồn kho mua vào qua các bước sau: Bước 1: Xác định giá mua ghi trên hoá đơn của người bán ( Giá mua hàng tồn kho ). Giá mua ghi trên hoá đơn của người bán là giá để người bán ghi nhận doanh thu. Giá đó có thể là tổng giá thanh toán, bao gồm cả thuế giá trị gia tăng ( với doanh nghiệp tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp ) hay giá không có thuế giá trị gia tăng ( với doanh nghiệp tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ ). Ngoài ra, trong một số trường hợp nhất định, được tính vào giá của hàng tồn kho còn bao gồm cả số thuế nhập khẩu phải nộp ( nếu là hàng nhập khẩu ). Cần lưu ý rằng, trong trường hợp được hưởng chiết khấu thương mại hay được hưởng giảm giá hàng mua ( do hàng mua không đúng qui cách, phẩm chất ) thì số chiết khấu và số giảm giá mà doanh nghiệp được hưởng được loại khỏi giá mua hàng tồn kho. Bước 2: Tập hợp toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến quá trình thu mua hàng tồn kho. Chi phí thu mua hàng tồn kho bao gồm nhiều loại chi phí như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản trong quá trình mua hàng và các chi phí khác có liên quan trực tiếp đến việc mua hàng tồn kho. Nếu những chi phí này có liên quan đến việc thu mua một loại vật tư, hàng hoá thì tập hợp trực tiếp cho loại vật tư, hàng hoá đó. Còn nếu những chi phí này có liên quan đến việc thu mua nhiều loại vật tư, hàng hoá thì phân bổ riêng cho từng loại vật tư, hàng hoá theo tiêu thức phù hợp ( trọng lượng, số lượng, thể tích, ... ). Bước 3: Tổng hợp chi phí và tính ra giá gốc ( giá thực tế ) của hàng tồn kho. Giá gốc = Gía mua ghi trên + Chi phí + Chi phí thương mại hàng tồn kho hoá đơn của người bán thu mua giảm giá hàng mua Có thể khái quát việc tính giá vật liệu, công cụ, hàng hoá mua vào theo mô hình sau: Giá mua Chi phí thu mua Giá hoá đơn trừ các khoản chiết khấu thương mại,giảm giá được hưởng (nếu có) Thuế nhập khẩu phải nộp (nếu có) Chi phí vận chuyển, bốc dỡ Chi phí kho hàng, bến bãi Chi phí bộ phận thu mua v.v.v Giá thực tế vật liệu, công cụ, hàng hoá 2.1.2. Nội dung và trình tự tính giá sản phẩm, dịch vụ sản xuất Bên cạnh các hàng tồn kho được hình thành do mua sắm, do nhận cấp phát, nhận liên doanh, ... một bộ phận lớn hàng tồn kho trong các doanh nghiệp sản xuất được hình thành thông qua quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất chính là quá trình kết hợp ba yếu tố lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động để cho ra sản phẩm. Đồng thời, quá trình sản xuất cũng chính là quá trình tiêu hao bản thân các yếu tố cơ bản đó. Do quá trình sản xuất được tiến hành liên tục nên tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình sản xuất, bên cạnh bộ phận sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành cũng tồn tại lượng sản phẩm, dịch vụ dở dang. Vì thế, để tính giá sản phẩm, dịch vụ hoàn thành, cần xác định giá trị sản phẩm dở dang. Việc tính giá sản phẩm, dịch vụ sản xuất ra có thể tiến hành theo trình tự sau: Bước 1: Tập hợp các chi phí trực tiếp ( vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp ) có liên quan đến từng đối tượng tính giá ( sản phẩm, dịch vụ ). Bước 2: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng tính giá có liên quan. Bước 3: Xác định giá trị sản phẩm dở dang. Bước 4: Tính ra tổng giá thành sản phẩm và giá thành đơn vị sản phẩm. Tổng giá thành Giá trị sản phẩm Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm sản phẩm, dịch = dịch vụ dở dang + thực tế phát sinh – dịch vụ dở dang vụ hoàn thành đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ Giá thành Tổng giá thành sản phẩm dịch vụ hoàn thành đơn vị = ---------------------------------------------------------- sản phẩm dịch vụ Số lượng sản phẩm dịch vụ hoàn thành Trong công thức trên, chi phí sản xuất thực tế phát sinh trong kỳ bao gồm chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Đối với sản phẩm dở dang, cuối kỳ đơn vị cần tiến hành kiểm kê lượng sản phẩm dịch vụ dở dang tại các bộ phận sản xuất rồi có thể áp dụng một trong các phương pháp tính giá sản phẩm dở dang sau đây: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương: Dựa theo mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm dở dang để qui sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành. Tiêu chuẩn qui đổi thường dựa vào giờ công hoặc tiền lương định mức. Để đảm bảo tính chính xác của việc đánh giá, phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến, còn các chi phi nguyên vật liệu trực tiếp phải xác định theo số thực tế đã dùng. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến: Để dơn giản cho việc tính toán, đối với những sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí, kế toán thường sử dụng phương pháp này. Thực chất đây là một dạng của phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương, trong đó giả định sản phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức độ 50% so với thành phẩm. Cụ thể: Giá trị Giá nguyên vật liệu 50% chi phí sản phẩm = chính nằm trong sản + chế biến so với dở dang phẩm dở dang (theo định mức) thành phẩm Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chí phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc theo chi phí trực tiếp: Theo phương pháp này, trong giá trị sản phẩm dở dang chỉ bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc chi phí trực tiếp ( nguyên liệu và nhân công trực tiếp ) mà không tính đến các chi phí khác. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch: Căn cứ vào các định mức tiêu hao ( hoặc chi phí kế hoạch ) cho các khâu, các bước, các công việc trong quá trình chế tạo sản phẩm để các định giá trị sản phẩm dở dang. Ngoài ra, trên thực tế, người ta còn áp dụng các phương pháp khác để cá định giá trị sản phẩm dở dang như: phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp tính theo chi phí vật liệu chính và vật liệu phụ nằm trong sản phẩm dở dang, ... Có thể khái quát việc tính giá sản phẩm, dịch vụ sản xuất qua mô hình sau: Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí sản xuất chung Tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ 2.2. Tính giá hàng xuất kho 2.2.1. Nội dung và trình tự tính giá hàng tồn kho xuất cho sản xuất – kinh doanh Để xác định được kết quả tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, bên cạnh các yếu tố như doanh thu thuần, chi phí quản lý, chi phí bán hàng, kế toán cấn thiết phải xác định được trị giá vốn của hàng tiêu thụ. Trị giá vốn của hàng tiêu thụ được tính theo giá thực tế, nhập kho giá nào thì xuất bán được tính theo giá đó. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh trong từng lĩnh vực ( sản xuất, thương mại ) mà trị giá vốn của hàng tiêu thụ được xác định như nhau. Với doanh nghiệp sản xuất, trị giá vốn của hàng xuất bán được tính theo giá thành sản xuất thực tế ( giá thành công xưởng thực tế ); còn với doanh nghiệp thương mại, trị giá vốn của hàng xuất bán bao gồm hai bộ phận: trị giá mua của hàng tiêu thụ và phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, trị giá vốn của hàng tiêu thụ chính là giá thành thực tế của dịch vụ đã thực hiện với