Báo cáo Tìm hiểu về kiểm toán quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng Công ty Sông Đà

Mục lục Danh mục sơ đồ, bảng biểu Sơ đồ, bảng biểu Tên sơ đồ. bảng biểu Sơ đồ số 1 Nộ dung kiểm toán Báo cáo quyết toán vốn đầu tư Sơ đồ số 2 Tổ chức bộ máy kế toán Tổng công ty Sông Đà Sơ đồ số 3 Đối chiếu quy trình kiểm toán hoạt động và kiểm toán báo cáo tài chính Bảng số 1 Một số chỉ tiêu về kết quả hoạt động của Tổng công ty Sông Đà Bảng số 2 Quyết định phê duyệt kế hoạch kiểm toán Bảng số 3 Bảng phân công công tác Bảng số 4 Mẫu đề cương kiểm toán Bảng số 5 Đề cương

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Tìm hiểu về kiểm toán quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng Công ty Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiểm toán nguồn vốn Bảng số 6 Đề cương kiểm toán chi phí xây dựng và lắp đặt Bảng số 7 Đề cương kiểm toán chi phí mua sắm trang thiết bị Bảng số 8 Đề cương kiểm toán chi phí kiến thiết cơ bản khác Bảng số 9 Đề cương kiểm toán Tài khoản tiền Bảng số 10 Đề cương kiểm toán vật tư Bảng số 11 Đề cương kiểm toán tài sản cố định Bảng số 12 Đề cương kiểm toán thanh toán Bảng số 13 Tổng hợp dự án đầu tư nhà G10 Bảng số 14 Chênh lệch giữa dự toán và quyết toán Bảng số 15 Bảng kê giảm giá trị công trình Bảng số 16 Mục tiêu và các thủ tục kiểm toán các khoản phải thu Bảng số 17 Biên bản kiểm toán Danh mục chữ viết tắt KTCB : Kiến thiết cơ bản XDCB : Xây dựng cơ bản HĐQT : Hội đồng quản trị Lời nói đầu Trong những năm gần đây, hoà chung với xu thế hội nhập và mở cửa của nền kinh tế, ngành công nghiệp xây dựng đã vươn lên phát triển về mọi mặt nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về xây dựng của các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp cũng như các hộ dân cư trong cả nước. Sự phát triển mạnh mẽ này đòi hỏi việc quản lý công nghiệp xây dựng phải đồng bộ và ngày càng đạt hiệu quả cao. Hơn thế, do tính chất đặc thù của ngành và của sản phẩm xây dựng nên quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đòi hỏi có sự kết hợp của nhiều bên khác nhau như chủ đầu tư, cơ quan thiết kế, đơn vị tổ chức thi công, các đơn vị cung cấp vật tư thiết bị, cơ quan quản lý Nhà nước,…do đó các nhà quản lý không những phải nâng cao trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm thực tế mà phải có sự hiểu biết trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Một trong những hoạt động quản lý đầu tư xây dựng cơ bản có hiệu quả và rất mới mẻ ở nước ta là hoạt động kiểm toán. Hoạt động này không những rất phát triển trong các khu vực kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập, mà nó còn phát huy được sức mạnh quản lý của mình trong lĩnh vực kiểm toán nội bộ. Trong quá trình thực tập tại phòng Kiểm toán nội bộ của Tổng công ty Sông Đà, em đã được tìm hiểu về quá trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản. Đây là một lĩnh vực kiểm toán mang tính đặc thù, diễn ra thường xuyên trong hoạt động kiểm toán tại Tổng công ty Sông Đà và hoạt động này đã cung cấp nhiều thông tin, nhiều ý kiến cho Ban lãnh đạo Tổng công ty với mục tiêu kiểm tra tính chính xác, trung thực của báo cáo, giám sát việc tuân thủ những quy tắc, quy định do nhà nước cũng như do Tổng công ty ban hành từ đó góp phần ngăn chặn những hiện tượng gian lận, tiêu cực, phục vụ cho lợi ích của toàn công ty và giúp công ty có thể phát triển vững bền. Nhận thức được sự mới mẻ về lý luận và những yêu cầu thiết yếu trong thực tế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, chuyên đề tốt nghiệp của em sẽ đề cập đến vấn đề: “Tìm hiểu về kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty Sông Đà”. Trong đó chuyên đề sẽ đề cập đến những lý luận cơ bản về vấn đề kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản trong kiểm toán nội bộ, tìm hiểu thực tế kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty Sông Đà và đưa ra những ý kiến về việc vận dụng lý luận nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty Sông Đà. Nội dung chuyên đề bao gồm các phần chính sau: Chương I: Cơ sở lý luận của việc kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản. Chương II: Thực trạng kiểm toán nội bộ Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty Sông Đà Chương III: Hoàn thiện quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty Sông Đà. CHƯƠNG I CƠ Sở Lý LUậN CủA VIệC kiểm toán báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản trong kiểm toán nội bộ 1.1.Khái quát chung về kiểm toán Kiểm toán là một hoạt động tuy mới xuất hiện ở nước ta khoảng 10 năm nay nhưng đã có những bước phát triển lớn và ngày càng khẳng định rõ vai trò của mình trong việc xác minh và bày tỏ ý kiến, tạo niềm tin cho những người quan tâm, củng cố nền nếp hoạt động tài chính và góp phần nâng cao hiệu quả, năng lực quản lý. Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều quan niệm về kiểm toán, các quan niệm đó không hoàn toàn đối lập nhau mà phản ánh quá trình phát triển của cả thực tiễn và lý luận kiểm toán đồng thời nêu lên bản chất của kiểm toán đó là việc xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực. Như vậy, kiểm toán có chức năng cơ bản là xác minh và bày tỏ ý kiến của mình về những lĩnh vực được kiểm toán với mục đích là tạo niềm tin cho những người quan tâm về tính trung thực của thông tin, tính quy tắc trong việc thực hiện các nghiệp vụ, tính hiệu quả, tính hiệu năng của hoạt động. Nội dung trực tiếp của kiểm toán là thực trạng hoạt động tài chính. Thực trạng này một phần được phản ánh trên các bảng khai tài chính hay những tài liệu kế toán nói chung và một phần không thể hiện trên các tài liệu kế toán hay các tài liệu khác. Để thực hiện tốt chức năng của mình, kiểm toán phải hình thành một hệ thống phương pháp kỹ thuật hoàn chỉnh khoa học bao gồm các phương pháp kiểm toán chứng từ và các phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ. Phân hệ phương pháp kiểm toán chứng từ bao gồm: - Kiểm toán các cân đối kế toán: là phương pháp dựa trên các cân đối kế toán và các cân đối khác để kiểm toán các quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành cân đối đó. - Đối chiếu trực tiếp: là đối chiếu một chỉ tiêu trên các nguồn tài liệu khác nhau với nhau. - Đối chiếu logic: là việc nghiên cứu các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu có quan hệ với nhau. Phân hệ phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ bao gồm: - Kiểm kê: là việc kiểm tra tại chỗ các đối tượng kiểm toán. - Điều tra:là dùng các cách khác nhau để tiếp cận và đánh giá đối tượng kiểm toán. - Trắc nghiệm : là việc tái diễn các hoạt động, nghiệp vụ để xác minh lại kết quả của một quá trình, một sự việc đi qua. Một cuộc kiểm toán phải được thực hiện bởi những kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu về kế toán và kiểm toán đồng thời phải có những hiểu biết nhất định về lĩnh vực mà mình kiểm toán. Khách thể kiểm toán được xác định là một cá nhân hay một đơn vị, tổ chức cần được kiểm toán. Trong quá trình hình thành và phát triển, ngành kiểm toán không chỉ dừng lại ở việc kiểm toán bảng khai tài chính hay tài liệu kế toán mà còn thâm nhập vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy theo quan điểm hiện đại, phạm vi kiểm toán rất rộng bao gồm các lĩnh vực chủ yếu sau: Kiểm toán thông tin (information audit): hướng vào việc đánh giá tính trung thực và hợp pháp của các tài liệu làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các mối quan hệ về kinh tế và tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài liệu kế toán. Kiểm toán tính quy tắc (regularity audit): hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện các thể lệ, chế độ, luật pháp của đơn vị được kiểm toán trong quá trình hoạt động. Kiểm toán hiệu quả (efficiency audit): hướng vào mối quan hệ giữa một bên là các sản phẩm dịch vụ làm ra với một bên là các nguồn lực đã tạo ra chúng với yêu cầu có kết quả tối đa và chi phí về nguồn lực tối thiểu. Kiểm toán hiệu năng (effect audit): hướng vào mối quan hệ giữa mục tiêu và kết quả cụ thể của một chương trình. Kiểm toán là một hoạt động phát sinh từ yêu cầu quản lý và phục vụ cho yêu cầu quản lý. Kiểm toán tạo niềm tin cho những người quan tâm như các nhà đầu tư, các nhà quản trị doanh nghiệp, người lao động, khách hàng, nhà cung cấp, cơ quan Nhà nước,... Kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nền nếp hoạt động tài chính kế toán nói chung và hoạt động của đơn vị được kiểm toán nói riêng. Đồng thời kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh, chưa có các chuyên gia giỏi, giàu kinh nghiệm về quản lý, để duy trì kỷ cương và bảo đảm phát triển đúng hướng thì việc xây dựng đồng bộ và tổ chức thực hiện tốt kiểm toán trên mọi lĩnh vực là việc làm rất cần thiết và có vai trò, ý nghĩa lớn trong hệ thống quản lý. Hiện nay, với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế, kiểm toán đóng vai trò to lớn. Hoạt động này là thực sự cần thiết đối với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. Hình thức tổ chức bộ máy kiểm toán theo đó cũng được phân thành 3 loại hình: kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nhà nước Kiểm toán Nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn của Nhà nước thực hiện các chức năng kiểm toán tài sản của Nhà nước. ở nước ta, kiểm toán Nhà nước được chính thức thành lập theo Nghị định 70/CP và có chức năng “xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp”( trích điều 1 của Nghị định 70/CP) Theo điều 2 của Nghị định 70/CP “kiểm toán Nhà nước có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch kiểm toán hàng năm. Qua kiểm toán, cung cấp kết quả cho chính phủ và góp ý kiến với đơn vị được kiểm toán củng cố nền tài chính kế toán và kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý những vi phạm…” Kiểm toán độc lập Kiểm toán độc lập là hình thức tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của khách hàng do các kiểm toán viên độc lập thực hiện. Chức năng của kiểm toán độc lập là xác minh và đưa ra ý kiến về tính trung thực, hợp lý của các thông tin tài chính tại đơn vị được kiểm toán với tạo sự tin cậy cho những người quan tâm tới các thông tin đó . Kiểm toán nội bộ Theo các chuẩn mực Hành nghề kiểm toán nội bộ ban hành tháng 5 năm 1978, “ Kiểm toán nội bộ là bộ máy thực hiện chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó với tư cách là một sự trợ giúp đối với tổ chức đó”(Modern internal auditing_ appraising operationand control – Victor Z.Brink and Herbert Witt). Như vậy, kiểm toán nội bộ là bộ máy thực hiện chức năng kiểm toán trong phạm vi đơn vị, phục vụ yêu cầu quản lý nội bộ đơn vị. Do mục tiêu được giới hạn ở phạm vi nội bộ đơn vị nên bộ máy này thường chỉ bao gồm các kiểm toán viên nội bộ. Về nội dung kiểm toán, kiểm toán nội bộ không chỉ kiểm tra chất lượng thông tin kế toán, tài chính mà còn thực hiện kiểm toán hiệu quả, kiểm toán hiệu năng, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán thông tin nhằm phục vụ các yêu cầu khác nhau của quản lý. ở các nước phát triển như Mĩ và Pháp, kiểm toán nội bộ đã trở thành một hoạt động nghề nghiệp phức tạp đòi hỏi cả sự nghên cứu, đào tạo và tổ chức tương ứng với chức năng và lĩnh vực hoạt động trong từng thời kỳ, từ lĩnh vực xử lý thông tin đến hiệu quả kinh doanh và năng lực quản lý. ở nước ta, kiểm toán nội bộ gắn liền với hoạt động kế toán và quản lý, chưa tách ra thành một hệ thống pháp quy riêng với những quy trình và phương pháp kỹ thuật riêng đồng thời đội ngũ kiểm toán viên nội bộ cũng chưa được quan tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ đúng mức. Để đáp ứng các yêu cầu trong quản lý, Bộ Tài chính đã ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước kèm theo Quyết định số 832 TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997. Theo điều 3 của quy chế này “doanh nghiệp phải thường xuyên tổ chức kiểm toán nội bộ nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính; về bảo vệ an toàn tài sản của doanh nghiệp; về chấp hành pháp luật, chính sách, chế độ của nhà nước, cũng như các nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, của Ban giám đốc doanh nghiệp đối với hoạt động của doanh nghiệp (kể cả đối với công ty cổ phần, liên doanh mà số vốn góp của doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 50%)”. Quy chế này là căn cứ để doanh nghiệp xây dựng và duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ thích hợp và có hiệu quả ở doanh nghiệp và các đơn vị thành viên. Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ là các lĩnh vực: Kiểm toán các báo cáo tài chính, các báo cáo quản trị của doanh nghiệp và của các đơn vị thành viên; Kiểm toán tuân thủ; Kiểm toán hoạt động. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán nội bộ phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. - Kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính phản ánh trên báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị trước khi trình ký duyệt. - Kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh, đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, chính sách, nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, của Ban giám đốc doanh nghiệp. - Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của doanh nghiệp, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh. 1.2. Kiểm toán nội bộ Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản 1.2.1. Kiểm toán nội bộ trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản – một lĩnh vực phức tạp, khó khăn do đặc thù riêng của ngành lại càng đặc biệt khó khăn phức tạp hơn trong cơ chế thị trường hiện nay. Đứng trước những thử thách đó ngành kiểm toán lại càng khẳng định vị trí, vai trò và hiệu quả của nó trong quá trình quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản nới chung và kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản nói riêng không chỉ đặt ra những câu hỏi khó cho kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập mà còn là một công việc có tính đặc thù và diễn ra thường xuyên đối với cả kiểm toán nội bộ tại những đơn vị có hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Đặc điểm của ngành XDCB, đặc điểm quản lý đầu tư XDCB có ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư XDCB. Đầu tư là việc bỏ vốn để thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Đầu tư xây dựng cơ bản là việc bỏ vốn trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nhằm tạo ra sản phẩm là những công trình, hạng mục công trình và thu lợi ích kinh tế, xã hội từ các công trình, hạng mục công trình đó. Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất chịu tác động của điều kiện tự nhiên. Sản phẩm của ngành là những công trình, hạng mục công trình được tạo nên từ vật liệu xây dựng, thiết bị, lao động gắn liền với đất, khoảng không mặt nước, mặt biển và thềm lục địa. Các công trình, hạng mục công trình cũng là sản phẩm của công nghệ xây lắp nó được tạo ra nhằm sản xuất những sản phẩm cụ thể. Các công trình xây dựng cơ bản thường có giá trị lớn, thời gian thi công lâu, địa điểm thi công cố định, có dự toán và phương pháp thi công riêng. Công trình xây dựng cơ bản có nhiều loại: Nếu theo tính chất của công trình và theo quy mô đầu tư , công trình được chia ra thành ba loại: + Công trình là sản phẩm của dự án nhóm A + Công trình là sản phẩm của dự án nhóm B + Công trình là sản phẩm của dự án nhóm C Nếu phân loại công trình theo nguồn vốn chia ra: + Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp + Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh + Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước + Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước Nếu phân loại công trình theo yêu cầu phạm vi quản lý: + Công trình do trung ương quản lý + Công trình do địa phương quản lý Trên thế giới quá trình đầu tư xây dựng cơ bản thường tiến hành qua sáu bước: Bước 1: Nghiên cứu luận chứng và tính khả thi của dự án Bước 2: Thiết kế,lập dự toán và tính toán chi tiết các đặc điểm kinh tế kỹ thuật công trình Bước 3: Cung ứng dịch vụ, vật tư trang thiết bị, công nghệ Bước 4: Xây dựng (thực hiện đầu tư ) Bước 5: Vận hành thử và bổ sung Bước 6: Sử dụng công trình ở nước ta, trình tự tiến hành đầu tư được thực hiện qua 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầu tư Giai đoạn 2: Thực hiện đầu tư Giai đoạn 3: Kết thúc xây dựng, đưa công trình vào khai thác sử dụng. Việc tổ chức quản lý các công trình thuộc các dự án có sự phân chia phù hợp giữa dự án với điều kiện của chủ đầu tư và hình thức quản lý; tuỳ theo quy mô tính chất của dự án và năng lực điều kiện của mình mà chủ đầu tư thực hiện quản lý dự án theo một trong các hình thức sau: - Chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án - Chìa khoá trao tay - Chủ nhiệm điều hành dự án - Tự thực hiện dự án Như vậy, sản phẩm xây dựng cơ bản thường được xác định về giá thanh toán và đối tượng bán trước khi có sản phẩm, đồng thời nó lại được tiêu thụ tại chỗ. Chính đặc điểm này đã tác động và làm quá trình kiểm toán luôn được đi từ thiết kế, dự toán và đến hiện trường. Quá trình kiểm toán luôn luôn được tiến hành riêng biệt độc lập cho từng hạng mục công trình với những quy định đặc thù riêng có của nó về thiết kế, dự toán, địa điểm, đơn giá cùng các quy định của khu vực địa phương và môi trường sinh thái… Các sản phẩm xây dựng cơ bản tạo ra phải tuân theo một quy trình và quy định chặt chẽ về mọi mặt. Do vậy, việc kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản là một trường hợp đặc biệt của kiểm toán Báo cáo tài chính song thực chất lại đi sâu vào loại kiểm toán tuân thủ là chủ yếu. Tuy nhiên để đạt được yêu cầu của kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản, ở mỗi quốc gia và mỗi giai đoạn do trình độ và yêu cầu, nên khả năng đạt được mục tiêu cũng có sự khác nhau. Một đặc trưng nổi bật của sở hữu vốn đó là vốn đầu tư vào xây dựng cơ bản phải tuân thủ nghiêm ngặt về quy trình đầu tư xây dựng, xét duyệt, thẩm định, cấp phát, thanh toán và có rất nhiều tổ chức có liên quan tham gia vào quá trình quản lý này. Thông thường việc thanh toán và cấp phát vốn phải tuân theo quy định của chế độ cấp phát, thanh toán do nhà nước, do nội bộ công ty(nếu có) quy định. Song thực tế hiện nay, việc cạnh tranh đã làm nảy sinh nhiều hình thức thanh toán không theo quy định, các chủ đầu tư và đơn vị cấp phát thường thanh toán chậm không đúng thời gian quy định. Điều này ảnh hưởng lớn tới chất lượng và thời gian thi công công trình. Quá trình này rất phức tạp và khó kiểm soát vì thế quá trình kiểm toán không chỉ đơn thuần kiểm tra, xem xét Báo cáo quyết toán của chủ đầu tư với những tài liệu hợp pháp của các bên có liên quan mà phải xem xét về độ tin cậy và tính tuân thủ của các tài liệu này, đồng thời nó phải được chứng minh bằng thực tế trên công trường và chất lượng sản phẩm xây dựng cơ bản. Để làm được điều này, các kiểm toán viên cần phải có nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc về lĩnh vực xây dựng cơ bản và nắm chắc những quy định có liên quan đến các bên có liên quan đến các bên tham gia quản lý, thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản, cũng như phải hiểu rõ những hiện tượng tiêu cực, gian lận phổ biến hay xảy ra trong quá trình đầu tư và xây dựng. Nội dung của từng nguồn vốn đầu tư và những quy định cụ thể cho từng loại nguồn vốn đầu tư phải tuân theo những quy định của Quy chế quản lý đầu tư xây dựng theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ. Chính những đặc điểm quy định riêng có cho từng nguồn vốn đầu tư sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc lập kế hoạch kiểm toán theo từng nguồn vốn, thủ tục cấp phát, thanh toán, thực hành kiểm toán và việc áp dụng các phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ cụ thể được vận dụng trong công tác kiểm toán cho từng nội dung, đặc biệt là tính tuân thủ về quy định cấp phát, thanh toán và việc nghiên cứu về hệ thống kiểm soát quy trình thanh toán và cấp phát cho từng nguồn vốn. Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản là một bản khai tài chính được quy định cụ thể dựa trên những đặc trưng riêng có của lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Vì vậy các bản khai tài chính phải cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết phục vụ việc nhận biết và quản lý điều hành ở lĩnh vực đó đồng thời thể hiện được tính tuân thủ đặc trưng của quá trình quản lý đầu tư và thi công. Báo cáo quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản phải thể hiện được tính đơn chiếc của chu kỳ sản xuất kinh doanh cũng như quá trình bàn giao sản phẩm xây dựng cơ bản đưa vào sử dụng. Mặt khác, một công trình có thể được đầu tư bầng nhiều nguồn vốn và chịu sự quản lý theo đúng quy trình cấp phát, thanh toán cho vay, đồng thời hệ thống Báo cáo quyết toán này phải phản ánh đầy đủ thông tin về quá trình đầu tư xây dựng cơ bản nhằm đáp ứng yêu cầu cho chủ sở hữu vốn và người nhận công trình đưa vào khai thác sử dụng. Như vậy để thực hiện một cuộc kiểm toán hiệu quả, kiểm toán viên phải nắm được hệ thống Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản. Kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản là một sự kết hợp chặt chẽ giữa 3 loại kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động trong cùng một cuộc kiểm toán. Trong xây dựng cơ bản mỗi sản phẩm có đặc điểm riêng, chúng đều có thiết kế, dự toán riêng phương pháp thi công riêng, vị trí thi công hoàn toàn khác nhau chính điều này không cho phép chu kỳ sản xuất kinh doanh lặp đi lặp lại. Do vậy, kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản luôn là những vấn đề mới đầy khó khăn và phức tạp, điều này đã đặt ra yêu cầu cho kiểm toán viên phải luôn vận động, nắm bắt những cái mới và đi sâu nghiên cứu nắm vững đặc điểm của từng công trình, hạng mục công trình. Mỗi một cuộc kiểm toán là một hệ thống các vấn đề mới nảy sinh đặt ra đòi hỏi kiểm toán viên phải đủ khả năng để giải quyết. Sản phẩm đầu tư xây dựng cơ bản được tạo bởi quá trình thi công và sự kiểm soát nhiều bên có liên quan đến công trình, như cơ quan chủ quản đầu tư cơ quan thiết kế, cấp phát, chủ đầu tư,…Vì vậy, hệ thống kiểm soát nội bộ đối với Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản bao gồm có 2 nội dung: hệ thống kiểm soát nội bộ của bản thân chủ đầu tư và hệ thống kiểm soát nội bộ đối với công trình có liên quan đến nhiều bên tham gia quản lý thi công công trình như kiểm soát của chủ quản đầu tư, thiết kế, cấp phát, cho vay…Đây là vấn đề khác biệt của kiểm soát nội bộ đối với Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản. Còn kiểm soát nội bộ đối với Báo cáo tài chính chỉ đơn thuần là kiểm soát của bản thân doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán. Từ đặc điểm này, yêu cầu kiểm toán viên khi kiểm toán không những phải biết được hệ thống kiểm soát nội bộ của chính chủ đầu tư mà còn phải biết được quá trình kiểm soát của nhiều bên liên quan đến công trình mới đáp ứng được yêu cầu kiểm toán trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Nội dung kiểm toán Báo cáo tài chính chỉ là những khoản mục cấu thành Báo cáo tài chính được quy định trong hệ thống Báo cáo tài chính, còn với kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản ngoài những nội dung kiểm toán được quy định trong hệ thống Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản còn phải kiểm toán việc tuân thủ về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng mà trong kiểm toán Báo cáo tài chính không có. Đồng thời các nội dung kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính có thể phân loại theo hai cách là theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và theo nội dung cấu thành Báo cáo tài chính, nhưng nội dung kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản chỉ có một cách phân loại duy nhất là phân loại theo nội dung cấu thành Báo cáo tài chính vì chu kỳ sản xuất kinh doanh của xây dựng cơ bản không lặp lại. Xây dựng cơ bản là một lĩnh vực luôn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm tàng ở mức độ cao. Do vậy, việc đánh giá tính trọng yếu cũng thận trọng hơn kiểm toán Báo cáo tài chính. Mặt khác do đặc thù của xây dựng cơ bản và sản phẩm xây dựng cơ bản, mỗi công trình, hạng mục công trình luôn có đặc điểm riêng, thi công ở những lĩnh vực khác nhau nên việc đánh giá tính trọng yếu cho từng hạng mục công trình cũng có sự khác nhau Trong kiểm toán Báo cáo tài chính đặc trưng nổi bật của bằng chứng kiểm toán là sức thuyết phục. Vì vậy nhiều khi kiểm toán viên thường dựa vào các bằng chứng có sức thuyết phục để kết luận nhiêu hơn là dựa vào các bằng chứng có giá trị pháp lý thuần tuý. Nhưng ngược lại, trong kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản, một đặc điểm nổi bật của việc chi tiêu là định mức, dự toán hoá ở mức độ cao và được kiểm soát chặt chẽ bởi nhiều bên có liên quan đến công trình. Chính những đặc điểm này chi phối đến việc thu thập bằng chứng trong kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản của kiểm toán viên đó là: Càng những bằng chứng đảm bảo sự chặt chẽ của nhiều bên tham gia quản lý công trình và đúng thiết kế, định mức, sự toán thì sẽ có sức thuyết phục và độ tin cậy cao hơn. Kiểm toán nội bộ Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản là một lĩnh vực đặc thù của kiểm toán Báo cáo tài chính trong đó có sự kết hợp chặt chẽ cả ba loại hình kiểm toán: kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính. Do đó kiểm toán viên cần phải sử dụng cả kiến thức về kỹ thuật, kinh tế, tài chính. Với mục đích xem xét tính trung thực, hợp lý của Báo cáo quyết toán trên các khía cạnh trọng yếu, xem xét việc sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả hay không, xem xét việc thực hiện quản lý đầu tư và thi công có đúng trình tự hay không từ đó cung cấp thông tin cho các nhà quản lý, việc kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản là rất cần thiết. Đối với kiểm toán nội bộ trong một công ty, những thông tin từ việc kiểm toán này sẽ giúp các nhà quản lý đưa ra những quyết định chính xác nhằm có hướng đầu tư hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất đồng thời ngăn chặn những hiện tượng, sai sót, gian lận trong quá trình thực hiện đầu tư .Kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản là một đặc trưng riêng biệt của kiểm toán Báo cáo tài chính. 1.2.2. Mục tiêu, yêu cầu, đối tượng của kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư XDCB do kiểm toán nội bộ thực hiện. Kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản là sự kết hợp chặt chẽ giữa kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ, và kiểm toán hoạt động trong cùng một cuộc kiểm toán trong đó nổi bật nhất là mối quan hệ giữa kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ. Do đó mục tiêu chung của kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản được thể hiện trên những khía cạnh sau: - Xem xét Báo cáo quyết toán có phản ánh trung thực, hợp lý tình hình tài chính trên những khía cạnh trong yếu hay không. - Xem xét Báo cáo quyết toán có được lập đúng mẫu biểu, đúng quy định của riêng lĩnh vực xây dựng cơ bản và đúng các quy tắc, chuẩn mực được thừa nhận rộng rãi hay không. - Xem xét việc thực hiện quản lý đầu tư và thi công xây dựng có đúng trình tự và đúng quy định hay không. Đồng thời xem xét toàn bộ số vốn đầu tư hợp lý tính vào công trình, số vốn đầu tư duyệt bỏ và số vốn đầu tư tạo thành TSLĐ, TSCĐ như thế nào. Mục tiêu chung trên được cụ thể hoá thành các mục tiêu đặc thù sau: - Tính tuân thủ về quy chế quản lý đầu tư xây dựng, các thủ tục và trình tự thi công công trình từ khi thi công đến khi hoàn thành. - Sự tuân thủ và tính hợp lý, hợp pháp của các định mức, dự toán, thiết kế, quá trình cung ứng vật tư, thiết bị. - Việc cấp phát vốn và thanh toán có đúng tốc độ, tiến độ thi công, đúng khối lượng thực tế của công trình theo quy định hay không. - Tính hợp lý của số vốn đầu tư đã cấp, đã sử dụng, đã thanh toán có phù hợp với tình hình thực tế hay không. - Xem xét giá trị TSCĐ hình thành qua đầu tư một cách đúng đắn, hợp lý. - Xem xét, xác định giá trị TSLĐ, chi phí được duyệt bỏ đúng quy định. Khi thực hiện kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ được giao, kiểm toán nội bộ cần phải đạt được các yêu cầu sau: - Phát hiện các hiện tượng gian lận, vi phạm chính sách, chế độ, các hiện tượng tiêu cực để qua đó uốn nắn sai lệch kịp thời. Kiến nghị với ban lãnh đạo công ty để xử lý vi phạm, thu hồi số vốn thất thoát về cho công ty. - Thông qua kiểm toán, Kiểm toán nội bộ đưa ra những đánh giá về trách nhiệm, sự chấp hành và chất lượng quá trình quản lý của các bên có liên quan đến công trình qua đó kiến nghị với cấp trên để xử lý hạn chế và đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thiện quản lý... Kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản có đối tượng là các Báo cáo quyết toán vốn đầu tư vào công trình và tính tuân thủ quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Kiểm toán Báo cáo quyết toán vốn đầu tư vào công trình là một loại hình kiểm toán đặc thù của kiểm toán Báo cáo tài chính. Nội dung cụ thể của kiểm toán Báo cáo quyết toán vốn đầu tư được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ số 1: Nội dung kiểm toán Báo cáo quyết toán vốn đầu tư. Kiểm toán Báo cáo quyết toán Kiểm toán nguồn vốn đầu tư Kiểm toán chi phí đầu tư xây dựng cơ bản Kiểm toán vốn bằng tiền Kiểm toán vật tư thiết bị Kiểm toán tài sản cố định Kiểm toán công nợ Kiểm toán tính tuân thủ Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng là một đặc trưng nổi bật của kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản thể hiện ở những nội dung sau: Công trình xây dựng phải tuân thủ quy chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành (hiện nay là Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 và Nghị định 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 của Chính phủ). Kiểm toán tuân thủ về chế độ và quy định quản lý sử dụng vốn đầu tư. Vốn đầu tư chỉ được sử dụng đúng mục đích đầu tư, chi tiêu đúng trình tự, đúng quy định, đúng đối tượng, đúng dự toán, định mức, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm. Kiểm toán tuân thủ về chế độ kế toán và hệ thống báo cáo kế toán của đơn vị chủ đầu tư. 1.2.3. Quy trình kiểm toán Giống như Kiểm toán nhà nước và Kiểm toán độc lập, Kiểm toán nội bộ tiến hành kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản theo theo một quy trình gồm 3 bước: lập kế hoạch kiểm toán, thực hành kiểm toán và kết thúc kiểm toán. Bước 1 : Lập kế hoạch kiểm toán Kế hoạch kiểm toán được lập cho từng công trình, hạng mục công trình. Kế hoạch này càng sát thực thì kết quả kiểm toán đạt được càng cao. Để lập được kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên cần phải hiểu rõ về chủ đầu tư,đặc điểm quá trình thi công công trình và những đặc thù về quản lý công trình. Vì vậy trong bước này, kiểm toán viên phải thực hiện các công việc theo trình tự từ việc tiến hành khảo sát ban đầu, chuẩn bị cơ sở pháp lý cho cuộc kiểm toán, lập kế hoạch kiểm toán, thông báo cho đơn vị được kiểm toán và chuẩn bị các điều kiện khác. Kiểm toán nội bộ că._.n cứ vào kế hoạch kiểm toán hàng năm và quyết định của Hội đồng quản trị hoặc Ban giám đốc công ty để tiến hành khảo sát làm căn cứ lập kế hoạch cụ thể cho cuộc kiểm toán. Trong quá trình khảo sát, kiểm toán viên thực hiện các công việc theo nội dung sau: - Thu thập các thông tin cần thiết liên quan đến quá trình quản lý XDCB như: Quy mô, phạm vi, vai trò, địa điểm của công trình. Các văn bản, quyết định thành lập và tổ chức bộ máy của ban quản lý công trình: Số người, trình độ, kinh nghiệm, địa điểm làm việc, các văn bản phê duyệt cho phép thành lập và thực hiện phương thức quản lý, phương thức thực hiện đầu tư … Một số các đặc thù riêng có của công trình như đặc trưng kĩ thuật, loại hình, địa bàn, môi trường sinh thái… Các văn bản pháp lý liên quan và cho phép công trình được thực thi một cách hợp pháp theo sự phân cấp và đúng chức năng, đúng thực tế như thiết kế, dự toán. Về nguồn vốn đầu tư và quá trinh cấp phát: công trình được đầu tư bằng những nguồn vốn nào, quy định cấp phát, cho vay và các cơ quan có liên quan đến việc cấp phát, cho vay, thanh toán vốn đầu tư. Các văn bản kí kết hợp đồng với các bên cung cấp vật tư, thiết bị, đặc điểm của nó kể cả nhà thầu và các đơn vị tham gia thi công xây dựng công trình. Sau khi đã thu thập được các thông tin cần thiết, căn cứ vào đó kiểm toán viên tiến hành đánh giá thực trạng về quá trình quản lý và thực thi của công trình. Việc đánh giá thực trạng của công trình thông qua rủi ro tiềm tàng được thể hiện ở những điểm như quy mô vốn đầu tư, tính chất phức tạp của hoạt động, của công trình về mặt kĩ thuật, sự phân tán về địa bàn, thời gian thi công, những định mức đơn giá đặc thù, quá nhiều nhà thầu và các đơn vị tham gia quản lý và thực thi công trình, các loại máy móc , thiết bị xây dựng phức tạp… Việc đánh giá về rủi ro kiểm soát thông qua các quy chế quản lý có khoa học, hiệu quả, bộ máy quản lý của chủ đầu tư có năng lực, trình độ, kinh nghiệm, quá trình phân công, phân nhiệm có phù hợp đúng người, đúng việc hay không… Bên cạnh đó việc đánh giá rủi ro kiểm soát còn thông qua việc đánh giá đúng đắn về hệ thống kế toán như: trình độ, kinh nghiệm, tính trung thực của bộ máy kế toán; sự phân công, phân nhiệm hợp lý; việc lập và xử lý chứng từ, ghi chép sổ sách, vận dụng tài khoản và thực hiện chế độ kế toán của đơn vị chủ đầu tư. Cơ sở pháp lý để tiến hành kiểm toán đối với kiểm toán nội bộ chính là quyết định kiểm toán do Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc công ty ban hành. Trong quyết định kiểm toán phải chỉ rõ các vấn đề sau: Nội dung, đối tượng và mục đích kiểm toán. Quy định, trách nhiệm và quyền hạn của phòng kiểm toán và các bên có liên quan. Quy định về phạm vi và thời gian kiểm toán. Quy định trách nhiệm cụ thể của đơn vị được kiểm toán. Sau bước khảo sát ban đầu và đã có những đánh giá sơ bộ về đối tượng kiểm toán kiểm toán nội bộ lập kế hoạch kiểm toán bao gồm: kế hoạch chiến lược, kế hoạch chi tiết, các chương trình kiểm toán cụ thể. Kế hoạch chiến lược thường do trưởng phòng kiểm toán nội bộ lập, nó là khung, sườn xuyên suốt cuộc kiểm toán, nó chi phối và quyết định đến quá trình kiểm toán. Kế hoạch chiến lược hay đề cương tổng quát là căn cứ cho các kiểm toán viên khác lập ra kế hoạch chi tiết hay đề cương chi tiết. Kế hoạch chiến lược phải thể hiện các nội dung sau. Các đánh giá tổng thể và thông tin về công việc quản lý và tổ chức thi công công trình. Phạm vi tìm hiểu và trách nhiệm đối với Báo cáo quyết toán vốn đầu tư của ban quản lý công trình và chủ đầu tư. Lĩnh vực ảnh hưởng đến quá trình quản lý, thi công của công trình và rủi ro tiềm tàng Môi trường và hệ thống thông tin của chủ đầu tư và ban quản lý