Báo cáo Hoàn thiện hệ thống tài chính với việc phân tích tình hình tài chính tại Công ty Thiết bị và chuyển giao công nghệ

LỜI MỞ ĐẦU Hệ thống BCTC và các báo cáo phân tích tài chính là những sản phẩm cuối cùng của một chu kỳ kế toán, thể hiện quá trình hoạt động, kết quả hoạt động của một doanh nghiệp, cho thấy thực trạng tài chính cũng như dự đoán tình hình và các nhu cầu tài chính của doanh nghiệp trong tương lai. Điều này ảnh hưởng quyết định đến rất nhiều yếu tố quan trọng như vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, khả năng thu hút đầu tư, thu hút nhân tài và các nguồn lực khác cũng như khả năng phát triển

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1174 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Hoàn thiện hệ thống tài chính với việc phân tích tình hình tài chính tại Công ty Thiết bị và chuyển giao công nghệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong tương lai của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống BCTC và công tác phân tích tài chính ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều vấn đề. Hệ thống BCTC đã thay đổi, chỉnh sửa nhiều lần nhưng vẫn chưa phù hợp với tình hình thực tế, còn hệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính vẫn còn có những chỉ tiêu đang gây tranh cãi (về phương pháp tính, về tên gọi cũng như về giá trị hợp lý của từng chỉ tiêu). Thực tế cho thấy, cần phải hoàn thiện BCTC và cả công tác phân tích tài chính, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập với yêu cầu được thế giới công nhận như hiện nay. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, có rất nhiều doanh nghiệp đã phát triển và trở thành những tập đoàn, những công ty lớn mạnh. Tuy vậy, hiện tại và cả trong tương lai số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ vẫn chiếm tỷ lệ lớn nên có một yêu cầu cấp thiết là phải tìm mọi biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp này trong đó hoàn thiện BCTC và phân tích tài chính đặc biệt hữu hiệu, nhất là trong bối cảnh các BCTC hầu như chưa được kiểm toán và công tác phân tích tài chính chưa được chú trọng như hiện nay. Chính vì những lý do đó mà em đã chọn đề tài: "Hoàn thiện hệ thống Báo cáo tài chính với việc phân tích tình hình tài chính tại công ty Thiết bị và chuyển giao công nghệ" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình Phạm vi của luận văn này là nghiên cứu lý luận và thực tế áp dụng hệ thống BCTC nói chung, đặc biệt là hệ thống BCTC dùng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, cùng với việc phân tích tình hình tài chính dựa trên hệ thống báo cáo đó. Qua đó nhận ra những thiếu sót của hệ thống BCTC và phân tích tài chính cần sửa đổi, bổ sung để hệ thống BCTC ngày càng hữu ích và đáp ứng được nhu cầu thực tế cho việc phân tích tài chính và các mục đích khác. Để làm rõ các nội dung này, luận văn được chia thành 2 chương: Chương 1: Lý luận chung về hệ thống BCTC và việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua hệ thống BCTC Chương 2: Thực trạng hệ thống BCTC với việc phân tích tình hình tài chính tại công ty CETT. Chương 3: Hoàn thiện hệ thống BCTC, công tác phân tích tài chính và quản lý tài chính ở công ty CETT. Do thiếu kinh nghiệm thực tế và hạn chế về trình độ nên chắc chắn luận văn này sẽ không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của thầy cô và các cán bộ công ty CETT. Em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Thị Nam Thanh đã nhiệt tình hướng dẫn, và các cán bộ phòng kế toán công ty CETT đã cung cấp số liệu, chỉ dẫn thực tế và tạo điều kiện thuận lợi cho em thực hiện chuyên đề này. Sinh viên thực hiện Trần Thị Thu Hiền CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG BCTC VÀ VIỆC PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP THÔNG QUA HỆ THỐNG BCTC I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG BCTC 1. Khái quát chung về Hệ thống BCTC 1.1. Cơ sở lý luận và khái niệm BCTC Báo cáo kế toán là hình thức biểu hiện cụ thể của phương pháp tổng hợp – cân đối. Tổng hợp – cân đối kế toán là phương pháp khái quát tình hình tài sản, nguồn vốn, kết quả kinh doanh và các mối quan hệ kinh tế khác thuộc đối tượng hạch toán trên những mặt bản chất và trong các mối quan hệ cân đối vốn có của đối tượng hạch toán kế toán. Những cân đối vốn có của đối tượng hạch toán kế toán với phương pháp luận duy vật biện chứng là cơ sở cho sự hình thành phương pháp tổng hợp cân đối. Tính biện chứng của quá trình nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ hình thành khái niệm đến phán đoán, phân tích trong xử lý thông tin kế toán… đã hình thành phương pháp tổng hợp – cân đối một cách khoa học. Dựa trên phương pháp tổng hợp – cân đối, tùy theo mục đích cung cấp thông tin, báo cáo kế toán được chia thành báo cáo tài chính và báo cáo quản trị. Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, vốn chủ sở hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Nó là phương tiện trình bày khả năng sinh lợi và thực trạng tài chính của doanh nghiệp cho những người quan tâm. BCTC cung cấp các thông tin kinh tế - tài chính chủ yếu cho người sử dụng thông tin kế toán trong việc đánh giá, phân tích và dự đoán tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là những báo cáo mang tính bắt buộc do Nhà Nước quy định. 1.2. Đặc điểm của BCTC BCTC đảm bảo tính trung thực và hợp lý phải có các đặc điểm sau: - Tính thích hợp: Thông tin là thích hợp khi nó ảnh hưởng tới các quyết định kinh tế của người sử dụng qua việc giúp những người này đánh giá các sự kiện đã đang và sẽ xảy ra hoặc giúp xác nhận hoặc điều chỉnh những đánh giá trước đây của họ. Tính thích hợp của thông tin của chính bản chất và tính trọng yếu của thông tin (tính trọng yếu luôn là mốc xác định tính thích hợp). Mặt khác, thông tin quá tải có thể gây ra nhiễu thông tin, gây khó khăn cho việc tách lọc những điểm mấu chốt thích hợp cũng như cho việc giải thích. - Độ tin cậy: Thông tin không được có lỗi trọng yếu và phiến diện. Những khía cạnh chủ yếu của độ tin cậy là trình bày trung thực, chú trọng nội dung hơn hình thức, trung lập, thận trọng và hoàn chỉnh. - Khả năng so sánh: Thông tin cần được trình bày một cách nhất quán giữa các thời kỳ và giữa các đơn vị để giúp cho người sử dụng có thể đưa ra những đánh giá so sánh quan trọng. - Tính dễ hiểu: Thông tin phải dễ hiểu đối với người sử dụng, những người này thường được trông đợi là có kiến thức khá tốt về kinh doanh, kinh tế và kế toán đã sẵn sàng nghiên cứu thông tin một cách nghiêm túc. 1.3. Nguyên tắc và yêu cầu khi lập và trình bày BCTC. Các nguyên tắc lập và trình bày Nguyên tắc hoạt động liên tục: Trước khi lập BCTC cần phải đánh giá khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp. BCTC cần phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ khi doanh nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể qui mô hoạt động của mình. Nếu các BCTC không được lập trên cơ sở hoạt động liên tục thì sự kiện này cần được nêu rõ, cùng với cơ sở dùng để lập BCTC và lý do khiến doanh nghiệp không được coi là hoạt động liên tục. Nguyên tắc nhất quán Việc trình bày và phân loại trong BCTC phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác. Nguyên tắc này đảm bảo những người sử dụng BCTC hiểu được những sự thay đổi về tình hình tài chính. Tuy nhiên khi có sự thay đổi đáng kể hoạt động của mình, doanh nghiệp có thể xem xét lại việc trình bày BCTC nhưng phải công bố đầy đủ ảnh hưởng của sự thay đổi đó về giá trị trong các BCTC. Nguyên tắc cơ sơ dồn tích Đòi hỏi doanh nghiệp phải lập BCTC theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ các thông tin liên quan đến các luồng tiền. Theo cơ sở kế toán dồn tích, các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế toán và BCTC của kỳ kế toán liên quan. Các khoản chi phí được ghi nhận vào Báo cáo kế quả hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc phù hợp không cho phép ghi nhận trên Bảng cân đối kế toán những khoản mục không thỏa mãn định nghĩa về tài sản hoặc nợ phải trả. Nguyên tắc trọng yếu Việc lập BCTC chỉ chú trọng đến những vấn đề mang tính trọng yếu, quyết định bản chất và nội dung của sự vật; không quan tâm đến các yếu tố có ít tác dụng trong BCTC. Một thông tin được coi là trọng yếu tức là nếu không trình bày hoặc trình bày thiếu tính chính xác có thể làm sai lệch đáng kể BCTC, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin. Các khoản mục không mang tính trọng yếu được tập hợp với các khoản đầu mục khác có cùng tính chất hoặc chức năng trong BCTC hoặc trình bày trong phần thuyết minh BCTC. Yêu cầu lập và trình bày BCTC phải tuân thủ: Trung thực và hợp lý: Để đảm bảo yêu cầu trung thực và hợp lý, các BCTC phải được lập và trình bày trên cơ sở tuân thủ các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định có liên quan hiện hành. Bởi vậy, doanh nghiệp phải lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán nhằm cung cấp thông tin phù hợp, đáng tin cậy, so sánh được và dễ hiểu. Trường hợp chưa có quy định ở Chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán hiện hành thì doanh nghiệp phải căn cứ vào chuẩn mực chung để xây dựng các phương pháp kế toán hợp lý nhằm đảm bảo BCTC cung cấp được các thông tin thích hợp với nhu cầu ra các quyết định kinh tế của người sử dụng; thông tin phải đáng tin cậy, phản ánh trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp; phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không chỉ đơn thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng; thông tin phải trình bày khách quan, không thiên vị và tuân thủ nguyên tắc thận trọng, đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu. Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán Chính sách kế toán bao gồm những nguyên tắc, cơ sở và các phương pháp kế toán cụ thể được doanh nghiệp áp dụng trong quá trình lập và trình bày BCTC. Trong trường hợp không có chuẩn mực kế toán hướng dẫn riêng, khi xây dựng các phương pháp kế toán cụ thể, doanh nghiệp cần xem xét đến những yêu cầu và hướng dẫn của các chuẩn mực kế toán đề cập đến những vấn đề tương tự và có liên quan; những khái niệm, tiêu chuẩn, điều kiện xác định và ghi nhận đối với các tài sản, nợ phải trả, thu nhập và chi phí được quy định trong chuẩn mực chung… 1.4. Mục đích và vai trò của Hệ thống BCTC Mục đính của BCTC là trình bày trung thực về tình hình tài chính, kết quả hoạt động tài chính và các luồng lưu chuyển tiền tệ của một doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu của người sử dụng trong việc ra các quyết định kinh tế. Thông qua BCTC người sử dụng thông tin có thể đánh giá được sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của doanh nghiệp. Do đó BCTC là mối quan tâm của rất nhiều nhóm người khác nhau như Ban giám đốc, Hội đồng quản trị, các nhà đầu tư, cổ đông, chủ nợ, khách hàng, ngân hàng, các tổ chức tín dụng, bảo hiểm, các cơ quan Chính phủ, người lao động… Đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là lợi nhuận, ngoài ra còn có những mục đích khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp nhiều sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ với chi phí thấp, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường…Như vậy, các nhà quản trị cần có đủ thông tin hiểu rõ tình hình tài chính và để ra các quyết định đúng đắn và các biện pháp xác thực nhằm tăng cường hiệu quả quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng, mối quan tâm của họ là khả năng trả nợ của doanh nghiệp, BCTC giúp họ có được thông tin về số lượng tiền và các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh, từ đó tính toán được các chỉ tiêu khả năng thanh toán của doanh nghiệp như hệ số thanh toán nhanh, hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn…Ngoài ra, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng còn quan tâm đến vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp vì đó sẽ là khoản bảo hiểm cho họ khi doanh nghiệp gặp rủi ro. Các nhà cung cấp thông qua BCTC biết được tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp để ra quyết định cung cấp và hình thức thanh toán (có nên chấp nhận mua chịu hoặc thanh toán chậm hay không) Các cơ quan chức năng, các cơ quan quản lý của Nhà Nước thông qua BCTC để kiểm soát tình hình kinh doanh của doanh nghiệp có đúng chế độ, có đúng luật pháp không, để xác định số thuế phải nộp của doanh nghiệp hay để ra các quyết định trong đường lối, chính sách, chế độ cho phù hợp… 2. Hệ thống BCTC ở Việt Nam 2.1. Lịch sử và hệ thống văn bản pháp quy về BCTC ở Việt Nam Dựa vào lịch sử chế độ kế toán Việt Nam bắt đầu từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, quá trình phát triển của hệ thống BCTC có thể chia thành 4 thời kỳ: Giai đoạn từ 1945 đến trước năm 1975: Hệ thống BCTC được xây dựng và ban hành mang tính cứng nhắc, chủ yếu phục vụ quản lý của các cơ quan nhà nước, ít chú trọng đến phục vụ quản lý của bản thân doanh nghiệp. Chính vì vậy, hệ thống BCTC được ban hành và áp dụng thống nhất theo từng loại hình xí nghiệp (công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản). Điểm đánh dấu sự ra đời và phát triển của hệ thống kế toán doanh nghiệp trong giai đoạn này là Chế độ báo cáo kế toán áp dụng cho các xí nghiệp ban hành theo Quyết định 223 – CP ngày 1/12/70. Hệ thống báo cáo kế toán theo quyết định này gồm 13 báo biểu chia làm 4 loại, phản ánh vốn và nguồn vốn kinh doanh của xí nghiệp; phản ánh chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm; phản ánh tình hình tiêu thụ sản phẩm và lãi lỗ; phản ánh các quỹ xí nghiệp, tiền mặt và thanh toán. Giai đoạn từ năm 1975 đến 1986: Trong giai đoạn này nền kinh tế nước ta vô cùng khó khăn, nền nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, các nguồn viện trợ bị cắt giảm, chiến tranh biên giới đang diền ra; hệ thống kế toán liên tục được sửa đổi, bổ sung hay ban hành cho phù hợp với điều kiện mới. Từ đó ra đời Chế độ báo cáo thống kê – kế toán định kỳ do Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê ban hành theo Quyết định số 13 – TCKT/PPCĐ ngày 13/1/1986. Hệ thống báo cáo thống kê – kế toán định kỳ này gồm 21 báo biểu trong đó đối với lĩnh vực kế toán có 9 biểu được đánh số hiệu từ 12/CN đến 20/CN. Giai đoạn từ năm 1987 đến 1996: Cùng với việc ban hành Chế độ tài khoản kế toán thống nhất (tháng 12/1989), Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Chế độ báo cáo kế toán định kỳ áp dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh theo Quyết định số 224 – TC/CĐKT ngày 18/4/1990 và Chế độ kế toán định kỳ áp dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo Quyết định số 598 – TC/CĐKT ngày 8/12/1990. Các doanh nghiệp quốc doanh có 4 báo cáo định kỳ đó là: Bảng tổng kết tài sản, Báo cáo kết quả kinh doanh, Chi phí sản xuất theo yếu tố và Bản giải trình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lập và nộp 3 báo cáo định kỳ là Bảng tổng kết tài sản, Kết quả kinh doanh và Báo cáo tồn kho vật liệu, sản phẩm, hàng hóa. Sau một thời gian vận dụng vào thực tế, hệ thống BCKT ban hành theo Quyết định số 224 TC/QĐ/CĐKT ngày 18/4/1990 của Bộ Tài chính đã bộc lộ khá nhiều khuyết điểm, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu hội nhập của nền kinh tế. Đứng trước thực trạng đó, Bộ Tài chính tiến hành nghiên cứu xây dựng và ban hành hệ thống kế toán doanh nghiệp cải cách theo cơ chế thị trường (trong đó có hệ thống báo cáo tài chính) theo Quyết định số 1206 QĐ/CĐKT ngày 14/12/1994 và thực hiện thí điểm ở một số đơn vị rồi tổng kết và ban hành chính thức theo Quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995, áp dụng cho các doanh nghiệp (trong đó có chế độ báo cáo tài chính). Theo quyết định này, hệ thống BCTC doanh nghiệp gồm 4 biểu mẫu là “Bảng cân đối kế toán”, “Kết quả hoạt động kinh doanh”, “Lưu chuyển tiền tệ” và “Thuyết minh báo cáo tài chính”. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn ( trừ công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên được chuyển từ doanh nghiệp nhà nước), công ty cổ phần (trừ công ty chứng khoán cổ phần và công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán), công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã (trừ hợp tác xã nông nghiệp và hợp tác xã tín dụng nhân dân) áp dụng hệ thống báo cáo tài chính ban hành theo quyết định số 1177 TC/QĐ/CĐKT ngày 23/12/1996 của Bộ Tài chính. Giai đoạn 1997 đến nay: Đứng trước sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và xu hướng toàn cầu hóa, để đáp ứng nhu cầu quản lý của doanh nghiệp, ngày 25/10/2000, chế độ báo cáo tài chính được ban hành theo Quyết định 167/2000/QĐ/BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp. Về cơ bản, số lượng báo cáo tài chính và nội dung các báo cáo chủ yếu vẫn dựa trên hệ thống báo cáo ban hành theo quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 nhưng số lượng và nội dung các chỉ tiêu cùng với trật tự sắp xếp và thời gian lập đã có những thay đổi căn bản. Tuy hệ thống BCTC này là một bước đột phá,được xây dựng trêng cơ sở và các nguyên tắc của chuẩn mực quốc tế, phù hợp với tiến trình hội nhập, khắc phục được phần lớn nhược điểm của các báo cáo trước nhưng hệ thống báo cáo này còn quá chi tiết và thuộc phạm vi của kế toán quản trị, mẫu biểu quá cồng kềnh và thực sự là bài toán khó đối với trình độ kế toán Việt Nam, đặc biệt là kế toán trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trước tình hình đó, ngày 21/12/2001, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký quyết định số 144/2001/QĐ – BTC nhằm thay thế, sửa đổi Quyết định số 1177 TC/QĐ/CĐKT về Chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ được áp dụng Chế độ kế toán riêng. Theo quyết định này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ lập và gửi các báo cáo tài chính hàng năm như: Bảng cân đối kế toán, Kết quả hoạt động kinh doanh, Thuyết minh báo cáo tài chính, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải lập và gửi cơ quan thuế 2 phụ biểu là: Bảng cân đối tài khoản và Tình hình thực hiện nghĩa vụ với NSNN. 2.1. Nội dung và kết cấu của các BCTC theo chế độ hiện hành 2.1.1. BCĐKT Bảng cân đối kế toán là một Báo cáo tài chính chủ yếu phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản tại một thời điểm nhất định (cuối quý, cuối năm). Nội dung của Bảng cân đối kế toán thể hiện qua hệ thống các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài sản và nguồn hình thành tài sản. Các chỉ tiêu được phân loại, sắp xếp thành từng loại, mục và từng chỉ tiêu cụ thể. Các chỉ tiêu được mã hóa để thuận tiện cho việc kiểm tra, đối chiếu cũng như việc xử lý trên máy tính và được phản ánh theo số đầu năm, số cuối kỳ. Bảng cân đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khỏan kế toán và sắp xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng cân đối kế toán được chia thành 2 phần (có thể kết cấu theo kiểu một bên hoặc hai bên) là phần “Tài sản” và phần “Nguồn vốn” Phần “Tài sản” phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp đến cuối kỳ kế toán đang tồn tại dưới các hình thái và trong tất cả các giai đoạn, các khâu của quá trình kinh doanh. Các chỉ tiêu phản ánh trong phần tài sản được sắp xếp theo nội dung kinh tế của các loại tài sản của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất. Về mặt kinh tế: Số liệu các chỉ tiêu phản ánh bên “Tài sản” thể hiện giá trị tài sản theo kết cấu hiện có tại doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo như tài sản cố định, vật liệu, hàng hóa, tiền tệ (tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng …), các khoản đầu tư tài chính hoặc dưới hình thức nợ phải thu ở tất cả các khâu, các giai đoạn trong quá trình sản xuất – kinh doanh ( thu mua, sản xuất, tiêu thụ…). Căn cứ vào nguồn số liệu này, trên cơ sở tổng số tài sản và kết cấu tài sản hiện có mà đánh giá một cách tổng quát quy mô tài sản, năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý: Số liệu của các chỉ tiêu bên “Tài sản” phản ánh toàn bộ số tài sản hiện có đang thuộc quyền quản lý, quyền sử dụng của doanh nghiệp. Phần “Nguồn vốn” phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán. Các chỉ tiêu ở phần nguồn vốn được sắp xếp theo từng nguồn hình thành tài sản của đơn vị (nguồn vốn của bản thân doanh nghiệp – vốn chủ sở hữu, nguồn vốn đi vay, nguồn vốn chiếm dụng,…). Tỷ lệ và kết cấu của từng nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn hiện có phản ánh tính chất hoạt động, thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Về mặt kinh tế: Số liệu phần “Nguồn vốn” của Bảng cân đối kế toán thể hiện quy mô tài chính, nội dung tài chính và thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý: Số liệu của các chỉ tiêu thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp về số tài sản đang quản lý, sử dụng đối với Nhà nước (về số vốn của Nhà nước), với cấp trên, với các nhà đầu tư, với cổ đông, vốn liên doanh, với ngân hàng, với các tổ chức tính dụng (về các khoản vốn vay),với khách hàng, với các đơn vị kinh tế khác, với công nhân viên… Bảng cân đối kế toán bao gồm các cột sau: Cột 1 “Tài sản” hoặc “Nguồn vốn”: Phản ánh các chỉ tiêu thuộc tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp. Cột 2 “Mã số”: Phản ánh mã số của các chỉ tiêu. Cột 3 “Thuyết minh”: Phản ánh đường dẫn đến các chỉ tiêu cần giải thích và bổ sung ở Bản thuyết minh BCTC, mục VI “Thông tin bổ sung cho các khoản mục được trình bày trong Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh” Cột 4 “Số cuối năm”: Phản ánh số liệu của các chỉ tiêu tương ứng tại thời điểm cuối năm báo cáo. Với báo cáo quý, cột này phản ánh số liệu mỗi quý. Cột 5 “ Số đầu năm”: Căn cứ vào số liệu ở cột “Số cuối năm” trên Bảng cân đối kế toán ngày cuối cùng của năm báo cáo trước để ghi. Ngoài các chỉ tiêu trong phần chính (nội bảng), Bảng cân đối kế toán còn phản ánh các chỉ tiêu ngoại bảng như: tài sản thuê ngòai, vật tư, hàng hóa giữ hộ, nhận gia công; hàng hóa nhận bán hộ, lý gửi; nợ khó đòi đã xử lý,…Đây là những chỉ tiêu phản ánh những tạm thời để ở doanh nghiệp nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp hoặc một số chỉ tiêu kinh tế đã được phản ánh ở các tài khoản trong bảng cân đối kế toán nhưng cần theo dõi để phục vụ yêu cầu quản lý. 2.1.2. BCKQHĐKD Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một BCTC phản ánh tóm lược các khoản doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cho một thời kỳ nhất định, bao gồm kết quả hoạt động kinh doanh (hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ, hoạt động tài chính) và hoạt động khác. Thông qua báo cáo này, người sử dụng thông tin có thể đánh giá được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.