Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở long an

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã và đang mang lại những thành quả to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Những năm qua, đất nước ta đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề và điều kiện cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh". Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, một

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2170 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở long an, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong những yếu tố quan trọng tạo nên thắng lợi của quá trình đổi mới là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Đội ngũ này giữ vị trí đặc biệt trong hệ thống chính trị, là cầu nối có hiệu lực nhất giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Chính đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở là người chỉ đạo cuối cùng và trực tiếp đối mặt và giải quyết những vấn đề cụ thể nảy sinh trong hoạt động thực tiễn ở cơ sở. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn còn những hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Một trong những hạn chế đó là họ đã mắc phải bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ này đã gây tác hại rất lớn trong sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An cũng không tránh khỏi căn bệnh này. Cùng những căn bệnh khác, bệnh kinh nghiệm đang là trở lực đối với cán bộ, đảng viên Long An. Đặc biệt là ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở. Nó đã làm cho hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội ngũ này bị hạn chế. Chính vì vậy, nghiên cứu "bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An" là một vấn đề cần thiết. Làm sáng tỏ bản chất, biểu hiện đặc trưng, nguyên nhân chủ yếu của căn bệnh này ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, để từ đó tìm ra phương hướng và giải pháp từng bước khắc phục nó, một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng và cấp bách đối với sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay nói chung, Long An nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu về bệnh kinh nghiệm, thể hiện là có nhiều bài viết trên tạp chí, in trong sách. Nhiều tác giả đã đề cập ít nhiều tới những biểu hiện, nguyên nhân, tác hại của bệnh kinh nghiệm ở nước ta cũng như những phương hướng khắc phục. Có thể kể một số công trình có liên quan đến vấn đề này như: - Dương Phú Hiệp: Góp phần phân tích nguyên nhân của sự lạc hậu về nhận thức lý luận và sự yếu kém vận dụng các quy luật, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 6/1987. - Nguyễn Ngọc Long: Kinh nghiệm và lý luận, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 01/1984; và Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận. Trong sách: "Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận", Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội, 1988. - Lê Hữu Nghĩa: Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta, Tạp chí Triết học, số 2/1988. - Hoàng Chí Bảo: Từ tư duy kinh nghiệm đến tư duy lý luận, Tạp chí Thông tin lý luận, số 6/1988 v.v... Tuy nhiên, đề cập tới bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng sông Cửu Long nói chung, ở Long An nói riêng thì hầu như chưa có công trình nào. 3. Giới hạn của luận văn Luận văn chỉ nghiên cứu những biểu hiện đặc trưng, bản chất, nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn), gồm: Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân qua khảo sát thực tế ở Long An. 4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 4.1. Mục đích Trên cơ sở làm sáng tỏ bản chất, biểu hiện, tác hại và nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An, đề xuất một số giải pháp chủ yếu để từng bước khắc phục và ngăn ngừa căn bệnh này. 4.2. Nhiệm vụ - Tìm hiểu bản chất, những biểu hiện chủ yếu, tác hại cũng như nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở trong quá trình đổi mới ở tỉnh Long An. - Trình bày một số giải pháp chủ yếu để từng bước khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ này. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là những nguyên lý lý luận nhận thức mác xít. Đồng thời, luận văn cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tư tưởng và lý luận nhận thức, các văn kiện của tỉnh Đảng bộ Long An, ủy ban nhân dân tỉnh Long An cũng như các báo cáo của một số Đảng bộ huyện Long An. - Luận văn kế thừa các tư tưởng khoa học của tác giả khác có liên quan đến đề tài. 5.2. Về phương pháp Trong luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp; phân tích - tổng hợp, lịch sử - lôgíc, phương pháp điều tra khảo sát thực tế. 6. Cái mới của luận văn - Bước đầu khái quát một số nét đặc thù của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở Long An. Qua đó vạch ra tác hại của căn bệnh này. - Góp phần chỉ ra nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để từng bước khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. 7. ý nghĩa của luận văn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề về lý luận nhận thức, về công tác xây dựng Đảng và công tác tư tưởng hiện nay ở các Trường Chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng lý luận chính trị huyện v.v... 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 6 tiết. Chương 1 Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở long an - bản chất, biểu hiện và nguyên nhân 1.1. Bản chất và những biểu hiện chủ yếu của bệnh kinh nghiệm 1.1.1. Bản chất của bệnh kinh nghiệm Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người, là quá trình tạo thành tri thức về hiện thực khách quan trong bộ óc con người. Nhờ có nhận thức, con người mới có tri thức về thế giới. Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức thế giới bởi con người. Nhận thức không phải là một hành động nhất thời, giản đơn, máy móc, thụ động mà là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình đó diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Kết quả của quá trình đó đem lại cho con người những tri thức ở những trình độ khác nhau - kinh nghiệm và lý luận. Tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức nhưng thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau. Để nhận thức và cải tạo thế giới có hiệu quả, con người cần phải có cả kinh nghiệm và lý luận. Kinh nghiệm có vai trò to lớn, không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của con người và nhất là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - một sự nghiệp rất mới mẻ và vô cùng khó khăn, phức tạp. ở đây không thể tìm câu giải đáp cho mọi vấn đề của thực tiễn cách mạng đặt ra, từ trong sách vở hay bằng suy diễn thuần túy, hoặc từ lý luận có sẵn. Chính kinh nghiệm đông đảo của quần chúng nhân dân trong xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ đem lại cho chúng ta những bài học quý báu. Kinh nghiệm là cơ sở để chúng ta khái quát, bổ sung phát triển lý luận đã có. Không có kinh nghiệm thì không có lý luận, không có khoa học. Mọi tri thức của chúng ta hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đều nảy sinh từ kinh nghiệm thực tiễn. Song nếu tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là tuyệt đối, "là chìa khóa vạn năng" cho phương pháp tư duy cũng như trong cải tạo thực tiễn thì sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm. Trong Đại từ điển Tiếng việt, khái niệm "kinh nghiệm" được dùng để chỉ sự hiểu biết có thể áp dụng hữu hiệu cho cuộc sống có được nhờ sự tiếp xúc; từng trải thực tế [7, tr. 948]. Điều này cũng có nghĩa, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan, cho nên xét về mặt nhận thức luận, kinh nghiệm là tính thứ hai, thế giới khách quan là tính thứ nhất. Tức là nội dung mà kinh nghiệm phản ánh thuộc thế giới khách quan. Kinh nghiệm chỉ có ở con người, nhưng nội dung của kinh nghiệm lại không phụ thuộc vào con người mà chỉ phụ thuộc vào sự vật khách quan được kinh nghiệm đó phản ánh. Tuy nhiên, kinh nghiệm không phải là sự thể hiện nội dung thụ động của nhận thức bởi con người mà là kết quả của sự tác động tích cực của con người đối với thế giới khách quan. Xét về mặt lịch sử, nội dung của kinh nghiệm luôn có tính lịch sử cụ thể. Kinh nghiệm là cái riêng nếu so với lý luận là cái chung. Kinh nghiệm cũng phản ánh trình độ hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ở một giai đoạn, một thời điểm lịch sử nhất định. Thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm đã có. Thế hệ sau, khi kế thừa những kinh nghiệm đó, thông qua hoạt động thực tiễn sẽ làm đầy đủ, chính xác thêm những kinh nghiệm cũ bằng hàng loạt những tư liệu mới và làm giàu thêm kho tàng kinh nghiệm quý báu ấy bằng những kinh nghiệm mới. Tất nhiên, kho tàng tri thức của nhân loại không chỉ có những tri thức kinh nghiệm mà còn có tri thức lý luận. Kinh nghiệm xét về bản chất có những đặc trưng sau: - Kinh nghiệm là một dạng tri thức được thu nhận và tích lũy qua hoạt động thực tiễn của con người còn mang tính trực quan cảm tính. Trong quá trình tác động giữa con người với thế giới hiện thực, con người trực tiếp thu nhận, tích lũy và hình thành những tri thức nhất định về thế giới. Những tri thức này bước đầu phản ánh một số thuộc tính bên ngoài của đối tượng. Những tri thức này được củng cố cùng với những kỹ năng hoạt động của con người . Đó là kinh nghiệm. Như vậy, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan. Kinh nghiệm là một dạng tri thức có tính chất trực quan cảm tính, nhưng không được đồng nhất kinh nghiệm với nhận thức cảm tính. Hơn nữa, việc tách nhận thức thành hai hình thức cảm tính và lý tính chỉ có ý nghĩa tương đối về mặt nhận thức luận. Thực tế cho thấy, không có một kết quả của một quá trình nhận thức nào lại không là sản phẩm của sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tính chất cảm tính của kinh nghiệm nói lên tính chất, trình độ phản ánh của kinh nghiệm. Kinh nghiệm phản ánh chủ yếu dựa vào quan sát trực quan, vào những hoạt động có tính chất thực nghiệm và vào những quá trình trao đổi thông tin mang tính trực tiếp giữa con người với thế giới và giữa con người với con người. Vả lại, kinh nghiệm cũng đạt tới trình độ khái quát, trừu tượng hóa nhất định (tức là đã có sự tham gia của lý tính) chứ không phải chỉ dừng lại ở những tập hợp tri giác, biểu tượng của quá trình nhận thức cảm tính. Lênin đã chỉ ra rằng: Dòng kinh nghiệm nằm ở cơ sở nhận thức của chúng ta, là không có lý tính, không có trật tự, không có tất cả cái gì phù hợp với quy luật là quan điểm duy tâm chủ nghĩa [39, tr. 199]. Do đó, chỉ có thể xét tính chất cảm tính của kinh nghiệm với tư cách là một dạng tri thức chưa hoàn chỉnh, chưa đầy đủ, mới phản ánh được những thuộc tính bên ngoài nhất định của sự vật, hiện tượng. Ph. Ăngghen đã cho rằng, kinh nghiệm ban đầu cũng còn nông cạn, chưa sâu sắc, chưa chính xác, chưa phản ánh được tính tất nhiên. Là kết quả của quá trình phản ánh thế giới hiện thực của con người, kinh nghiệm có ưu thế ở chỗ là nó phản ánh sinh động, trực tiếp sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc và nội dung phản ánh của kinh nghiệm thuộc về hiện thực, về đời sống thực tiễn hàng ngày của con người. Đây cũng chính là chỗ khác nhau căn bản giữa kinh nghiệm với sự tư biện suy luận thuần túy mang tính chủ quan. Bởi vậy, trong quá trình phản ánh thế giới khách quan của con người, kinh nghiệm luôn là yếu tố không thể thiếu được. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, với tính chất phản ánh đó, tác dụng của kinh nghiệm là rất có hạn, giá trị của sự khái quát chưa sâu sắc. Nói cách khác, kinh nghiệm chỉ phản ánh thích hợp cho những không gian, thời gian nhất định cụ thể mà thôi, và trong những điều kiện, những tình huống mới xuất hiện thì kinh nghiệm đó dễ trở nên bất cập. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Kinh nghiệm là tốt, là quý báu song kinh nghiệm có hạn chế của nó, chẳng qua chỉ là từng bộ phận chỉ thiên lệch về một phía mà thôi. Nếu đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều..." [48, tr. 324]. Là một trạng thái phản ánh của ý thức, trong quá trình tác động tới đối tượng, kinh nghiệm không thể tiếp cận tới cái phổ biến, cái bản chất sâu sắc bên trong của đối tượng. Dựa vào kinh nghiệm, con người có thể nhận thức được cái riêng từ những đối tượng cảm tính trực tiếp. Trong cái riêng, kinh nghiệm phản ánh một cách sinh động, phong phú hơn. Mặc dù vậy, kinh nghiệm không thể phản ánh được toàn bộ cái riêng trong sự tồn tại tất yếu của nó. Kinh nghiệm bao giờ cũng mang tính riêng của một cá thể, nhóm, một giai cấp, một dân tộc, một khu vực, trong một hoàn cảnh, một thời gian nhất định. Hơn nữa, kinh nghiệm luôn là kinh nghiệm về cái đã qua, vì thế, kinh nghiệm không thể trở thành khuôn mẫu để áp dụng một cách máy móc cho các đối tượng khác nhau trong những không gian và thời gian khác nhau. Trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi việc tiếp thu kinh nghiệm, vận dụng kinh nghiệm phải biết chọn lọc, sáng tạo trên nguyên tắc kế thừa và có quan điểm lịch sử - cụ thể. Kinh nghiệm không thể nhận thức được cái chung trong bản thân một sự vật, hiện tượng riêng lẻ nào đó. Cái chung chỉ được biểu hiện trong và qua những kinh nghiệm với tính cách là sự phản ánh lặp đi lặp lại trên những lớp đối tượng sự vật, hiện tượng không đồng nhất. Bởi vậy, trong quá trình phản ánh cái chung, kinh nghiệm tỏ rõ sự kém sâu sắc. Đúng như Mác-Ăngghen đã viết, Đến một trình độ phát triển nhất định, khi các nhu cầu của con người và các dạng vận động nhiều, thỏa mãn nhu cầu đã tăng lên và phát triển hơn, con người đặt những tên gọi riêng biệt cho hàng loạt các đối tượng mà con người đã nhờ kinh nghiệm mà phân biệt nó với thế giới bên ngoài còn lại... Những tên gọi bằng lời như vậy, chỉ biểu hiện dưới dạng biểu tượng, cái mà hoạt động lặp đi lặp lại đã biến thành kinh nghiệm [57, tr. 239]. - Kinh nghiệm là một trình độ phản ánh hiện thực khách quan của con người. Như ta đã biết, nhận thức là quá trình hình thành, phát triển của những trình độ phản ánh khác nhau và liên hệ hữu cơ với nhau. Đó là nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm với nhận thức lý luận. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ phản ánh có vị trí và vai trò khác nhau nhưng chúng nương tựa, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình nhận thức. Trong quá trình nhận thức, kinh nghiệm cung cấp những thông tin, tri thức ban đầu về sự vật, hiện tượng. Kinh nghiệm thường không tách rời những hoạt động có tính vật chất, cụ thể, những quan sát trực quan và những trao đổi thông tin trực tiếp giữa các chủ thể về đối tượng. Cho nên, trong nhận thức vai trò của kinh nghiệm là hết sức to lớn. Trong quá trình nhận thức, kinh nghiệm thể hiện không những là một trình độ phản ánh mà còn là phương pháp cho quá trình phản ánh. Khi đề cập tới kinh nghiệm ta không nên dừng lại ở dạng kinh nghiệm thông thường, những kinh nghiệm thu nhận được do quan sát trực tiếp trong cuộc sống, lao động, sản xuất, mà còn phải thấy những kinh nghiệm khoa học - những kinh nghiệm thu nhận được qua thực nghiệm khoa học. Những kinh nghiệm này là công cụ sắc bén thúc đẩy nhận thức lên một trình độ cao hơn trong quá trình tiếp cận chân lý như Ăngghen đã chỉ rõ: "Trong kinh nghiệm, cái quan trọng chính là trí tuệ mà người ta dùng để tiếp xúc với hiện thực. Một trí tuệ vĩ đại thực hiện được những kinh nghiệm vĩ đại, và thấy được cái gì là quan trọng trong sự vận động muôn vẻ của các hiện tượng" [46, tr. 687]. - Kinh nghiệm là điểm xuất phát, là cơ sở ban đầu vô cùng quan trọng của quá trình nhận thức. Kinh nghiệm càng phong phú thì càng tạo ra nhiều dữ kiện, tài liệu cho khái quát lý luận. Không có kinh nghiệm, khoa học không thể phát triển được, khoa học đã và sẽ luôn luôn gắn liền với kinh nghiệm. Thực tế lịch sử đã chứng minh, khoa học đã trở thành khoa học là bởi lẽ nó được phát triển từ kinh nghiệm và khắc phục những mặt hạn chế của kinh nghiệm. Tiến bộ khoa học ngày nay cũng không thể có được nếu thiếu các ngành khoa học có tính chất thực nghiệm. Khoa học hiện đại biết tới hàng tỷ dạng vật chất trong tự nhiên, hầu hết chúng đều được phát hiện ra bằng con đường thực nghiệm khoa học. Trong quá trình nhận thức và phát triển tư duy của nhân loại, kinh nghiệm có vai trò cực kỳ to lớn. Nếu thiếu kinh nghiệm thì không có lý luận, lý luận xét ở góc độ nhất định chính là kết quả của sự tổng kết khái quát kinh nghiệm. Nếu lý luận tách khỏi kinh nghiệm, không xuất phát từ kinh nghiệm nói chung thì lý luận đó sẽ rất có thể sẽ là một sự tưởng tượng hoang đường, hoặc là một sản phẩm thuần túy của ý thích chủ quan mà thôi. Tất nhiên, không phải mọi lý luận đều được ra đời trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên, điều đó vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận và kinh nghiệm. Kinh nghiệm xét đến cùng vẫn là cơ sở để chúng ta kiểm tra, sửa đổi, bổ sung phát triển lý luận đã có và tổng kết khái quát thành lý luận mới. Lênin đã chỉ rõ: "Muốn hiểu biết thì phải bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu từ kinh nghiệm, từ kinh nghiệm mà đi đến cái chung" [41, tr. 220]. Sinh thời Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: "Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử" [49, tr. 497]. Kinh nghiệm cũng như lý luận đều là kết quả của hoạt động nhận thức của con người được hình thành và phát triển thông qua hoạt động thực tiễn. Chúng đều phản ánh hiện thực khách quan nhưng khác nhau về trình độ, tính chất phản ánh hiện thực. Con đường phát triển từ kinh nghiệm lên lý luận cũng chính là con đường đi từ cái đơn nhất đến cái phổ biến, từ cái phổ biến ít đến cái phổ biến hơn, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Đó cũng chính là quá trình tổng kết, khái quát kinh nghiệm nhằm gạt bỏ cái ngẫu nhiên, cái bề ngoài, cái chưa phải là bản chất để tiến đến cái bản chất, cái quy luật vận động của sự vật. Quá trình đó chính là quá trình con người hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao hơn. Lý luận chỉ có ý nghĩa thật sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn và bản thân nó có đạt được sự phản ánh đúng đắn chân lý khách quan, phải được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Chỉ có thực tiễn mới là cơ sở, là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tri thức. Hiểu biết của con người cũng vì vậy, nếu không có kiểm nghiệm hoặc kiểm nghiệm chưa đạt tới trình độ nhất định về phạm vi cũng như mức độ phản ánh thì cũng không có đủ cơ sở cho ra đời một lý luận khoa học thật sự. Kinh nghiệm và lý luận tuy là hai trình độ khác nhau của nhận thức nhưng chúng lại thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau, chuyển hóa cho nhau thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Kinh nghiệm là cơ sở là tiền đề cho lý luận, lý luận luôn định hướng cho hoạt động thực tiễn và thực tiễn đến lượt mình lại cung cấp cho lý luận hàng loạt những kinh nghiệm mới. Chỉ có thể lấy mặt mạnh của lý luận để khắc phục tính hạn chế vốn có của kinh nghiệm và lấy mặt mạnh của kinh nghiệm để khắc phục khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng của lý luận. Có như vậy mới làm cho lý luận ngày càng hoàn hảo, chính xác, kinh nghiệm ngày càng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, kinh nghiệm dù có vai trò quan trọng đến đâu thì nó cũng chỉ mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng lẻ, về các mối liên hệ bên ngoài của sự vật và còn rời rạc, chưa thể nắm được cái tất yếu, mối quan hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng. Do đó "sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu" [46, tr. 718]. Kinh nghiệm có chứa đựng nội dung khách quan trong quá trình phản ánh đối tượng, song trong sự phản ánh, chủ thể kinh nghiệm giữ vai trò đặc biệt quan trọng cho việc xác định ý nghĩa của nó đối với toàn bộ quá trình phản ánh. Do đó có thể nói, ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của kinh nghiệm còn tùy thuộc vào quan niệm và cách xử lý của chủ thể đối với kinh nghiệm. Vả lại, kinh nghiệm có tính chất trực quan dễ nhận biết và có vai trò không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của con người nên chúng dễ bị con người tuyệt đối hóa. Những người cường điệu hoặc tuyệt đối hóa kinh nghiệm trong việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống đặt ra là những người mắc bệnh kinh nghiệm. Trong triết học, bệnh kinh nghiệm được hiểu là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là duy nhất. Biểu hiện của người mắc bệnh kinh nghiệm là đề cao thái quá kinh nghiệm, coi thường lý luận, tri thức khoa học. Vận dụng kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề thực tiễn một cách máy móc dẫn đến áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Sai lầm của người mắc bệnh kinh nghiệm còn thể hiện ở chỗ họ nhân danh đề cao thực tiễn để hạ thấp lý luận, nhưng thực tiễn mà họ đề cao là thực tiễn được hiểu bằng vô số các sự kiện riêng lẻ trong đời thường. Hơn nữa, họ nắm thực tiễn chỉ ở những biểu hiện vụn vặt, bề ngoài. Trong khi đó, họ nắm lý luận một cách chấp vá và thiếu hệ thống nên họ càng hạ thấp lý luận. Một sai lầm nữa của người mắc bệnh kinh nghiệm về phương diện nhận thức luận và phương pháp luận là ở chỗ, họ không nắm được thực chất mối quan hệ biện chứng giữa tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, giữa lý luận và thực tiễn. Họ chỉ biết xem xét sự thật một cách giản đơn máy móc. Lênin đã chỉ rõ: "Nếu xét các sự thật trong chỉnh thể của chúng trong mối liên hệ của chúng thì sự thật không những bao giờ cũng "bướng bỉnh", mà còn là những chứng cứ chắc chắn chứng minh được. Nếu xét sự việc nhỏ đó không trong chỉnh thể của chúng không trong mối liên hệ của chúng, nếu chúng bị tách rời nhau và bị lựa chọn tùy tiện thì chúng thật đúng chỉ là những trò chơi hay là một thứ tệ hơn nữa [38, tr. 436]. Những người mắc bệnh kinh nghiệm thường lấy sự từng trải của bản thân, kinh nghiệm của bản thân làm tiêu chí duy nhất cho nhận thức và hành động. Họ không hiểu được rằng, những kinh nghiệm của bản thân họ chỉ có ý nghĩa hẹp, cục bộ, chứ không mang tính phổ biến tất yếu. Những kinh nghiệm đó chỉ là sự khái quát từ một thực tiễn, một hoàn cảnh cụ thể riêng biệt, và trong nhiều trường hợp chúng chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài ngẫu nhiên. Trong thực tế cụ thể, sự việc diễn ra một cách khác mà chúng ta đã không thể (và bất cứ ai cũng không thể) dự đoán được, nó đã diễn ra một cách độc đáo hơn và phức tạp hơn nhiều. Vì vậy, người mắc bệnh kinh nghiệm sẽ bế tắc, mất phương hướng khi số lượng tri thức kinh nghiệm tăng lên. Khi đó, họ sẽ bị chìm ngập trong đống hỗn độn các kinh