công trình như hệ thống thông tin, tính toán, các thiết bị máy móc hỗ trợ cho công tác kế toán và đặc trưng của hàng hoáệ thống thiết bị, máy móc kể cả quá trình thay đổi hệ thống nàycủa chủ đầu tư và ban quản lý công trình. Môi trường kiểm soát: Đánh giá tổng quát về môi trường kiểm soát và rủi ro kiểm soát nói chung. Về chế độ kế toán: chủ đầu tư, ban quản lý dã áp dụng chế độ kế toán gì, có sự thay đổi hay không, tổ chức công tác kế toán có phù hợp hay không. Các yêu cầu và mục tiêu tiến hành kiểm toán. Các quyết định lập kế hoạch bao gồm: + Các phương pháp kiểm toán vận dụng khi kiểm toán + Thời gian tiến hành và hoàn thành kiểm toán + Bố trí nhân lực cho cuộc kiểm toán + Quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia cuộc kiểm toán Kế hoạch chi tiết được lập sau khi có kế hoạch chiến lược và có sự phân công nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng cá nhân cụ thể. Kế hoạch chi tiết do các kiểm toán viên được giao nhiệm vụ cụ thể hoặc trưởng nhóm, tổ trưởng thực hiện. Để lập được kế hoạch chi tiết, các kiểm toán viên phải nghiên cứu thêm về đặc điểm của ban quản lý dự án, đặc điểm của công trình trên từng lĩnh vực theo nhiệm vụ cụ thể được giao để từ đó đánh giá được tính trọng yếu và rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát theo những công việc cụ thể. Việc lập kế hoạch chi tiết nhiều khi cần có sự trao đổi, xin ý kiến và tranh thủ sự góp ý của các kiểm toán viên cao cấp, các kiểm toán viên bên ngoài các chủ đầu tư và ban quản lý dự án. Trong kế hoạch chi tiết phải thể hiện được các nội dung cần kiểm toán theo đúng nhiệm vụ của mình, đó là: Mục đích, phạm vi kiểm toán từng phần, từng lĩnh vực. Những công việc cần được kiểm toán và sắp xếp theo trình tự từ đầu đến cuối. Dự kiến thời gian hoàn thành từng công việc. Phương pháp kiểm toán được sử dụngcho từng công việc cụ thể như phương pháp kiểm toán cơ bản, phương pháp kiểm toán tuân thủ, phương pháp kiểm tra, đối chiếu, quan sát Nhân viên thực hiện kiểm toán Dự kiến về chi phí và các điều kiện cần thiết khác như các phương tiện cần có để phục vụ kiểm toán Kế hoạch chi tiết thể hiện sự quy định phân công chặt chẽ và rõ ràng về công việc của một cuộc kiểm toán, từ đó có thể tiến hành một cuộc kiểm toán đồng bộ, thuận lợi theo một trình tự, tiết kiệm về thời gian, chi phí, tránh hiện tượng kiểm toán không có định hướng, lan man chồng chéo hoặc gián đoạn… Khi lập kế hoạch chi tiết, kiểm toán viên có thể tham khảo kế hoạch chi tiết của một công việc hay hiện tượng tương tự ở một công trình khác nhưng nó phải gắn chặt với công trình mới theo yêu cầu và nhiệm vụ mới đồng thời chú ý đến các văn bản thay đổi trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Chương trình kiểm toán là việc hoạch định chi tiết về những công việc cần thực hiệnvà thời gian hoàn thành với trọng tâm là các thủ tục kiểm toán cần thực hiện với từng khoản mục, bộ phận trong Báo cáo quyết toán. Chương trình kiểm toán do từng kiểm toán viên tham gia kiểm toán soạn thảo dựa trên kế hoạch chi tiết và kế hoạch chiến lược với từng công việc cụ thể của mình đồng thời có sự phối kết hợp với nhau giữa các kiểm toán viên nhằm tránh hiện tượng trùng lắp, tiết kiệm thời gian, chi phí, tranh thủ và phát huy hết khả năng của từng kiểm toán viên. Phổ biến quyết định kiểm toán đến đơn vị được kiểm toán và thông báo cho các đơn vị này chuẩn bị các tài liệu và các điều kiện cần thiết phục vụ cho quá trình kiểm toán là việc kiểm toán nội bộ phải phổ biến và chuyển đến cho đơn vị được kiểm toán biết về nội dung kiểm toán, thời gian tiến hành và các yêu cầu cần thiết cho cuộc kiểm toán đồng thời phải phổ biến kế hoạch kiểm toán đến từng nhóm kiểm toán viên. Ngoài ra khâu lập kế hoạch còn phải dự tính trước một số điều kiện khác cho cuộc kiểm toán như: kinh phí đi lại, bố trí ăn ở, các giấy tờ làm việc,giấy đi đường, giấy giới thiệu… Bước 2 : Thực hành kiểm toán Thực hành kiểm toán là giai đoạn mà kiểm toán viên tiến hành thực thi các công việc ghi trong kế hoạch và chương trình kiểm toán. Để có được tài liệu kiểm toán trước khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán viên phải làm thủ tục liệt kê các tài liệu cần thiết phục vụ cho kiểm toán và lập biên bản giao nhận một cách cụ thể, thận trọng về các tài liệu này và sau khi kiểm toán xong lại làm biên bản bàn giao trở lại cho đơn vị đưọc kiểm toán. Các bước khi tiến hành kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản : Nghiên cứu, đánh giá hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ. Kiểm tra, thử nghiệm các bộ phận cấu thành của Báo cáo quyết toán vốn đầu tư khi công trình hoàn thành. Phân tích, đánh giá. Việc nghiên cứu đánh giá hệ thống kế toán và quy chế kiểm soát nội bộ của chủ đầu tư giúp cho kiểm toán viên đánh giá được mức rủi ro kiểm soát và thông qua đó xác định nội dung, thời gian và phạm vi của các phương pháp kiểm toán áp dụng. Nếu cố định rủi ro tiềm tàng thì nơi nào có quy chế kiểm soát tốt, hệ thống kế toán có hiệu quả thì công việc kiểm toán sẽ được giảm nhẹ hơn. Chính vì vậy, kiểm toán viên phải biết nghiên cứu, đánh giá về hệ thống kế toán, quy chế kiểm soát nội bộ để khai thác và vận dụngtrong kiểm toán nhằm đạt được tính hiệu quả và sự tối ưu trong kiểm toán. Đối với hệ thống kế toán: Tổ chức công tác kế toán và bộ máy kế toán phải phù hợp với đặc điểm của chủ đầu tư, ban quản lý công trình và quy mô của từng loại công trình. Khi xem xét về việc tổ chức bộ máy kế toán cần phải chú ý tới trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và sự phân công của bộ máy kế toán Việc lập, luân chuyển, xử lý, sử dụng và bảo quản chứng từ phải theo đặc điểm của quá trình đầu tư xây dựng cơ bản. Các loại chứng từ sử dụng trong xây dựng cơ bản có tính chát đặc thù như chứng từ nghiệm thu, cấp phát, thanh toán, bàn giao, quyết toán…đòi hỏi có sự hiểu biết và kiểm tra phù hợp. Việc sử dụng các tài khoản kế toán ở các đơn vị xây dựng cơ bản khác với các doanh nghiệp thông thường. Việc ghi sổ sách kế toán và quy trình hạch toán phụ thuộc vào phương thức giao thầu hay tự làm, phụ thuộc vào đơn vị là chủ đầu tư hay là đơn vị thi công. Xem xét việc lập và gửi hệ thống báo cáo kế toán vốn đầu tư và Báo cáo quyết toán khi công trình hoàn thành. Hệ thống báo cáo này phải lập cho từng công trình, hạng mục công trình, từng nguồn vốn đầu tư, từng thành phần vốn đầu tư như xây lắp, thiết bị, kiến thiết cơ bản khác. Hiện tại việc lập báo cáo này phải tuân theo quy địnhvà sự hướng dẫn cụ thể của Bộ tài chính. Đối với việc nghiên cứu quy chế kiểm soát nội bộ của chủ đầu tư: để đánh giá được các quy chế kiểm soát của chủ đầu tư phải nghiên cứu và đánh giá các cơ sở dữ liệu của nó đó là sự hiện diện, tính hiệu lực và tính liên tục của quy chế kiểm soát. Tuy nhiên, do đặc điểm của quá trình thi công xây dựng công trình và tạo ra sản phẩm trong xây dựng cơ bản là quá trình kết hợp chặt chẽ của nhiều bên tham gia tổ chức quản lý và thực hiện đầu tư nên Báo cáo quyết toán vốn đầu tư khi công trình hoàn thành là kết quả của quá trình kiểm soát nhiều bên tham gia quản lý và thực hiện đầu tư. Vì vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu về quy chế kiểm soát nội bộ không chỉ dừng ở mức xem xét các quy chế kiểm soát thuần tuý của chủ đầu tư mà còn phải xét đến các văn bản, các quy định của công trình có liên quan đến nhiều bên tham gia quản lý và thi công công trình, kể cả tính hiệu lực và quá trình thực hiện các quy định này. Các bộ phận cấu thành Báo cáo quyết toán vốn đầu tư XDCB khác với các bộ phận cấu thành Báo cáo tài chính doanh nghiệp. Các bộ phận này được quy định một cách cụ thể trong các Báo cáo quyết toán quy định bắt buộc đối với các chủ đầu tư khi công trình hoàn thành. Khi tiến hành kiểm toán kiểm toán viên không thể tiến hành một cách toàn diện các bộ phận cấu thành mà chỉ có thể tiến hành trên cơ sở chọn mẫu trong kiểm toán cho từng bộ phận. Việc kiểm toán và tiến hành chọn mẫu như thế nào còn tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của từng công trình và quá trình kiểm soát nội bộ tại các ban quản lý công trình, chủ đầu tư, để đi sâu, mở rộng hay thu hẹp mẫu chọn, mở rộng hay thu hẹp các thử nghiệm cơ bản cần tiến hành. Kỹ thuật phân tích đánh giá trong kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành là sự vận dụng có tính chất đặc thù từ kỹ thuật phân tích đánh giá Báo cáo tài chính doanh nghiệp do đặc điểm xây dựng cơ bản chi phối. Vì vậy trong kiểm toán xây dựng cơ bản, khi phân tích đánh giá thường đi vào so sánh, phân tích giữa thực tế với dự toán, giữa định mức với kế hoạch. Đặc biệt, người ta chú ý đến các chi phí đầu tư, các nội dung thường có sai sót trọng yếu, những chi phí không tính vào giá trị công trình, các chi phí được duyệt bỏ, các khoản bổ sung dự toán, khối lượng phát sinh thực tế ngoài định mức, dự toán. So sánh khối lượng thực tế được thanh toán với khối lượng được cấp có thẩm quyền phê duyệt, khối lượng ở bản vẽ hoàn công so sánh với khối lượng trong thiết kế được duyệt lần cuối cùng. Đồng thời người ta cũng chú ý phân tích tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư và kết quả đầu tư, cùng các vấn đề tồn tại được phản ánh trong Báo cáo quyết toán. Kỹ thuật phân tích luôn được sử dụng ở tất cả các khâu của quá trình kiểm toán. Việc phân tích khi thực hành kiểm toán sẽ giúp kiểm toán viên phát hiện và đi sâu kiểm toán các bộ phận có nhiều sai phạm trọng yếu và định hướng kiểm toán đúng đắn. Bước 3 : Kết thúc kiểm toán (hoàn thiện kiểm toán) Trong giai đoạn này, kiểm toán nội bộ phải lên báo cáo kiểm toán, hoàn chỉnh hồ sơ kiểm toán và giải quyết các vấn đề phát sinh sau khi ký báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản là kết quả cuối cùng của một cuộc kiểm toán, thể hiện những ý kiến, những nhận xét, kết luận của kiểm toán viên về Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản. Báo cáo kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản do kiểm toán nội bộ thực hiện dựa trên cơ sở các báo cáo kiểm toán chung mà Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam quy định. Tuy nhiên do đặc thù về chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ ở từng công ty và do những đặc điểm riêng có của Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản nên báo cáo kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản phải nêu được những điểm sau: Nêu được những căn cứ pháp lý có liên quan đến công trình. Đây là căn cứ pháp lý để kiểm toán từng công trình. Báo cáo kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản ngoài việc xác nhận tính trung thực hợp lý của các con số phản ánh trên báo Báo cáo quyết toán còn phải xác nhận sự phù hợp giữa giá trị công trình đầu tư với thực tế về công trình. Đưa ra ý kiến nhận xét và kiến nghị cho ban lãnh đạo công ty nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng. Báo cáo kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản chỉ được sử dụng trong nội bộ công ty nhằm cung cấp thông tin cho quản lý mà không có chức năng cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài. Do các đặc điểm trên, báo cáo kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình XDCB phải thoả mãn các yêu cầu sau: Báo cáo kiểm toán phải trung thực khách quan phù hợp với từng công trình, hạng mục công trình đồng thời cũng thể hiện và đảm bảo tính chính xác cao của thông tin mang lại. Đây là cơ sở để Kiểm toán nội bộ cung cấp thông tin cho quản lý,đưa ra kiến nghị xử lý vi phạm và hoàn thiện bộ máy quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Báo cáo kiểm toán phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu và đầy đủ. Báo cáo phải đảm bảo tính kịp thời về mặt thời gian. Báo cáo phải đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả. Tính hiệu lực và hiệu quả của báo cáo kiểm toán thể hiện chất lượng của cả quá trình làm việc và tác dụng thực tiễn của kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nội bộ phải đưa ra nhận xét chính xác, sát thực, kịp thời đồng thời đưa ra các ý kiến đề xuất và những kiến nghị có tính thiết thực cho chủ đầu tư, ban quản lý và các bên liên quan về quá trình quản lý thi công xây dựng công trình, hệ thống chính sách, chế độ và cơ chế quản lý đầu tư xây dựng. Mỗi cuộc kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản phải có một bộ hồ sơ lưu tại phòng kiểm toán nội bộ. Hồ sơ phải được lập và lưu trữ theo quy định của công ty đồng thời hồ sơ phải được sắp xếp một cách khoa học, thuận tiện cho việc kiểm tra, tra cứu, xử lý thông tin phát sinh sau khi ký báo cáo kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán phải lưu giữ đầy đủ các tài liệu cơ bản, cần thiết của cuộc kiểm toán Giải quyết các vấn đề phát sinh sau khi ký báo cáo kiểm toán năm là việc theo dõi và kiểm tra tình hình thực hiện kết luận và kiến nghị đề xuất của kiểm toán nội bộ đối với ban lãnh đạo, ban quản lý công trình và các đơn vị có liên quan đến công trình. Đây là những ý kiến xuất phát từ thực tiễn kiểm toán nhưng nó không có tính chất bắt buộc mà nó chỉ đóng vai trò tư vấn cho những người có quyền ra quyết định trong công ty. Chương ii thực trạng kiểm toán nội bộ báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại tổng công ty Sông Đà 2.1. Tình hình sản xuất kinh doanh và hoạt động kiểm toán tại Tổng công ty Sông Đà 2.1.1. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh tại Tổng công ty Sông Đà Tổng công ty Sông Đà là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Xây dựng được thành lập từ năm 1960 với tên giao dịch quốc tế là Song Da Corporation. Đây là một trong những tổng công ty lớn mạnh của Bộ Xây dựng có những đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước, đồng thời góp phần đẩy mạnh công cuộc hiện đại hoá đất nước. Với những thành tích và đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng đất nước, tổng công ty Sông Đà đã 2 lần được tặng thưởng huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều huân huy chương khác; nhiều tập thể và cá nhân đã được tặng danh hiệu anh hùng lao động, chiến sĩ thi đua toàn quốc và nhiều danh hiệu cao quý khác. Hoạt động kinh doanh chính của Tổng công ty thuộc các lĩnh vực xây dựng công trình thuỷ điện, công trình cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông, xây dựng công nghiệp, dân dụng, đường dây và trạm, sản xuất vật liệu xây dựng, thép, xi măng, các khu công nghiệp và đô thị, tư vấn xây dựng, xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị, công nghệ xây dựng cùng nhiều lĩnh vực kinh doanh khác. Qua 40 năm trưởng thành và phát triển, Tổng công ty Sông Đà đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm trong thiết kế, thi công và điều hành sản xuất. Ngày nay, Tổng công ty có một đội ngũ hơn 20000 cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề trong đó hơn 3000 cán bộ kỹ thuật, quản lý có trình độ đại học và trên đại học, chú trọng đầu tư đổi mới trang thiết bị, Tổng công ty là đơn vị duy nhất ở Việt Nam có lực lượng thiết bị thi công chuyên ngành tiên tiến và hiện đại. Tổng công ty Sông Đà hiện nay là một tổ chức kinh tế lớn với 16 đơn vị thành viên hạch toán độc lập , 12 đơn vị hạch toán phụ thuộc, 3 đơn vị hành chính sự nghiệp và 4 công ty liên doanh. Bộ máy quản lý của Tổng công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến hay mô hình quản lý tập trung. Trong những năm gần đây, nhờ sự nỗ lực trên mọi mặt hoạt động kinh doanh của tổng công ty ngày càng được mở rộng, doanh thu năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo việc thực hiện tôt các nghĩa vụ với ngân sách nhà nước và chăm lo chu đáo đến đời sống của cán bộ công nhân viên. Để đánh giá tình hình hoạt động của Tổng công ty ta xem xét một số chỉ tiêu cơ bản qua bảng sau: Bảng số 1: Một số chỉ tiêu về kết quả hoạt động của Tổng công ty Sông Đà Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Dựkiến 2003 Giá trị sản lượng tỷ.đ 1.400 1.700 3.000 3.800 Doanh thu tỷ.đ 1.781 2.232 2.004 3.364 Thu nhập trước thuế tỷ.đ 16 40 45 72,7 Lao động bình quân Người 18.100 20.500 23.500 27.000 Thu nhập bình quân đầu người/tháng Ngàn đồng 966 1.185 1.650 2.250 Xuất phát từ đặc điểm sản xuất, kinh doanh ngành xây dựng đồng thời với quy mô lớn, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, địa bàn rộng, có nhiều đơn vị trực thuộc và được phân cấp quản lý khác nhau nên tổ chức kế toán của Tổng công ty bao gồm phòng kế toán trung tâm và các phòng kế toán của các đơn vị hạch toán độc lập. Phòng kế toán của các đơn vị hạch toán độc lập tổ chức thực hiện hạch toán theo phương thức đầy đủ. Cụ thể, hạch toán tổng hợp chi tiết các nghiệp vụ kinh tế phát sinh ở đơn vị mình như một doanh nghiệp độc lập. Cuối kỳ hạch toán gửi các báo cáo kế toán lên bộ phận kế toán của Tổng công ty. Phòng kế toán Tổng công ty đặt tại trụ sở của Tổng công ty có các chức năng sau: - Tổ chức quản lý tài chính và thực hiện hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại văn phòng Tổng công ty như một doanh nghiệp độc lập. - Tổng hợp số liệu từ phòng kế toán các đơn vị trực thuộc, các chi nhánh chuyển lên, lập báo cáo chung của Tổng công ty. Tổ chức bộ máy kế toán Tổng công ty được áp dụng theo mô hình trực tuyến. Theo mô hình này mọi nhân viên trong phòng hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của kế toán trưởng. Với đặc điểm của hoạt động sản xuất, kinh doanh tổ chức của Tổng công ty hiện nay, phương thức tổ chức bộ máy kế toán này tỏ ra phù hợp và đạt hiệu quả cao. Phương thức tổ chức này được minh hoạ bằng sơ đồ sau: Sơ đồ số 2: Tổ chức bộ máy kế toán tại Tổng công ty Sông Đà kế toán trưởng Tổng công ty Phó kế toán trưởng Phó kế toán trưởng Phó kế toán trưởng Phó kế toán trưởng Kế toán tổng hợp Kế toán thanh toán Kế toán vật tư, hàn hoá, TSCĐ Kế toán ngân hàng Kế toán quỹ Thủ quỹ Bộ phận kế toán ở các đơn vị trực thuộc có tổ chức riêng Các nhân viên kinh tế ở các bộ phận không có tổ chức kế toán riêng Về hình thức kế toán vận dụng: Tổng công ty Sông Đà là một trong những doanh nghiệp áp dụng hình thức kế toán nhật ký chung theo chế độ kế toán mới do Bộ tài chính ban hành và được thực hiện trên máy vi tính thông qua một sản phẩm phần mềm do Tổng công ty tự xây dựng. Đặc điểm của hình thức kế toán nhật ký chung là sử dụng sổ nhật ký chung ghi chép tất cả các hoạt động kinh tế tài chính theo thứ tự thời gian, đồng thời ghi sổ cái, sổ chi tiết các tài khoản liên quan. Hệ thống kế toán sử dụng tại Tổng công ty Sông Đà bao gồm : - Sổ nhật ký chuyên dùng - Sổ nhật ký chung - Sổ cái các tài khoản - Sổ kế toán chi tiết. Trên đây là những đặc điểm khái quát nhất về hoạt động sản xuất kinh doanh, về tổ chức kế toán và là những đặc điểm chi phối nhiều nhất đến đặc điểm tổ chức, nội dung hoạt động của kiểm toán nội bộ. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của Tổng công ty Sông Đà là thuộc về lĩnh vực đầu tư XDCB. Hoạt động này đã tạo ra phần lớn lợi nhuận cho công ty, làm tăng giá trị TSCĐ tứ 662 tỷ đồng( năm 1993) đến 1600 tỷ đồng( năm 2002), tăng giá trị xuất nhập khẩu từ 4% đến 10,5% trong những năm qua đồng thời tạo việc làm cho hơn 4000 cán bộ công nhân viên đặc biệt có một số cơ sở có việc làm thường xuyên và thu nhập ổn định. Tuy nhiên có một số mặt cần xem xét trong quá trình đầu tư của Tổng công ty. Về công tác chuẩn bị đầu tư, việc xác định địa bàn của dự án, đánh giá thị trường tiêu thụ, tính toán giá thành sản phẩm đầu vào, giá đầu ra tại thị trường tiêu thụ khác xa so với thực tế. Quá trình triển khai dự án thường bị điều chỉnh kế hoạch sai lệch đi nhiều so với khi lập dự án. Một số dự án chưa hoàn thành thủ tục đầu tư đã tiến hành thực hiện nên không quản lý được tổng dự toán và tổng mức đầu tư, nhiều trường hợp phải chạy theo các thủ tục để thanh toán và quyết toán. Khi xây dựng, công tác khảo sát, thiết kế kỹ thuật và lựa chọn thiết bị lắp đặt cho dự án chưa được nghiên cứu thận trọng nên khi thực hiện thì giá trị đầu tư thường vượt cao hơn so với tổng mức đầu tư ban đầu dẫn đến việc quản lý đầu tư rất khó khăn và là một trong những nguyên nhân làm tăng giá thành phẩm. Khi vận hành, một số dự án việc quản lý, vận hành chưa tốt, chưa có biện pháp quản lý chi phí dầu vào,... do đó không tiêu thụ được sản phẩm dẫn đến việc sản xuất không đạt được công suất thiết kế. Một số đơn vị được Tổng công ty uỷ quyền là chủ đầu tư thực hiện quản lý vận hành dự án chưa thấy rõ được ý thức trách nhiệm ngay từ khi thực hiện thủ tục đầu tư và xây dựng. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư XDCB, công tác kiểm toán dự án và kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư XDCB được đưa vào trong kế hoạch kiểm toán của phòng Kiểm toán nội bộ tổng công ty Sông Đà. 2.1.2. Quá trình hoạt động của bộ máy kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty Sông Đà. Với yêu cầu bức thiết của quản lý và nhận thức sâu sắc của lãnh đạo Tổng công ty về sự cần thiết của công tác kiểm toán nội bộ, thực hiện quyết định số 832 TC/QĐ-CĐKT ngày 28/10/1997 của Bộ Tài chính về việc ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ Hội đồng quản trị Tổng công ty xây dựng sông Đà đã ra quyết định số 04 TCT/HĐQT, ngày 06/01/1998 thành lập bộ máy kiểm toán nội bộ của Tổng công ty. Năm 1999 Tổng công ty đã tiến hành xây dựng Quy chế kiểm toán nội bộ của riêng mình. Nội dung của Quy chế được soạn thảo căn cứ vào Quy chế kiểm toán nội bộ do Bộ tài chính đã ban hành trong quyết định số 832 TC/QĐ-CĐKT, có tính đến thực tế đa dạng ngành nghề sản xuất, kinh doanh của Tổng công ty trong đó quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ của phòng kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nội bộ là phòng chức năng giúp Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị Tổng công ty kiểm tra, xác nhận, đánh giá toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên và toàn Tổng công ty. Kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà có nhiệm vụ: Xây dựng phương án tổ chức công tác kiểm toán nội bộ trình Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị Tổng công ty phê duyệt. Xây dựng kế hoạch và lập chương trình kiểm toán tháng, quý, năm trình Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị Tổng công ty phê duyệt. Tổ chức các khoá học kiểm toán nội bộ trong nội bộ Tổng công ty theo nhiệm vụ, kế hoạch và chương trình kiểm toán nội bộ đã được phê duyêt. Soạn thảo trình Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị ban hành các quyết định, chỉ thị, quy chế, quy định và các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác kiểm toán nội bộ trong Tổng công ty. Kiểm tra tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. Kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị trước khi trình ký duyệt. Kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính, kế toán, chính sách, nghị định, quyết định của Tổng gián đốc và Hội đồng quản trị. Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, bảo vệ tài chính của các đơn vị thành viên và của Tổng công ty. Đề xuất các kiến nghị và biện pháp xử lý các sai phạm(nếu có) và đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến và hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh của các đơn vị thành viên và của Tổng công ty. Lập báo cáo kiểm toán nội bộ khi kết thúc mỗi cuộc kiểm toán. Báo cáo kiểm toán nội bộ được gửi cho Hội đồng quản trị và lãnh đạo của Tổng công ty Kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty Sông Đà hoạt động trên các lĩnh vực kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán các báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị. Kiểm toán hoạt động là việc kiểm tra, xác nhận và đưa ra đánh giá về hoạt động, tính hiệu quả của các hoạt động từ đó đưa ra kiến nghị nhằm cải tiến, hoàn thiện hoạt động của mỗi đơn vị thành viên cũng như toàn Tổng công ty. Các lĩnh vực của kiểm toán hoạt động: Kiểm tra việc huy động phân phối sử dụng các nguồn lực (nhân lực, vật tư, tài sản, nguồn vốn, lợi thế kinh doanh) của các đơn vị thành viên cũng như toàn Tổng công ty. Kiểm tra tính hiệu quả của các hoạt động sản xuất, kinh doanh phân phối và sử dụng thu nhập kết quả bảo toàn và phát triển vốn. Kiểm tra và đánh giá tính hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng trong công việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Kiểm toán tuân thủ:là việc kiểm tra xác nhận và đưa ra những đánh giá về việc: Tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ tài chính, kế toán, chế độ quản lý của nhà nước. Ban hành các chính sách, chế độ, nghị quyết, quyết định quy chế của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc cũng như lãnh đạo các đơn vị thành viên có phù hợp với luật pháp, chính sách chế độ đó của các đơn vị thành viên và của Tổng công ty. Tuân thủ các quy định về nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ, thủ tục quản lý của toàn bộ cũng như từng khâu công việc trong hệ thống kiểm soát nội bộ. Chấp hành các nguyên tắc, chính sách, các Chuẩn mực kế toán từ khâu lập chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán, tổng hợp thông tin và trình bày Báo cáo tài chính, Báo cáo quản trị đến việc lưu trữ tài liệu kế toán. Kiểm toán Báo cáo tài chính và Báo cáo kế toán quản trị: đây là việc kiểm tra, xác nhận và đánh giá tính kịp thời đầy đủ, khách quan, độ tin cậy của Báo cáo tài chính, Báo cáo quản trị của các đơn vị thành viên, các đại diện, chi nhánh của Tổng công ty, cơ quan Tổng công ty, Báo cáo tài chính , Báo cáo quản trị hợp nhất của toàn Tổng công ty trước khi Tổng giám đốc ký duyệt; đưa ra những kiến nghị và tư vấn cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo sự hợp lý và hiệu quả. Việc kiểm toán Báo cáo tài chính và Báo cáo kế toán quản trị có thể được tiến hành theo quý, năm tuỳ thuộc vào thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn Tổng công ty, yêu cầu của Tổng giám đốc, Hội đồng quản trị Để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình phòng kiểm toán nội bộ được biên chế 12 người gồm: 1 trưởng phòng, 2 phó phòng và 9 nhân viên. Tuy nhiên khi thực hiện kiểm toán thì phòng Kiểm toán nội bộ có thể được tăng cường thêm nhân viên để có thể tổ chức thành 3 đoàn kiểm toán hoàn chỉnh độc lập và thực hiện các phần việc sau: kiểm toán tài sản cố định, kiểm toán hàng tồn kho, kiểm toán chi phí giá thành, kiểm toán tiền lương, kiểm toán thuế và các khoản phải nộp nhà nước… Với bộ máy kiểm toán nội bộ được tổ chức như trên, cho đến nay tổng công ty Sông Đà chưa phải thuê kiểm toán độc lập để kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm cũng như kiểm toán mọi mặt hoạt động khác, nhiệm vụ này hoàn toàn do kiểm toán nội bộ đảm nhiệm. Trưởng thành dần theo thời gian phòng Kiểm toán nội bộ Tổng công ty đã chứng tỏ là một công cụ trợ giúp lãnh đạo Tổng công ty tăng cường hiệu lực quản lý, tăng hiệu quả và hạn chế rủi ro trong sản xuất và kinh doanh. 2.2. Thực trạng kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản do kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà thực hiện. Quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản áp dụng tại Tổng công ty Sông Đà là quy trình có sự vận dụng một cách sáng tạo lý luận về kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản đã nêu ở chương I cho._. có sự hiểu biết sâu sắc về hệ thống kiểm soát nội bộ bởi vì thực trạng hoạt động tài chính có hai phần riêng biệt: một phần được phản ánh trong tài liệu kế toán và phần khác chưa được phản ánh trong tài liêu này. Đối với phần thứ nhất, việc xác minh và bày tỏ ý kiến đã hoàn toàn có cơ sở chứng minh là các thông tin kế toán. Do đó kiểm toán viên có thể sử dụng phương pháp kiểm toán chứng từ để tìm bằng chừng kiểm toán. Còn phần thứ hai chưa có cơ sở dữ liệu do đó cần có những phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ để tạo ra bằng chứng kiểm toán như: điều tra kiểm kê hay thực nghiệm … Khi kiểm tra chi tiết các kiểm toán viên ghi lại những sai sót phát hiện được dưới dạng diễn giải bằng lời trong báo cáo kiểm toán. Còn các thông tin khác trong quá trình kiểm toán hầu như không được giữ lại trên giấy tờ làm việc. Điều này gây khó khăn cho các kiểm toán viên khi muốn tìm lại các bằng chứng cụ thể của đơn vị được kiểm toán đã trình bày lại với ban lãnh đạo Tổng công ty khi họ có đòi hỏi giải trình cụ thể. Các nhà quản lý cũng khó mà có thể đánh giá công việc kiểm toán hiệu qủa như thể nào, đặc biệt trong trường hợp có các tranh chấp pháp lý hay kiện tụng. Hơn nữa nếu số lượng phát hiện ít thì việc tập hợp các phát hiện trong sổ tay kiểm toán còn có thể kiểm soát được nhưng trong trường hợp các phát hiện nhiều bao gồm cả những sai sót rõ ràng và những phát hiện kiểm toán còn đang nghi vấn mà không được hệ thống hoá thì kiểm toán viên nội bộ sẽ gặp khó khăn trong việc xử lý số liệu. Ví dụ như trong công tác tổng hợp kết quả kiểm toán, theo dõi và xử lý những trường hợp nghi vấn cần có những giải trình để có thể kết luận đấy là những sai sót hay chứng minh được sư chân thực của nghiệp vụ…Tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà ban lãnh đạo tin tưởng các kiểm toán viên trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Điều này có thể lý giải cho thực tế trên những việc các kiểm toán viên nội bộ không ghi chép lại những công việc đã tiến hành về lâu dài sẽ ảnh hưởng cho kiểm toán Báo cáo quyết toán vì ngoài việc lập báo cáo kiểm toán thì hồ sơ kiểm toán còn dùng để đánh giá rút kinh nghiệm cho các cuộc kiểm toán sau. Không thể có một quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản hiệu quả nếu không đúc rút kinh nghiệm từ những công việc đã làm. Qua những nhận xét trên có thể thấy được những kết quả đáng khích lệ và cả những hạn chế trong công tác kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản của phòng kiểm toán nội bộ. Đồng thời qua việc nghiên cứu đối chiếu giữa lí luận và thực tiễn cônng tác kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản của phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty đã được mô tả ở trên ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm dẫn đến thực trạng đó: Sự trao đổi thông tin và phối hợp giữa các kiểm toán viên trong đoàn kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản với sự chỉ đạo bao quát của trưởng đoàn. Dự án đầu tư XDCB là một chỉnh thể thống nhất giữa các yếu tố của nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy tuy các kiểm toán viên triển khai cuộc kiểm toán theo các khoản mục tương đối độc lập với nhau nhưng nhờ trao đổi thông tin và phối hợp tốt nên vẫn đảm bảo được mối liên hệ qua lại giữa các phần việc với nhau như đã phân tích ở trên. Thực tế kiểm toán nói chung cho thấy nếu chỉ thực hiện phân đoạn kiểm toán theo khoản mục mà không có sự kết nối dữ liệu tốt thì không đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán. Nó sẽ dẫn đến sự tách biệt những tài khoản vốn có liên quan chặt chẽ với nhau như vật tư tồn kho và chi phí vật tư tính vào công trình. Nhờ thực hiện tốt công tác trao đổi thông tin và phối hợp công việc đã làm giảm khả năng này và theo được dòng vận động liên tục của thông tin từ nghiệp vụ kinh tế được phản ánh vào sổ nhật ký chung, sổ chi tiết và tổng hợp vào sổ cái và báo cáo. Trong lúc nước ta chưa thể tiếp cận được với cách kiểm toán theo các chu kỳ thì đây là một bài học kinh nghiệm dẫn đến sự thành công của một cuộc kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Hiểu biết về thình hình hoạt động của dự án : Với lợi thế là nhân viên của Tổng công ty đã từng làm việc nhiều năm trong các lĩnh vực kiểm tra tài chính, kế toán các kiểm toán viên nội bộ của tổ chức. Qua sự hiểu biết ấy kiểm toán viên đã lựa chọn được những phương pháp tiếp cận dự án, tập trung vào những mục tiêu trọng tâm tạo điều kiện thuận lợi để triển khai cuộc kiểm toán. Nhu cầu chuyên gia về những lĩnh vực chuyên môn: khi kiểm toán viên đứng trước tình huống đòi hỏi kiến thức chuyên môn thì có thể phỏng vấn một chuyên gia. Người này thường được điều động từ các bộ phận khác trong Tổng công ty với yêu cầu người này phải độc lập với đối tượng kiểm toán. Dự đoán nhu cầu của chuyên gia được chuẩn bị trong quá trình chuẩn bị kiểm toán. Tuy nhiên việc phòng kiểm toán nội bộ chưa chú ý đến công tác này có thể gây nhiều bất cập trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán như đã phân tích ở trên. Hiểu biết về các chuẩn mực, luật lệ, chính sách chế độ của Nhà nước và Tổng công ty : Điều này đảm bảo cho cuộc kiểm toán được tiến hành nhanh và các kết luận kiểm toán có giá trị thuyết phục cao. Chương III phương hướng hoàn thiện kiểm toán nội bộ Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản qua thực tiễn hoạt động của phòng kiểm toán nội bộ tổng công ty sông đà 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản đối với kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà. Ngày nay, trên thế giới sự phát triển từng ngày của ngành kiểm toán nói chung và của kiểm toán nội bộ nói riêng thể hiện ở sự thay đổi về bản chất và phạm vi hoạt động kiểm toán. Sự ra đời của kiểm toán nội bộ trong các tổ chức lúc ban đầu xuất phát từ nhu câù đảm bảo sự chính xác của các hồ sơ, số liệu, sự tuân thủ các quy tắc, kiểm soát gian lận và sai sót. Qua thời gian, kiểm toán nội bộ đã trở thành một công việc có phạm vi ngày càng rộng đối với các tổ chức thuộc tất cả các lĩnh vực. Kiểm toán nội bộ do đó cũng gặt hái được rất nhiều thành tựu trong nghiên cứu cũng như trong phưoưng pháp tiếp cận. Ngày nay, kiểm toán nội bộ được nhìn nhận như một nhiệm vụ không thể thiếu trong mọi lĩnh vực của tổ chức. Sự mở rộng về loại hình hoạt động của kiểm toán nội bộ đã được các đơn vị tư nhân thừa nhận. Điều đó thể hiện ở vị trí cao hơn trong tổ chức, ngân sách hoạt động lớn hơn, sự thừa nhận mục tiêu nghiên cứu rộng hơn, được sử dụng nhiều hơn để phục vụ cho nhiều loại hình hoạt động khác nhau. Trong hầu hết các công ty, chuyên viên kiểm toán và các nhân viên khác được nhìn nhận như những cộng sự quan trọng trong hoạt động chung của công ty. Tất cả sự thừa nhận trên chứng tỏ công việc của kiểm toán nội bộ đang ngày càng được mở rộng và trở nên độc lập hơn. Sự phát triển của kiểm toán nội bộ diễn ra rrộng khắp xuất phát từ quá trình hoạt động của các bộ phận kiểm toán nội bộ tại từng doanh nghiệp và các tổ chức Chính phủ. Những hoạt động này là cơ sở thành công cho các tổ chức đó. Sự tiến triển trong tương lai của kiểm toán nội bộ sẽ lớn hơn qua nỗ lực nghề nghiệp trên một phạm vi rộng lớn. Nhưng xét một cách toàn diện, sự phát triển của kiểm toán nội bộ phụ thuộc vào thành tựu của mọi kiểm toán viên nội bộ. Do đó, mục tiêu ở đây là nâng cao chất lượng hoạt độngcủa từng kiểm toán viên và mỗi bộ phận kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp, đem lại sự trợ giúp tích cực góp phần đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin và các ứng dụng của nó trong mọi vấn đề của cuộc sống hiện đạilà một trong