Đồng thời biết được quy mô chi phí, doanh thu, thu nhập và kết quả từ các hoạt động kinh doanh cũng như số lợi nhuận thuần trước thuế và sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh bao gồm các cột sau: Cột 1 “Chỉ tiêu”: phản ánh các chỉ tiêu của bảng Cột 2 “Mã số”: phản ánh mã số của các chỉ tiêu trong bảng Cột 3 “Thuyết minh”: phản ánh đường dẫn đến các chỉ tiêu cần giải thích bổ sung ở Bản thuyết minh báo cáo tài chính, mục VI “Thông tin bổ sung cho các khoản mục được trình bày trong Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Cột 4 “Năm nay”: phản ánh trị số của các chỉ tiêu trong kỳ báo cáo. Cột 5 “Năm trước”: phản ánh giá trị của các chỉ tiêu mà doanh nghiệp đạt được trong năm trước. Số liệu để ghi vào cột này của báo cáo kỳ này được căn cứ vào số liệu ghi ở cột 4 “Năm nay” của báo cáo này kỳ trước theo từng chỉ tiêu tương ứng. 2.1.3. BCLCTT Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. BCLCTT cung cấp cho người sử dụng thông tin có cơ sở để đánh giá khả năng tạo ra các khoản tiền và việc sử dụng những khoản tiền đã tạo ra trong hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 24 “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ”, tiền bao gồm tiền tại quỹ, tiền đang chuyển và các khoản tiền gửi không kỳ hạn, còn các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (không quá 3 tháng kể từ ngày mua khoản đầu tư đó), có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành một lượng tiền xác định và không có nhiều rủi ro trong việc chuyển đổi thành tiền (kỳ phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi,…). Doanh nghiệp được trình bày các luồng tiền từ các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, và hoạt động tài chính theo cách thức phù hợp nhất với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có các cột sau: Cột 1 “Chỉ tiêu”: phản ánh tên gọi các chỉ tiêu của báo cáo. Cột 2 “Mã số”: phản ánh mã số của các chỉ tiêu. Cột 3 “Thuyết minh”: phần đường dẫn đến thuyết minh báo cáo tài chính với các chỉ tiêu cần giải thích, bổ sung. Cột 4 “Năm nay”: phản ánh giá trị của các chỉ tiêu trong năm nay. Số liệu để ghi vào cột này tùy thuộc vào phương pháp lập. Cột 5 “Năm trước”: phản ánh giá trị của các chỉ tiêu trong năm trước. Số liệu được ghi căn cứ vào cột 4 “Năm nay” của báo cáo này năm trước. 2.1.4. Thuyết minh BCTC Thuyết minh BCTC là một báo cáo kế toán tài chính tổng quát nhằm mục đích giải trình, bổ sung, thuyết minh những thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà chưa được trình bày đầy đủ, chi tiết trong các báo cáo tài chính khác. Thuyết minh báo cáo tài chính bao gồm các biểu số liệu, cột ‘Năm nay” thể hiện số liệu thực tế của kỳ báo cáo; cột “Năm/kỳ trước” thể hiện số liệu thực tế của kỳ ngay trước kỳ báo cáo. Đối với báo cáo quý (với doanh nghiệp nhà nước), các chỉ tiêu thuộc phần chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp phải thống nhất trong cả niên độ kế toán. Nếu có sự thay đổi phải trình bày rõ ràng lý do thay đổi. Việc đánh số các thuyết minh dẫn từ Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể được thay đổi lại cho phù hợp với định khoản của doanh nghiệp nhưng phải thực hiện đúng yêu cầu và nội dung thông tin cần được trình bày theo quy định. Ngoài ra, tùy thuộc vào yêu cầu quản lý, doanh nghiệp có thể trình bày bổ sung thêm một số thông tin khác nhằm mục đích giúp cho những người sử dụng hiêu được BCTC của doanh nghiệp. 2.1.5. Các BCTC khác dùng riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Hệ thống BCTC sử dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ được áp dụng theo Quyết định số 1177 TC/QĐ/CĐKT ngày 23/12/1996 của Bộ Tài chính và Quyết định 144/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001 thay thế, sửa đổi và bổ sung Quyết định 1177 TC/QĐ/CĐKT. Hệ thống BCTC này gồm 6 báo cáo: Bảng cân đối kế toán Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Thuyết minh báo cáo tài chính Bảng cân đối tài khoản Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước Trong đó, bảng cân đối tài khoản và tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước chỉ đươc gửi cho cơ quan thuế. Về cơ bản, hệ thống BCTC này cũng tương tự như các BCTC dùng cho các doanh nghiệp nhà nước; BCLCTT sử dụng mẫu giống như ở các doanh nghiệp nhà nước; BCĐKT, BCKQHĐKD, thuyết minh BCTC có kết cấu tương tự như các báo cáo này ở doanh nghiệp nhà nước nhưng giảm bớt số chỉ tiêu. II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH THÔNG QUA HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH 1. Khái niệm và ý nghía của việc phân tích tình hình tài chính Phân tích báo cáo tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu, so sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ. Thông qua phân tích báo cáo tài chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai. Mục đích quan trọng nhất của phân tích báo cáo tài chính là giúp những người ra quyết định đánh giá chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp; từ đó lựa chọn phương pháp kinh doanh tối ưu. Bởi vậy, việc phân tích báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều đối tượng (chủ doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức tín dụng, nhà cung cấp vật tư, nhà đầu tư, cơ quan tài chính, cơ quan thuế, thống kê, người lao động…) 2. Vai trò của hệ thống BCTC với việc phân tích tình hình tài chính Báo cáo tài chính là phương tiện để doanh nghiệp trình bày khả năng sinh lời và tình hình tài chính cho những đối tượng quan tâm biết. Nó phản ánh các chỉ tiêu kết quả và tình hình các mặt hoạt động của doanh nghiệp bằng giá trị. Báo cáo tài chính cung cấp những thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu để đánh giá tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong thời kỳ hoạt động đã qua, giúp cho việc kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn và khả năng huy động vốn, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, hệ thống báo cáo tài chính được đánh giá là tài liệu quan trọng nhất trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp 3. Phương pháp và quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp 3.1. Phương pháp phân tích Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua hệ thống báo cáo tài chính, các nhà phân tích chủ yếu sử dụng các phương pháp như: phương pháp so sánh, phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích, phương pháp liên hệ cân đối, phương pháp loại trừ, phương pháp kết hợp…Sau đây là nội dung và cách vận dụng của một số phương pháp phân tích sử dụng chủ yếu: 3.1.1. Phương pháp so sánh Là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Trong phân tích báo cáo tài chính, phương pháp so sánh thường được sử dụng bằng cách so sánh ngang (còn gọi là phân tích ngang) và so sánh dọc (còn gọi là phân tích dọc). So sánh báo cáo ngang báo cáo tài chính là việc so sánh, đối chiếu tình hình biến động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu của từng báo cáo tài chính; còn so sánh dọc là việc sử dụng các tỷ suất, các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo để rút ra kết luận. Phương pháp so sánh thường được sử dụng dưới các dạng sau: So sánh bằng số tuyệt đối Số tuyệt đối được sử dụng để phản ánh quy mô của các hiện tượng, sự vật, hoạt động…So sánh bằng số tuyệt đối sẽ cung cấp thông tin về mức độ biến động của chỉ tiêu nghiên cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc biểu hiện bằng tiền, hiện vật hay giờ công cụ thể. So sánh bằng số tương đối So sánh bằng số tương đối cho thấy kết cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển và mức độ phổ biến của chỉ tiêu nghiên cứu. Trong so sánh thường sử dụng các dạng so ánh tương đối như: so sánh bằng số tương đối giản đơn, so sánh bằng số tương đối liên hệ, so sánh bằng số tương đối kết hợp, so sánh bằng số tương đối động thái, so sánh bằng số tương đối kết cấu, so sánh bằng số tương đối hiệu suất. So sánh bằng số bình quân Số bình quân san bằng mọi chênh lệch về trị số của chỉ tiêu nghiên cứu, nó phản ánh mức độ bình quân hay đặc điểm điển hình của đối tượng nghiên cứu. Khi so sánh bằng số bình quân, các nhà quản lý sẽ biết được mức độ mà doanh nghiệp đạt được so với bình quân chung của tổng thể, của ngành,…Từ đó, xác định được vị trí của doanh nghiệp. 3.1.2. Phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích 3.1.2.1. Phương pháp loại trừ Để xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích, các nhà phân tích sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó phương pháp loại trừ được sử dụng phổ biến. Theo phương pháp này,._. để nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó, nhà phân tích phải loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố còn lại. Đặc trưng nổi bật của phương pháp loại trừ là luôn đặt đối tượng phân tích vào các trường hợp giả định khác nhau để xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu nghiên cứu. Phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích dưới 2 dạng: phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch. 3.1.2.2. Phương pháp liên hệ cân đối Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp hình thành nên rất nhiều mối liên hệ cân đối về lượng giữa hai mặt của các yếu tố. Điều này dẫn đến sự cân bằng về mức biến động giữa kỳ phân tích và kỳ gốc của chúng. Dựa vào các mối quan hệ cân đối này, người phân tích sẽ xác định được ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích. 3.1.2.3. Phương pháp kết hợp Phương pháp kết hợp cũng là một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích hoạt động kinh doanh nói chung và phân tích báo cáo tài chính nói riêng. Được gọi là phương pháp kết hợp vì trong quá trình nghiên cứu đối tượng của mình, các nhà phân tích phải sử dụng kết hợp một số phương pháp phân tích với nhau. Chẳng hạn, kết hợp phương pháp so sánh với phương pháp đồ thị, kết hợp phương pháp loại trừ với phương pháp liên hệ cân đối, kết hợp phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích với mô hình toán…Điều này là cần thiết vì đối tượng phân tích rất đa dạng và phong phú, do vậy, mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích không phải bao giờ cũng theo một hướng hay cùng một loại. Ngoài ra, việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp sẽ làm nổi bật đặc trưng của đối tượng phân tích. Ngoài các phương pháp phổ biến trên, phân tích tài chính còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp xác định giá trị theo thời gian của tiền, phương pháp chỉ số, phương pháp đại số, phương pháp đồ thị, phương pháp toán kinh tế,… để nghiên cứu đối tượng của mình. 3.2. Tổ chức phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp Hoạt động tài chính là một trong những hoạt động cơ bản trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và kết quả này có tác động mang tính chất quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động tài chính. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng này, sau khi kết thúc việc phân tích toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, cần tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Việc tổ chức phân tích tình hình tài chính được tiến hành như sau: Chuẩn bị phân tích Việc chuẩn bị phân tích bao gồm xác định mục tiêu phân tích và chương trình phân tích. Xác định mục tiêu phân tích là việc doanh nghiệp xác định những nguyên nhân ảnh hưởng và qua đó đánh giá chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp để lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu. Xác định chương trình phân tích là việc xác định các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính doanh nghiệo, xác định các phương pháp tiến hành phân tích, chỉ định người thực hiện phân tích. Các chỉ tiêu có rất nhiều do đó, việc xác định chỉ tiêu phân tích là các định những chỉ tiêu quan trọng có ảnh hưởng đến hoạt động đặc thù của doanh nghiệp. Tiến hành phân tích Người tiến hành phân tích thường là kế toán tổng hợp, thực hiện dưới sự hướng dẫn của kế toán trưởng. Khi tiến hành phân tích, trước hết, kế toán thu thập thông tin. Các thông tin sử dụng thương là các thông tin tài chính trên hệ thống BCTC, ngoài ra kế toán còn sử dụng các thông tin trực tiếp trên sổ sách kế toán cũng như các thông tin phi tài chính khác… Tiếp đến doanh nghiệp sử dụng các phương pháp phân tích tiến hành phân tích thông tin tài chính thu thập được. Các phương pháp doanh nghiệp thường sử dụng để phân tích là phương pháp loại trừ, phương pháp liên hệ cân đối, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tỷ lê… Cuối cùng, doanh nghiệp đánh giá,dự đoán tình hình hoạt động dựa trên kết quả phân tích. Hoàn thành phân tích Các báo cáo phân tích tài chính của doanh nghiệp là kết quả của quá trình phân tích. Báo cáo là sự tổng kết quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian qua và xác định những nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả đó. Qua báo cáo này sẽ thấy được điểm mạnh cũng như hạn chế của doanh nghiệp. Các báo cáo này sẽ được cung cấp cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin của doanh nghiệp. 4. Nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp 4.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính Đánh giá khái quát tình hình tài chính là việc xem xét, nhận định về sơ bộ bước đầu về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Công việc này sẽ cung cấp cho nhà quản lý biết được thực trạng tài chính cũng như đánh giá được sức mạnh tài chính của doanh nghiệp, nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp là khả quan hay không. Đánh giá tình hình tài chính bắt đầu từ việc xem xét sự biến động của nguồn vốn sau đó so sánh một số chỉ tiêu phản ánh mức độ độc lập về mặt tài chính. Cụ thể các chỉ tiêu đánh giá khái quát như sau: - Tổng nguồn vốn Một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động tài chính là huy động vốn. Sự biến động của tổng nguồn vốn cuối kỳ so với đầu năm là một trong những chỉ tiêu đánh giá khả năng tổ chức, huy động vốn của doanh nghiệp. - Hệ số tài trợ: Hệ số tài trợ phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết, trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm mấy phần. Trị số của chỉ tiêu này càng lơn chứng tỏ khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Hệ số tài trợ: = - Hệ số tự tài trợ (hệ số vốn chủ sở hữu trên tài sản): Là chỉ tiêu cho biết mức độ đầu tư vốn chủ sở hữu vào tài sản dài hạn là bao nhiêu. Trị số của chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ vốn chủ sở hữu được đầu tư vào tài sản dài hạn càng lớn. Đây là yếu tố giúp doanh nghiệp tự đảm bảo về mặt tài chính nhưng hiệu quả kinh doanh không cao do vốn đầu tư tập trung chủ yếu vào tài sản nên phần sử dụng vào kinh doanh quay vòng để sinh lợi sẽ ít đi. Hệ số tự tài trợ = - Tỷ suất đầu tư Tỷ suất đầu tư là chỉ tiêu phản ánh tỷ trọng của tài sản dài hạn chiếm trong tổng số tài sản, nó phản ánh cấu trúc tài sản của doanh nghiệp. Trị số này phụ thuộc rất lớn vào ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ suất đầu tư = Tỷ suất đầu tư có thể tính chung cho toàn bộ tài sản dài hạn (tỷ suất đầu tư tổng quát) hay tính riêng cho từng bộ phận của tài sản dài hạn (tỷ suất đầu tư tài sản cố định, tủ suất đầu tư tài chính dài hạn,…); trong đó tỷ suất đầu tư tài sản cố định được sử dụng phổ biến, phản ánh giá trị còn lại của tài sản cố định chiếm trong tổng số tài sản là bao nhiêu. - Suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE): Suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu phản ánh khái quát nhất hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Khi xem xét ROE, các nhà quản lý biết được một đơn vị vốn chủ sở hữu đầu tư vào kinh doanh đem lại mấy đơn vị lợi nhuận sau thuế. Trị số ROE càng cao, hiệu quả sử dụng vốn càng cao và ngược lại. Suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu = Trong đó: Vốn chủ sở hữu bình quân = 4.2. Phân tích cấu trúc tài chính và tình hình bào đảm vốn cho hoạt động kinh doanh Phân tích cấu trúc tài chính là phân tích khái quát tình hình huy động, sử dụng vốn của doanh nghiệp. Qua đó sẽ nắm được tình hình phân bổ tài sản và các nguồn tài trợ tài sản, biết được nguyên nhân cũng như các dấu hiệu ảnh hưởng đến cân bằng tài chính. Phân tích cấu trúc tài chính xem xét cả cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn; bởi vì cơ cấu tài sản phản ánh tình hình sử dụng vốn, cơ cấu nguồn vốn phản ánh tình hình huy động vốn, còn mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn phản ánh chính sách sử dụng vốn của doanh nghiệp. 4.2.1. Phân tích cơ cấu và tình hình biến động của tài sản Việc phân tích cơ cấu tài sản được tiến hành bằng cách tính ra và so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản theo công thức: = x 100 Để thuận tiện cho việc đánh giá cơ cấu tài sản, có thể lập bảng sau: Bảng 1: Bảng phân tích cơ cấu tài sản Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm Cuối năm so với đầu năm Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng 1 2 3 4 5 6 7 I.Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 1. Tiền 2. Các khoản phải thu 8. Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ 9. Hàng tồn kho 11. Tài sản lưu động khác II. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn 1. Tài sản cố định - Nguyên giá - Giá trị hao mòn luỹ kế 5. Chi phí trả trước dài hạn Tổng cộng 4.2.2. Phân tích cơ cấu và tình hình biến động nguồn vốn Phân tích cấu trúc nguồn vốn cũng tiến hành tương tự như phân tích cấu trúc tài sản cố định, tính tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn theo công thức: = x100 Để thuận tiện cho việc phân tích cấu trúc nguồn vốn, có thể sử dụng bảng sau: Bảng 2: Phân tích cấu trúc nguồn vốn Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm Cuối kỳ so với đầu năm Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng 1 2 3 4 5 6 7 I- NỢ PHẢI TRẢ 1. Nợ ngắn hạn - Vay ngắn hạn - Phải trả cho ngời bán - Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước - Phải trả người lao động - Các khoản phải trả ngắn hạn khác 2. Nợ dài hạn II. NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU 1. Nguồn vốn kinh doanh 2. Lợi nhuận chưa phân phối Tổng cộng 4.2.3. Phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn Khi phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn ta tính và so sánh các chỉ tiêu sau: - Hệ số nợ so với tài sản: chỉ tiêu này phản ánh mức độ tài trợ tài sản của doanh nghiệp bằng các khoản nợ. Hệ số nợ so với tài sản càng cao chứng tỏ mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp vào chủ nợ càng lớn, mức độ độc lập về mặt tài chính thấp. Điều này sẽ là khó khăn của doanh nghiệp khi tiếp cận với các khoản vay. = - Hệ số tài sản so với vốn chủ sở hữu: là chỉ tiêu phản ánh mức độ đầu tư tài sản của doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu. Trị số của chỉ tiêu này nếu càng lớn hơn 1 thì mức độ độc lập của doanh nghiệp về mặt tài chính càng thấp vì tài sản của doanh nghiệp chỉ được tài trợ một phần bằng vốn chủ sở hữu. = 4.2.4. Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty cần có tài sản. Việc đảm bảo đầy đủ nhu cầu về tài sản (hay nhu cầu về vốn) là một vấn đề trọng yếu để bảo đảm cho quá trình kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả. Nguồn vốn của doanh nghiệp được hình thành trước hết từ nguồn vốn chủ sở hữu (do các thành viên góp vốn, có bổ sung trong quá trình kinh doanh). Sau đó là nguồn vốn vay (ngắn hạn, dài hạn, trung hạn ở ngân hàng hay các tổ chức khác) và nguồn vốn được hình thành do chiếm dụng trong quá trình thanh toán (cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp). Xét trên góc độ ổn định về nguồn tài trợ tài sản, toàn bộ nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành nguồn tài trợ thường xuyên và nguồn tài trợ tạm thời. Nguồn tài trợ thường xuyên bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay – nợ dài hạn, trung hạn. Nguồn tài trợ tạm thời là nguồn tài trợ mà doanh nghiệp tạm thời sử dụng vào hoạt động kinh doanh trong một thời gian ngắn, bao gồm các khoản vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn, các khoản vay nợ quá hạn, các khoản chiếm dụng trong quá trình thanh toán. Để phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, trước hết là xem xét sự cân bằng tài chính: Cân bằng tài chính được thể hiện qua đẳng thức: Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn = Nguồn tài trợ thường xuyên + Nguồn tài trợ tạm thời Đẳng thức trên được biến đổi thành: Tài sản ngắn hạn - Nguồn tài trợ tạm thời = Nguồn tài trợ thường xuyên - Tài sản dài hạn Vế trái được gọi và “Vốn hoạt động thuần”, là chỉ tiêu phản ánh số vốn mà doanh nghiệp dùng để duy trì những hoạt động bình thường, thường xuyên của doanh nghiệp. Với cách xác định này, chỉ tiêu “Vốn hoạt động thuần” có thể có giá trị =0. Nếu vốn hoạt động thuần <0: nguồn tài trợ thường xuyên của doanh nghiệp không đủ để tài trợ cho tài sản dài hạn, nên phải bù đắp bằng nợ ngắn hạn. Doanh nghiệp ở tình trạng chịu áp lực nặng nề về thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán mất cân bằng. Nếu vốn hoạt động thuần = 0: nguồn tài trợ thường xuyên của doanh nghiệp vừa đủ để tài trợ cho tài sản dài hạn. Cân bằng tài chính tương đối ổn định, tuy nhiên vẫn có nguy cơ xảy ra “cân bằng xấu” Nếu vốn hoạt động thuần >0: nguồn tài trợ của doanh nghiệp vừa không những được sử dụng để tài trợ cho tài sản dài hạn mà còn tài trợ một phần cho tài sản ngắn hạn. Cân bằng tài chính ổn định, bền vững Ngoài ra khi phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh, để có nhận xét xác đáng và chính xác về tình hình bảo đảm vốn, các nhà phân tích còn tính và so sánh các chỉ tiêu sau: - Hệ số tài trợ thường xuyên: chỉ tiêu này cho biết, so với tổng nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp, nguồn tài trợ thường xuyên chiếm bao nhiêu phần. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn thì tính ổn định và cân bằng tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. = - Hệ số tài trợ tạm thời: chỉ tiêu này cho biết, so với tổng nguồn tài trợ tài sản, nguồn tài trợ tạm thời chiếm mấy phần. Trị số của chỉ tiêu này càng nhỏ, tính ổn định và cân bằng tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. = - Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn vốn thường xuyên: chỉ tiêu này cho biết, trong tổng nguồn tài trợ thường xuyên, số vốn chủ sở hữu chiếm mấy phần. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn, tính tự chủ và độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. = - Hệ số giữa nguồn tài trợ thường xuyên so với tài sản: chỉ tiêu này cho biết mức độ tài trợ tài sản dài hạn bằng nguồn vốn thường xuyên. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn, tính ổn định và bền vững về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. = - Hệ số giữa tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn: chỉ tiêu này cho biết mức độ tài trợ tài sản ngắn hạn bằng nợ ngắn hạn là cao hay thấp. Trị số này càng lớn hơn 1, tính ổn định và bền vững về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. = 4.3. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán 4.3.1. Phân tích tình hình thanh toán Phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp hay phân tích tình hình thanh toán các khoản phải thu, các khoản phải trả của doanh nghiệp có thể cho ta đánh giá được chất lượng hoạt động tài chính cũng như việc chấp hành kỷ luật thanh toán. Một doanh nghiệp có hoạt động tài chính tốt và sáng sủa sẽ không có tình trạng nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau và ngược lại. Vì vậy, việc phân tích tình hình thanh toán của một doanh nghiệp rất quan trọng vì thông qua đó có thể đánh giá được chất lượng và hiệu quả hoạt động tài chính. Phân tích các khoản phải thu, phải trả gồm 3 phần: - Phân tích các khoản phải thu - Phân tích các khoản phải trả - Phân tích một số chỉ tiêu làm rõ hơn tình hình thanh toán của công ty Để nắm rõ hơn tình hình thanh toán và các khoản nợ phải thu và các khoản nợ phải trả trong kỳ của doanh nghiệp, cần tiến hành so sánh các khoản nợ phải thu, phải trả giữa cuối kỳ và đầu kỳ trên tổng số cũng như trên từng khoản nợ phải thu, nợ phải trả và dựa vào tình hình biến động của từng chỉ tiêu để đưa ra nhận xét. - Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả: = Nếu tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả lớn hơn 100%, chứng tỏ số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng lớn hơn số vốn mà doanh nghiệp đi chiếm dụng. Ngược lại thì chứng tỏ vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng nhỏ hơn số vốn doanh nghiệp đi chiếm dụng. - Tỷ lệ các khoản nợ phải trả so với các khoản nợ phải thu: chỉ tiêu này phản ánh các khoản doanh nghiệp đi chiếm dụng so với các khoản bị chiếm dụng. = x 100 - Số vòng quay các khoản phải thu: phản ánh trong kỳ kinh doanh, các khoản phải thu quay được mấy vòng. = Trong đó : = Chỉ tiêu này cho biết mức hợp lý của số dư các khoản phải thu và hiệu quả của việc đi thu hồi nợ. Nếu số vòng quay của các khoản phải thu lớn, chứng tỏ doanh nghiệp thu hồi tiền hàng kịp thời, ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, số vòng quay các khoản phải thu nếu quá cao sẽ không tốt vì có thể ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ (chủ yếu là thanh toán trong thời gian ngắn). Thực chất chỉ tiêu này sử dụng để phân tích tình hình thanh toán với người mua về hàng hóa, dịch vụ,…đã cung cấp. - Hệ số giữa nợ phải thu so với tổng số tiền hàng bán chịu: = Ngược với số vòng quay các khoản phải thu, hệ số giữa nợ phải thu với tổng số tiền hàng bán chịu lại cho các nhà quản lý biết được: cứ một đồng tiền hàng bán chịu trong kỳ thì cuối kỳ còn phải thu bao nhiêu. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ nợ còn phải thu cuối kỳ tính trên tổng số tiền hàng bán chịu càng cao do vậy doanh nghiệp càng bị chiếm dụng tiền hàng. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa doanh thu với số nợ phải thu, thông thường, doanh thu bán hàng tăng thì số nợ phải thu tăng theo. Vì vậy phải xem xét mối quan hệ này khi đánh giá nợ phải thu. - Thời gian thu tiền: Thời gian thu tiền = Hay: = Thời gian thu tiền càng ngắn, chứng tỏ tốc độ thu tiền hàng càng nhanh, doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn. Ngược lại, thời gian thu tiền càng dài, chứng tỏ tốc độ thu hồi tiền hàng càng chậm, số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng nhiều. Tuy nhiên thời gian thu tiền ngắn quá sẽ gây khó khăn cho người mua. 4.3.2. Phân tích khả năng thanh toán Khả năng thanh toán của doanh nghiệp cho biết năng lực tài chính trước mắt và lâu dài của doanh nghiệp. Việc phân tích khả năng thanh toán đánh giá được sức mạnh tài chính hiện tại, tương lai cũng như dự đoán được tiềm lực trong thanh toán và an ninh tài chính của doanh nghiệp. Để phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, cần tiến hành phân tích các hệ số như: hệ số thanh toán tổng quát, hệ số thanh toán hiện hành, hệ số thanh toán nợ ngắn hạn, hệ số thanh toán nhanh… - Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn Hệ số này được tính theo công thức: Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn= Hệ số này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình tình tài chính là bình thường. - Hệ số khả năng thanh toán nhanh Hệ số này được tính theo công thức: Hệ số khả năng thanh toán nhanh= Còn gọi là “hệ số khả năng thanh toán tức thời” hay “hệ số thanh toán nhanh”, là chỉ tiêu được dùng để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp bằng tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Thực tế cho thấy, hệ số thanh toán nhanh nếu >0.5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan, còn nếu <0.5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ. - Hệ số khả năng thanh toán của tài sản ngắn hạn Hệ số này được tính theo công thức: Hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn= Thông thường, nếu hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn tính ra lớn hơn 0.5 thì lượng tiền và tương đương tiền của doanh nghiệp quá nhiều, bảo đảm thừa khả năng thanh toán; còn nếu nhỏ hơn 0.1 thì doanh nghiệp không đủ tiền đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn. Như vậy, thừa tiền hay thiếu tiền đều phản ánh một tình hình tài chính không bình thường, nếu thừa, sẽ gây ứ đọng vốn giảm hiệu quả sử dụng vốn; nếu thiếu sẽ không bảo đảm khả năng thanh toán. - Hệ số khả năng thanh toán của tiền và các khoản tương đương tiền Vì các chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn”, “Hệ số khả năng thanh toán nhanh”, “Hệ số khả năng thanh toán của tài sản ngắn hạn” mang tính thời điểm, cơ sở tính toán chủ yếu dựa trên Bảng cân đối kế toán nên trong nhiều trường hợp các chỉ tiêu này không phản ánh đúng tình trạng tài chính thực tế của doanh nghiệp, nên để khắc phục tình trạng này phải tính thêm chỉ tiêu “ Hệ số khả năng thanh toán của tiền và các khoản tương đương tiền”. Hệ số này khắc phục được nhược điểm cả 3 hệ số trên vì nó được xác định cho cả kỳ kinh doanh. Chỉ tiêu này được tính theo công thức: = - Hệ số khả năng thanh toán = Hệ số khả năng thanh toán được tính cho cả thời kỳ hoặc cho từng giai đoạn. Nếu trị số của chỉ tiêu >1 chứng tỏ doanh nghiệp bảo đảm khả năng thanh toán và tình hình tài chính bình thường. Trị số càng lớn hơn 1 thì khả năng thanh toán càng dồi dào, an ninh tài chính càng vững chắc. Ngược lại, trị số chỉ tiêu này càng nhỏ hơn 1 doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán. Khi hệ số này xấp xì 0 thì doanh nghiệp bị phát sản, không còn khả năng thanh toán. 4.4. Phân tích hiệu quả kinh doanh Nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề bao trùm và xuyên suốt mọi hoạt động kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh không những là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý mà còn là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì trước hết kinh doanh phải mang lại hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện đầu tư, mua sắm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và quy trình công nghệ mới… Để phân tích hiệu quả kinh doanh nói chung, trước hết các nhà phân tích xác định các chỉ tiêu vốn sản xuất bình quân Vốn sản xuất bình quân = Sau đó lập các bảng: Bảng 3: Bảng các chỉ tiêu vốn bình quân Chỉ tiêu Năm N Năm N+1 Đầu năm Cuối năm Đầu năm Cuối năm 1. Vốn lưu động 2. Vốn lưu động bình quân 3. Vốn cố định 4. Vốn cố định bình quân 5. Tổng tài sản (nguồn vốn) 6. Tổng tài sản bình quân 7. Vốn chủ sở hữu 8. Vốn chủ sở hữu bình quân Bảng 4: Bảng phân tích hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh Chỉ tiêu Năm N Năm N+1 Năm N+1 so với năm N Số tiền % 1. Doanh thu thuần 2. LN trước thuế 3. Vốn SXKD bình quân 4. HSSD vốn SXKD 5. TSLN trên vốn sản xuất kinh doanh Trong đó: Hiệu suất sử dụng vốn SXKD = = Hiệu suất sử dụng vốn sản xuất kinh doanh cho biết một đơn vị vốn dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần Tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất kinh doanh cho biết cứ 1 đơn vị vốn dùng cho hoạt động sản xuất kinh thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để thấy rõ hơn hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, các nhà phân tích tiếp tục tiến hành phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định. - Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn cố định được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: - Sức sản xuất của vốn cố định = Chỉ tiêu “Sức sản xuất của VVĐ” cho biết cứ 1 đồng vốn cố định bình quân có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. - Sức sinh lợi của vốn cố định = Chỉ tiêu “Sức sinh lợi của VCĐ” cho thấy 1đ VCĐ bình quân tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế. - = Chỉ tiêu “Số vòng quay của VCĐ” cho biết trong năm kinh doanh VCĐ của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng. - = - Hệ số đảm nhiệm của VCĐ = Chỉ tiêu “Hệ số đảm nhiệm của VCĐ” là nghịch đảo của chỉ tiêu của vòng quay của VCĐ, cho biết mức độ lãng phí của VCĐ, tức là để có 1 đ doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng VCĐ. . - Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động Hiệu quả sử dụng vốn lưu động, thể hiện qua các chỉ tiêu sau: - Sức sản xuất của vốn lưu động = Chỉ tiêu “Sức sản xuất của VLĐ” cho biết cứ 1 đồng vốn lưu động bình quân có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. - Sức sinh lợi của vốn lưu động = Chỉ tiêu “Sức sinh lợi của VLĐ” cho thấy 1đ VLĐ bình quân tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế. - = Chỉ tiêu “Số vòng quay của VLĐ” cho biết trong năm kinh doanh VLĐ của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng. - = - Hệ số đảm nhiệm của VLĐ = Chỉ tiêu “Hệ số đảm nhiệm của VLĐ” là nghịch đảo của chỉ tiêu của vòng quay của VLĐ, cho biết mức độ lãng phí của VLĐ. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY THIẾT BỊ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CETT I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY THIẾT BỊ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CETT 1. Qúa trình hình thành và phát triển của công ty CETT Tóm tắt một vài nét về công ty: Tên công ty: Công ty TNHH Thiết bị và chuyển giao công nghệ Tên tiếng Anh: Equipment and Technology Transfer Company Limited. Tên viết tắt: CETT Co.,Ltd. Trụ sở chính: Số 4, lô 12B, khu đô thị mới Trung Yên, Phường Trung Hoà, Quận Cầu Giấy, Hà Nội. Tel: (84 4) 7830636 - Fax: (84 4) 7830634 Loại hình doanh nghiệp: Công ty TNHH 2 thành viên trở lên Công ty TNHH Thiết bị và Chuyển giao công nghệ có giấy đăng ký kinh doanh số 0102004199 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp, đăng ký lần đầu ngày 19/12/2001, đăng ký thay đổi lần thứ 3 ngày 21/4/2005, với số vốn điều lệ là 4 tỷ đồng, do 9 thành viên góp vốn. Công ty Thiết bị & Chuyển giao công nghệ - CETT vốn là Trung tâm Thiết bị & Chuyển giao công nghệ (CET) của Công ty Máy tính Truyền thông CMC (CMC group), được thành lập năm 1996. Mặc dù là một bộ phận của Công ty Máy tính Truyền thông CMC nhưng Trung tâm CET hoạt động tương đối độc lập, cuối năm 2001 Trung tâm CET đã quyết định tách khỏi Công ty CMC và thành lập Công ty Thiết bị &Chuyển giao công nghệ (CETT). Sau khi tách ra khỏi Công ty CMC trở thành công ty riêng, hoạt động độc lập Trung tâm CET đổi tên là Công ty TNHH Thiết bị & Chuyển giao công nghệ- CETT. Từ đó đến nay, công ty ngày càng hoàn thiện mạng lưới phân phối, cung cấp được các sản phẩm và dịch vụ có chất lượng tốt, tạo được uy tín với khách hàng, trở thành nhà cung ứng thiết bị và dịch vụ sau bán hàng có tiếng trên thị trường. 2. Đặc điểm kinh doanh. 