Bảo hiểm xe cơ giới & vấn đề trục lợi trong bảo hiểm xe cơ giới

Phần mở đầu Cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học - kỹ thuật, công nghệ cũng như nhu cầu đi lại của con người và vận chuyển hàng hoá bằng các phương tiện giao thông vận tải ngày một tăng cả đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không. Đặc biệt xã hội ngày càng phát triển thì thu nhập của cá nhân, gia đình các doanh nghiệp đều tăng lên, họ đầu tư vào mua sắm, xây dựng tài sản trang thiết bị cho mình. Một trong những tài sản cần thiết và quan trọng giúp họ tiết kiệm được nhiều thời gia

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Bảo hiểm xe cơ giới & vấn đề trục lợi trong bảo hiểm xe cơ giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trong công việc là ô tô, xe máy gọi chung là xe cơ giới. Đây là những phương tiện chạy bằng động cơ của chính mình có vận tốc lớn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của chủ phương tiện. Trong khi các phương tiện xe cơ giới tăng lên đồng thời cũng tiềm tàng nhiều nguy cơ về vấn đề xã hội như tai nạn trộm cắp đặc biệt là vấn đề tai nạn giao thông. Những nguy cơ về về tai nạn giao thông xảy ra có mức độ nguy hiểm nghiêm trọng gây thiệt hại về tài sản, tính mạng cho con người mà thường chủ xe không có đủ khả năng tài chính để bồi thường hoặc chi trả. Chính vì vậy cần phải có một công cụ hữu hiệu nào đó nhằm giúp các chủ xe ổn định được tài chính, kinh doanh, thu nhập khi không may gặp rủi ro tai nạn. Để bù đắp những tổn thất về và của do tai nạn rủi ro bất ngờ ngây ra cho chủ phương tiện xe cơ giới, Bảo hiểm phương tiện giao thông vận tải nói chung và Bảo hiểm phương tiện xe cơ giới nói riêng được xem là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Đề tài nghiên cứu hai vắn đề lớn là : “Bảo hiểm xe cơ giới” và “vấn đề trục lợi trong Bảo hiểm xe cơ giới”. Ngoài phần mở đầu, mục lục thì kết cấu của đề tài gồm hai phần. Phần I : Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm xe cơ giới. Phần II : Vấn đề trục lợi trong Bảo hiểm xe cơ giới. Trong từng phần có các phần củ thể và chi tiết. Mặc dù đã được học và đọc về các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, tuy nhiên nhận thức còn hạn chế, số liệu thực tế chưa được tiếp cận chủ yếu thông qua sách báo, tạp chí về Bảo hiểm trên thư viện của nhà trường và một số tài liệu thu thập khác ngoài xã hội, tài liệu về vấn đề trục lợi còn rất ít chủ yếu phụ thuộc vào giáo trình và bài giảng của giáo viên giảng dạy bộ Bảo hiểm vì vậy bài viết còn nhiều hạn chế. Kính mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để em có thể làm tốt hơn trong các bài viết tới. Qua đây cho phép em được cảm ơn thầy, cô giáo giảng dạy bộ môn kinh tế Bảo hiểm và Quản trị kinh doanh Bảo hiểm. Đặc biệt xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Phạm Thị Định đã hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Nội dung Phần I những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xe cơ giới. I. sự cần thiết khách quan và tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới. 1. Sự cần thiết khách quan phải bảo hiểm xe cơ giới. a. Vai trò và đặc điểm của ngành giao thông vận tải. Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì các phương tiện sử dụng trong ngành giao thông vận tải cũng được cải tiến và ngày một hoàn thiện về chất lượng như máy bay, tàu hoả, ô tô, xe máy… Sự phát triển của ngành giao thông vận tải đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của xã hội loài người, đặc biệt xu hướng phát triển trên thế giới hiện nay là “Toàn cầu hoá”. Ngành giao thông vận tải cũng chính là bộ phận chủ yếu của cơ sở hạ tầng, là thước đo cho sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi xã hội. Càng quan trọng hơn nữa là trong nền kinh tế thị trường hiện nay, giao thông vận tải là sợi dây nối liền các vùng kinh tế, các khu vực công nghiệp giữa các miền trên toàn quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển, lưu thông hàng hoá và nhu cầu đi lại của nhân dân ngày một nhanh hơn. Ngoài ra nghành giao thông vận tải còn thúc đẩy tạo ra mối quan hệ, liên kết về kinh tế, văn hoá trong và ngoài nước. Thúc đẩy sự mở rộng trao đổi thông tin, giao lưu văn hoá, nâng cao đời sống của nhân dân. Có thể nói giao thông vận tải là huyết mạch của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước như việc thúc đẩy việc lưu thông hàng hoá, tạo nên sự tăng trưởng trong nền kinh tế, cung cấp khối lượng hàng hoá lớn thuận tiện cho quá trình sản xuất, kinh doanh…Đáp ứng nhu cầu về dịch vụ của khách hàng. Vì thế đòi hỏi ngành giao thông vận tải phải phát triển cả về chất lượng và số lượng để đáp ứng cho sự phát của nền kinh tế trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. b. Đặc điểm của xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ. Số lượng đầu xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ ngày càng tăng đặc biệt là trong những năm gần đây số lượng xe cơ giới tham gia giao thông liên tục tăng thể hiện qua bảng số liệu sau: Năm Tổng số xe cơ giới tham gia giao thông Xe ô tô Xe mô tô 1992 1.974.261 270.036 1.704.225 1993 2.720.062 292.899 2.427163 1994 3.330.000 330.000 3.000.000 1995 3.918.935 340.779 3.578.156 1996 4.595.250 386.976 4.208.274 1997 5.244.978 417.768 4.827.210 1998 5.643.000 443.000 5.200.000 1999 6.051.000 465.000 5.586.000 2000 6.965.562 486.608 6.478.954 2001 8.916.134 557.092 8.359.042 2002 10.880.401 607.401 10.273.000 2003 12.054.000 675.000 11.379.000 (Tạp chí Bảo hiểm số1/04 ) - Qua bảng số liệu trên ta thấy số lượng xe cơ giới tham gia giao thông liên tục tăng qua các năm đặc biệt là số lượng xe máy chỉ sau mười năm đã tăng lên gấp 10 lần. Số lượng xe trong các năm 2001 đến năm 2003 đã tăng lên đột biến vì thế mà đã làm cho tai nạn giao thông ở những thời kì này có những lúc tăng lên cao và càng nghiêm trọng. Năm 1995, số vụ tai nạn xảy ra hơn 15000. Năm 1996 số vụ tăng lên khá cao lên đến 19000 vụ từ năm 1997 đến năm 2000 tai nạn tiếp tục tăng lên tới hơn 22000 vụ làm chết bình quân 6500 người. Năm 2001 sảy ra 29713 vụ tai nạn làm 10077 người bị chết và 25925 người bị thương, thiệt hại 685 tỷ đồng trong đó 42% chi trả bảo hiểm cho tai nạn giao thông. (tạp chí giao thông vận tải T9/00). - Nhưng từ khi lấy năm 2003 là năm thiết lập lại trật tự an toàn giao thông thì tai nạn giao thông đường bộ có giảm so với cùng kỳ năm 2002 là 7.802 vụ (giảm 28,2%) giảm số lượng người chết là 1.178 (giảm 9,4 %), số người bị thương giảm xuống 11.126 người (giảm 35,2%). - Còn trong 6 tháng đầu năm 2004 thì tình hình tai nạn giao thông đường bộ có xu hướng giảm về số vụ và số người bị thương nhưng lại tăng vế số người chết so với cùng kỳ năm 2003. Cùng với sự trợ giúp của tiến bộ khoa học kỹ thuật thì các phương tiện xe cơ giới ngày càng hiện đại hơn, có tính động cơ cao, tính việt dã tốt các phương tiện này có thề chạy với tốc độ nhanh như hơn 100 km/h hoặc vận chuyển với khối lượng hàng hoá lớn …Nó tham gia triệt để vào quá trình vận chuyển vì thế mà sắc xuất rủi ro lớn. Hơn nữa xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ còn phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở hạ tầng: đường xá, cầu cống… thời tiết, khí hậu, địa hình. Các công tác quy hoạch, đảm bảo phát triển phương tiện giao thông vận tải phù hợp với kết cấu hạ tầng ở một số địa phương vẫn chưa được thực hiện, quan tâm đầy đủ. Xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ chịu sự chi phối của một số bộ luật của Quốc gia. Còn có nhiều loại phương tiện xe cơ giới tham gia giao thông trên cùng một tuyến đường với tốc độ khác nhau thậm chí cả khi tham gia ngược chiều nhau. Đôi khi còn có cả người đi bộ hoặc người đi xe đạp tham gia cùng. Có nhiều tuyến đường giao thông đường bộ giao, cắt nhau với các tuyến đường giao thông khắc như đường sắt … Với những đặc điểm có tính đặc thù như trên nên ở tất cả các nước khi đã có bảo hiểm thì bao giờ cũng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới nhằm hạn chế và khắc phục hậu quả đáng tiếc khi đã xảy ra. Và ở Việt Nam thì nghiệp vụ này cũng được Đảng và nhà nước ta rất trú trọng ủng hộ nên đã được triển khai phổ biến rộng rãi như : Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ ba, Bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ việt nam trong những năm qua. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ từ năm 1992 đến năm 2003 Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội thì tốc độ gia tăng phương tiện vận tải là rất lớn, mọi thành phần kinh tế, các đơn vị hành chính, các tổ chức quần chúng và từng người dân đều có thể bỏ vốn đầu tư, mua sắm phương tiện vận tải nhằm thoả mãn về các nhu cầu vận chuyển, đi lại… Nhưng sự tăng lên về phương tiện vận tải thì cũng đồng nghĩa là tỉ lệ thuận với nó tai nạn sẽ tăng lên. Đầy là một trong những vấn đề xã hội mà không chỉ có các quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm mà còn là vấn đề xã hội nhức nhối của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Do đó vấn đề An toàn giao thông là vấn đề bức xúc không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai. Theo số liệu báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) “từ năm 1988 đến năm 1997 tai nạn giao thông tăng gấp 4 lần và có tới 15.159 vụ tai nạn. Còn theo thống kê của cảnh sát, tai nạn chết người tăng 235% bị thương tăng 400%… Trong đó Việt nam là nước có tình hình tai nạn giao thông cao nhất thế giới, hơn nữa số liệu này còn thấp hơn nhiều so với thực tế, do chỉ có một số vụ tai nạn được ghi chép lại, những chênh lệch đó là do cảnh sát giao thông không bắt buộc phải báo cáo tất cả các tai nạn giao thông đường bộ dẫn đến tử vong. Bên cạnh đó do chỉ một số ít xe tham gia bảo hiểm và hầu hết còn hầu hết tự giải quyết với nhau. Còn ở Việt nam thì vấn đề tai nạn giao thông cũng liên tục tăng lên hàng năm kể từ năm 1993 đến năm 2003 số lượng vụ tai nạn giao thông đường bộ tăng lên khá cao và nghiêm trọng có thể thấy rõ trong bảng thống kê dưới sau: Bảng số liệu về tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt nam từ năm 1992 đến năm 2003 Năm Số vụ Số người chết Số người bị thương T/Lsố người chết trên 10.000 xe cơ giới 1992 8.165 2.755 9.040 1993 11.678 +23,6% 4.350 +29,9% 12.590 +13,7% 13,9 1994 13.118 +10,9% 4.533 +4,8% 13.056 +10,0% 15,9 1995 15.376 +17,2% 5.430 +19,3% 16.920 +29,5% 13,6 1996 19.075 +24,0% 5.581 +2,7% 21.556 +27,3% 13,8 1997 19.159 +0,4% 5.680 +1,8% 21.905 +1,6% 12,1 1998 19.975 +4,3% 6.067 +6,8% 22.723 +3,7% 10,8 1999 20.733 +3,8% 6.670 +9,9% 23.911 +5,2% 10,7 2000 22.486 +8,5% 7.500 +12,4% 25.400 +5,2% 10,9 2001 25.040 +11,3% 10.477 +39,6% 29.188 +14,9% 10,7 2002 27.134 +8,3% 12.800 +22,15% 30.733 +5,3% 11,8 2003 19.852 -28,2% 11.319 -9,4% 20.400 -35,2% 9,4 (Tạp chí Bảo hiểm số 1/04 ) Từ bảng số liệu trên ta thấy tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt nam trong thời gian từ năm 1992 đến năm 2003 liên tục tăng về số vụ, số người chết và số người bị thương. Năm 1995 số vụ tai nạn xảy ra la 15376 vụ, năm 1996 số vụ tăng lên là 19075 vụ một con số khá cao và tiếp tục tăng cao trong các năm từ năm 1997 đến năm 2002 là 27.134 vụ tai nạn làm chết 12.800 người và làm bị thương 30.733 người. Qua đó ta có thể thấy giải quyết vấn đề an toàn giao thông thì trước hết cần phải tập trung giải quyết vấn đề an toàn giao thông đường bộ vì tai nạn giao thông đường bộ chiếm khoảng 96% tổng số tai nạn giao thông, số người chết chiếm khoảng 95% và số người bị thương chiếm khoảng 99% do tai nạn giao thông đường bộ gây lên. Tai nạn giao thông đường bộ chiếm tỉ lệ cao trong các loại tai nạn giao thông và tăng nhanh liên tục. Nhưng đến năm 2003 đã có xu hướng giảm cả về số vụ lẫn số người bị chết và bị thương do tai nạn. Theo số liệu của Uỷ ban an toàn giao