những sức mạnh to lớn và có ý nghĩa nhất của xã hội. Trong kinh doanh và trong hoạt động quản lý nhà nước. máy tính đã trở thành phương tiện chủ yếu để xử lý các dữ liệu văn phòng và đem lại khả năng mới cho một số lượng lớn các ứng dụng trong khoa học quản lý. Những phát triển này đem lại những thuận lợi lớn nhưng đồng thời cũng gây ra không ít khó khăn cho công tác quản lý, điều hành. Mục tiêu của kiểm toán nội bộ về trợ giúp tổ chức đồi hỏi kiểm toán viên nội bộ phải nhận thức được những cơ hội cũng như các thách thức mới này và trợ giúp mọi bộ phận để sử dụng mọi nguồn lực một cách có hiệu quả. Thêm vào đó những ứng dụng rộng rãi của máy tính đã tác động trực tiếp nhiều hơn tới công việc của kiểm toán viên nội bộ. Việc xem xét các dữ liệu hoạt động nay đã được vi tính hoá. Trước khi có sự xâm nhập của máy tính, kiểm toán viên nội bộ xử lý tài liệu và các dữ liệu có liên quan bằng cách thủ công. Ngày nay các dữ liệu cơ bản được in ra bằng máy tính điện tử qua mọt loạt các chương trình và phương pháp xử lý dữ liệu phức tạp. Khi xem xét các số liệu này kiểm toán viên nội bộ cần tập trung vào các xử lý cơ bản của máy tính, các chương trình và kiểm soát mà qua đó số liệu được tạo ra. Những kiểm tra về quá trình xử lý của máy tính điện tử dẫn tới việc sử dụng độc lập máy tính. Thông thường, kiểm toán viên sẽ kiểm tra độ chính xác của các dữ liệu bằng các chương trình máy tính và đồng thời kiểm tra sự hợp lệ của các số liệu gốc trước khi nhập vào cho máy tính xử lý. Quá trình xử lý dữ liệu của máy tính được dựa trên chương trình được định sẵn, khi chương trình đó thuộc một lĩnh vực quan trọng và có mối quan hệ qua lại với nhiều hoạt động thì chùn được coi như một hệ thống.Kiểm toán viên muốn trở thành một bộ phận cấu thành tích cực của một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt và các thủ tục nội bộ có hiệu quả kiểm toán viên nội bộ cần có ngay những kiến thức chuyên môn tương đối đầy đủ về kỹ thuật để có thể làm việc với bộ phận phát triển hệ thống. Điều đó cũng có nghĩa là kiểm toán viên nội bộ phải thiết lập và duy trì liên lạc trong những thời điểm cần thiết. Thực hiện những công việc trên một cách có hiệu quả cũng là một thách thức đối với kiểm toán viên nội bộ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành kiểm toán nội bộ trên thế giới, kiểm toán nội bộ ở Việt Nam cũng đang dần trở thành một hoạt động quen thuộc và đóng vai trò nhất định tại các công ty, tổng công ty lớn và là một yêu cầu thiết yếu mà Bộ Tài chính đặt ra đối với các doanh nghiệp nhà nước. Với xu hướng hội nhập kinh tế trong khu vực và trên thế giới, khi Việt Nam ký kết hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập AFTA, ƯTO các doanh nghiệp phải đặt ra phương hướng hoàn thiện mình nhằm nâng cao tính cạnh tranh trên thương trường. Hiện nay, ở nước ta chưa có chuẩn mực kiểm toán riêng cho kiểm toán nội bộ, hoạt động kiểm toán nội bộ hoàn toàn dựa theo Quy chế kiểm toán nội bôl do Bộ Tài chính ban hànhvà các quy chế, quy định tại mỗi công ty. Trong xu hướng phát triển hiện nay, kiểm toán nội bộ ngày càng trở nên độc lập do đó Việt Nam cần phải nghiên cứu ban hành một bộ chuẩn mực cho hoạt động của kiểm toán nội bộ. Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, với xu thế hội nhập mạnh mẽ và sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuậtđặc biệt là công nghệ thông tin, để có thể đứng vững và phát triển được Tổng công ty Sông Đà ngày càng phải hoàn thiện hoạt động kiểm toán nội bộ của mình. Là một Tổng công ty có hoạt động kinh doanh chủ yếu trên lĩnh vực XDCB việc kiểm toán các Báo cáo quyết toán công trình đầu tư XDCB nói riêng và kiểm toán các dự án đầu tư XDCB nói chung là một công việc cần thiết. Trong thời gian tới, Tổng công ty sẽ phát triển hướng kinh doanh sang cả các ngành thuộc các lĩnh vực khác do đó hoạt động kiểm toán nội bộ phải có sự thay đổi lớn để thích ứng với sự thay đổi trong chiến lược kinh doanh song hoạt động kiểm toán đối với các công trình XDCB vẫn đongs vai trò quan trọng và chiếm phần lớn thời gian. Với mục tiêu mở rộng thị trường kinh doanh về XDCB, tăng các dự án đầu tư XDCB ở cả trong nước và nước ngoài Tổng công ty yêu cầu bộ máy kiểm toán nội bộ phải có những bước hoàn thiện các quy trình kiểm toán đặc biệt là kiểm toán các công trình đầu tư XDCB để bắt kịp những bước phát triển của kiểm toán nôị bộ trong khu vực và trên thế giới tạo sự hoà nhập về mọi mặt của Tổng công ty. Đây cũng là yêu cầu thiết yếu nhằm làm tăng sức mạnh của Tổng công ty trên thương trường.Vì vậy, hoàn thiện hoạt động kiểm toán nội bộ nói chung và hoàn thiện quy trìh kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình XDCB nói riêng là yêu cầu thực tế và bức thiết đối với kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà. 3.2. Một số kiến nghị nhằm khắc phục khó khăn và hoàn thiện kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản. Trong năm 2003 một số dự án đầu tư xây dựng cơ bản được đưa vào kế hoạch kiểm toán chính thức theo những chuyên đề riêng biệt của phòng kiểm toán nội bộ chứng tỏ sự tin cậy của ban giám đốc Tổng công ty với hiệu quả mang lại của công tác này. Với các kiến thức đã được tích luỹ trong quá trình thực hiện, học tập nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế quốc dân và nghiên cứu thực tiễn kiểm toán tại phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty em mạnh dạn có một số đề xuất để góp phần vào việc khắc phục những tồn tại trong kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty Sông Đà. Thứ nhất, để có thể cùng một lúc thực hiện được cả 3 nội dung kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán Báo cáo quyết toán tại Tổng công ty ngoài kiểm toán viên nội bộ có trình độ chuyên môn cao về tài chính kế toán cần bổ sung các kiểm toán viên nội bộ trong những lĩnh vực chuyên ngành khác đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Trước mắt, công ty cần bổ sung thêm người có kinh nghiệm, năng lực trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán từ các đơn vị lên phòng Kiểm toán nội bộ. Và về lâu dài Tổng công ty cần tổ chức các khoá học bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên, tổ chức các cuộc tiếp xúc trao đổi với các chuyên gia kiểm toán thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm trau dồi và nâng cao trình độ của kiểm toán viên nội bộ. Một cách khác Tổng công ty có thể tuyển nhân viên là các sinh viên chuyên nghành kiểm toán trong các trường đại học nhằm giảm chi phí đào tạo cho công ty. Thứ hai, Tổng công ty cần có những quy định cụ thể về việc luân chuyển thông tin báo cáo tạo điều kiện cho kiểm toán nội bộ năm bắt kịp thời được các thông tin trong Tổng công ty. Như vậy phòng kiểm toán nội bộ với chức năng, nhiệm vụ của mình cần có sự phối hợp với các phòng ban trong việc kiểm tra, đánh giá các thông tin kinh tế đồng thời thông qua việc xem xét, đánh giá chất lượng thông tin kinh tế của kiểm soát nội bộ cũng như hiệu lực của hệ thống kỉêm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn chỉnh quy chế cũng như báo cáo, thông tin. Thứ ba, qua phân tích tình hình kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty cho thấy nội dung kiểm toán hoạt động chưa là một nội dung chính trong một cuộc kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên trong chương I khi tìm hiểu về các lĩnh vực hoạt động của kiểm toán nội bộ nói chung cũng như trong phần II qua nội dung Quy chế hoạt động của phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà đều thấy lĩnh vực chủ yếu của kiểm toán nội bộ là kiểm toán Báo cáo tài chính hay Báo cáo quyết toán của dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Như vậy kiểm toán nội bộ Tổng công ty nên và cần phải mở rộng nội dung kiểm toán hoạt động. Với tư cách là các kiểm toán viên nội bộ, họ có một vị trí độc đáo để thực hiện kiểm toán hoạt động, đó là do họ là những nhân viên của Tổng công ty và dành tất cả thời gian của họ làm việc cho Tổng công ty mà họ đang kiểm toán. Vì thế họ có một kiến thức đáng kể về Tổng công ty và công việc sản xuất kinh doanh của nó mà đây là điều cơ bản để kiểm toán hoạt động có hiệu quả. Để thực hiện kiểm toán nội bộ Báo cáo quyết toán công trình đầu tư XDCB, phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty sông Đà có thể áp dụng quy trình kiểm toán hoạt động đã nêu trong Chương I : “ Cơ sở lí luận của kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản của kiểm toán nội bộ”. Tuy nhiên thực tế kiểm toán cho thấy kiểm toán Báo cáo quyết toán là một cuộc kiểm toán liên kết do đó kiểm toán có thể kết hợp kiểm toán hoạt động và kiểm toán Báo cáo tài chính mà kiểm toán viên nội bộ thực hiện. Mối quan hệ đó có thể thấy thông qua sơ đồ số 3. Tuy nhiên Tổng công ty cũng phải cân nhắc giữa chi phí để thực hiện kiểm toán với những hiệu quả đạt được nhằm đưa ra những quyết định chính xác và có lợi nhất cho toàn Tổng công ty. Thứ tư, kiểm toán viên nội bộ có thể hoàn thiện một số nội dung trong quy trình kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản như hoàn thiện việc vận dụng tính trọng yếu, nâng cao công tác đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, vận dụng một số phương pháp chọn mẫu trong kiểm toán, áp dụng một số kỹ thuật kiểm toán, hoàn thiện công tác lập biên bản và lập báo cáo kiểm toán. Sơ đồ số 3: Đối chiếu quy trình kiểm toán hoạt động và kiểm toán báo cáo quyết toán Lựa chọn đối tượng kiểm toán Lập kế hoạch kiểm toán Nghiên cứu tổng quát Xem xét kiểm toán nội bộ Thử nghiệm mở rộng Thử nghiệm kiểm soát Thủ tục phân tích Thử nghiệm chi tiết Xử lí các phát hiện kiểm toán Báo cáo kiểm toán Theo dõi sau kiểm toán Lựa chọn đối tượng kiểm toán Lập kế hoạch kiểm toán Nghiên cứu tổng quát Xem xét kiểm toán nội bộ Xử lí các phát hiện kiểm toán Báo cáo kiểm toán Theo dõi sau kiểm toán Kiểm toán hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính Tính trọng yếu rất quan trọng đối với việc đảm bảo kiểm toán và thiết kế phương pháp kiểm toán. Đối với kiểm toán viên việc đảm bảo kiểm toán toàn diện trên mọi mặt của đối tượng kiểm toán là điều không thực tế. Tại Tổng công ty Sông Đà, kiểm toán viên đã vận dụng tính trọng yếu trong quá trình thực hiện kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản nhưng chủ yếu theo kinh nghiệm và những phán xét chủ quan. Để đảm bảo cho các kết luận kiểm toán được chuẩn xác hơn các kiểm toán viên nên tiến hành vận dụng tính trọng yếu một cách bài bản hơn qua 5 bước như sau : Bước 1 : Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu Sự ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là ước lượng tối đa mà các kiểm toán viên tin rằng ở mức đó các thông tin có thể bị sai nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng hợp lí. Bước 2 : Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các bộ phận. Nếu các kiểm toán viên có ước lượng ban đầu về tính trọng yếu đối với từng bộ phận điều này giúp họ xác định được bằng chứng thích hợp để thu thập. Các kiểm toán viên tiến hành phân bổ tính trọng yếu cho các tài khoản trên bảng cân đối kế toán. Mục tiêu của quá trình phân bổ tính trọng yếu phải nhằm tối thiểu hoá chi phí kiểm toán. Bước 3, 4, 5 : Khi kiểm toán viên tiến hành các thủ tục kiểm toán cho từng phần của cuộc kiểm toán, tất cả các sai số tìm được đều được vào sổ. Những sai số này được dùng để ước tính tổng cộng sai số trong mỗi phần. Con số tổng cộng được dựa vào như một ước tính hoặc thường hơn là một dự đoán vì chỉ có một mẫu thay vì toàn bộ tổn thể được kiểm toán. Một cách để tính sai số ước tính là đem chia tổng cộng sai số phát hiện được cho số tiền của mẫu rồi nhân