2.1. Đặc điểm sản phẩm Công ty hợp tác với các nhà sản xuất, chế tạo có tiếng trên thế giới, nhằm cung cấp các thiết bị và giải pháp công nghệ cao tối ưu cho nhiều lĩnh vực như: Thiết bị đo lường và kiểm định Thiết bị giáo dục và dạy nghề (thiết bị giảng dạy; phòng học đa phương tiện; phòng thí nghiệm…) Giải pháp và chuyển giao công nghệ (tích hợp hệ thống thu thập và xử lý dữ liệu; tích hợp giải pháp cho hệ thống đo lường và thu thập số liệu với phần mềm PC; cung cấp thiết bị và tích hợp hệ thống trong ngành hàng không…) Dịch vụ kỹ thuật (kiểm tra, bảo hành, lắp đặt và đào tạo; dịch vụ sau bán hàng ) 2.2. Đặc điểm khách hàng Công ty kinh doanh chủ yếu qua hình thức đấu thầu, khách hàng mục tiêu gồm: Bộ Bưu chính viễn thông, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Khoa học và công nghệ, Bộ Tài nguyên và môi trường… Tổng cục tiêu chuẩn Đo lường và Chất lượng, Trung tâm đo lường quốc gia, Trung tâm kiểm định đo lường chất lượng các tỉnh, Tổng công ty điện lực Việt Nam và các công ty thành viên, Các công ty xây lắp điện Các công ty xây dựng, công ty công trình giao thông, cầu đường, các công ty tư vấn, thiết kế và kiểm định chất lượng công trình Các trường đại học, cao đẳng, trung học, các trường dạy nghề, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu khoa học 2.3. Đặc điểm thị trường tiêu thụ Công ty CETT kinh doanh trên cả 3 thị trường Bắc, Trung, Nam nhưng tập trung ở miền Bắc mà cụ thể là Hà Nội bởi đặc điểm khách hàng của công ty là các trường đại học, các viện nghiên cứu, các cơ quan trung ương… tập trung chủ yếu tại đây. Giá trị hợp đồng theo từng khu vực năm 2005 thể hiện qua bảng sau: Bảng 5: Thị trường tiêu thụ của công ty theo khu vực Khu vực Giá trị hợp đồng Tỷ lệ phần trăm Miền Bắc 65,666,802,867 74,08% Miền Trung 6,639,197,861 7,49% Miền Nam 16,334,424,975 18,43% Tổng cộng 88,640,425,703 100% 3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý. Sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty: Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy công ty Phòng kỹ thuật, bảo hành và dịch vụ sau khách hàng Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng Chi nhánh tại Tp. Hồ Chí Minh Trụ sở chính tại Hà Nội Hệ thống tư vấn và dịch vụ Phòng Kế toán Phòng xuất nhập khẩu Phòng hành chính Phòng kinh doanh Phòng Marketing Giám đốc Hội đồng thành viên 4. Kết quả hoạt động kinh doanh trong những năm gần đây. Nhìn chung, công ty có xu hướng phát triển khá tốt, hoạt động kinh doanh có lãi. Kết quả kinh doanh của công ty trong 3 năm gần đây được thể hiện qua bảng tổng hợp báo cáo kết quả kinh doanh sau: Bảng 6: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2005 Đơn vị tính: đồng STT Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 1 Doanh thu thuần 44,568,721,086 58,576,407,024 61,521,795,809 2 Gía vốn hàng bán 38,915,768,068 51,638,377,394 53,647,539,399 3 Chi phí quản lý kinh doanh 5,191,160,865 6,424,160,590 7,462,839,647 4 Chi phí hoạt động tài chính 208,398,906 145,818,861 90,476,850 5 Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh 253,393,247 368,050,179 320,939,913 6 Lãi khác 3,427,732 7 Lỗ khác 8 Tổng lợi nhuận kế toán 253,393,247 371,477,911 320,939,913 9 Tổng lợi nhuận chịu thuế thu nhập doanh nghiệp 253,393,247 371,477,911 320,939,913 10 Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp 81,085,839 104,013,815 89,863,176 11 Lợi nhuận sau thuế 172,307,408 267,464,096 231,076,737 II. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN CỦA CÔNG TY CETT 1. Tổ chức bộ máy kế toán Công ty tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình tập trung. Theo mô hình này toàn bộ công việc kế toán từ khâu thu nhận, xử lý, luân chuyển chứng từ, ghi sổ kế toán, lập báo cáo kế toán, phân tích hoạt động kinh doanh đều được tập trung ở phòng kế toán. Các đơn vị phụ thuộc (Chi nhánh tại Tp. Hồ Chí Minh, văn phòng đại diện tại Đà Nẵng) không có bộ phận kế toán riêng mà chỉ có một số nhân viên là nhiệm vụ hạch toán ban đầu, thu nhận, kiểm tra, tổng hợp, phân loại chứng từ phát sinh ở đơn vị mình, sau đó gửi chứng từ về phòng kế toán tại trụ sở chính. Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán như sau: Sơ đồ 2: Tổ chức bộ máy kế toán Kế toán trưởng Kế toán thuế, hàng hoá và công nợ Thủ quỹ Kế toán tiền gửi ngân hàng Kế toán tiền mặt, tiền lương Nhân viên ở đơn vị trực thuộc - Bộ phận kế toán của công ty CETT có các chức năng sau: Bộ phận Kế toán có chức năng tư vấn cho giám đốc những vấn đề liên quan đến tài chính và kế toán, có trách nhiệm tổ chức và thực hiện công tác kế toán của công ty. Cụ thể là: - Kiểm tra ._.4,846 552,679,797 552,679,797 667,050,056 4. Vốn cố định bình quân 423,447,322 609,864,927 5. Tổng tài sản (nguồn vốn) 13,314,607,172 23,461,439,766 23,461,439,766 24,811,259,801 6. Tổng tài sản bình quân 18,388,023,469 24,136,349,784 7. Vốn chủ sở hữu 4,059,858,854 4,120,000,000 4,120,000,000 4,191,076,543 8. Vốn chủ sở hữu bình quân 4,089,929,427 4,155,538,272 Bảng20: Phân tích hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2005 so với năm 2004 Số tiền % 1. Doanh thu thuần 58,576,407,024 61,521,795,809 2,945,388,785 5.03 2. LN trước thuế 371,477,911 320,939,643 -50,538,268 -13.60 3. Vốn SXKD bình quân 18,388,023,469 24,136,349,784 5,748,326,315 31.26 4. HSSD vốn SXKD 3.186 2.549 -0.637 5. TSLN trên vốn sản xuất kinh doanh 0.020 0.013 -0.007 Trong đó: Hiệu suất sử dụng vốn SXKD = = Qua bảng tính toán ta thấy vốn sản xuất bình quân năm 2005 đã tăng lên so với năm 2004 là 5,748,326,315 đồng, tương ứng với 31.26%. Đồng thời doanh thu cũng tăng 2,945,388,785 đồng, tương ứng 5.03%. Tuy nhiên chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế năm 2005 lại giảm so với năm 2004 là 50,538,268 đồng hay giảm 13.6%. Điều này đã làm cho hiệu suất sử dụng vốn sản xuất bình quân và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đều giảm. Hiệu suất sử dụng vốn sản xuất kinh doanh cho biết năm 2004 một đơn vị vốn dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại 3.186đ doanh thu thuần thì đến năm 2005 chỉ đem lại 2.459đ, giảm 0.637đ. Tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất kinh doanh cho biết năm 2004 cứ 1 đơn vị vốn dùng cho hoạt động sản xuất kinh thì đem lại 0.02đ lợi nhuận, năm 2005 đem lại 0.013đ đã giảm so với năm trước là 0.007đ. Như vậy hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty đã giảm. Để thấy rõ hơn hiệu quả sử dụng vốn của công ty, ta tiếp tục tiến hành phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định. Tuy nhiên do vốn cố định ở công ty CETT chiếm tỷ lệ rất nhỏ, không có ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của công ty nên ta có thể không chú trọng đến chỉ tiêu này. - Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, ta sử dụng hệ thống các chỉ tiêu sau: - Sức sản xuất của vốn lưu động = - Sức sinh lợi của vốn lưu động = - = - = - Hệ số đảm nhiệm của VLĐ = Ta lập bảng phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động sau: Bảng 21: Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch Giá trị % 1. Tổng doanh thu thuần 58,576,407,024 61,521,795,809 2,945,388,785 5.03 2. Lợi nhuận trước thuế 371,477,911 320,939,643 -50,538,268 -13.60 3. VLĐ bình quân 17,964,576,148 23,526,484,857 5,561,908,710 30.96 4. Sức sản xuất của VLĐ 3.261 2.615 -0.646 -19.80 5. Sức sinh lời của VLĐ 0.021 0.014 -0.007 -34.03 6. Số vòng quay của VLĐ 3.261 2.615 -0.646 -19.80 7. Thời gian một vòng quay của VLĐ 110.41 137.67 27.260 24.69 8. Hệ số đảm nhiệm của VLĐ 0.307 0.382 0.076 24.69 Qua bảng phân tích trên ta thấy: - Chỉ tiêu “Sức sản xuất của VLĐ” cho biết cứ 1 đồng vốn lưu động bình quân có khả năng tạo ra 3.261 đồng doanh thu thuần trong năm 2004, 2.625 đồng doanh thu thuần trong năm 2005 (giảm 0.646đ, tương ứng với 19.8%). Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn lưu động năm 2005 đã giảm so với năm 2004 do tốc độ tăng của doanh thu thuần thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng của vốn lưu động bình quân. - Chỉ tiêu “Sức sinh lợi của VLĐ” cho thấy 1đ VLĐ bình quân tạo ra 0.021đ lợi nhuận trước thuế năm 2004, nhưng chỉ tạo ra được 0.014đ lợi nhuận trước thuế năm 2005 (giảm 0.007đ, tương ứng với 34.03%). Ta thấy lợi nhuận trước thuế giảm trong khi VLĐ lại tăng mạnh. Điều này chứng tỏ Công ty đã không sử dụng vốn lưu động có hiệu quả. - Chỉ tiêu “Số vòng quay của VLĐ” cho thấy năm 2004 VLĐ của Công ty quay được 3.261 vòng, đến năm 2005 đã giảm xuống còn 2.615 vòng. Như vậy số vòng quay của vốn lưu động chậm hơn khiến cho công việc kinh doanh đã giảm hiệu quả. Điều này được thể hiện rõ hơn qua chỉ tiêu “Thời gian 1 vòng quay của VLĐ”. Năm 2004 thời gian của 1 vòng luân chuyển là 110.41 ngày, năm 2005 thời gian của 1 vòng quay là 137.67 ngày, tức là tăng lên 27.26 ngày. Chỉ tiêu “Hệ số đảm nhiệm của VLĐ” là nghịch đảo của chỉ tiêu của vòng quay của VLĐ, cho biết mức độ lãng phí của VLĐ. Năm 2004 để có 1 đ doanh thu thuần chỉ cần đến 0.307đ VLĐ. Năm 2005, do tốc độ luân chuyển của VLĐ chậm hơn năm 2004 nên để có 1đ doanh thu thuần phải cần đến 0.382đ VLĐ, tức là tăng 0.076đ Như vậy, thông qua phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ ta có thể kết luận rằng tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty chưa tốt, các chỉ tiêu đều giảm so với năm trước. 3.4.2. Phân tích khả năng sinh lợi của vốn kinh doanh Phân tích khả năng sinh lời của vốn kinh doanh được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: - = - = - = - = Ta lập bảng phân tích khả năng sinh lời của vốn như sau: Bảng 22: Phân tích khả năng sinh lời của vốn Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch Số tiền % 1. Doanh thu thuần 58,576,407,024 61,521,795,809 2,945,388,785 5.03 2. Vốn kinh doanh bình quân 18,388,023,469 24,136,349,784 5,748,326,315 31.26 3. Vốn chủ sở hữu bình quân 4,089,929,427 4,155,538,272 65,608,845 1.60 4. Lợi nhuận trước thuế 371,477,911 320,939,643 -50,538,268 -13.60 5. Tổng tài sản bình quân 18,388,023,469 24,136,349,784 5,748,326,315 31.26 6. Suất sinh lợi của vốn kinh doanh (của tài sản) (4/2) 0.020 0.013 -0.007 -34.18 7. Suất sinh lợi của VCSH (4/3) 0.091 0.077 -0.014 -14.97 8. Hệ số vòng quay của vốn CSH (1/3) 14.322 14.805 0.483 3.37 9. Suất sinh lợi của doanh thu thuần (4/1) 0.006 0.005 -0.001 -17.74 10. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản (4/5) 0.020 0.013 -0.007 -34.18 - Suất sinh lợi của doanh thu thuần cho biết trong năm 2004 1đ doanh thu thuần đem lại 0.006đ lợi nhuận trước thuế nhưng đến năm 2005 1đ doanh thu thuần chỉ đem lại 0.005đ lợi nhuận trước thuế. Điều này cho thấy suất sinh lợi của công ty có xu hướng phát triển không tốt. - Suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu năm 2004 là 0.091, tức là 1đ vốn chủ sở hữu dùng cho sản xuất kinh doanh đem lại 0.091đ lợi nhuận. Năm 2005, chỉ số này đã giảm xuống còn 0.077. Như vậy, so với năm trước đó hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu không cao. - Tuy nhiên ta lại thấy, số vòng quay của vốn chủ sở hữu tăng lên, nguyên nhân là do tốc độ tăng của vốn chủ sở hữu chậm hơn so với tốc độ tăng của doanh thu thuần. Để hiểu rõ hơn nguyên nhân và mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng, ta xem xét phương trình sau: = x = x Năm 2004: = 14.322 x 0.006 = 0.091 Năm 2005: = 14.805 x 0.005 = 0.077 Khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu năm 2005 giảm so với năm 2004 là 0.014đ là do sự ảnh hưởng của các nhân tố sau: + Do hệ số vòng quay của vốn chủ sở hữu (14.805 – 14.322) x 0.006 = 0.003 (đ) + Do suất sinh lợi của doanh thu thuần 14.805 x ( 0.005-0.006) = -0.017 (đ) Như vậy do số vòng quay của vốn chủ sở hữu tăng nhanh hơn năm trước nên đã làm cho suất sinh lợi của vốn CSH tăng 0.003đ, nhưng do suất sinh lợi của doanh thu thuần giảm nên đã làm suất sinh lợi của vốn CSH giảm đi 0.017đ. - Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản năm 2005 là 0.013đ giảm so với năm 2004 (0.02đ), như vậy cứ 1đ tài sản đầu tư vào kinh doanh thì đem lại 0.013đ lợi nhuận trước thuế, giảm so với năm 2004 là 0.007đ. Chứng tỏ khả năng sinh lời của tài sản thấp đi. CHƯƠNG II: HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH, CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở CÔNG TY CETT 1. Nhận xét, đánh giá về hệ thống báo cáo, công tác phân tích và tình hình tài chính của Công ty CETT. Về hệ thống Báo cáo tài chính của Công ty - Hệ thống BCTC chưa được lập đầy đủ, mới chỉ lập và sử dụng thường xuyên 5 báo cáo (BCĐKT, BCĐTK, BCKQHĐKD, Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, Thuyết minh báo cáo tài chính). Báo cáo lưu chuyển tiền tệ chưa được lập nên gây ra một số khó khăn trong việc phân tích tài chính và kiểm tra báo cáo tài chính. Trong kiểm tra báo cáo tài chính, không kiểm tra được mối quan hệ giữa các báo cáo tài chính và báo các lưu chuyển tiển tệ. Trong phân tích tài chính không tính được một số chỉ tiêu, trong đó có chỉ tiêu Hệ số khả năng thanh toán của tiền và các khoản tương đương tiền Vì các chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn”, “Hệ số khả năng thanh toán nhanh”, “Hệ số khả năng thanh toán của tài sản ngắn hạn” mang tính thời điểm, cơ sở tính toán chủ yếu dựa trên Bảng cân đối kế toán nên trong nhiều trường hợp các chỉ tiêu này không phản ánh đúng tình trạng tài chính thực tế của doanh nghiệp, nên để khắc phục tình trạng này phải tính thêm chỉ tiêu “ Hệ số khả năng thanh toán của tiền và các khoản tương đương tiền”. Hệ số này khắc phục được nhược điểm cả 3 hệ số trên vì nó được xác định cho cả kỳ kinh doanh. Chỉ tiêu này được tính theo công thức: = Tuy nhiên công ty CETT không lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ nên việc tính toán chỉ số này gặp khó khăn. Cụ thể một số báo cáo cần lưu ý như sau: * Bảng cân đối kế toán Mẫu BCĐKT được lập theo đúng mẫu B01-DNN theo QĐ số 144/2001/QĐ-BTC, các chỉ tiêu và mã số được giữ nguyên, không có điều chỉnh. Hầu hết các chỉ tiêu đưa vào BCĐKT lấy số liệu từ sổ cái theo đúng hướng dẫn, chỉ có một số điều chỉnh như sau: - Các khoản phải trả ngắn hạn khác (mã số 315) vẫn lấy số dư Nợ TK 338 và được ghi âm (Theo hướng dẫn, số liệu trên TK 338 nếu dư Có mới ghi vào chỉ tiêu này, còn dư Nợ thì đưa vào “Các khoản phải thu khác”). - Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước (mã số 313) vẫn lấy số dư Nợ TK 333 và ghi âm (Theo hướng dẫn, TK 333 chỉ ghi vào chỉ tiêu này khi dư Có, còn nếu dư Nợ thì được ghi vào mục “Các khoản phải thu khác”). * Thuyết minh báo cáo tài chính Thuyết minh báo cáo tài chính được lập theo đúng mẫu B09-DNN, tuy nhiên theo em giá trị thông tin trên báo cáo này do công ty lập không cao bởi vì báo cáo này được lập theo đúng mẫu của Bộ tài chính đề xuất dùng chung cho tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên không đáp ứng được đặc thù hoạt động của công ty. Chính vì thế, hầu như các chỉ tiêu, khoản mục đều để trống đã không thực hiện được mục đích của TMBCTC là giải trình, bổ sung, thuyết minh và thông tin về tình hình kinh doanh, tình hình tài chính của công ty. Một số mục được thông tin không rõ ràng, ví dụ: mục “chế độ kế toán đang áp dung” được ghi là: kế toán máy, hay “phương pháp khấu hao áp dụng” được ghi là: theo quy định của bộ tài chính (đáng lẽ phải chỉ rõ là đang sử dụng phương pháp khấu hao nào vì có rất nhiều phương pháp tính khấu hao khác nhau). Về công tác phân tích tài chính của Công ty Công tác phân tích tài chính của công ty tiến hành khá đơn giản, của công ty chưa được thực hiện theo quy trình, bỏ sót nhiều chỉ tiêu quan trọng nên chưa có được một báo cáo phân tích tài chính hiệu quả phục vụ cho người có nhu cầu sử dụng thông tin. Về tình hình tài chính của Công ty Thực trạng tài chính của công ty có một số điểm mạnh như sau: - Công ty bảo đảm được TSCĐ và có tỷ trọng TSCĐ so với tổng tài sản tuy nhỏ nhưng vẫn hợp lý, phù hợp với quy mô hoạt động của công ty. Đây cũng là đặc điểm chung của đa số các công ty thương mại khác vì nhu cầu sử dụng TSCĐ không lớn. - Cơ cấu tài sản của công ty nói chung là khá hợp lý, đặc biệt là ở các chỉ tiêu “Tiền” và “Hàng tồn kho”. Chỉ tiêu “tiền” của công ty chiếm tỷ trọng lớn do khách hàng ứng trước nên bảo đảm được cho tình hình thanh toán của công ty. Chỉ tiêu “Hàng tồn kho” chiếm tỷ lệ nhỏ, chưa đến 10% nên công ty hầu như không phải lo lắng về việc hàng tồn không bán được, đây cũng là một lợi thế của công ty, có được do đặc điểm kinh doanh riêng của mình. - Công ty có tình hình thanh toán và khả năng thanh toán rất tốt. Tất cả các chỉ tiêu về khả năng thanh toán như hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả năng thanh toán của tài sản ngắn hạn, hệ số khả năng thanh toán đều cao hơn mức an toàn cho từng chỉ tiêu. Bên cạnh đó, tình hình tài chính của công ty vẫn còn tồn tại một số vấn đề như sau: - Nguồn vốn của công ty tăng chậm, quy mô nguồn vốn nhỏ nhưng năm 2005 chỉ tăng 5.75% so với năm trước mà chủ yếu là do tăng nguồn vốn vay và chiếm dụng; vốn góp là 4 tỷ không đổi từ năm 2002 và vốn chủ sở hữu qua các năm đều tăng không đáng kể. - Khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập về tài chính của công ty chưa tốt vì vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn. - Cơ cấu nguồn vốn chưa thật hợp lý vì “Nợ phải trả” chiếm tới 83.11% tổng nguồn vốn – tỷ lệ này là quá cao sẽ ảnh hưởng đến tính ổn định tài chính cũng như khả năng huy động vốn từ ngân hàng, các tổ chức tín dụng cũng như các nhà đầu tư khi công ty muốn mở rộng quy mô. Ngoài ra, công ty còn không khai thác “Nợ dài hạn”, đây là chỉ tiêu để trống trên BCĐKT. Như vậy, công ty đã bỏ qua một nguồn tài trợ để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. - Tỷ lệ các khoản nợ phải trả so với phải thu của công ty quá cao cho thấy vốn chiếm dụng của công ty nhiều hơn nhiều so với vốn bị chiếm dụng. Điều này giúp công ty chủ động hơn so với trường hợp bị chiếm dụng, tuy nhiên tỷ lệ này cuối năm lên tới 219.17% là quá cao. Công ty cần điều chỉnh cho hợp lý để tránh tình trạng bị phụ thuộc vào chủ nợ. - Hiệu quả kinh doanh của công ty nói chung là giảm so với năm trước đó. Các chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn sản xuất kinh doanh, hiệu suất sử dụng vốn lưu động, suất sinh lợi của doanh thu thuần, suất sinh lợi của vốn CSH đều giảm. 2. Giải pháp từ phía công ty CETT nhằm hoàn thiện hệ thống BCTC, công tác phân tích tài chính và tình hình tài chính. Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính Để hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính của công ty, em xin đề xuất một số ý kiến như sau: - Các điều chỉnh trên BCĐKT của công ty là không cần thiết, TK 333: Thuế và các khoản phải nộp, TK 338: Phải trả, phải nộp khác nếu dư Nợ thì nên đưa vào chỉ tiêu “Các khoản phải thu khác” để thể hiện rõ tính chất phải thu của các khoản này. - Bảng cân đối tài khoản, các TK 131 : Phải thu khách hàng, TK 331: Phải trả người bán nên tách các khoản ứng trước ra (chi tiết dư Nợ và dư Có), không nên bù trừ để làm rõ hơn tình hình phải thu, phải trả. Như vậy khi phân tích tình hình thanh toán chỉ cần lấy số liệu trên BCĐKT và BCĐTK mà không cần xem sổ chi tiết của các tài khoản này. - Với Thuyết minh báo cáo tài chính, để tăng thêm lượng thông tin cung cấp, nên bổ sung các thông tin sau (việc bổ sung thông tin theo yêu cầu quản lý là hoàn toàn hợp pháp): + Thông tin về nguyên tắc và phương pháp chuyển đổi các đồng tiền khác ra tiền Việt vì công ty chuyên nhập khẩu hàng hóa, sử dụng nhiều loại tiền ( Euro, USD, đô la Sing … ). + Thông tin về chế độ kế toán áp dụng (theo QĐ nào), phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho, phương pháp tính khấu hao tài sản cố định, nguyên tắc trích lập các khoản dự trữ, các quỹ lợi nhuận sau thuế. Hoàn thiện công tác phân tích tài chính CETT là công ty có quy mô nhỏ nên không cần tiến hành phân tích đầy đủ toàn bộ các chỉ tiêu về tình hình tài chính như các công ty lớn tuy nhiên do phân tích tài chính có ý nghĩa rất quan trọng, thông qua phân tích tài chính có thể đánh giá được tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai, nên theo em vẫn cần phải xây dựng công tác phân tích tài chính cũng như hệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính một các cơ bản và hiệu quả, phù hợp với quy mô hoạt động của công ty. Sau đây là đề xuất của em về tổ chức phân tích tài chính và nội dung phân tích tình hình tài chính của công ty, như sau: * Về tổ chức công tác phân tích tài chính Công tác phân tích tài chính của công ty nên được tổ chức thông qua 3 bước: - Bước 1: Lập kế hoạch phân tích Trong bước này, người phân tích tài chính phải xác định được mục tiêu phân tích và chương trình phân tích. - Bước 2: Thực hiện phân tích Đối với công ty CETT, kế toán trưởng đồng thời cũng là kế toán tổng hợp nên việc phân tích tài chính nên do kế toán trưởng thực hiện. Dựa và mục tiêu và chương trình phân tích (hệ thống các chỉ tiêu được chọn lựa để phân tích) kế toán cần thu thập thông tin (là hệ thống báo cáo tài chính và các thông tin kế toán liên quan khác), sau đó kế toán áp dụng các phương pháp phân tích phù hợp để phân tích, đánh giá tình hình kinh doanh để thấy rõ tiềm năng tài chính của công ty cũng như dự đoán tình hình tài chính trong tương lai để có các quyết định kinh doanh đúng đắn. - Bước 3: Hoàn thành phân tích Các báo cáo phân tích tình hình tài chính là kết quả của quá trình phân tích, là sự tổng kết quá trình hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian qua và xác định những nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả này. Các báo cáo này được cung cấp cho các nhà quản trị và những đối tượng khác quan tâm đến tình hình tài chính công ty. * Về nội dung phân tích tài chính Hệ thống các chỉ tiêu phân tích bao gồm: - Phân tích tình hình tài chính khái quát Sử dụng các chỉ tiêu: + Hệ số tài trợ = Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập về mặt tài chính của công ty. + = Trong đó: VCSH bình quân = Chỉ tiêu này phản ánh một cách khái quát hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Khi xem xét chỉ tiêu này các nhà quản trị thấy được 1 đơn vị vốn CSH đầu tư vào kinh doanh đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. - Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh Sử dụng các chỉ tiêu + Hệ số tài trợ thường xuyên = + Hệ số tài trợ tạm thời = Hai chỉ tiêu này sẽ cho thấy tính ổn định và cân bằng tài chính của doanh nghiệp. - Phân tích công nợ và khả năng thanh toán Công ty tiếp tục duy trì hệ thống các chỉ tiêu đang sử dụng, bổ sung thêm các chỉ tiêu sau: + = + = Hai chỉ tiêu này cho biết mức hợp lý của số dư các khoản phải thu, phải trả và hiệu quả trong việc thu hồi và thanh toán công nợ. Qua đó có thể tính thêm các chỉ tiêu: thời gian một vòng quay các khoản phải thu, phải trả. Ngoài ra còn nên tính chỉ tiêu hệ số khả năng thanh toán theo công thức: + Hệ số khả năng thanh toán = Chỉ tiêu này nên được tính cho cả thời kỳ, cho từng giai đoạn (khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán dài hạn, khả năng thanh toán tháng tới, khả năng thanh toán quý tới … ). Vì công ty đã và đang sử dụng kế hoạch thu chi nội bộ nên việc lập bảng phân tích khả năng thanh toán này khá đơn giản, và mang lại hiệu quả cao trong việc quản lý tình hình và khả năng thanh toán của công ty. - Phân tích hiệu quả kinh doanh Vì vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn tổng cơ cấu nguồn vốn và có ảnh hưởng quyết định đến kết quả kinh doanh nên công ty cần chú trọng vào việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động, có thể tính toán các chỉ tiêu sức sản xuất của vốn lưu động, sức sinh lợi của vốn lưu động. Ngoài ra có thể tính toán thêm các chỉ tiêu thể hiện khả năng sinh lợi của vốn kinh doanh. Các giải pháp tăng cường tình hình tài chính của công ty Giải pháp về nhu cầu