thông Quốc gia trong năm 2003 xảy ra 20.690 vụ tai nạn thì tai nạn đương bộ chiếm 19.852 vụ, số người chết là 11.853 thì do tai nạn đường bộ là 11.319 người và số người bị thương là 20.694 người thì có 20.400 người do tai nạn đường bộ gây ra. (Tạp chí GTVT 4/2004) Thực trạng tai nạn giao thông giao thông hiện nay. Ngày 16/7/2004 tại Hà Nội Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia và Văn phòng Chính phủ đã tổ chức hội nghị sơ kết công tác bảo đảm an toàn giao thông 6 tháng đầu năm 2004. Tại hội nghị phó thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ đạo hội nghị. Tham dự Hội nghị có bộ trưởng GTVT, chủ tịch Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia Đào Đình Bình …Các tham luận của Văn phòng Chính phủ, Cục cảnh sát, Bộ VHTT, các bênh viên Việt Đức, bệnh viện Tp.Hà Nội, Tp .HCM…. đều nhận định tai nạn giao thông ở nước ta đã trở thành vấn đề xã hộ bức xúc, gây hậu quả rất nghiêm trọng. Tình hình giao thông sau sáu tháng đầu năm 2004 đã xảy ra 9.470 vụ tai nạn giao thông làm chết 6.327 người và bị thương 8.715 người. So với 6 tháng đầu năm 2003 đã giảm được 1.549 vụ tai nạn giao thông (giảm 14,1%) giảm 2.513 người bị thương vì tai nạn giao thông, nhưng lại tăng số người chết vì tai nạn giao thông lên đến 352 người (tăng 5,9%). Trong đó tai nạn giao thông đường bộ xảy ra la 9.111 vụ. làm chết 6.093 người, làm bị thương 9.588 người. Như vậy là so với cùng kỳ năm 2003 đã giảm được 1.419 vụ tai nạn, giảm 2.488 người bị thương nhưng lại tăng số người bị chết là 396 người. Như vậy tai nạn giao thông đường bộ chiếm 96,2% số vụ, 96,3% về số người bị chết, 98,5% về số người bị thương. Tai nạn giao thông tuy có giảm được về số vụ và số người bị thương nhưng lại tăng về số người chết. (Tạp chí GTVT 8/2004) Trên đây là những số liệu về tình hình tham gia giao thông đường bộ và tình hình tai nạn giao thông đường bộ xảy ra ngày càng nhiều và mang tính chất nguy hiểm cao. Tai nạn giao thông xảy ra thì luông để lại những tổn thất cả về vật chất lẫn tinh thần cho người tham gia giao thông. Một số nguyên nhân chính . Tai nạn giao thông xảy ra mang tính chất trầm trọng như vậy thì cũng phải kể đến một số nguyên nhân sau: - Nguyên nhân khách quan : Là do cơ sở hạ tầng nước ta còn thấp kém, hệ thống phân luồng giao thông còn ít đặc biệt trên các tuyến đường dài, còn có nhiều chỗ giao cắt nguy hiểm nhưng không có người bảo vệ hoặc có hàng rào ngăn, biển báo hiệu … Diện tích mặt đường còn nhỏ nhiều chỗ chỉ vừa đủ cho hai xe tải hoặc xe khách qua nhau. Còn nhiều đoạn đương khúc khửu, số đường rải bê tông hoặc rải nhựa còn ít, số đèo dốc cũng lớn, địa hình cho phương tiện giao thông tham gia còn khá là phức tạp. Bên cạnh đó thời tiết khí hậu nước ta còn thay đổi theo mùa gây nóng bức, sương mù, lũ lụt hạn hán … - Nguyên nhân chủ quan : + Xuất phát từ người tham gia giao thông đường bộ, qua theo dõi thống kê thấy tổng số phương tiện cơ giới đường bộ là 8.589.354 xe nhưng mới chỉ có 4.114.491 người có giấy phép lái xe chiếm 43,9%. Từ 70% đến 80% là nguyên nhân các vụ tai nạn sảy ra là do người tham gia giao thông không chấp hành các quy định của pháp luật về trật tự an toàn giao thông. Có 4596 vụ chiếm 76.7% trong đó do chạy quá tốc độ quy định là 2039 vụ chiếm 34.2%, do vượt sai quy định là 1600 vụ chiếm 26.8%, do người điều khiển phương tiện say rượu bia là 337 vụ chiếm5.6%, do thiếu quan sát là 425 vụ chiếm7.1%, do người đi bộ 168 vụ chiếm 2.8%, do thiết bị không an toàn 112 vụ chiếm 1.9%, do cầu đường 12 vụ chiếm 0.2%… và do các nguyên nhân khác là1263 vụ chiếm 21.2% ( Tạp chí Bảo hiểm số 1/04) + Số lượng đầu xe tăng nhanh, do nhu cầu vận chuyển đi lại và do giá thành phương tiện hạ, làm cho số lượng đầu xe tăng lên một cách đột biến. + Tuổi của phương tiện tham gia giao thông quá cao. + Hệ thống bảo dưỡng, sữa chữa thay thế phụ tùng của nước ta chưa được quy hoạch, tổ chức và quản lý một cách chưa chặt chẽ. + Nhận