khách hàng. Còn đối với các doanh nghiệp sản xuất, để tính được giá thành sản phẩm, cần phải xác định được giá của vật tư xuất dùng. Giá của vật tư xuất dùng cho sản xuất được tính theo giá thực tế vật tư mua vào, bao gồm cả phí mua và chi phí thu mua. Có thể khái quát trình tự tính giá sản phẩm, dịch vụ hàng hoá tiêu thụ và giá vật tư xuất dùng cho sản xuất kinh doanh qua các bước sau: Bước 1: Xác định số lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ theo từng loại và theo từng khách hàng cùng với số lượng vật liệu, công cụ xuất dùng cho sản xuất kinh doanh. Bước 2: Xác định giá đơn vị của từng loại hàng xuất dùng ( với sản phẩm, dịch vụ: giá thành sản xuất; với hàng hoá: đơn giá mua; với vật tư xuất dùng: giá thực tế xuất kho ). Bước 3: Phân bổ phí thu mua cho hàng tiêu thụ ( với kinh doanh thương mại ) theo tiêu thức phù hợp ( số lượng, trọng lượng, doanh thu, rị giá mua, ... ). Mô hình tính giá sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ và giá vật tư xuất dùng cho sản xuất – kinh doanh: Giá vốn sản phẩm, dịch vụ đã bán, đã cung cấp cho khách hàng Giá thành thực tế vật tư xuất dùng và xuất khác cho kinh doanh Giá thành sản xuất sản phẩm, dịch vụ -Giá mua vào thực tế -Giá chế biến nhập kho -Thuế nhập khẩu (nếu có) Phí tổn mua vật tư Chi phí nguyên liệu trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí sản xuất chung Mô hình tính giá hàng hoá tiêu thụ: Trị giá mua của hàng tiêu thụ Phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ Trị giá vốn của hàng hoá tiêu thụ 2.2.2. Các phương pháp tính giá hàng xuất kho Việc lựa chọn phương pháp tính giá thực tế háng xuất kho phải căn cứ vào đặc điểm của từng doanh nghiệp về số lượng danh điểm, số lần nhập – xuất hàng tồn kho, trình độ của nhân viên kế toán, thủ kho, điều kiện kho tàng của doanh nghiệp. Việc tính giá thực tế hàng xuất kho, kế toán có thể đáp dụng một trong các phương pháp sau với nguyên tắc nhất quán trong kỳ. Trường hợp có sự thay đổi về phương pháp tính cần phải có sự giải trình và nêu những tác động của sự thay đổi với các báo cáo kế toán. Phương pháp giá đơn vị bình quân: Theo phương pháp này, giá thực tế hàng xuất kho ( xuất dùng, xuất bán, xuất góp vốn liên doanh, ... ) trong kỳ được tính theo công thức sau: Giá thực tế = Số lượng x Giá đơn vị hàng xuất kho hàng xuất kho bình quân Khi sử dụng giá đơn vị bình quân, có thể sử dụng dưới ba phương pháp: + Phương pháp giá thực tế bình quân cả kỳ dự trữ. Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp ít có danh điểm hàng tồn kho nhưng số lượng lần nhập, xuất của mỗi danh điểm nhiều. Theo phương pháp này, căm cứ vào giá trị thực tế của hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ, kế toán xác định được giá bình quân của một đơn vị hàng tồn kho ( giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ ). Và căn cứ vào lượng hàng xuất trong kỳ và giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ để xác định giá thực tế hàng xuất trong kỳ. Giá đơn vị Giá thực tế hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ bình quân = ------------------------------------------------------------- cả kỳ dự trữ Số lượng hàng thực tế tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ Giá thực tế = Số lượng x Giá đơn vị bình quân hàng xuất kho hàng xuất kho cả kỳ dự trữ Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ cơ ưu điểm là cách tính đơn giản, ít tốn công sức, giảm nhẹ được việc hạch toán chi tiết hàng tồn kho, không phụ thuộc vào số lần nhập, xuất của từng danh điểm hàng tồn kho. Nhược điểm của