kết quả đó với tổng giá trị ghi sổ của tổng thể. Kết quả tính được là tổng cộng sai số ước tính. Đến bước 4 thì cần tính số ước tính sai số kết hợp. Nó là tổng của các sai số ước tính cho từng tài khoản. Số ước tính sai số kết hợp này có thể đem so sánh với ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Đến đây kiểm toán viên cần có những phán xét quan trọng về sự ảnh hưởng của chênh lệch đến kết luận kiểm toán cuối cùng. Trên đây là cách vận dụng tính trọng yếu trong công tác kiểm toán. công việc sẽ hiệu quả hơn nếu tính trọng yếu được bộ phận kiểm toán nội bộ xây dựng thành những “ Biểu chỉ đạo về tính trọng yếu “, nhằm hướng dẫn cụ thể cho nhân viên trong phòng vận dụng trong việc đánh giá sai sót, chênh lệch mà họ phát hiện khi kiểm toán các phần hành, khoản mục cụ thể. Thứ năm, mặc dù kiểm toán viên đã có những hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ Tổng công ty nhưng để thực hiện kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư XDCB thì các hiểu biết đó phải được tổ chức thành hệ thống và dễ dàng tra cứu khi cần thay vì chỉ ghi nhớ trong đầu. Cách hiệu quả là kiểm toán viên lập bảng về đối tượng kiểm toán hoặc cập nhật bảng mô tả trong hồ sơ thường trực về những thay đổi trong cơ cấu tổ chức, chức năng, trách nhiệm và các hoạt động của đơn vị. Các mô tả này bao gồm các bảng tường thuật, lưu đồ và sơ đồ tổ chức cũng như các thông tin tài chính và các hoạt động của đơn vị. Thường bảng mô tả bao gồm những nội dung chính sau đây : + Mục tiêu hoạt động của đơn vị + Những giới hạn trong môi trường hoạt động + Các bộ phận và chức năng trong đơn vị + Nguồn lực (số lượng và phân loại nhân viên, tình hình lưu chuyển tiền tệ, đất đai, nhà xưởng và thiết bị, các hệ thống thông tin ...) + Các cán bộ quản lí của đơn vị Trong thực tế các bảng mô tả này có thể có nhiều nội dung và chi tiết hơn. Thứ sáu, do không thể kiểm toán toàn diện đối tượng kiểm toán cho nên phải thực hiện các phương pháp chọn mẫu. Để mẫu kiểm toán mang tính đại diện cao thì kiểm toán viên có thể áp dụng một số phương pháp chọn mẫu cơ bản chọn mẫu xác suất, chọn mẫu phi xác xuất và chọn mẫu theo nhận định nhà nghề. Chọn mẫu xác suất còn gọi là chọn mẫu ngẫu nhiên là cách chọn khách quan theo đúng phương pháp xác định, bảo đảm cho mọi phần tử cấu thành đám đông đều có khả năng như nhau trong việc hình thành mẫu chọn. Đặc trưng cơ bản của phương pháp chọn ngẫu nhiên là khách quan, máy móc cả trong cách nhìn nhận đánh giá các phần tử của đám đông lẫn trong chọn mẫu. Trong kiểm toán chọn mẫu ngẫu nhiên được thực hiện ở 3 loại hình cụ thể + Bảng số ngẫu nhiên + Chọn mẫu ngẫu nhiên(đầu vào - đầu ra) qua máy tính + Chọn hệ thống Bảng số ngẫu nhiên là một bảng lập sẵn và đảm bảo cho các con số trong mỗi hàng, mỗi cột đều được lựa chọn mẫu đại diện với số lượng tương đương nhau. Kiểm toán viên sẽ căn cứ từ tổng thể để chọn một số mẫu bất kỳ từ các số ngẫu nhiên. Chọn mẫu ngẫu nhiên qua máy tính: kiểm toán viên nạp số liệu và các nghiệp vụ chi tiết vào máy, sau đó chọ mẫu bất kỳ, chọn mẫu theo hệ thống để chọn được mẫu đại diện theo nguyên tắc chung. Chọn mẫu theo hệ thống: theo phương pháp này kiểm toán viên chọn mẫu kiểm toán theo một nguyên tắc nhất định chẳng hạn theo một khoảng cách đều nhau. Các mẫu đại diện này phải đảm bảo các yêu cầu sau: Các phần tử chọn mẫu đại diện trong tổng thể phải có dặc tính giống nhau. Các phần tử của mẫu được chọn phải đựoc sắp xếp có hệ thống tuần tự Không để một phần tử nào trong tổng thể bị sót Các bước chọn mẫu theo hệ thống: Xác định số tổng thể và số lượng mẫu đại diện cần chọn Xác định khoảng cách các phần tử mẫu cần chọn Bắt đầu chọn mẫu đại diện, từ phần tử đầu tiên của số liệu hoặc nghiệp vụ, chọn các phần tử theo một khoản cách bằng nhau cho đến phần tử cuối cùng Ví dụ, đối với các khoản mục chi phí đầu tư xây dụng cơ bản kiểm toán viên có thể thực hiện chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên bởi đối tượng mẫu phần lớn là những chứng từ đã được đánh số trước. Chọn mẫu phi xác suất: các phương pháp chọn mẫu phi xác suất thường được sử dụng là chọn mẫu theo khối: là việc chọn một tập hợp các mẫu liên tục trong một giây nhát định. Trong trường hợp này phần tử đầu tiên trong khối được chọn thì phần còn lại cũng được chọn tất yếu. Mộu chọn có thể là một khối hay nhiều khối. Chọn mẫu theo nhận định nhà nghề: trong nhiều trường hợp đặc biệt khi cỡ mẫu nhỏ hoặc có tình huống không bình thường... chọn mẫu theo nhận định sẽ tạo cơ hội tôt cho sự xuất hiện của mẫu đại diện. Để tăng được khả năngcủa phương pháp nhận địnhthường phải tập rung chú ý vào phân bố mẫu chọn theo các hướng khác nhau: + Theo loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu. + Theo phần việc cho các nhân viên khác nhau phụ trách: theo đó số lượng nghiệp vụ do mỗi người thực hiện phải được kiểm toán. Nếu có thay đổi nhân viên hoặc các nghiệp vụ ở các địa điểm khác nhau sẽ có mẫu chọn đại diện khi giới hạn phạm vi chọn mẫu. + Theo quy mô: khi chọn các mẫu có quy mô tiền tệ khác nhau thì các khoản mục, nghiệp vụ, tài khoản có số dư lớn cần được chọn để kiểm toán Đối với các kiểm toán viên nội bộ thì phương pháp chọn mẫu phi xác suất tỏ ra phù hợp hơn phương pháp chọn mẫu xác suất vì chi phí chọn mẫu thì nhỏ hơn, và coc sự hiểu biết rất tốt về các đối tượng kiểm toán của mình. Thứ bảy, nhằm nâng cao tính chân thực của kết luận kiểm toán và tính khả thi của các kiến nghị của kiểm toán viên nội bộ cần áp dụng đa dạng kỹ thuật kiểm toán đặc biệt là việc kiểm kê tài sản. Kiểm toán viên nội bộ phải chứng kiến trực tiếp việc kiểm kê và đếm tài sản để chứng minh số lượng và tình trạng của tài sản có đúng với bảng kê khai hay không và xác nhận tình trạng đó. Kỹ thuật thường áp dụng với kiểm kê tiền mặt., tín phiếu, tài sản thế chấp, hàng hoá, nguyên vật liệu và tài sản cố định , Tuy nhiên đối với các tài sản thuộc lĩnh vực xây lắp có những đặc thù riêng và thường để ngoài trời thì kiểm toán viên phải đặc biệt chú ý đến quan sat công tác bảo quản của đơn vị để đánh giá mức độ sử dụng và tình trạng của tài sản, kiểm toán viên cần phải có những hiểu biết nhất định về các máy móc kỹ thuật vốn là đặc trưng của doanh nghiệp xây lắp, cần phải hiểu được các thông số kỹ thuậtcơ bản để có thể đánh giá chính xác tình hình hoạt động của máy móc, phương tiện sản xuất trong doanh nghiệp. Phương pháp này có ưu điểm là cho phép ta kiểm tra về số lượng, chất lượng tài sản và bằng chứng có độ tin cậy cao. Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng phương pháp này sẽ không chứng minh được quyền sở hữu đối với tài sản, điều kiện thực hiện khó khăn. Thứ tám, trong bước kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên gửi biên bản kiểm toán cho các đối tượng kiểm toán dể họ ký xác nhận. Thực trạng này có thể gây bất cập cho việc gửi báo cáo kiểm toán cho ban lãnh đạo Tổng công ty trong trường hợp cácc đối tượng này trì hoãn, Bên cạnh đó báo cáo kiểm toán và biên bản kiểm toán còn chưa có sự phân biệt rạch ròi về hình thức và nội dung. Như vậy báo cáo kiểm toán chưa đảm bảo tính súc tích. Để khắc phục các hạn chế trên phòng Kiểm toán nội bộ có thể có một số thay đổi như: đối với nhược điểm thứ nhất, kiểm toán viên có thể yêu cầu tổng giám đốc và hộ đồng quản trị tăng cường trách nhiệm pháp lý của cac đối tượng kiểm toán trong việc ký biên bản kiểm toán; còn đối với hạn chế sau thì trưởng phòng Kiểm toán nội bộ cần tự mình hoặc uỷ quyền cho các kiểm toán viên khác thực hiện bước khái quát các phát hiện kiểm toán để cung cấp một cái nhìn tổng quát về thực trạng của đối tượng kiểm toán đồng thời bổ sung phần tiêu chuẩn hay là căn cứ cho kết luận kiểm toán để làm chỗ dựa pháp lý tránh các tranh chấp sau này. Kết luận Quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản như đã phân tích ở trên với nhiều mối quan hệ phức tạp, liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành, nhiều đơn vị nhiều các nhân qua nhiều khâu. Chính vì vậy đây là lĩnh vực có nhiều thất thoát. Qua thực tế nhiều ý kiến cho rằng thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản chiếm từ 10% đến 20%giá trị công trình, cá biệt có công trình lên đến 30%giá trị. Chính phủ và các cơ quan chức năng của nhà nước đã thấy rõ thực trạng trên, vì thế đã nhiều lần sửa đổi và ban hành các chế độ về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Do đó việc quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từng bước đi vào nề nếp. Tuy nhiên hiệu quả đạt được vẫn chưa cao, tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản còn lớn, chất lượng công trình chưa đảm bảo. Là một Tổng công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp Tổng công ty Sông Đà rất quan tâm đến việc tìm kiếm giải pháp cho thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản nêu trên. Do vậy nội dung kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản được coi là như một hoạt đông chính của phòng Kiểm toán nội bộ. Do tính mới mẻ của vấn đề quy trình kiểm toán vẫn còn trong quá trình hoàn thiện. Tuy nhiên đây là việc làm cấp thiết vì tính phức tạp của các dự án đòi hỏi các kiểm toán viên có trình độ cao. Với nguồn lực có hạn không chỉ về mặt nhân viên mà còn về mặt thời gian, chi phí một quy trình kiểm toán hoàn thiện sẽ có thể giảm bớt công việc mà vẫn đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán. Trong chuyên đề tốt nghiệp đại học, em đã đưa ra được những lý luận cơ bản cho một cuộc kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản. Kết hợp giữa phần lý thuyết đã tích luỹ được với những kiến thức về thực tế có được trong thời gian thực tập em đã đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty Sông Đà. Do sự hạn hẹp về kiến thức và về thời gian nên chuyên đề còn nhiều hạn chế : trong phần thực trạng kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty Sông Đà mới chỉ nêu được một ví dụ về kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành và do Tổng công ty tự thực hiện do đó chưa thấy rõ được các trường hợp khác như kiểm toán các Báo cáo quyết toán công trình do Nhà nước hoặc đơn vị khác làm chủ đầu tư với hình thức quản lý đầu tư khác; những ý kiến đề xuất còn mang nhiều tính chủ quan do thiếu những hiểu biết về thực tế mà trong quá trình thực tập em chưa có đủ thời gian để tìm hiểu kỹ càng. Với mong muốn có được những kiến thức sâu hơn về mặt lý luận, có những hiểu biết về thực tế đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản Tổng công ty Sông Đà em đã hoàn thành chuyên đề “Tìm hiểu kiểm về toán nội bộ Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty Sông Đà” với sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy Nguyễn Quang Quynh và các cô, các chú, các anh chị tại phòng Kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà. Em xin chân thành cảm ơn thầy, các cô chú và các anh chị đã hướng dẫn và tạo điều kiện để em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp đại học của mình. Tài liệu tham khảo Giáo trình “Kiểm toán tài chính” Trường Đại học kinh tế quốc dân. Kiểm tra, kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản hoàn thành PGS. TS Vương Đình Huệ TS. Thịnh Văn Vinh Kiểm toán các dự án- Vấn đề dặt ra TS.Trần Duy Thanh Tạp chí Kiểm toán Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Bộ Tài chính Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản Bộ Tài chính Quy chế về quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước Bộ Tài chính Kiểm toán nội bộ hiện đại Victor Z. Brink and Herbert Witt 6. Kiểm toán Alvin A. Arens James K. Loebbecke ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29666.doc
Tài liệu liên quan