thức và trách nhiệm của chủ phương tiện trong việc duy trì tình trạng an toàn kỷ thuật của phương tiện theo tiêu chuẩn quy định khi tham gia giao thông còn rất ít như thay đổi tổng thành, linh kiện, phụ kiện xe cơ giới, coi thường các quy định của nhà chế tạo do thiếu hiểu biết… + Hệ thống hành lang pháp lý còn nhiều bất cập thiếu đồng bộ công tác Quản lý, phối hợp giữa các bộ, nghành còn chưa chặt chẽ … d. Sự cần thiết khách quan phải Bảo hiểm xe cơ giới. Do tình hình tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nhiều và mức độ nghiêm trọng như đã phân tích ở trên thì Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều biện pháp để làm giảm bớt tai nạn giao thông và mức độ nghiêm trọng của nó, như xử lí vi phạm luật lệ An toàn giao thông, hướng dẫn học luật lệ An toàn giao thông, bắt đội mũ Bảo hiểm khi tham gia giao thông đường bộ, nâng cấp cải thiện cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh công tác quản lý, giáo giục, thường xuyên tổ chức thực hiện tháng An toàn giao thông… Tuy nhiên với sự cố gắng của bản thân con người cũng như sự trợ giúp của khoa học công nghệ nhưng chúng ta vẫn chưa thể loại bỏ được tai nạn giao thông xảy ra với mức độ ngày càng lớn và đôi khi mang tính thảm hoạ. Khi tai nạn xảy ra không chỉ có bản thân nạn nhân (bao gồm cả chủ phương tiện) và gia đình của họ bị thiệt hại về tính mạng thu nhập và sức khoẻ mà cả xã hội cũng bị ảnh hưởng, bởi lẽ những người tham gia giao thông là những người trụ cột, người lao động chính trong gia đình, trong doanh nghiệp… Luật pháp đã quy định khi xảy ra tai nạn chủ phương tiện phải bồi thường. Tuy nhiên trên thực tế công việc bồi thường còn gặp nhiều khó khăn phức tạp. Vì nhiều khi chủ phương tiện gây tai nạn rồi bỏ trốn, gây ra ức chế cho gia đình phía nạn nhân. Hơn nữa nhiều khi lái xe cũng bị chết nên việc bồi thường khó giải quyết, ngoài ra có những vụ chủ phương tiện không đủ điều kiện tài chính để bồi thường cho nạn nhân… Để bù đắp những tổn thất về người và của do những rủi ro bất ngờ gây ra cho chủ phương tiện vận tải. Bảo hiểm phương tiện giao thông vận tải nói chung và Bảo hiểm xe cơ giới nói riêng là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Do đó nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới ra đời là cần thiết và khách quan. 2. Tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới. Bảo hiểm xe cơ giới ra đời có tác dụng to lớn đối với nền kinh tế xã hội: - Góp phần ổn định tài chính, ổn định sản xuất kinh doanh cho các chủ xe. Vì xe cơ giới là một loại tài sản có giá trị lớn đối với mỗi cá nhân và xã hội do dố khi tổn thất xảy ra, nếu chủ xe tham gia Bảo hiểm thì sẽ được công ty Bảo hiểm bồi thường góp phần làm cho việc sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, hạn chế tối đa giảm thu nhập do rủi ro xảy ra - Góp phần ngăn ngừa và đề phồng tai nạn giao thông. Thông qua công tác bồi thường qua các năm, nhà bảo hiểm sẽ thống kê được rủi ro, nguyên nhân gây ra tai nạn để từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu phòng và chống tai nạn xảy ra những lần sau. Các nhà Bảo hiểm sẽ trích phí Bảo hiểm thu được để xây dựng, mua sắm trang bị các thiết bị an toàn như rải nhựa, xây cột chống đỡ hai bên dường hạn chế xe lăn xuống vực… Với biện pháp này cả chủ xe và nhà Bảo hiểm đều có lợi. - Góp phần xoa dịu bớt sự căng thẳng giữa chủ xe với phía gia đình nạn nhân. Khi xảy ra tai nạn chủ xe nhiều khi không đủ tài chính để bồi thường cho phía nạn nhân, hoặc nhiều khi chủ xe không có lỗi và nhất định không bồi thường gây ra mâu thuẫn gay gắt giữa chủ xe và phía gia đình nạn nhân, khi đó các công ty Bảo hiểm sẽ đứng ra điều hoà mâu thuẫn bằng cách chi trả cho phía gia đình nạn nhân một khoản tiền nhất định, đó chính là việc bồi thường nhân đạo của các công ty Bảo hiểm. - Góp phần tăng thu ngân sách cho nhà nước, thông qua việc nộp thuế các công ty bảo hiểm dã đóng góp vào Ngân sách nhà