vốn Nhu cầu tăng vốn và các biện pháp tạo nguồn vốn là vấn đề quan trọng đối với bất cứ một doanh nghiệp nào vì điều này ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến quy mô hoạt động, quá trình hoạt động và hiệu quả kinh doanh. Phân tích tài chính cho thấy, năm 2005 cơ cấu vốn của công ty chưa hợp lý với hơn 80% số vốn là vốn đi vay và chiếm dụng. Tổng nguồn vốn năm 2005 so với các năm trước đã tăng lên, nhưng vốn chủ sở hữu không thay đổi nhiều. Nếu năm 2002 tổng nguồn vốn là 10,004,617,533đ, trong đó vốn CSH là 4,151,367,425đ (chiếm 41.49%) thì đến năm 2005 khi tổng nguồn vốn đã là 24,811,259,801đ thì vốn CSH vẫn chỉ là 4,191,076,543đ (chiếm 16.89%). Trong vốn chủ sở hữu thì vốn góp đã là 4,000,000,000đ cũng là số vốn điều lệ trong đăng ký kinh doanh và đã không đổi từ năm 2002. Điều này cho thấy công ty đã không có các biện pháp hữu hiệu để tăng lượng vốn CSH, mặt khác cho thấy qua 4 năm hoạt động (từ năm 2002), kết quả kinh doanh (lợi nhuận sau thuế) của công ty không chuyển biến nhiều, hoạt động của công ty chưa có hiệu quả và chưa có được sự phát triển cần có. Mặt khác, do không huy động tốt vốn vay ngắn hạn và chưa sử dụng vốn vay dài hạn nên công ty hoạt động chủ yếu bằng chiếm dụng vì vậy công ty khó có thể mở rộng được quy mô hoạt động cũng như tiến hành các hoạt động đầu tư khác. Một số phương án đề xuất để tăng cường nguồn vốn cho công ty: - Công ty nên huy động vốn từ các thành viên cũ cũng như có thể kết nạp thêm các thành viên mới (hiện nay công ty chỉ mới có 9 thành viên góp vốn). - Thu hút các nhà đầu tư bằng cách phát triển mọi mặt, đổi mới phương thức quản lý, giữ sự tín nhiệm của nhà cung cấp cũng như khách hàng, tạo uy tín cho công ty trên thị trường. - Tăng cường hợp tác, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước để phát triển nguồn lực về mọi mặt, đồng thời để khai thác thị trường và các loại hàng hóa khác. - Khai thác và sử dụng tốt các nguồn vốn vay ngắn hạn và dài hạn - Ngoài ra, công ty vẫn nên tiếp tục sử dụng một cách hiệu quả vốn chiếm dụng hợp pháp từ khách hàng. Giải pháp để sử dụng hiệu quả các loại vốn Khi xem xét hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty, ta thấy hiệu quả sử dụng vốn chưa tốt, các chỉ tiêu đều khá thấp và giảm so với năm trước. Để tăng số vòng quay của vốn, suất sinh lời của vốn, của doanh thu…, Ban giám đốc phải có các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ để số lượng hàng hóa bán ra tăng nhưng giá bán không giảm. Công ty cần tích cực tìm kiếm khách hàng, tổ chức nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới và các chi nhánh, đại lý trên toàn quốc; tích cực tìm kiếm các nguồn hàng có thể thay thế có giá thành hạ nhưng vẫn đảm bảo chất lượng để tăng cường khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường. - Ngoài ra, công ty cần tích cực hơn trong công tác thu hồi các khoản phải thu để tiếp tục giảm khoản này, tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn.. Đối với các khoản phải trả, công ty phải lập kế hoạch trả nợ các nhà cung cấp hàng năm và quản lý chặt chẽ việc thực hiện các khoản phải trả để tạo uy tín và xây dựng mối quan hệ làm ăn tốt đẹp, lâu dài. Để thực hiện các giải pháp này, bộ phận tài chính của công ty phải lập các kế hoạch sát với nhu cầu sản xuất. Mặt khác, phải đảm bảo tính đa dạng và linh hoạt trong lựa chọn nguồn vốn để đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả. Về hệ thống sổ sách, chứng từ kế toán, hạch toán kế toán phải được lập đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng quy định, thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển chứng từ, đặc biệt là từ các đơn vị phụ thuộc và các chi nhánh. Ngoài ra công ty cần tiến hành công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ để phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm, đảm bảo tính chính xác và trung thực cho các BCTC. Ngoài ra công ty cần quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý tài chính nói riêng và quản lý kinh doanh nói chung cho đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý. 3. Giải pháp từ phía nhà nước nhằm hoàn thiện hệ thống BCTC và công tác phân tích tài chính. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiếm khi thực hiện phân tích tài chính. Điều này một phần là do trình độ của kế toán viên chưa cao, chưa hiểu rõ cách thực hiện phân tích tài chính. Vì vậy Bộ Tài chính cần có những văn bản chính thức hướng dẫn phân tích tài chính cho doanh nghiệp, cụ thể là hướng dẫn các bước phân tích, hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích, người thực hiện phân tích, cách lập báo cáo phân tích… Với điều kiện và trình độ kế toán Việt Nam, Bộ Tài chính chủ trương dùng hệ thống kế toán thống nhất (hệ thống tài khoản thống nhất, hệ thống báo cáo thống nhất, phương pháp hạch toán thống nhất) là hoàn toàn hợp lý, tuy nhiên đối với công tác phân tích lại chưa thực hiện tốt chủ trương này, biểu hiện là tên gọi và cách tính một số chỉ tiêu chưa thống nhất và gây tranh cãi, tên gọi các chỉ tiêu gây nhầm lẫn hoặc không phản ánh đúng bản chất của chỉ tiêu ( ví dụ chỉ tiêu tính khả năng thanh toán tính theo công thức có nơi gọi là “hệ số khả năng thanh toán hiện hành”, có nơi gọi là “hệ số khả năng thanh toán tổng quát”; tử số của chỉ tiêu “hệ số thanh toán nhanh” được tính bằng nhiều cách khác nhau, có nơi tính là “tiền và các khoản tương đương tiền”, có nơi tính là “tiền, các khoản tương đương tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn”…). Bộ Tài chính cần nghiên cứu để thống nhất hệ thống các chỉ tiêu phân tích nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phân tích tài chính doanh nghiệp cũng như cho việc so sánh giữa các doanh nghiệp, các ngành… với nhau. Hệ thống BCTC hiện nay có quy định 4 báo cáo cho doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp lớn, theo em nên bổ sung một báo cáo bắt buộc nữa là Báo cáo kiểm toán. Việc có báo cáo kiểm toán trong hệ thống BCTC đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất khó thực hiện và cũng không thực sự cần thiết, nhưng đối với các doanh nghiệp lớn là rất hữu ích trong việc duy trì nền kinh tế lành mạnh, quản lý nhà nước cũng như đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng thông tin, xa hơn là thu hút đầu tư nước ngoài; đặc biệt trong xu thế cổ phần hóa và việc niêm yết trên thị trường chứng khoán diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Trong điều kiện ngành kiểm toán Việt Nam đang phát triển mạnh cùng với sự ra đời và hoạt động hiệu quả của hàng chục công ty kiểm toán trong và ngoài nước, việc tiến hành kiểm toán độc lập là hoàn toàn có thể thực hiện được đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng chế độ báo cáo tài chính riêng, được quy định là lập 6 báo cáo tài chính bắt buộc, so với hệ thống BCTC chung có thêm 2 báo cáo là “Bảng cân đối tài khoản” và “Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước”. Hai báo cáo này tuy đã được quy định rõ là chỉ nộp cho cơ quan thuế, nhưng theo em vẫn không nên gọi là BCTC bắt buộc và liệt kê trong hệ thống BCTC doanh nghiệp vì phạm vi sử dụng quá hẹp. Đặc biệt, trong khi kế toán Việt Nam đang cố gắng vượt xa hơn mục đích kế toán thuế thì việc quy định thêm 2 báo cáo chỉ dùng cho việc theo dõi và giám sát của cơ quan thuế là BCTC bắt buộc, là hoàn toàn không cần thiết. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ lâu đã được yêu cầu phải lập đối với tất cả các loại hình và quy mô doanh nghiệp, tuy nhiên trên thực tế rất ít khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ lập báo cáo này. Điều này một phần do trình độ của kế toán viên, một phần do các đơn vị thấy không thực sự cần thiết (ví dụ như các công ty thương mại nhỏ thì hầu như không có hoạt động tài chính và hoạt động đầu tư). Mặt khác, sau khi đã có những thay đổi đáng kể nhằm đơn giản hóa hệ thống BCTC dùng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì BCTCTT vẫn được áp dụng chung theo mẫu dùng cho các doanh nghiệp lớn mặc dù đây có thể coi là BCTC khó lập nhất. Trong khi đó, trên thế giới, ở những nước có nền kế toán phát triển gấp nhiều lần Việt Nam như Đức, Hà Lan thì cũng không yêu cầu lập BCLCTT mà chỉ khuyến khích. Như vậy, tuy việc thiếu có BCLCTT có thể không tính toán được một số chỉ tiêu phân tích tài chính nhưng theo em vẫn không nên quy định BCLCTT là báo cáo bắt buộc đối với mọi doanh nghiệp, nên trừ ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thuyết minh BCTC tuy có tính chất hướng dẫn nhiều hơn so với các báo cáo khác vì Bộ Tài chính không yêu cầu trình bày những nội dung doanh nghiệp không có số liệu hoặc thông tin nhưng theo em báo cáo này quy định cho doanh nghiệp lớn thì quá cồng kềnh, còn quy định cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì lại rút gọn đến mức thiếu thông tin. Vì mục đích của báo cáo này là giải trình và bổ sung thông tin nên theo em Bộ Tài chính không nên quy định mẫu cứng nhắc mà chỉ nên quy định những thông tin tối thiểu cần trình bày. 4. Điều kiện thực hiện các giải pháp Hoàn thiện hệ thống BCTC nói riêng và chế độ kế toán nói chung, không phải là việc dễ dàng vì nó đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố, nhiều nỗ lực không chỉ từ phía các cơ quan chức năng liên quan trực tiếp đến tài chính, kế toán. Để hệ thống BCTC hữu hiệu, đáp ứng được các nhu cầu sử dụng thông tin thì các nhà lập pháp, các nhà soạn thảo chế độ, chính sách nên bám sát tình hình thực tế doanh nghiệp hơn nữa. Có thể thực hiện điều này bằng cách cho doanh nghiệp tham gia quá trình soạn thảo hoặc tham khảo ý kiến doanh nghiệp một cách nghiêm túc trước khi ra quyết định. Để “các khoản đầu tư ngắn hạn” thực sự là khoản mục có tính thanh khoản cao, cần tạo lập một thị trường tài chính hoàn hảo để việc chuyển đổi, mua bán diễn ra dễ dàng. KẾT LUẬN BCTC là tài liệu rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp, đồng thời cũng là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp. BCTC không những cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn cho thấy những kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được. Phân tích tài chính doanh nghiệp thông qua hệ thống BCTC là cách sử dụng BCTC hiệu quả nhất, vì qua đó giúp cho người sử dụng đánh giá chính xác được sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của doanh nghiệp. Qúa trình thực tập tại công ty CETT đã giúp em có một cái nhìn sâu sắc hơn về tầm quan trọng của hệ thống BCTC cũng như việc phân tích tài chính. Để có hệ thống BCTC hữu ích và trung thựcđòi hỏi cả bộ máy kế toán phải hoạt động hiệu quả, mặt khác phân tích BCTC cũng phụ thuộc và chất lượng của BCTC, bởi vì nếu việc phân tích dựa trên các thông tin sai lệch thì không có ý nghĩa và cũng không có tác dụng. Do hạn chế về nguồn thông tin nên em mới thực hiện phân tích tài chính của công ty mà chưa so sánh với số liệu của các doanh nghiệp cùng nghành. Thông qua phân tích BCTC em cũng đề xuất một số biện pháp hoàn thiện hệ thống báo cáo cũng như tình hình tài chính của công ty. Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm thực tế và hạn chế về trình độ nên chắc chắn luận văn này sẽ không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của thầy cô và các cán bộ công ty CETT. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Thị Nam Thanh đã nhiệt tình hướng dẫn, và các cán bộ phòng kế toán công ty CETT đã cung cấp số liệu, chỉ dẫn thực tế và tạo điều kiện thuận lợi cho em thực hiện luận văn này. Hà Nội, tháng 4 năm 2006 Sinh viên Trần Thị Thu Hiền ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36433.doc