nghiệm. Từ đây, họ rất dễ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí bắt hiện thực khuôn theo kinh nghiệm của bản thân và rơi vào trạng thái cực đoan đối lập, từ chỗ tin vào những kinh nghiệm cảm tính tới chỗ chẳng tin vào cái gì cả vì những cái cực đoan thường hay gặp nhau. Ăngghen cũng đã từng chỉ ra rằng: "ở đây người ta thấy hai năm rõ mười rằng con đường chắc chắn nhất từ khoa học tự nhiên tới chủ nghĩa thần bí là con đường nào. Đó không phải là sự phát triển dồn dập về lý luận của các nhà triết học tự nhiên, mà là chủ nghĩa kinh nghiệm nông cạn nhất, khinh thường mọi lý luận, không tin vào mọi tư duy" [46, tr. 507]. Lênin cũng đã chỉ ra rằng, trước những phát minh mới của khoa học đặc biệt là vật lý học và do không vượt được giới hạn của tri thức kinh nghiệm đã có các nhà khoa học trượt dài sang chủ nghĩa duy tâm. Chẳng hạn như Poanh - Carê do không hiểu phép biện chứng của quá trình nhận thức từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất cấp một đến bản chất sâu hơn đã cho rằng, phát minh ra Radium đã lật đổ nguyên lý bảo toàn năng lượng cũng như hầu hết tất cả những nguyên lý cũ khác của vật lý học. Từ đó, ông đưa ra kết luận duy tâm về mặt nhận thức luận như sau: Không phải giới tự nhiên đem lại cho chúng ta (hay ép buộc chúng ta phải nhận) những khái niệm về không gian và thời gian, mà chính chúng ta đem những khái niệm ấy lại cho giới tự nhiên, phàm cái gì không phải là tư tưởng đều là hư vô thuần túy [39, tr. 312]. Như vậy, bệnh kinh nghiệm có tác hại vô cùng to lớn đối với quá trình nhận thức chân lý. Nó gây ra tâm lý ngại học tập và bảo thủ trong tổ chức hoạt động thực tiễn của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nó góp phần củng cố tâm lý đề cao già làng, trưởng bản thái quá, cũng như tâm lý coi thường lớp trẻ. Nó cũng làm cho người ta không hiểu đúng vai trò của đội ngũ trí thức, của lý luận. Để hiểu rõ bệnh kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An nói riêng, chúng ta cần xác định và phân biệt rõ hơn khái niệm "bệnh kinh nghiệm và khái niệm" chủ nghĩa kinh nghiệm". Theo chúng tôi, xét về bản chất hai khái niệm này vẫn được sử dụng như nhau, song giữa chúng có sự khác biệt. Khi ta dùng khái niệm "chủ nghĩa kinh nghiệm là muốn đề cặp đến một khuynh hướng trong lý luận nhận thức cho rằng, kinh nghiệm là nguồn gốc của tri thức, coi nội dung của tri thức chỉ là sự mô tả kinh nghiệm đó. Khi chúng ta dùng khái niệm "bệnh kinh nghiệm" là muốn đề cặp đến những sai lầm trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn do con người đã tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, hạ thấp vai trò lý luận. Khái niệm "bệnh" ở đây cần được hiểu như một "trạng thái" tư tưởng không lành mạnh, biểu hiện bằng những chủ trương, thái độ không đúng đắn [69, tr. 71]. Với bệnh kinh nghiệm, trong hoạt động thực tiễn, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở rơi vào tình trạng mò mẫm, sự vụ tùy tiện trong việc thực thi các, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, làm ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Bản thân họ cũng trở nên bảo thủ, trì trệ bởi phương pháp hành động cũ mang tính kinh nghiệm. Đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An ngoài những biểu hiện chung còn có những nét đặc thù riêng. 1.1.2. Những biểu hiện chủ yếu của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An 1.1.2.1. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và tăng cường xây dựng, củng cố bồi dưỡng đội ngũ này. Về lý luận cũng như thực tiễn đều khẳng định, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vững, có mạnh thì địa phương mới mạnh, quốc gia mới mạnh. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc lãnh đạo, quản lý các mặt kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... của địa phương. Cấp cơ sở là nơi thực thi mọi nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ, nơi biến đường lối của Đảng, Chính sách của Nhà nước và cấp trên thành hiện thực. Đồng thời, đây cũng là nơi kiểm nghiệm, phản ánh, cung cấp một cách khách quan những căn cứ cho việc bổ xung hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hiệu quả của đường lối, chính sách được thể hiện một cách sinh động cũng tại đây. Trong quá trình đổi mới những năm qua và trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay, đội ngũ cán bộ đảng viên dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cán bộ chủ chốt cấp xã, thật sự là nhân vật trung tâm đóng vai trò quan trọng tác động lớn đến xu hướng và nhịp độ phát triển của phong trào ở cơ sở. Quần chúng nhân dân ở cơ sở chỉ phát huy được sức mạnh của mình khi có sự lãnh đạo của Đảng, cụ thể là thông qua đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người lĩnh hội các chủ trương, đường lối, chỉ thị, Nghị quyết từ cấp trên để triển khai, vận dụng trong thực tế trên địa bàn ấp, xã do mình phụ trách. Họ đã cùng Đảng bộ cơ sở xây dựng những chủ trương, chính sách cụ thể phù hợp với địa phương mình. Chính đội ngũ này trực tiếp chỉ đạo và tham gia tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách đó, đồng thời kiểm tra, uốn nắn khuynh hướng lệch lạc trong tổ chức thực hiện. Những công việc của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là hết sức cụ thể. Họ là người trực tiếp nhận và xử lý những yêu cầu của dân. Họ phải giải quyết những công việc như xác nhận hồ sơ, lý lịch, ký tên, đóng dấu, chăm lo mọi mặt về đời sống kinh tế văn hóa, y tế, giáo dục, quan tâm tới các gia đình chính sách, chống các tệ nạn xã hội v.v... Có một điểm đặc thù là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở khi giải quyết những công việc lớn nhỏ, họ vừa phải thực hiện với trách nhiệm của một cán bộ lãnh đạo lại vừa là một công dân bình thường đang sống trong cùng làng, xóm với nhiều mối quan hệ cụ thể. Vì thế, trong cách làm của họ luôn phải thấu lý, đạt tình. Tất cả những chủ trương, chính sách từ Trung ương đến Tỉnh, huyện và cuối cùng là xã có đến được dân hay không, có trở thành hiện thực sống động hay không đều nhờ vào tài trí của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Để hoàn thành nhiệm vụ, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải không ngừng phấn đấu học tập, rèn luyện, tiếp thu những tri thức mới đồng thời gạt bỏ những tư tưởng, tâm lý lạc hậu, những lối suy nghĩ giản đơn, kinh nghiệm, giáo điều v.v... Cũng như những cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở trong cả nước nói chung, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An nói riêng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình đang phải vượt qua nhiều trở lực khó khăn. Một trong những trở lực đó là bệnh kinh nghiệm. 1.1.2.2. Những biểu hiện đặc thù chủ yếu của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An - Biểu hiện đầu tiên của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An là do họ đã tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thông thường của cá nhân họ. Vùng đất Long An mới được khai phá khoảng trên 300 năm lại được thiên nhiên ưu đãi, cộng với tình trạng ấp, xã mới, không nằm giữa lũy tre xanh bao bọc như ở đồng bằng sông Hồng; do điều kiện tự nhiên như vậy, người dân Long An cấu kết với nhau không bền vững như người dân ở Bắc Bộ và Trung Bộ vì họ sống theo bờ kênh, rạch đằng trước là thuyền qua lại, xung quanh là vườn cây ăn trái, đằng sau là ruộng vườn. Do đó, những tri thức kinh nghiệm này chủ yếu dựa vào sự quan sát của bản thân cá nhân là chủ yếu, và phạm vi áp dụng là rất hạn chế. Trong khi đó, bệnh kinh nghiệm ở Bắc Bộ và Trung Bộ thường dựa trên cơ sở tuyệt đối hóa kinh nghiệm của cộng đồng làng, xã và được tích lũy từ nhiều thế hệ nối tiếp nhau, từ đời nọ sang đời kia. Như vậy, nếu bệnh kinh nghiệm ở cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã mang tính "cộng đồng", "xã hội" nhất định thì bệnh kinh nghiệm ở cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ._.Long An mang tính cá nhân nhiều hơn, phạm vi áp dụng hẹp hơn. - Biểu hiện thứ hai là bệnh kinh nghiệm ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung ở cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An nói riêng chịu sự tác động nhiều của bệnh chủ quan duy ý chí của bản thân người cán bộ chủ chốt. Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm, trong đó chủ thể vừa mắc phải bệnh chủ quan, lại vừa rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Bệnh chủ quan chỉ thể hiện khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của chủ thể trong nhận thức và hành động. Phủ nhận hoàn toàn hay một phần nào bản chất và tính quy luật của hiện thực khách quan. Bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều căn bệnh trong nhận thức, trong đó có bệnh kinh nghiệm. Thực tế cho thấy, trong việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thường có sự can thiệp và áp đặt theo ý muốn chủ quan cũng như kinh nghiệm của bản thân cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Hơn nữa, bệnh kinh nghiệm và bệnh chủ quan duy ý chí có chung nguồn gốc là tình trạng yếu kém về trình độ văn hóa và không hiểu vai trò của lý luận. Có thể nói rằng, bệnh chủ quan duy ý chí ở Đồng bằng Sông Cửu Long nói chung và ở Long An nói riêng không phải là chủ quan duy ý chí dựa trên thế giới quan duy tâm chủ nghĩa mà là dựa trên cơ sở tuyệt đối hóa tri thức kinh nghiệm thông thường của cá nhân là chủ yếu. Nếu bệnh chủ quan duy ý chí ở Bắc Bộ và Trung Bộ trước đây thường gắn liền với nhiệt tình cách mạng thái quá thì bệnh chủ quan duy ý chí ở Nam Bộ lại gắn liền với tâm lý "liều lĩnh" "tùy tiện" "tự do cá nhân" của các cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Một người cứ bám chặt lấy kinh nghiệm của bản thân áp đặt cho thực tiễn thì cũng không khác gì người đem ý muốn chủ quan của mình, áp đặt cho thực tiễn không tính đến hoàn cảnh điều kiện lịch sử cụ thể. Thực tế ở Long An vừa qua cũng chỉ rõ điều này. Khi nền kinh tế của đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường và hoạt động sản xuất, dịch vụ chịu sự điều tiết của các quy luật thị trường như việc sản xuất lúa, đay, mía, khoai, sắn v.v.... ở Long An vẫn cứ được làm theo kinh nghiệm, theo ý thích riêng của một số cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Do đó, việc hàng hóa không đáp ứng được yêu cầu của thị trường dẫn đến hiện tượng thừa lúa, thừa khoai, thừa mía. Nhưng lại thiếu lúa, khoai, mía với chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi của thị trường, dẫn đến sự thua thiệt của người sản xuất. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở không dựa vào kiến thức kinh tế, kiến thức khoa học để lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn người dân tiến hành sản xuất mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân và sự cảm nhận của bản thân để đề ra các kế hoạch sản xuất trên địa bàn mình phụ trách. Khi thị trường không cần những hàng hóa đó thì tỏ ra lúng túng và thiếu sự quan tâm đến người sản xuất. - Biểu hiện thứ ba là bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An gắn chặt với bệnh giáo điều chủ nghĩa. Hai căn bệnh này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau vì chúng có chung nhiều nguồn gốc. Chẳng hạn như, sự yếu kém về trình độ văn hóa, khoa học, ý thức sai lầm về vai trò lý luận, sự lười biếng học tập của cán bộ v.v... Có thể nói đặc trưng chủ yếu của bệnh giáo điều ở Long An là giáo điều kinh nghiệm, là áp dụng kinh nghiệm của địa phương khác vào địa phương mình bất chấp điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể chứ ít có giáo điều lý luận kiểu sách vở, "tầm chương trích cú"... như ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Lênin đã chỉ rõ: "... Nếu chỉ vì bắt chước, không có tinh thần phê phán mà đem dập khuôn kinh nghiệm đó một cách mù quáng vào những điều kiện khác vào một hoàn cảnh khác, như thế là phạm sai lầm nghiêm trọng nhất" [36, tr. 22]. Khi sinh thời, Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Muốn bớt mò mẫm, muốn bớt phạm sai lầm thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và vận dụng kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo" [49, tr. 494]. "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình, trong khi học tập kinh nghiệm các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều" [49, tr. 499]. Trong hoạt động thực tiễn, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An thường dựa vào kinh nghiệm là chủ yếu, trong việc tiếp thu áp dụng kinh nghiệm nhiều khi thiếu phân tích, chọn lọc để vận dụng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của địa phương. Giáo điều kinh nghiệm là một trong những yếu kém của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. Thực tiễn đã chứng minh, vùng đất Long An chủ yếu là vùng ngập lũ, 2/3 diện tích bị ngập lũ với điều kiện sinh thái nước ngọt và bị phèn thì rất thích hợp cho việc trồng cây tràm để phục vụ cho môi trường sinh thái, ngăn được lũ và phục vụ cho các công trình xây dựng có giá trị cao. Một hecta trồng tràm sau 5 năm có thể thu lãi từ 30 - 50 triệu. Nhưng do chưa nhận thức đầy đủ, do dựa vào kinh nghiệm bản thân là chủ yếu và áp dụng kinh nghiệm của một số tỉnh khác một cách máy móc, lãnh đạo chủ chốt một số xã ở Long An đã chủ trương chuyển từ đất trồng tràm sang đất trồng lúa nước. Hàng chục ngàn hecta trồng tràm bị tàn phá, dẫn đến ảnh hưởng môi trường sinh thái. Hơn nữa, hiệu quả kinh tế của trồng lúa không cao bằng trồng tràm. Điều này đã làm cho sản xuất gặp rất nhiều khó khăn, đời sống của bà con lao động bị ảnh hưởng nghiêm trọng. - Biểu hiện thứ tư là bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An chịu ảnh hưởng của tâm lý nông dân gia trưởng tự do, tâm lý "liều lĩnh" "phiêu lưu" dám làm miễn là có lợi. Do điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An phổ biến xuất thân từ trung nông có điền sản lớn. Do đó, họ có vị thế trong sản xuất và trong xã hội. Họ có điều kiện kinh tế và điều kiện phát triển kinh tế gia đình. ở họ đã hình thành tính tự do tự phát, thói quen tin vào kinh nghiệm của bản thân. Khi sản xuất có thất bại họ không lo chết đói. Vì vậy họ hay "liều lĩnh" phiêu lưu, muốn là làm. Tâm lý này gắn kết rất chặt với bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở Long An cũng chưa thật tốt đã làm cho bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An ít nhiều mang sắc thái gia trưởng. Nhưng so với miền Bắc và miền Trung thì nó không nặng nề bằng. Đối với Long An thì đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở những huyện vùng Đồng Tháp Mười mắc bệnh kinh nghiệm nặng hơn so với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở thị xã, các huyện gần thị xã Tân An. Trên đây là những biểu hiện đặc thù chủ yếu của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. Vậy bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An hiện nay có biểu hiện cụ thể gì? Về nhận thức, bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An là đề cao kinh nghiệm cảm tính, coi thường tri thức lý luận, tri thức khoa học. Trước đây Ăngghen đã từng chỉ rõ: "Sự khinh thường lý luận là con đường chắc chắn nhất đưa chúng ta đến chỗ suy nghĩ theo lối tự nhiên chủ nghĩa, tức là suy nghĩ sai" [46, tr. 508]. Nhưng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở Long An chưa thấy hết hậu quả đó. Nhiều cán bộ chủ chốt cấp xã, nhất là những người đã có tuổi, đã trải qua nhiều năm công tác, có kinh nghiệm xử lý các công việc cụ thể thường mắc rất nặng căn bệnh này và không thấy hết hậu quả của nó. Trong tác phẩm "sửa đổi lề lối làm việc" khi đề cập tới tình trạng này, Bác Hồ đã chỉ rõ: "Có những cán bộ đảng viên cũ làm được việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều" [48, tr. 234]. Thực tế ở Long An cho thấy mặc dù, được trang bị lý luận Mác-Lênin đặc biệt là phép biện chứng duy vật nhưng hầu hết cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở đều xử lý công việc theo thói quen kinh nghiệm cá nhân là chủ yếu. Cho nên, họ đề cao sự từng trải trong cuộc đời, trong công tác. Trong chính sách đất đai, xây dựng kết cấu hạ tầng v.v... ở Long An là một điểm nóng của khiếu nại, khiếu tố. Có điều này, một phần là do cách giải quyết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở còn mang nặng thói quen tùy tiện theo kinh nghiệm. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An thường có lối suy nghĩ sơ lược, áng chừng đại khái, thiếu tính hệ thống. Điều này để lại dấu ấn rất rõ trong các Nghị quyết, kế hoạch, chương trình hành động của Đảng ủy và ủy ban nhân dân cấp xã. Chẳng hạn về vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, hầu hết cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đều hiểu chỉ là sự trang bị máy móc cơ giới với quy mô to lớn. Do đó, các nghị quyết đưa ra chưa đi vào cuộc sống được. Do tuyệt đối hóa kinh nghiệm, tầm nhìn của cán bộ cơ sở Long An bị hạn chế bởi chính những kinh nghiệm đó. Do đó, trong chỉ đạo và hoạt động thực tiễn, họ thiếu dự kiến, chỉ thấy việc trước mắt, không thấy việc lâu dài, thấy cục bộ, bộ phận mà không thấy tổng thể, thấy cái riêng mà không thấy cái chung, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của cấp trên một cách máy móc. Khi đã tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm thì cũng có nghĩa là bảo thủ, thích "ổn định" ngại thay đổi, có tâm lý ăn non, ăn chắc. Mác đã từng nói, người tiểu nông thù nghịch với sự thay đổi, nhất là những thay đổi đột ngột. Những yếu tố này lại được bồi đắp, củng cố trong một thời gian dài bởi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp - cơ chế tạo cho con người thói quen ỷ lại, mọi cái đều trông chờ vào cấp trên. Thực tiễn cuộc sống luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, vẫn là một địa bàn của xã ấy, vẫn những con người ấy vẫn nghề thủ công ấy, nhưng yêu cầu sản xuất của năm sau khác năm trước, vấn đề cụ thể xảy ra ngày hôm nay khác ngày hôm qua. Nhưng một số cán bộ cơ sở trong việc xử lý những vấn đề mới nảy sinh vẫn dùng phương pháp cũ. Cách nghĩ và cách làm cũ không còn thích hợp. Thậm chí một số cán bộ chủ chốt cấp xã, khi chuẩn bị nội dung hội nghị còn sao chép lại nghị quyết của cấp trên hoặc của nhiệm kỳ trước. Qua khảo sát thực tế ở Long An cho thấy, nhìn chung đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn mang nặng bệnh kinh nghiệm, thiếu khả năng khái quát, phân tích. Đặc biệt là ở vùng sâu như Đồng Tháp Mười, các xã vùng hạ ở các huyện phía Nam (Cần Đước, Cần Giuộc). Nhiều Bí thư, Chủ tịch đã mạnh dạn đề xuất việc tổ chức những đợt đi tham quan thực tế ở các địa phương khác để học hỏi. Nhưng bên cạnh đó cũng còn nhiều cán bộ ở một số xã vẫn yên phận không dám mạnh dạn tìm phương thức mới cho sản xuất ở địa phương mình. Trong tổ chức hoạt động thực tiễn thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thường là nặng về kinh nghiệm theo thói quen, thụ động và mang tính tình huống cụ thể nghĩ thế nào làm thế đấy chứ chưa chủ động tìm kiếm những hình thức tổ chức thực tiễn linh hoạt. Vì thế, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp để nhằm giải quyết có hiệu quả những mục tiêu trọng tâm tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó hiện nay, Long An vẫn còn lúng túng chưa giải quyết được chuyện cây con, chuyện đê bao chống lũ và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ... Vì vậy đời sống nhân dân rất thấp. Theo thống kê khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, thì Long An là một tỉnh có thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 11/12 tỉnh. Đến năm 2000 thu nhập bình quân ở Long An mới đạt (330 USD/người/năm). Trên đây là những biểu hiện cụ thể chủ yếu của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An cũng như những tác hại của nó. 1.2. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Có những nguyên nhân chung của cả nước và cũng có những nguyên nhân mang tính đặc thù riêng của Long An. Dưới đây chúng tôi sẽ đề cập tới một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ này. 1.2.1. ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế - xã hội cũng như trình độ văn hóa và khoa học còn thấp ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Có thể nói, chính điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội cũng như trình độ văn hóa, khoa học còn thấp ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An là một trong những nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh và tồn tại dai dẳng bệnh kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ này. Long An là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, diện tích tự nhiên là 4.448,6 km2. Phần lớn đất đai Long An được tạo thành ở dạng phù sa nên thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp. Nằm trong vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo, có nền nhiệt ẩm phong phú, ánh nắng dồi dào, thời gian bức xạ dài. Biên độ, nhiệt ngày đêm giữa các tháng trong năm thấp, ôn hòa. Như vậy những khác biệt nổi bật về thời tiết, khí hậu, này có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nhất là sản xuất nông nghiệp. Nền nông nghiệp Long An chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên, người dân Long An làm ruộng chủ yếu dựa vào sự ưu đãi của thiên nhiên. Sau khi xuống giống, người dân chỉ ngồi trông trời, trông đất, trông mây cho đến khi thu hoạch. Cách thức sản xuất như vậy, dẫn đến tâm lý "làm chơi ăn thật". Do đó, không ít người có tâm lý không cần học vẫn có thể kiếm sống được. Tâm lý này hình thành rất sâu và mang tính đặc thù. Hơn nữa, với nền sản xuất nông nghiệp còn ở trình độ thấp, khoa học kỹ thuật kém phát triển, người nông dân chỉ quen làm ăn với những công cụ thô sơ, kỹ thuật lạc hậu theo phương thức canh tác cổ truyền, bằng sự nỗ lực của cơ bắp là chủ yếu thì tất nhiên kiến thức khoa học kém phát triển. Trong điều kiện như vậy, dần dần hình thành thói quen của người dân Long An nói chung và cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng tổ chức sản xuất và làm việc theo kinh nghiệm là chủ yếu. Trong suy nghĩ, họ muốn dừng lại ở cái cụ thể, cảm tính, trực quan, tư duy khái quát kém phát triển. Trong những điều kiện như vậy, họ ngày càng ỷ lại vào thiên nhiên, thiếu sáng kiến, ngại đổi mới, họ thường lấy kinh nghiệm cá nhân để thực hiện công việc. Hơn nữa, sự kém phát triển của giao thông đã ảnh hưởng rất lớn đến việc nảy sinh bệnh kinh nghiệm. Long An là một tỉnh gồm 13 huyện và 1 thị xã trong đó khu vực Đồng Tháp Mười là một vùng quan trọng của tỉnh, cung cấp trên 50% sản lượng lương thực, trên 50% sản lượng gạo xuất khẩu của tỉnh. Nhưng hiện nay vùng Đồng Tháp Mười, mặc dù được Trung ương và tỉnh đầu tư nhưng giao thông đường bộ còn rất kém phát triển. Nhân dân ở những vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó khăn, kinh tế kém phát triển. Toàn tỉnh có tới 115/183 xã, phường chưa có chợ, có tới 28/183 xã, phường chưa có đường giao thông đến trung tâm xã. Tất cả những điều này đã tạo "cơ hội", điều kiện thuận lợi cho bệnh kinh nghiệm nảy sinh, tồn tại và phát triển. Đã thế, môi trường xã hội còn lạc hậu, chậm phát triển, Long An còn 24.575 hộ nghèo chiếm 8,5% số hộ trong tỉnh, 27/183 xã có tỷ lệ nghèo chiếm 15% trở lên. Phương tiện nghe nhìn còn rất hạn chế, đặc biệt là những xã ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới như huyện Tân Hưng, Vĩnh Hưng , Mộc Hóa, Tân Thạnh... Trình độ học vấn của nhân dân thấp còn tới 46,8% người dân mới học đến cấp I (xem phụ lục 2). Đối với những xã trong 9 huyện bị ngập lụt, những xã vùng ngập mặn (Huyện Cần Giuộc, Cần Đước, Châu Thành) thì thiếu thốn nguồn nước sạch chỉ có 317 giếng nước sạch/183 xã phường, thị trấn. Đời sống của nhân dân và cán bộ khó khăn, thiếu thốn nên người ta ngại học; người dân còn phải lo cái ăn, ít có điều kiện lo cái chữ. Tất cả những điều đó đã làm cho nhân dân và cán bộ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, không có điều kiện học tập nâng cao trình độ về mọi mặt. Như vậy đã gián tiếp hoặc trực tiếp góp phần làm cho bệnh kinh nghiệm nảy sinh và tồn tại trong cán bộ và nhân dân Long An. Cũng như nhiều tỉnh trong vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, Long An là một nơi mới vừa thoát khỏi chiến tranh ác liệt kéo dài, trong chống Mỹ là vùng bình định trọng điểm của giặc. Sau năm 1975, Long An lại phải đương đầu với chiến tranh biên giới Tây Nam. (Long an có 137,7 km đường biên giới tiếp giáp Campuchia). Do đó, nhân dân Long An nói chung và cán bộ ở Long An nói riêng chưa có điều kiện và thời gian cần thiết để nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ. Qua khảo sát 729 cán bộ chủ chốt cấp cơ sở như: Bí thư, Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND và Phó Chủ tịch HĐND ở 183 xã, Phường, Thị trấn cho thấy số cán bộ có học vấn cấp I là 4,38%; cấp II là: 40,10%, cấp III là: 55,4%. Về chuyên môn nghiệp vụ chỉ có 5,62% số cán bộ có trình độ trung học; 1,5% số cán bộ có trình độ cao đẳng; 2,33% có trình độ đại học, nhưng chuyên môn lại chủ yếu là về Sư phạm và kỹ thuật nông nghiệp (xem phụ lục 5). Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến nảy sinh bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An. Chính vì trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ thấp cộng với những nguyên nhân khác mà trong hoạt động thực tiễn họ rơi vào tình trạng mò mẫm, sự vụ, tùy tiện, tự ti, không nhất quán trong việc thi hành chính sách của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tồn tại khá lâu dài cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại của bệnh kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. Trong cơ chế cũ, việc tổ chức thực tiễn đều phải dựa vào hướng dẫn chỉ đạo từ cấp trên dựa vào kinh nghiệm của lãnh đạo trước đó, hoặc kinh nghiệm tự phát hàng ngày do xử lý công việc mà hình thành nên. Vả lại cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, bản thân nó không tạo ra được động lực cho việc học tập rèn luyện nâng cao trình độ văn hóa khoa học của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Cơ chế đó làm triệt tiêu mất tính năng động, tích cực, sáng tạo của cán bộ lãnh đạo cả trong tư duy, cả trong hoạt động thực tiễn. Vì lẽ, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mọi vấn đề hầu như được tiến hành theo "pháp lệnh" từ cấp trên xuống. Do đó, cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, chủ yếu chỉ có việc quán triệt, thực hiện vô điều kiện, cho dù thực tiễn có chấp nhận và có đạt hiệu quả cao hay không. Cũng từ đây, quyền hạn không gắn chặt với năng lực, trách nhiệm, lợi ích không gắn với chất lượng, hiệu quả thực tế của công việc cụ thể đảm nhiệm và tách khỏi lợi ích của quần chúng, dẫn đến đặc quyền, đặc lợi ở đội ngũ cán bộ, Cùng với những nguyên nhân khác, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp góp phần làm nảy sinh và củng cố quan niệm giản đơn cho rằng, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở không cần học cũng làm được việc miễn là "chịu làm", chịu thực hiện theo đúng hướng dẫn của cấp trên. Chính sự tuyệt đối hóa cái gọi là "chịu làm" đã dẫn đến xem nhẹ, không chú trọng đến việc nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Trong khi đó cũng còn quan niệm "sống lâu lên lão làng". Tâm lý cho rằng, đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chủ yếu phải là "chịu làm" nên không chú ý đến nâng cao trình độ văn hóa, nghiệp vụ để họ có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp bao trùm cả lĩnh vực nhận thức, lý luận. Chân lý có lúc được coi là thẩm quyền của các cấp lãnh đạo và được mặc nhiên thừa nhận. Mọi quan điểm, tư tưởng lý luận đều được ban phát từ cấp trên, cán bộ cấp dưới chỉ việc chờ đón, thực hiện. Cán bộ có nói gì, viết gì chỉ là giải thích, minh họa, ca tụng ý kiến của cấp trên nhờ sự viện dẫn ví dụ v.v... Điều này lý giải cho tình trạng "xuôi chiều" trong tư duy của nhiều cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, tạo ra những cán bộ thụ động, ỷ lại, dựa dẫm và chỉ tâm niệm thừa hành, mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên thiếu nỗ lực chủ quan, không cần phải trăn trở, tìm tòi nghiên cứu sáng tạo trong tư duy và hoạt động thực tiễn. Rõ ràng, trong cơ chế đó thì bệnh kinh nghiệm khó tránh khỏi. Tất cả những điều trên đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả lãnh đạo, quản lý ở cơ sở và là điều kiện để bệnh kinh nghiệm cũng như các căn bệnh khác tiếp tục tồn tại trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. Mặc dù, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã được Đảng và Nhà nước ta kiên quyết xóa bỏ, song ảnh hưởng của nó không thể khắc phục ngày một ngày hai được. Bởi lẽ, đa số cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An điều được sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong cơ chế đó. 1.2.2. Sự yếu kém về trình độ lý luận, sự thiếu ý thức phấn đấu, học tập rèn luyện vươn lên của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An Có thể nói, trình độ lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An còn yếu kém và bất cập là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh bệnh kinh nghiệm cũng như các căn bệnh khác. Bởi lẽ, trình độ lý luận yếu kém sẽ làm cho họ mãi mãi dừng lại ở trình độ kinh nghiệm và như vậy trong nhận thức của họ sẽ không vượt qua được trình độ mô tả bề ngoài các hiện tượng riêng lẻ, trình độ tập hợp ghi nhớ hình thức, không biết gạt bỏ những yếu tố riêng lẻ, ngẫu nhiên có tính chất thứ yếu để nắm lấy những mối liên hệ, những thuộc tính cơ bản bên trong của sự vật hiện tượng. Trong công việc tổ chức thực tiễn chỉ biết vùi đầu suốt ngày vào công việc sự vụ, sự việc, gặp đâu hay đó, ít có kế hoạch, hoặc kế hoạch thiếu cơ sở thực tiễn và khoa học, không chú ý điều tra tình hình có hệ thống về các mặt của địa phương mình. Trong việc xử lý những vấn đề nảy sinh thì dùng phương pháp cũ, cách nghĩ và cách làm cũ không còn thích hợp. Tất nhiên, đôi khi tri thức kinh nghiệm cũng giúp người lãnh đạo, quản lý giải quyết thành công một số công việc, một số tình huống cá biệt trong công tác nhưng rõ ràng là kết quả rất hạn chế, không chắc chắn. Trước các tình huống mới phức tạp, tri thức kinh nghiệm tỏ ra bất lực, không có cơ sở để người lãnh đạo, quản lý xử lý thành công. Đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đòi hỏi công tác lãnh đạo, quản lý trong điều kiện mới cũng phải có trình độ lý luận. Như đồng chí Nguyễn Văn Linh đã chỉ rõ: "Cuộc sống càng phức tạp, nhiệm vụ càng khó khăn, thời đại càng diễn biến nhanh chóng thì lý luận càng trở thành thiết yếu như cơm ăn và nước uống hàng ngày. Chúng ta từ một nền sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội thì càng phải quán triệt điều này" [42, tr. 23]. Như chúng ta biết, trình độ lý luận của người cán bộ lãnh đạo quản lý chủ yếu được hình thành một cách tự giác thông qua con đường học ở trường và tự học trong cuộc sống, trên cơ sở hiểu biết một cách căn bản, có hệ thống về đối tượng, công việc mà mình lãnh đạo, quản lý, thông qua sách vở, bài giảng, đồng thời thông qua việc tổng kết kinh nghiệm công tác mà hình thành tri thức lý luận. Không học tập một cách nghiêm túc thì không thể có tri thức lý luận và như vậy sẽ khó trách khỏi dừng lại ở trình độ kinh nghiệm. Thực tế cho thấy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa học hoặc học chưa thấm nhuần lý luận, đường lối của Đảng một cách có hệ thống, không nắm vững phép biện chứng duy vật thì khó trách khỏi rơi vào bệnh kinh nghiệm cũng như các căn bệnh khác. Cũng có khi đã học nhưng tri thức mới chỉ dừng lại trên sách vở, không vận dụng được vào trong hoạt động hàng ngày. Cho nên, khi giải quyết công việc ở cơ sở họ vẫn chỉ làm theo thói quen, theo kinh nghiệm bản thân. Qua khảo sát thực tế ở Long An cho thấy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An đã qua trung học chính trị, chương trình cao cấp lý luận, cử nhân chính trị đạt tới 71,45% nhưng chủ yếu là học tại chức. Hơn nữa, có nhiều người đã học cách đây 5 - 7 năm. Vì vậy, họ chủ yếu chỉ mới dừng ở hiểu đường lối của Đảng và chính sách Nhà nước. Trong công tác lãnh đạo chủ yếu vẫn làm theo cảm tính, thói quen, kinh nghiệm. Do đó, khi gặp các khái niệm lý luận, các quan điểm kể cả những vấn đề họ đã nói và thực hiện hàng ngày vẫn lúng túng, nhận thức không đúng hoặc không rõ ràng. Hơn nữa, nếu trình độ lý luận thấp thì sẽ không chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng được cho hoạt động thực tiễn cũng như khả năng tổng kết kinh nghiệm. Như vậy, người ta lại buộc phải dựa dẫm máy móc vào kinh nghiệm. Nhưng học lý luận chưa đủ mà quan trọng hơn là phải biết vận dụng lý luận đã học vào công tác, vào tổ chức thực tiễn. Cho nên, dù có học thuộc lòng lý luận thì vẫn có thể mắc bệnh kinh nghiệm. Vì vậy mà trong thực tế ở Long An mặc dù, đã được trang bị chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt là phép biện chứng duy vật nhưng hầu hết cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vẫn ít nhiều mắc phải căn bệnh này. Hậu quả của nó là việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước một cách không nhất quán, làm ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ" [48, tr. 234]. Theo kết quả điều tra của Trường Chính trị Long An năm 2000 cho thấy, số cán bộ chủ chốt cấp cơ sở mặc dù đã qua các lớp trung cấp chính trị nhưng vẫn vi phạm chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước còn cao (xem phụ lục 6). Cũng chính do trình độ lý luận thấp kém, cho nên khi gặp vấn đề mới và phức tạp thì không biết xử lý đúng hoặc khi đề ra một chỉ tiêu, một kế hoạch nào đó thường lấy ý muốn chủ quan làm căn cứ. Đồng thời, họ còn yếu kém trong việc phân tích, tổng hợp, khái quát, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Cho nên có nhiều điển hình tiên tiến, nhiều cái mới xuất hiện nhưng họ không tổng kết được những điển hình tiên tiến và những cái mới đó. Hầu hết đội ngũ cán bộ, Đảng viên nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An nói riêng trưởng thành và hoạt động trong điều kiện của một nền sản xuất nhỏ mà cho đến nay vẫn là phổ biến (cơ cấu kinh tế tính đến năm 2000 vẫn là nông nghiệp chiếm 51,1%, công nghiệp chiếm 22,4%, dịch vụ chiếm 29,7%; 80% lực lượng lao động tập trung ở nông thôn). Hầu hết họ cũng đều xuất thân từ nông dân. Do đó, ở họ còn mang nặng tâm lý nông dân. Đặc trưng là thụ động, ỷ lại dựa dẫm vào kinh nghiệm bản thân, thỏa mãn dừng lại say sưa với những hiểu biết cũ, đó là lối tư duy thiển cận, phiến diện, thiếu suy xét thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu phân tích khoa học và không đòi hỏi tính chuẩn xác. Cơ bản là ở trình độ tư duy kinh nghiệm cảm tính. ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An còn in đậm dấu ấn tiêu cực kiểu tư duy nặng nề đạo đức nhân sinh, nhẹ về lý trí, về lý luận khoa học, nặng về uy tín, chức vụ thay cho sự chứng minh khoa học, đây cũng là yếu tố làm cho họ yếu kém về trình độ lý luận. Đồng thời, chúng ta cần nhận rõ sự thiếu ý thức rèn luyện phấn đấu học tập vươn lên của chính đội ngũ này là một nguyên nhân chủ quan dẫn đến yếu kém và bất cập về trình độ lý luận trong đội ngũ cán bộ này. Các cấp ủy Đảng và chính bản thân đội ngũ cán bộ này chưa ý thức đầy đủ về việc phấn đấu, rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua số liệu điều tra của Trường Chính trị Long An năm 2000 thì có tới 60% số cán bộ cấp cơ sở được đề bạt hoặc giới thiệu đắc cử vào cương vị chủ chốt khi tổ chức cấp trên bắt buộc họ mới đi học. Nhiều năm qua, Tỉnh ủy Long An đã chỉ đạo tăng cường mở lớp tạo nguồn tập trung tại Trường Chính trị nhưng Trường Chính trị Long An cùng hai ban Tổ chức Tỉnh ủy và Tổ chức chính quyền chiêu sinh không đủ số lượng, số lượng cán bộ đi học rất ít. Mỗi lớp khoảng chừng 30 học viên thuộc diện dự nguồn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Trong khi đó còn tới 28,5% số cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chưa được đào tạo lý luận trung cấp trên tổng số 729 cán bộ thuộc các chức danh này. Do chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, vị trí của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, nên có không ít cán bộ chủ chốt nảy sinh tâm lý ngại học tập để nâng cao trình độ. Tất nhiên, còn do hoàn cảnh gia đình, điều kiện công tác ở những vùng lũ gặp rất nhiều khó khăn, chính sách đãi ngộ v.v... Khi cử đi học thì một mặt do hạn chế trình độ văn hóa mặt khác, đi học với tâm lý là học cho xong để về công tác tiếp, học chủ yếu là để lấy được cái bằng, để tiêu chuẩn hóa chức danh chứ chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập và tự giác học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Chính những điều này đã dẫn đến nhiều hậu quả sai phạm nghiêm trọng của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An trong nhiệm kỳ (1996 - 2000) vừa qua. ở Long An, theo báo cáo kết quả của việc thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra nhiệm kỳ Đại hội VI cho thấy: Qua xử lý, thì hiện tượng cán bộ lãnh đạo chủ chốt toan tính chạy theo đồng tiền, vụ lợi cá nhân, lối sống buông thả vì tiền, vì vật chất, hưởng lạc bằng lợi dụng chức vụ cương vị công tác, lợi dụng sơ hở của cơ chế chính sách để tham ô ngày càng tăng. Hầu như ở đâu có tiền, có vật chất, có giải quyết các mối quan hệ lợi ích, thì ở đó có sai phạm, nhất là việc giải quyết và quản lý các nguồn vốn, các loại quỹ, gây thiệt hại lớn về uy tín của Đảng. Cụ thể như Đảng ủy xã Nhơn Ninh (Huyện Tân Thạnh) xã Bình Hòa Bắc (Đức Huệ) đã vi phạm những chủ trương của Chính phủ sử dụng sai mục đích nguồn vốn cho nhân dân vay để tôn nền nhà chống lũ, kết quả đã xử lý kỷ luật, hầu hết các Đảng ủy viên và cả tập thể Đảng ủy xã; một số xã ở các huyện Tân Trụ, Thạnh Hóa, Đức Hòa, Bến Lức... có số lượng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vi phạm và bị kỷ luật tương đối cao. Theo báo cáo thì có 291 cấp ủy viên bị kỷ luật trong đó có tới 249 là cấp ủy cơ sở trong toàn tỉnh [62]. Tất cả những điều phân tích trên cho thấy với trình độ lý luận, trình độ tư duy lý luận như vậy lại thiếu sự cố gắng phấn đấu, rèn luyện học tập vươn lên thì đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long an khó mà vượt qua được giới hạn của tư duy kinh nghiệm và khó mà thoát khỏi bệnh kinh nghiệm cũng như các căn bệnh khác. 1.2.3. ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý nông dân Với điều kiện sinh sống và hoạt động trong môi trường nông nghiệp, nông thôn thậm chí hầu hết đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An đều xuất thân từ nông dân. Do đó, họ không thể không chịu ảnh hưởng của tâm lý nông dân. Xu hướng chủ đạo trong tâm lý của người nông dân sản xuất nhỏ là tuyệt đối hóa kinh nghiệm. Bởi lẽ, nền sản xuất nhỏ là nền sản xuất manh mún, tự cấp tự túc và đặc biệt ít biến động. Từ đời này qua đời khác, những người nông dân sản xuất nhỏ vẫn làm trên cùng mảnh ruộng, với những công cụ mà cha ông họ đã từng làm, theo phương thức mà cha ông họ đã đúc kết rồi truyền lại. Quá trình sản xuất cứ lặp đi, lặp lại theo chu kỳ mùa vụ với những cây con, những sản phẩm định sẵn làm cho người nông dân không cần thiết phải trăn trở, suy nghĩ để tổng kết, khái quát đã tạo cho họ thói quen, hoạt động sản xuất theo kinh nghiệm cũ. Các thế hệ sau chỉ cần lặp lại theo những kinh ._.nh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương sâu nặng nghĩa tình. Trong lớp trẻ chú ý con em, các gia đình cách mạng, những người có công với nước. Hàng năm, cần phải đưa lực lượng trẻ đi đào tạo ở Trường Chính trị tỉnh hoặc tạo điều kiện giúp đỡ lực lượng này để các em học tập có hệ thống ở các trường khác như: Trường Cao đẳng sư phạm, trường Trung học y tế, Trung tâm giáo dục thường xuyên v.v... Chúng tôi nghĩ rằng, cán bộ cấp cơ sở là con em của nông dân ở địa phương sẽ có nhiều thuận lợi. Cuộc sống và gia đình của họ luôn gắn liền với bà con lối xóm, với họ hàng ở nông thôn. Họ không "xa lạ" với nhân dân, nhân dân hiểu rất rõ họ. Nếu phát huy được trí tuệ tập thể, có sự tham gia rộng rãi, tích cực của cán bộ, đảng viên và quần chúng thì tuyển chọn cán bộ tạo nguồn có chất lượng và có tác dụng tích cực. Ngoài việc hình thành cơ chế tạo nguồn quy hoạch cán bộ đưa đi đào tạo bồi dưỡng ở các trường trong tỉnh thì chúng tôi nghĩ rằng Tỉnh ủy, ủy ban Nhân dân tỉnh Long An phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ cấp cơ sở. Chính sách đãi ngộ cán bộ cấp cơ sở phải phù hợp với quan điểm của Đảng và điều kiện địa phương. Chính sách cán bộ chính là sự cụ thể hóa đường lối tổ chức của Đảng trong thời kỳ lịch sử nhất định. Những quy định cụ thể của chính sách cán bộ làm chuẩn mực cho các hoạt động công tác cán bộ, nó là điểm xuất phát và cũng là đích cuối cùng của công tác cán bộ. Có chính sách cán bộ đúng và tổ chức thực hiện tốt sẽ là một động lực, phát huy sự nỗ lực của cán bộ đem tài năng cống hiến cho sự nghiệp chung. Vì vậy, nhận thức sâu sắc và thực hiện thắng lợi chính sách cán bộ của Đảng là vấn đề trọng yếu để làm tốt công tác cán bộ. Vai trò của cán bộ được phát huy đầy đủ và lâu dài hay không tùy thuộc vào chính sách đối với cán bộ như thế nào. Bác Hồ dạy: "Cách đối với cán bộ có khéo, có đúng thì mới thực hiện được nguyên tắc vấn đề cán bộ quyết định mọi việc" [48, tr. 284]. Chính sách cán bộ có nhiều nội dung quan hệ mật thiết với nhau như chính sách đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng, chăm sóc, đời sống vật chất tinh thần của cán bộ v.v... Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chính sách cán bộ nói chung, cán bộ cấp cơ sở nói riêng, tuy nhiên, trước tình hình và nhiệm vụ mới, nhiều vấn đề về chính sách cán bộ đòi hỏi phải được khẩn trương nghiên cứu và giải quyết. Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) đã chỉ rõ, cần đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý, về đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ. Thực hiện chính sách cán bộ phải đồng bộ, trong đó chính sách đãi ngộ vật chất và động viên tinh thần có ý nghĩa rất quan trọng. Nó quyết định trực tiếp đến tinh thần và chất lượng công tác của cán bộ đặc biệt là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Nó góp phần thu hút những người thực sự có năng lực cống hiến tài năng cho đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phải biết yêu thương cán bộ, nhưng yêu thương không nghĩa là nuông chiều, thả mặc mà chính là ngoài việc theo dõi giúp đỡ cán bộ học tập, tiến bộ còn phải giúp cán bộ giải quyết những khó khăn trong sinh hoạt, tạo điều kiện sinh sống đầy đủ để làm việc, khi ốm đau được chăm nom, tuỳ theo hoàn ảnh mà giúp gia đình họ khỏi khốn quẫn. Người cho rằng: "Những điều đó rất quan hệ với tinh thần cán bộ, và sự thân ái đoàn kết trong Đảng" [48, tr. 277; 283]. Nhờ có chính sách đúng, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội nên Đảng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến Cơ sở trung thành với sự nghiệp cách mạng, vượt qua nhiều gian khó, hăng hái, nhiệt tình, năng động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng. Tuy nhiên, chính sách đãi ngộ vật chất và động viên tinh thần cán bộ còn nhiều bất hợp lý, còn thiếu công bằng, chưa thực hiện, chưa thống nhất và đồng bộ. Vì vậy chưa khuyến khích được cán bộ làm việc có hiệu quả nhất là những cán bộ công tác ở cơ sở, ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Do đó, một mặt chưa tạo được động lực để tập hợp, thu hút nhân tài cũng như sự phấn đấu của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, mặt khác, sự chênh lệch khá lớn về thu nhập làm cho nguy cơ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An cũng có sự phân hóa giàu nghèo, một trong những yếu tố dẫn đến mất đoàn kết. Đối với cấp xã Nghị định 09/1998-NĐ/CP thay cho Nghị dịnh 50/CP của Chính phủ tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng thực hiện việc chi trả phụ cấp cho cán bộ cơ sở còn gặp nhiều khó khăn, còn mang tính bình quân, mức phụ cấp của nhiều đối tượng cũng chưa phù hợp..., nên chưa thật sự khuyến khích được cán bộ công tác ở cơ sở tự phấn đấu, học tập, rèn luyện vươn lên về mọi mặt. Chính sách, chế độ đối với cán bộ cấp cơ sở có ý nghĩa rất lớn, nếu giải quyết không phù hợp sẽ dẫn đến tiêu cực, cán bộ cơ sở thiếu hăng hái; làm việc "cầm chừng" cho xong nghĩa vụ. Cán bộ đang công tác ở cơ sở nhưng tâm dạ hướng đi nơi khác, muốn chuyển đến nơi có chế độ tốt hơn và khi có điều kiện thì sẵn sàng rời cơ sở. Hơn nữa, do chế độ chưa thỏa đáng với lượng công sức mà cán bộ cơ sở bỏ ra, trong khi cuộc sống đời thường còn nhiều khó khăn sẽ dễ làm cho chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy. Hậu quả là cán bộ sẽ làm mất tín nhiệm trước dân, và Đảng sẽ mất dần cán bộ.Vì vậy, đổi mới cơ bản chính sách cán bộ phải đảm bảo được lợi ích vật chất cho từng loại cán bộ cấp cơ sở. Khen thưởng kịp thời, đúng mức những cán bộ có thành tích cùng với việc giáo dục lý tưởng, tinh thần trách nhiệm, của cán bộ; động viên nhiệt tình hăng hái của họ để góp phần khắc phục lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền hiện nay và củng cố đoàn kết thống nhất trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và trong Đảng. Chính sách đãi ngộ đối với cán bộ cấp cơ sở phù hợp với thực tế về thực chất là biết đối xử với con người có tình, có nghĩa và góp phần thực hiện công bằng xã hội. Thực hiện chính sách đãi ngộ vật chất và động viên tinh thần đối với cán bộ cấp cơ sở ở Long An hiện nay cần thấu suốt những quan điểm sau: - Chính sách đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần phải phù hợp với vai trò vị trí của cán bộ cấp cơ sở. Đội ngũ cán bộ này có vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt, hoạt động đặc thù của họ tuy không trực tiếp nguy hiểm đến tính mạng nhưng gặp không ít khó khăn, vất vả. Họ chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân về những quyết định của mình đối với tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương. Long An là một tỉnh có ba vùng rõ rệt vùng Đồng Tháp Mười mùa khô nắng cháy da người, mùa mưa thì nước lũ tràn về, giao thông kém phát triển. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đây đi lại gặp nhiều khó khăn. Vùng thứ hai là vùng hạ mạng lướng giao thông kém phát triển, cán bộ chủ chốt ở những xã vùng này đến với dân phải đi bộ hàng giờ thậm chí cả ngày. Vùng thứ ba là vùng thượng gồm những xã ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Nói chung, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, trong khi mức phụ cấp và sinh hoạt phí chưa tương xứng với giá trị lao động của họ. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách chăm lo đời sống và điều kiện đi lại, làm việc để họ hoàn thành nhiệm vụ. - Chính sách đãi ngộ vật chất đối với cán bộ chủ chốt, cấp cơ sở phải quán triệt quan điểm mà Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) đã nêu: "Tiền lương gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển; góp phần quan trọng làm lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu suất công tác. Bảo đảm giá trị thực của tiền lương và từng bước cải thiện theo sự phát triển của kinh tế - xã hội [18, tr. 42-43]. - Trên cơ sở phát triển các ngành nghề kinh tế để tạo nguồn thu, cùng với việc tinh giảm bộ máy, bố trí cán bộ kiêm nhiệm để tăng thêm phần tự cấp ở địa phương. Mức phụ cấp cho cán bộ cấp xã không chỉ dựa vào tính chất đặc biệt, tầm quan trọng của từng loại xã mà còn tính đến trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, đảm bảo mức sống của cán bộ không tách rời thực tế ở cơ sở cũng như giữa cán bộ với nhân dân. Trên những định hướng đó, Long An cần phải tập trung đổi mới, một số chính sách cụ thể sau: - Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh cần nghiên cứu và ban hành chế độ phụ cấp đặc biệt cho các xã ở vùng Đồng Tháp Mười, vùng sâu, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng. Có như vậy mới có thể kêu gọi, động viên được cán bộ về công tác ở những nơi đó. Đồng thời động viên, khuyến khích được họ phấn đấu rèn luyện vươn lên về mọi mặt. - Có chế độ bảo trợ kinh phí về học tập hợp lý hơn giữa cán bộ đi học tập trung với học tại chức, học ở huyện, ở tỉnh, ở khu vực và ở xa thành phố v.v... để cán bộ đi học không thiệt thòi về kinh tế, có lợi nhiều hơn về kiến thức. - Trong thời đại bùng nổ thông tin và thông tin được coi là dạng quyền lực, người cán bộ ở cơ sở cần có chế độ cung cấp thông tin một cách thường xuyên, kịp thời. Ngoài các công văn, chỉ thị cấp trên, còn có chế độ được cung cấp tài liệu sinh hoạt Đảng, thông tin tư liệu của các ngành, các cơ quan của tỉnh, huyện, các tạp chí và sách báo thiết yếu khác. - Có chính sách tạo điều kiện cho cán bộ xã phát triển kinh tế gia đình, làm giàu chính đáng. Xóa đói giảm nghèo, xóa nghèo làm giàu. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn hiện nay đang đòi hỏi cán bộ và gia đình cán bộ cấp cơ sở phải biết làm kinh tế có hiệu quả, phải biết vươn lên làm giàu chính đáng. Điều đó vừa đảm bảo cho cán bộ thêm yên tâm công tác, gắn bó hơn với cơ sở, với xóm làng; vừa nêu gương và gây được uy tín đối với đảng viên và nhân dân trong xã. Đồng thời, từ kinh nghiệm làm ăn của gia đình mình, sẽ gợi mở cho cán bộ cấp cơ sở có những chủ trương, biện pháp tổ chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế nông thôn của Đảng. Từ chỗ khai thác tiềm năng lao động, sản xuất, kinh doanh của gia đình mà có kinh nghiệm khai thác tiềm năng kinh tế, thế mạnh của địa phương có hiệu quả, tạo ra nhiều việc làm, tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân ở địa phương. Trong tình hình hiện nay cần có những chính sách cụ thể như: + Chính sách hỗ trợ vốn, ngoài vốn xóa đói giảm nghèo cho nhân dân nói chung, cần có chính sách cho vay ưu đãi đối với cán bộ cấp cơ sở giúp gia đình họ tiết kiệm, bảo toàn vốn và nâng cao hiệu quả kinh tế. + Chính sách hỗ trợ về chi phí và kỹ năng ứng dụng khoa học, kỹ thuật, tiếp nhận công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp như: Cải tạo, sử dụng đất, giống cây trồng,vật nuôi mới, đem lại năng suất và chất lượng cao, kỹ thuật thâm canh, công nghệ bảo quản v.v... Để thực hiện cuộc sống giúp cán bộ cơ sở phát triển kinh tế gia đình, phải tăng cường đưa thông tin kỹ thuật, khoa học về cơ sở, đẩy mạnh hoạt động của các tổ công tác khuyến nông, lồng ghép nhiều chương trình kỹ thuật sản xuất ở địa phương... không tính lãi hoặc thu sản phẩm trong một thời gian nhất định đối với những hộ sản xuất theo quy trình kỹ thuật mới và có chế độ tín dụng, thích hợp để các hộ đổi mới công cụ sản xuất, mua sắm, sử dụng công cụ tiên tiến. - Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh Long An cần phải có chính sách và biện pháp thiết thực mở các lớp bổ túc văn hóa tại các huyện để phổ cập văn hóa phổ thông trung học cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, có chính sách hỗ trợ tạo điều kiện khuyến khích, động viên những cán bộ trẻ có trình độ, có tài có đức, tình nguyện về xã công tác; hoặc con em địa phương đi học ở các trường đại học, trung học chuyên nghiệp về công tác tại quê hương. - Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh Long An phải có chỉ thị, quyết định đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở được cử đi học tập trung hoặc tại chức được hưởng các chế độ hưởng nguyên lương hoặc trợ cấp theo chức danh, được hưởng tiền trợ cấp đi học theo quy định của tỉnh, đồng thời được hỗ trợ một phần kinh phí cho việc đi nghiên cứu, tham quan các địa phương khác để học tập kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý sản xuất kinh doanh để nâng cao thêm kiến thức và năng lực công tác. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vừa là cán bộ lãnh đạo, vừa là lao động chính của gia đình, vì thế ban tổ chức tỉnh ủy phải phối hợp cùng Trường Chính trị tỉnh chiêu sinh mở lớp đào tạo và bố trí thời gian học tập thích hợp theo mùa, theo vụ để tạo điều kiện cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở yên tâm học tập và cũng lo được kinh tế gia đình. - Cần phải có chính sách tiền lương cho cán bộ cấp cơ sở (thay tên gọi phụ cấp sinh hoạt phí). Cán bộ cấp cơ sở được tính và trả lương theo hệ thống thang bảng lương như cơ quan Nhà nước. Nghĩa là có lương cơ bản được xét duyệt nâng lương, để họ có điều kiện đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... - Đối với cán bộ được tăng cường từ trên xuống hoặc cán bộ tốt nghiệp Đại học về xã công tác cần có chính sách ưu đãi hợp lý, có quy định cụ thể rõ ràng. Chẳng hạn, quy định cán bộ về xã công tác là một nghĩa vụ bắt buộc; trên cơ sở luật lao động và những quy định khác của Nhà nước. Các địa phương cần định thời gian cán bộ về xã công tác ít nhất là mấy năm. Ngoài lương ra, có phụ cấp ưu đãi thêm là bao nhiêu; thời hạn nâng lương, nâng bậc được rút ngắn ra sao, thâm niên công tác được cộng thêm như thế nào; khi xong nghĩa vụ thì được ưu tiên lựa chọn, bố trí công tác ở đâu... Làm tốt điều này sẽ góp phần quan trọng khắc phục tình trạng "chảy chất xám" ở các xã trong tỉnh Long An về thành phố. Đây là một giải pháp vừa cấp bách vừa cụ thể và thiết thực cho nên trong quá trình tổ chức thực hiện thì Tỉnh ủy, ủy ban Nhân dân Long An phải tiến hành đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành từ tỉnh đến huyện đến xã, tạo nên sự khép kín và nhất quán. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ góp phần từng bước khắc phục bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. Đồng thời với việc tiếp tục đổi mới chính sách cán bộ cấp cơ sở thì các cấp ủy Đảng, Chính quyền phải tăng cường động viên, khuyến khích đội ngũ này tích cực phấn đấu rèn luyện vươn lên về mọi mặt. Trên cơ sở đó mới từng bước khắc phục được bệnh kinh nghiệm ở họ. Bởi lẽ, thiếu sự chủ động, tích cực, sự tự phấn đấu, rèn luyện vươn lên của chính đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, chúng ta không bao giờ khắc phục được bệnh kinh nghiệm ở họ. Mọi giải pháp từ phía Đảng, Nhà nước, đoàn thể chỉ có tác dụng khi chính đội ngũ này quyết tâm phấn đấu tự khắc phục bệnh kinh nghiệm. Muốn vậy, chúng ta phải bằng các chính sách cán bộ cụ thể động viên, cổ vũ, khơi dậy được ở họ tình cảm, nhiệt tình cách mạng cũng như phẩm chất đạo đức, để họ dám vượt khó khăn, thiếu thốn ra sức học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận. Có như vậy, họ mới bớt mò mẫm, sự vụ, ỷ lại vào thói quen, vào kinh nghiệm trong tổ chức thực tiễn. Trên đây là một số giải pháp chủ yếu nhằm từng bước ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An. Những giải pháp này phải được tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện trên thực tế mới đem lại hiệu quả thiết thực. Khắc phục bệnh kinh nghiệm là việc làm lâu dài, không thể ngày một ngày hai, nhưng thực hiện tốt những giải pháp trên là từng bước hiện thực hóa công việc này. Kết luận Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Long An trong những năm qua cho thấy, cùng với những căn bệnh khác đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở nói riêng đã mắc phải bệnh kinh nghiệm. Theo hướng tiếp cận tương đối có hệ thống cho phép chúng ta nhận thức đúng đắn bệnh kinh nghiệm và tác hại to lớn của nó cả trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An là một nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài. Để từng bước khắc phục, ngăn ngừa có hiệu quả bệnh kinh nghiệm, toàn Đảng bộ cũng như mỗi cán bộ đảng viên ở Long An phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau. Trong đó, tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cũng như trình độ lý luận, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên, nhân dân Long An nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng; tăng cường tổng kết rút kinh nghiệm tổ chức hoạt động thực tiễn cũng như tiếp tục đổi mới chính sách cán bộ cấp cơ sở... có ý nghĩa quyết định cơ bản. Cuộc đấu tranh khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm phải được tiến hành một cách tích cực thường xuyên, liên tục, bền bỉ và gắn bó hữu cơ với quá trình đổi mới xã hội trên mọi lĩnh vực, đồng thời phải gắn liền với đấu tranh chống những ảnh hưởng độc hại của tư tưởng tiểu tư sản, tư tưởng phong kiến, bảo thủ, cục bộ địa phương, chủ nghĩa thành tích, chủ nghĩa cá nhân, thói ỷ lại, bệnh lười học tập v.v... Nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước mà trong đó phương pháp tư duy biện chứng duy vật là nền tảng là điều kiện cốt yếu nhất để khắc phục, ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm có hiệu quả. Bệnh kinh nghiệm còn tồn tại, gây ảnh hưởng đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng đến mức độ nào là tùy thuộc trước hết vào toàn Đảng bộ cũng như từng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An. Nếu mỗi cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở Long An thường xuyên chăm lo nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, vững vàng về chính trị, mẫn cảm trước thực tiễn rèn luyện đạo đức của người cán bộ cách mạng, tiếp cận nhanh nhạy đúng với những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, có khả năng nhận thức và vận dụng những chủ trương, đường lối, chính sách đó vào địa bàn mình phụ trách thì bệnh kinh nghiệm sẽ từng bước bị hạn chế và đẩy lùi. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Long An đòi hỏi sự nỗ lực, sáng tạo rất cao của toàn Đảng bộ, toàn dân và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở Long An. Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh Long An cần hướng sự lãnh đạo của mình vào việc xây dựng những điều kiện thuận lợi của tỉnh cho việc nâng cao trình độ về mọi mặt của đội ngũ cán bộ các cấp và phát huy được mọi tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ cũng như của nhân dân Long An để khắc phục, ngăn ngừa có hiệu quả bệnh kinh nghiệm cũng như các căn bệnh khác. danh mục Tài liệu tham khảo Lê Ngọc Anh (1999), "Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam", Triết học, (3), tr. 19-21. Hoàng Chí Bảo (1988), "Từ tư duy kinh nghiệm đến tư duy lý luận", Thông tin lý luận, (6), tr. 54-62. Nguyễn Đức Bình (1992), "Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (6), tr. 5-15. Nguyễn Quang Du (1992), "Nâng cao dân trí nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (12), tr.37-38 và 41. Lê Duẩn (1976), Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. Trần Sĩ Dương (1997), Tâm lý sản xuất nhỏ ở đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay và phương hướng khắc phục (qua thực tế tỉnh Thái Bình), Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội. Đại từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Văn hóa thông tin. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tập III, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ (khóa VII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện hội nghị lần thứ 6 (lần 2) khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng bộ tỉnh Long An (1992), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ V, Nxb Long An. Đảng bộ tỉnh Long An (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ VI, Nxb Long An. Đảng bộ tỉnh Long An (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ VII, Nxb Long An. Đảng bộ huyện Tân Hưng (2000), Báo cáo Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ huyện Tân Hưng lần thứ II. Đảng bộ huyện Vĩnh Hưng (2000), Báo cáo Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ huyện Vĩnh Hưng lần thứ VIII. Đảng bộ huyện Mộc Hóa (2000), Báo cáo Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Mộc Hóa lần thứ VIII. Đảng bộ huyện Đức Huệ (2000), Báo cáo Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Đức Huệ lần thứ VIII. Trần Bạch Đằng (1996), Đồng bằng sông Cửu Long 40 năm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Trần Văn Giàu (1991), "Tư tưởng thủ cựu của Nho giáo, trước sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc", trong sách: Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Văn Hai (1997), Nâng cao năng lực tổ chức, thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (Qua thực tế tỉnh Long An), Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội. Dương Phú Hiệp (1987), "Góp phần phân tích nguyên nhân của sự lạc hậu về nhận thức và sự yếu kém vận dụng các quy luật", Nghiên cứu lý luận, (6), tr. 19-25. Đỗ Trọng Hưng (1999), "Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quan niệm của Hồ Chí Minh", Triết học, (2), tr. 17-20. Vũ Nhật Khải (1996), "Nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của giai đoạn mới", Nghiên cứu lý luận, (4), tr. 6-9. Nguyễn Văn Khiết (2000), Những biểu hiện đặc thù của tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội. Vũ Khiêu (1971), "Nền sản xuất nhỏ Việt Nam và hậu quả của nó trong tâm lý dân tộc", Thông báo triết học, (22), tr. 62-102. Nguyễn Thế Kiệt (1996), "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay", Triết học, (6), tr. 9-11. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 9, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới tư duy và phong cách, Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Long (1984), "Kinh nghiệm và lý luận", Nghiên cứu lý luận, (1)., tr. 33-37. Nguyễn Ngọc Long (1988), "Chống bệnh kinh nghiệm, giáo điều, đổi mới tư duy lý luận", Tạp chí Cộng sản, (5), tr. 34-38. Nguyễn Ngọc Long (1988), "Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận", Trong sách: Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận, Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội. C.Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Chí Mỳ (1990), Tư tưởng tiểu tư sản ở Việt Nam hiện nay. Những biểu biện tiêu cực đặc trưng và con đường khắc phục nó, Luận án Phó tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Lê Hữu Nghĩa (1988), "Về những khuyết điểm và yếu kém trong tư duy lý luận ở cán bộ ta", Trong sách: Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới, tư duy lý luận, Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội. Lê Hữu Nghĩa (1988), "Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta", Triết học, (2), tr. 21-26 Lê Hữu Nghĩa (1992), "Quan hệ giữa lý luận và chính trị", Tạp chí Cộng sản, (6), tr. 21-23. Trần Văn Phòng (1994), Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở cán bộ nước ta, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trần Văn Phòng (1993), "Vài suy nghĩ về tổng kết thực tiễn", Trong sách: Góp phần tìm hiểu một số vấn đề kinh tế - xã hội. Dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Phòng (1997), "Đạo đức một bộ phận cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Thông tin lý luận, (6), tr. 9-12. Steptulin (1987), Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin. Hoàng Thị Xuân Thanh (1998), Nâng cao trình độ lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ đảng viên ta trong công cuộc đổi mới hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Lê Thi (1988), "Thực trạng tư duy cán bộ đảng viên ta và căn nguyên của nó", Triết học, (4), tr. 11-14 và 19. Nguyễn Tài Thư (1997), ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tỉnh ủy Long An (1996), Nghị quyết 05 về công tác cán bộ của Tỉnh Long An. Tỉnh ủy Long An (2000), Báo cáo số 114 BC/CT ngày 25/7/2000. Kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra nhiệm kỳ Đại hội VI (1996 - 2000). Tỉnh ủy Long An (2000), Chương trình hành động số 35 CTR/TU, Thực hiện nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị. Tỉnh ủy Long An (1997), Chương trình hành động số 05 CT/TU Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tỉnh ủy Long An (2000), Báo cáo số 01BC/NCKH ngày 9/5/2000 Kết quả khảo sát trình độ, kiến thức trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn. Lại Văn Toàn (1988), "Đổi mới tư duy lý luận, Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới", Triết học, (1), tr. 26-34. Nguyễn Đình Trãi (1999),"Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao tư duy lý luận cho giảng viên Mác-Lênin ở các Trường Chính trị hiện nay", Triết học, (1), tr. 50-52. Đỗ Tư (1988), "Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận", Trong sách: Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận, Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội. Từ điển tiếng Việt (1997), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Huỳnh Khái Vinh (1999), "Xây dựng đạo đức lối sống và chuẩn giá trị xã hội để phát triển toàn diện con người", Thông tin lý luận, (3), tr. 3-5. Trần Quốc Vượng (1991), "Nho giáo và văn hóa Việt Nam", Trong sách: Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phụ lục 1 Điều kiện tự nhiên kinh tế Long An. - Diện tích tự nhiên: 4.44/8,6km2 chiếm 1,3% diện tích cả nước và 14,5% diện tích đồng bằng sông Cửu Long. - Dân số 1999: 1.306.202 người. - 13 huyện, 1 thị xã, 15 thị trấn, 6 phường, 162 xã. Có 57% diện tích nằm trong khu vực Đồng Tháp Mười 298.243 ha. - Có 138 km đường biên giới giáp Campuchia (có 19 xã biên giới). - 23 xã tiếp giáp với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. - Cơ cấu kinh tế: 1996 2001 + Nông nghiệp: 55,4% 50,1% + Công nghiệp: 15,6% 21,4% + Dịch vụ: 29% 28,5% Nếu so với cả nước thì Long An là tỉnh còn mang nặng tính thuần nông và kém phát triển phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Cả nước năm 2000 cơ cấu kinh tế là: + Nông nghiệp: 24,3% + Công nghiệp: 36,6% + Dịch vụ: 39,1%. - 115/183 xã, phường chưa có chợ (62,84%). - 28/183 xã chưa có đường giao thông đến trung tâm xã (15,30%). (Theo số liệu UBND tỉnh Long An 5/2001). Phụ lục 2 Văn hóa, giáo dục, lao động - Dân số lao động việc làm: + Dân số nông thôn chiếm: 1.006.000/1.306.202 người chiếm 77,81%. + Lao động: 775.000 người, trong đó ở nông thôn 650.000 người chiếm 83,87%. 15,6% lao động đã qua đào tạo. - 183/183 xã có điện thoại. - Diện nghèo theo điều tra năm 2000: 8,5% trên tổng số hộ. Trong đó nông thôn chiếm 87,6% có 27 xã nghèo. - Trình độ học vấn trong nhân dân: 46,8% cấp I; 25,8% cấp II; 8,6% cấp III. (Số liệu UBND tỉnh 5/2001). Phụ lục 3 Bảng tổng hợp trình độ kiến thức của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch HĐND) Chức danh Tổng số Trình độ học vấn Trình độ chuyên môn Trình độ chính trị CI CII CIII TH CĐ ĐH Sơ cấp Trung cấp Cao cấp ĐH Bí thư 183 14 76 93 4 1 8 17 116 44 10 Chủ tịch UBND 183 4 62 117 12 6 5 29 137 16 1 Phó Chủ tịch UBND 183 5 76 102 14 1 2 82 100 1 Phó chủ tịch HĐND 180 9 79 92 11 3 2 85 97 1 Phụ lục 4 Bảng tổng hợp phân tích chất lượng cán bộ chủ chốt 140 xã ở 10 huyện Long An STT Các chỉ tiêu Bí thư Phó bí thư Chủ tịch UBND 1 Số lượng 140 128 138 2 Ngoài Đảng 0 0 0 3 Nữ 2 7 1 4 Tuổi đời Dưới 41 37 55 67 41 - 45 47 39 44 46 - 50 39 23 19 51 - 55 14 8 7 56 - 60 2 2 Trên 60 1 1 5 Trình độ học vấn - Cấp I 15 16 10 - Cấp II 60 67 47 - Cấp III 65 45 80 6 Trình độ lý luận chính trị - Chưa học 13 22 - Sơ cấp 6 18 13 - Trung cấp 82 85 93 - Cao cấp 36 4 8 - Cử nhân 3 1 7 Trình độ chuyên môn - Trung học - Cao đẳng 1 3 - Đại học 3 1 3 8 Trình độ nghiệp vụ - Quản lý nhà nước 26 12 57 - Quản lý kinh tế 1 - Tin học 0 0 0 - Ngoại ngữ 0 0 0 Phụ lục 5 Trình độ cán bộ chủ chốt với các chức danh: Bí thư, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch HĐND Học vấn Cấp I: 4,38% Cấp II: 40,10% Cấp III: 55,4% Chuyên môn Trung học: 5,62% Cao đẳng: 1,5% Đại học: 2,33% Chính trị Trung cấp: 62,72% Cao cấp: 8,23% Cử nhân: 1,5% Theo số liệu điều tra 3/2001 ở 729 cán bộ của 183 xã, phường, thị trấn. Phụ lục 6 Số liệu về kỷ luật đảng viên từ 1996 - 2000 928 đảng viên/17.263 đảng viên - Trong đó có 291 cấp ủy viên: 40 bị xử lý về pháp luật 38 bị phạt tù 2 cải tạo không giam giữ 17 xử phạt hành chính. - Phẩm chất đạo đức: 234 chiếm 25% - Cố ý làm trái: 174 chiếm 19% - Thiếu tinh thần trách nhiệm: 197 chiếm 21% - Không chấp hành Nghị quyết: 105 chiếm 11% - Mất dân chủ nội bộ: 80 chiếm 9% - Tham ô: 59 chiếm 6% - Cụ thể: + 1996 : 31 cấp ủy viên bị kỷ luật + 1997 : 62 cấp ủy viên bị kỷ luật + 1998 : 76 cấp ủy viên bị kỷ luật + 1999 : 79 cấp ủy viên bị kỷ luật + 2000 : 43 cấp ủy viên bị kỷ luật Theo số liệu của ủy ban kiểm tra tỉnh ủy 25/7/2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2769.DOC
Tài liệu liên quan