nước một số lượng khá lớn. Từ đó nhà nước có điều kiện để nâng cấp cải tạo xây dựng mới cơ sở hạ tầng, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. II. nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. Kể từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì thị trường Bảo hiểm ở nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng. Sản phẩm và loại hình Bảo hiểm nói chung, Bảo hiểm xe cơ giới nói riêng cũng đa dạng hơn. Các nghiệp vụ Bảo hiểm xe cơ giới được triển khai dưới hai hình thức là bắt buộc và tự nguyện. * Các loại hình bảo hiểm tự nguyện: + Bảo hiểm vật chất bản thân xe cơ giới. + Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá trở trên xe. + Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe . * Các loại hình Bảo hiểm bắt buộc : + Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. + Bảo hiểm tai nạn hành khách. 1. Bảo hiểm vật chất thân xe. a.Đối tượng bảo hiểm. Xe cơ giới là xe hoạt động bằng chính động cơ của mình và được hoạt động trên lãnh thổ quốc gia, bao gồm: Ô tô, xe máy, mô tô. Nó khác với Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách ngồi trên xe và đối với người thứ ba khác được áp dụng bắt buộc bằng pháp luật đối với các chủ xe, Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là hình thức Bảo hiểm tự nguyện. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại vật chất sảy ra đối với xe của mình do những rủi ro được Bảo hiểm gây ra. - Đối tượng bảo hiểm: Bao gồm tất cả những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ của quốc gia. Tuy nhiên xe cơ giới chỉ được coi là đối tượng Bảo hiểm khi có đủ các điều kiện sau: + Phải có giá trị sử dụng . + Phải xác định được về mặt giá trị (lượng hoá được bằng tiền ). + Xe phải đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về mặt kỹ thuật, về an toàn giao thông theo quy định của pháp luật. + Xe phải là một chỉnh thể các bộ phận . Chủ xe tham gia Bảo hiểm vật chất xe là để được bù đắp, bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được Bảo hiểm gây ra. Đối với xe ô tô các loại có thể Bảo hiểm toàn bộ vật chất xe và cũng có thể Bảo hiểm từng bộ phận của chiếc xe. Tuy nhiên nếu theo từng bộ phận thì phải theo 7 tổng thành cơ bản sau: Tổng thành động cơ ( chiếm 15,5%), Tổng thành Thân vỏ (chiếm 53,5%), Tổng thành hộp số (chính, phụ chiếm 7%), Tổng thành hệ thống lái, Tổng thành trục trước, Tổng thành trục sau và bộ phận săm lốp Ngoài ra có một số loại xe còn có tổng thành thứ 8 như xe cứu thương, xe cứu hoả: Móc cần cẩu, kéo…Nhưng thường thì trong thực tế các chủ xe có thể tham gia Bảo hiểm cho toàn bộ xe hoặc một số bộ phận tổng thành của xe hay bị hư hỏng, thiệt hại mà thường là tổng thành thân vỏ. Còn đối với mô tô và xe máy: Chỉ tiến hành Bảo hiểm toàn bộ xe, đây là loại hình Bảo hiểm tài sản vì vậy được thực hiện dưới hình thức tự nguyện. Khi tham gia Bảo hiểm chủ xe phải lưu ý 4 vấn đề sau : - Trong mọi trường hợp không bao giờ Bảo hiểm bồi thường vượt quá số tiền ghi trong đơn Bảo hiểm và giá trị thiệt hại thực tế, hay nói cách khác là giới hạn tối đa để bồi thường. - Nếu chủ xe cũ đã mua Bảo hiểm, sau đó chuyển quyền sở hữu cho người khác thì chủ xe mới vẫn được hưởng Bảo hiểm đến hết hạn hợp đồng, nhưng chủ xe phải báo cho công ty Bảo hiểm mình đã tham gia. - Công ty Bảo hiểm không chịu phần hao mòn tự nhiên của chiếc xe. Chủ xe phải chịu các khoản miễn thường, hao mòn, trục trặc máy móc, hỏng lốp xe do sử dụng phanh, bị cắt hay nổ. Phạm vi bảo hiểm. Cũng như các nghiệp vụ Bảo hiểm khác Bảo hiểm vật chất các phương tiện xe cơ giới cũng chỉ nhận Bảo hiểm cho những rủi ro ngẫu nhiên bất ngờ gây ra thiệt hại phần vật chất thân xe. Trong hợp đồng Bảo hiểm các rủi ro được Bảo hiểm thông thường bao gồm: Tai nạn do đâm va lật đổ. Cháy nổ bão, lũ lụt, sét đánh động đất mưa đá. Mất cắp toàn bộ xe. Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên. Tuy nhiên công ty Bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm cho những trường hợp : Hao mòn xe (hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình ). Mất cắp bộ phận xe. Hư hỏng các bộ phận điện, săm lốp mà không do tai nạn gây lên, hư hỏng thêm do sữ chữa. Trong trường hợp chủ xe, lái xe cố ý gây thiệt hại hoặc chủ xe lái xe vi phạm luật An toàn giao thông đường bộ: xe không có giấy phép lưu hành, lái xe không có bằng lái hoặc không hợp lệ, lái xe bị ảnh hưởng của rượu bia, ma tuý hoặc chất kích thích khác khi điều khiển xe. Xe chở chất nổ, chất cháy trái phép, xe chở quá trọng tải hoặc quá số khách quy định. Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữ…. Ngoài ra cũng như các nghiệp vụ Bảo hiểm khác, Bảo hiểm xe vật chất xe cơ giới còn chịu trách nhiệm đối với những chi phí cần thiết và hợp lý để đề phòng và hạn chế tổn thất xảy ra thêm, các chi phí phát sinh khi đưa xe về nơi sửa chữa và chi phí giám định nếu thuộc trách nhiệm của công ty Bảo hiểm đã được quy định trước trong hợp đồng Bảo hiểm. Đồng thời trong thời gian Bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi Bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới. c. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm (GTBH). - Giá trị Bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của chiếc xe tại thời điểm người tham gia Bảo hiểm mua Bảo hiểm. - Việc xác định đúng giá trị Bảo hiểm của xe là rất quan trọng, vì đây là cơ sở để bồi thường chính xác thiệt hại thực tế cho chủ xe tham gia Bảo hiểm. Tuy nhiên giá xe trên thị trường luôn luôn biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe. Vì vậy trong thực tế để đơn giản trong việc xác định giá trị thực tế của xe. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới thường tính trên cơ sở giá mua mới của chiếc xe (nguyên giá ) và khấu hao cho thời gian xe đã sử dụng. GTBH = Nguyên giá - khấu hao Nguyên tắc tính khấu hao + Chỉ sử dụng phương pháp khấu hao đều. + Khấu hao phải tính so với nguyên giá. + Khấu hao tính theo tháng : Nếu ngày tham gia Bảo hiểm từ ngày 15 trở về đầu tháng, tháng đó không khấu hao và ngược lại từ ngày 16 trở về cuối tháng thì tháng đó phải tính khấu hao. Số tiền Bảo hiểm.(STBH) Vì đây là loại hình Bảo hiểm tài sản nên về nguyên tắc chủ xe có thể tham gia với số tiền Bảo hiểm lớn nhất bằng với giá trị Bảo hiểm. Hoặc chủ xe cơ giới cũng có thể tham gia Bảo hiểm trên giá trị theo điều khoản giá trị thay thế mới nếu được công ty Bảo hiểm chấp nhận Chú ý : Bảo hiểm trên giá trị khi chỉ khi tổn thất sảy ra toàn bộ. Nhưng trong Bảo hiểm xe cơ giới các chủ xe thường tham gia Bảo hiểm dưới giá trị dưới hình thức Bảo hiểm cho một số tổng thành nhất định của xe không Bảo hiểm cho toàn bộ xe. Số tiền bảo hiểm là số tiền ghi trong đơn Bảo hiểm. Phí Bảo hiểm. Việc tính phí Bảo hiểm vật chất xe cơ giới phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia Bảo hiểm cụ thể các công ty Bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau: - Loại xe: Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau nên phí Bảo hiểm được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường các công ty Bảo hiểm đưa ra những biểu xác định phí phù hợp cho hầu hết các xe thông dụng, thông qua việc phân loại xe thành các nhóm. Việc phân loại này được dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỉ lệ gia tốc, mức độ khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ tùng. Đối với các loại xe hoạt động không thông dụng như xe kéo rơ mooc, xe chở hàng nặng….Do có mức độ rủi ro cao nên phí Bảo hiểm thường được cộng thêm một tỉ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản. + Phí Bảo hiểm được tính theo công thức: P = f + d Trong đó: P: là phí thu mỗi đầu xe d: là phần phụ phí. f: là phí thuần( phí bồi thường). Theo công thức trên thì phí Bảo hiểm phụ thuộc vào các yếu tố sau: Tình hình bồi thường của những năm trước đó. Phí bồi thường được xác định như sau dựa trên số liệu