phương pháp này là dồn đọng công việc tính giá hàng xuất kho vào cuối kỳ hạch toán nên ảnh hưởng đến tiến độ của các khâu kế toán khác, đồng thời sử dụng phương pháp này cũng phải tiến hành tính giá theo từng danh điểm hàng tồn kho. + Phương pháp giá thực tế bình quân sau mỗi lần nhập: Theo phương pháp này, cứ sau mỗi lần nhập hàng, kế toán lại phải xác định lại giá trị đơn vị bình quân. Căn cứ vào giá đơn vị bình quân và lượng hàng xuất kho giữa hai lần nhập kế tiếp để kế toán xác định giá thực tế hàng xuất kho. Giá đơn vị Giá thực tế hàng tồn kho sau mỗi lần nhập bình quân = ------------------------------------------------------------- sau mỗi lần nhập Số lượng hàng thực tế tồn kho sau mỗi lần nhập Giá thực tế = Số lượng x Giá đơn vị bình quân hàng xuất kho hàng xuất kho sau mỗi lần nhập Phương pháp này có độ chính xác cao, vừa cho phép kế toán tính giá hàng xuất kho kịp thời, vừa phản ánh được tình hình biến động của giá cả. Tuy nhiên khối lượng công việc tính toán lớn, tốn kém nhiều công sức tính toán bởi vì cứ sau mỗi lần nhập kho, kế toán lại phải tiến hành tính lại giá đơn vị bình quân. Và theo phương pháp này phải tiến hành tính giá theo từng danh điểm hàng tồn kho. Phương pháp này chỉ sử đụng được ở những doanh nghiệp ít danh điểm hàng tồn kho và số lần nhập của mỗi loại không nhiều. + Phương pháp giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước: Theo phương pháp này,kế toán xác định giá đơn vị bình quân dựa trên giá thực tế và lượng hàng tồn kho cuối kỳ trước.Dựa vào giá đơn vị bình quân nói trên và lượng hàng xuất kho trong kỳ để kế toán xác định giá thực tế hàng xuất kho theo từng danh điểm. Giá đơn vị Giá thực tế hàng tồn kho cuối kỳ trước(hoặc đầu kỳ này) bình quân = -------------------------------------------------------------------------- cuối kỳ trước Số lượng hàng thực tế tồn kho cuối kỳ trước(hoặc đầu kỳ này) Giá thực tế = Số lượng x Giá đơn vị bình quân hàng xuất kho hàng xuất kho cuối kỳ trước Phương pháp này đơn giản, dễ làm, bảo đảm tính kịp thời của số liệu kế toán, nhưng độ chính xác của công việc tính toán phụ thuộc vào tình hình biến động giá cả hàng tồn kho. Trường hợp giá cả thị trường hàng tồn kho có sự biến động lớn thì việc tính giá hàng xuất kho theo phương pháp này trở nên thiếu chính xác và có trường hợp trở nên bất hợp lý ( tồn kho âm ). + Phương pháp giá thực tế đích danh: Phương pháp giá thực tế đích danh ( còn gọi là phương pháp đặc điểm riêng hay phương pháp trực tiếp ) được sử dụng với những loại hàng tồn kho giá trị cao, chủng loại mặt hàng ít, dễ phân biệt giữa các mặt hàng. Trong doanh nghiệp kinh doanh thương mại như doanh nghiệp kinh doanh vàng, bạc, đá quí, đồ lông thú, kinh doanh ôtô hoặc một số mặt hàng đồ gỗ. Trong doanh nghiệp sản xuất, các loại hàng tồn kho có thể áp dụng phương pháp này bao gồm các vật liệu dùng để sản xuất theo đơn hàng đặc biệt. Theo phương pháp này hàng tồn kho được xác định giá trị theo đơn chiếc hay từng lô hàng và được giữ nguyên từ lúc mua vào cho tới lúc xuất kho. Khi xuất loại hàng tồn kho này ( hay lô hàng tồn kho nào ) sẽ tính theo giá thực tế đích danh của số hàng ( hay lô hàng ) đó. Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có điều kiện bảo quản riêng từng lô hàng nhập kho. Phương pháp này có ưu điểm là công tác tính giá hàng tồn kho được thực hiện kịp thời và thông qua việc tính giá hàng xuất kho, kế toán có thể theo dõi được thời hạn bảo quản của từng lô hàng tồn kho. Tuy nhiên, để áp dụng đư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35460.doc