thống kê. S Si x Ti f = S Ci Trong đó: - Si: là số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i của xe tham gia Bảo hiểm. - Ti: là thiệt hại bình quân một vụ tai nạn của xe tham gia Bảo hiểm trong năm thứ i. - Ci: số đầu xe lưu hành tham gia Bảo hiểm hoạt động trong năm thứ i. Phần phụ phí bao gồm các chi phí như chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, chi phí quản lý. - Nơi cất giữ xe và phạm vi xe lưu hành. Trong thực tế không phải công ty Bảo hiểm nào cũng quan tâm đến vấn đề này, tuy nhiên một số công ty vẫn quan tâm rất chặt chẽ, khu vực để xe càng an toàn thì phí thấp hơn. - Mục đích sử dụng xe : Đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí Bảo hiểm. Nó giúp công ty Bảo hiểm biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra. - Độ tuổi và kinh nghiệm của người sử dụng xe: thông thường những lái xe từ 50 –55 tuổi thường ít gặp rủi ro hơn những người trẻ tuổi. Tuy nhiên với những người trên 65 tuổi công ty Bảo hiểm có thể không nhận Bảo hiểm trừ khi có giấy chứng nhận sức khoẻ phù hợp. Ngoài ra để nêu cao tinh thần trách nhiệm, tránh hiện tượng trục lợi Bảo hiểm thì các công ty Bảo hiểm vẫn thường quy định một mức miễn thường. Tổn thất xảy ra dưới mức này thì các chủ xe phải tự chịu trách nhiệm. - Giảm phí bảo hiểm: Để khuyến khích các chủ xe, và cạnh tranh với các công ty Bảo hiểm khác thì các công ty Bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung cho khách hàng có số lượng xe lớn tham gia bảo hiểm. Biểu phí đặc biệt : đối với những khách hàng lớn có số lượng xe tham gia Bảo hiểm lớn lên đến hàng nghìn có thể được áp dụng biểu phí đặc biệt. Phí Bảo hiểm này được tính trên cơ sở số liệu thống kê tổn thất của chính khách hàng đó nếu xác suất rủi ro tính riêng cho khách hàng đó mà nhỏ hơn phí tiêu chuẩn thì sẽ được áp dụng biểu phí đặc biệt. Ngược lại nếu xác suất rủi ro lớn hơn hoặc bằng thì sẽ áp dụng biểu phí tiêu chuẩn. Hoàn trả lại phí Bảo hiểm : trong Bảo hiểm vật chất xe cơ giới nếu chủ xe đã mua Bảo hiểm và đóng phí Bảo hiểm cho cả năm nhưng sau đó lại ngừng hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định thì Bảo hiểm sẽ hoàn trả lại phần phí Bảo hiểm cho khoảng thời gian đó theo một tỷ lệ nhất định ở Việt nam thường áp dụng hoàn trả là 80%. Đối với những xe hoạt động theo mùa vụ, thì chủ xe phải đóng phí trong những ngày hoạt động đó. Phí Bảo hiểm được xác định: Mức phí cả năm x Số tháng xe hoạt động trong năm Phí đóng = 12 Các đơn Bảo hiểm ngắn hạn không áp dụng hình thức giảm phí d d. Giám định và bồi thường tổn thất. Giám định và bồi thường là công việc cuối cùng hoàn thiện sản phẩm bảo hiểm. Làm tốt công tác này sẽ làm giảm được những chi phí trong quá trình kinh doanh Bảo hiểm, thúc đẩy hoạt động kinh doanh trong quá trình cạnh tranh gay gắt. Giám định: - Cũng như các loại đơn bảo hiểm khác, công ty Bảo hiểm yêu cầu chủ xe hoặc lái xe ngay sau khi xảy ra tai nạn hoặc biết về xe bị tai nạn xảy ra gây thiệt hại vật chất thân xe chủ xe lái xe phải tìm mọi cách để thực hiện ngay các biện pháp cứu chữa, hạn chế tổn thất xảy ra thêm mặt khác nhanh chóng báo cho công ty Bảo hiểm biết cũng như cơ quan giám định tổn thất được chỉ định trước trong hợp đồng để giám định. Các chủ xe không được tự ý di chuyển, tháo dỡ hoặc sửa chữa xe khi chưa có ý kiến của công ty Bảo hiểm, trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thẩm quyền. - Đối với Bảo hiểm vật chất xe cơ giới người giám định được chỉ định trước trong hợp đồng Bảo hiểm có thể là giám định viên độc lập nhưng cũng có thể là chính công ty Bảo hiểm. - Việc giám định tổn thất thường được quy định thành một quy trình bao gồm nhiều bước mà giám định viên phải làm theo.Trong quá trình giám định phải làm rõ các vấn đề sau: Nguyên nhân gây ra tai nạn có thuộc phạm vi Bảo hiểm không. Mức độ thiệt hại vật chất liên._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0113.doc
Tài liệu liên quan