Biện pháp mở rộng tín dụng có bảo đảm tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển trong thời gian tới

Lời nói đầu Đất nước ta đang trên con đường Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, phát triển và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nhu cầu sử dụng vốn cho các ngành kinh tế ngày một lớn... tín dụng Ngân hàng là một trong những nguồn cung cấp vốn rất quan trọng cho nền kinh tế nói chung và cho các doanh nghiệp nói riêng. Với đặc thù riêng biệt của ngành hoạt động Ngân hàng là manh nhiều tính rủi ro, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Mà hoạt động của Ngân hàng lại ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, khi m

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1233 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp mở rộng tín dụng có bảo đảm tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à hoạt động Ngân hàng không ổn định cũng sẽ ảnh hưởng sấu đến nền kình tế, khi hệ thống Ngân hàng bị khủng hoảng thì nó là khủng hoảng theo dây chuyền và dẫn tới khủng hoảng trong toàn nền kinh tế. Có rất nhiều biện pháp mà Ngân hàng áp dụng để hạn chế và phòng ngừa rủi ro như: lập quỹ dự phòng, nâng cao chất lượng thẩm định, tài sản bảo đảm với các khoản tín dụng... Trên cơ sở những kiến thức đã học ở trường Đại học kinh tế quốc dân và qua thực tiễn quan sát, học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển. Em lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp mở rộng tín dụng có bảo đảm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển trong thời gian tới.” Trong bài viết này em sẽ trình bầy những nhận thức của mình về tín dụng có bảo đảm trên lý thuyết và thực tiễn tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển. Từ những vấn đề nêu ra em sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng tín dụng có bảo đảm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển. Chuyên đề thực tập gồm có 3 phần: Chương I: Những nét cơ bản về tín dụng có bảo đảm. Chương II: Thực trạng cho vay có bảo đảm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển. Chương III: Một số giải pháp nhằm mở rộng hình thức tín dụng có bảo đảm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển. Tuy nhiên, do điều kiện và thời gian có hạn bài viết này của em không tránh khỏi những sai sót. Em mong thầy, cô và các độc giả đóng góp ý kiến nhằm giúp em hoàn thành bài biết này tốt hơn. Em xin chân thành cám ơn! Hà Nội tháng 04/2002. Chương I: Tổng quan về tín dụng ngân hàng. Khái niệm về tín dụng ngân hàng. Khái niệm tín dụng. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là Nợ, Có và Trung gian. Có nghĩa là ngân hàng thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để đầu tư thu lợi nhuận. Thông thường lượng vốn tự có của ngân hàng thường rất nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của các khách hàng, do đó ngân hàng thương mại phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau trong xã hội. Nguồn vốn mà ngân hàng có và huy động được là cơ sở để ngân hàng thương mại đầu tư lại cho nền kinh tế. Đây là nguồn gốc của hoạt động tín dụng ngân hàng. Khái niệm tín dụng: Theo cách hiểu chung nhất, tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế giữa một bên là ngân hàng và một bên là khách hàng của ngân hàng, trong đó ngân hàng chuyển giao tiền hay tài sản cho khách hàng sử dụng trong thời gian nhất định và ngược lại khách hàng cũng có nhiệm vụ phải hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng khi đến đáo hạn của khoản tín dụng đó. . Những đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê tài chính. Tức là ngân hàng dùng tiền huy động được, nguồn vốn tự có của mình để thực hiện các dự án đầu tư, cho vay đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhằm đạt được mục địch cuối cùng của mình là thu được lợi nhuận. Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả: hoàn trả tín dụng là điều kiện quan trọng nhất thực hiện mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Để thu hồi được nợ ngân hàng phải xem xét một cách thận trọng đến uy tín và khả năng của khách hàng, từ đó áp dụng các biện pháp cho thích hợp. Nếu khách hàng được xếp vào hạng tín nhiệm cao như có phẩm chất tốt trong kinh doanh, có khả năng tài chính tốt, chấp hành tốt các hợp đồng tín dụng trong quá khứ và có triển vọng trong thời gian tới thì ngân hàng sẽ áp dụng hình thức tín dụng không cần bảo đảm. Ngược lại, nếu khách hàng không đạt được những tiêu chuẩn như trên thì ngân hàng sẽ áp dụng hình thức tín dụng có bảo đảm. Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát). Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được giải ngân trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Khi ngân hàng giải ngân cho một doanh nghiệp, cá nhân hay một tổ chức kinh tế nào đó một khoản tín dụng trong một thời hạn nhất định thì khi đến kỳ đáo hạn thì người vay phải hoàn trả lại cho Ngân hàng cả vốn và lãi. . Quy trình tín dụng ngân hàng: Hoạt động kinh doanh ngân hàng trong những năm gần đây đã có nhiều thay đổi. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh doanh ngân hàng đã có những bước phát triển mới. Với phương pháp công nghệ hiện đại, ngân hàng đã tiếp cận các khách hàng của mình với chi phí giao dịch thấp và cung cấp được nhiều loại hình sản phẩm và dịch vụ tài chính hơn so với trước. Tuy nhiên sự mở rộng hoạt động luôn tiềm ẩn những rủi ro, vì vậy cần có các biện pháp để hạn chế và kiểm soát rủi ro. Mội trong những biện pháp đó là thiết lập một quy trình tín dụng chặt chẽ để hướng dẫn các nhân viên tín dụng và các bộ phận có liên quan thực hành việc cho vay nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, với mỗi ngân hàng khác nhau, với mỗi loại khách hàng khác nhau, với mỗi thời kỳ khác nhau thì quy trình tín dụng được áp dụng là khác nhau. Nhưng nhìn chung quy trình tín dụng bao gồm các bước sau. Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng Trong tập hồ sơ này khách hàng phải cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết liên quan đến việc xin cấp tín dụng bao gồm: Những tài liệu chứng minh năng lực pháp lý của khách hàng: Giấy tờ chứng nhận tư cách pháp nhân: giấy phép thành lập, đăng kí kinh doanh, quyết định bổ nhiềm giám đốc, điều lệ hoạt động... (đối với các doanh nghiệp). Đơn đề nghị cấp tín dụng của khách hàng Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch vay, trả nợ Báo cáo tài chính thời điểm gần nhất Hợp đồng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh cùng các giấy tờ gốc có liên quan đến sở hữu tài sản đảm bảo Các giấy tờ khác có liên quan Trong giai đoạn này số lượng giấy tờ trong tập hồ sơ nhiều hay ít phụ thuộc vào một số yếu tố sau. Loại khách hàng: Ngân hàng thường xuyên phân biệt hai nhóm khách hàng: khách hàng đã thiết lập quan hệ tín dụng với ngân hàng và khách hàng quan hệ lần đầu tiên. Thông thường, khách hàng quan hệ lần đầu với ngân hàng phải cung cấp một số lượng đáng kể dữ liệu thông tin về bản thân mình. Tuy nhiên, loại chủ thể cũng ảnh hưởng đến số lượng giấy tơ trong hồ sơ như: là cá nhân thì vấn đề sẽ đơn giản hơn rất nhiều so với khách hàng là doanh nghiệp, trong khi đó khách hàng doanh nghiệp thì lại còn phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp: công ty tư nhân, công ty trách nhiêm hưu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh.... Loại và kỹ thuật cấp tín dụng Đối với khách hàng có tín nhiệm chưa cao hay chưa an toàn thì ngân hàng sẽ áp dụng loại tín dụng có baỏ đảm và tuỳ theo loại hình bảo đảm mà lượng giấy tờ pháp lý có liên quan đến bảo đảm tín dụng cũng khác nhau. Quy mô tín dụng Hồ sơ đề nghị cấp tín dụng còn phụ thuộc vào qui mô nhu cầu về vốn tín dụng của khách hàng. Tức là, yêu cầu về thông tin từ hồ sơ tín dụng sẽ lớn hơn khi mà qui mô tín dụng được cấp lớn. Bước 2: Phân tích tín dụng Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiên tại và tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn. Mục đích của việc phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng và tìm cách hạn chế các rủi ro đó, cũng như dự kiến các biện pháp phòng ngừa. Mặt khác, phân tích tín dụng giúp ngân hàng kiểm tra tính chính xác của các thông tin do khách hàng cung cấp từ đó có nhận định đúng về khách hàng. Ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách hàng từ các nguồn: Hồ sơ đề nghị cấp tín dụng của khách hàng Hồ sơ lưu trữ tại ngân hàng, hoặc từ các ngân hàng khác, đặc biệt từ trung tâm phòng ngừa rủi ro của hệ thống các định chế tài chính trung gian. Các cơ quan chức năng: thuế, pháp luật... Các ấn bản kinh tế, báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Trực tiếp phỏng vấn khách hàng cũng như nhân viên của khách hàng. Thông tin để phâp tích tín dụng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc thành đạt của giai đoạn này. Để có được thông tin chính xác đầy đủ ngân hàng đã tạo thông tin, tức thu thập thông tin sơ cấp (tức là những thông tin chưa được tiết lộ rộng rãi). Đây là nét đặc thù của hoạt động kinh doanh trong nghề ngân hàng so với các ngành nghề kinh doanh khá. Nội dung phâp tích tín dụng: Phân tích phi tài chính là phâp tích các yếu tố ít hoặc không liên quan tới vấn đề tài chính cuả khách hàng một cách trực tiếp. Nó bao gồm: phân tích kiểm tra tính pháp lý của khách hàng, phân tích tính cách của khách hàng, uy tín của khách hàng trong kinh doanh, khả năng và uy tín của hội đồng quản trị và ban điều hành, nghiên cứu triển vọng của khách hàng đặc biệt là trên thương trường xu hướng phát triển của ngành/vùng và các chiến lược phát triển của ngành trong thời gian tới.... Phân tích tài chính: là phân tích hiện trạng tài chính và các dự báo về tài chính trong tương lai của khách hàng nhằm tìm kiếm và dự đoán các trường hợp xấu có thể xẩy ra, làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Nó bao gồm: phân tích hệ số tài chính, phân tích lưu chuyển tiền tệ, phân tích các dự báo tài chính. Thực chất ở đây là ngân hàng đi xác định về số lượng của nhu cầu vay vốn tín dụng (quy mô tín dụng) hợp lý của khách hàng. Bên cạnh đó, trong quá trình phân tích tài chính, ngân hàng cũng sẽ xác định thời hạn hợp lý cho khoản vay (thời hạn cho vay được coi là khoản thời gian từ lần đầu phát tiền vay (giải ngân) cho đến khi khách hàng thanh toán xong khoản tiền vay cả gốc và lãi). Cơ sở để xác định thời hạn cho vay là tính chất luân chuyển vốn của phương án sản xuất kinh doanh và phương án tài chính hoặc chu kỳ ngân quỹ của khách hàng. Hơn nữa thời hạn cho vay không được vượt quá thời hạn tối đa, mà ngân hàng qui định cho từng loại đối tượng vay cũng như mỗi ngành, nghề của khách hàng. Tổ chức việc phân tích tín dụng: Phân tích tín dụng là một khâu rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến việc ra quyết định tín dụng chính xác hay không, vì vậy phải phân định rõ trách nhiệm của những người tham gia vào giai đoạn này. Cách thứ nhất là giao cho một hay một số người thực hiện toàn bộ các nội dung phân tích: cách này có ưu điểm là quá trình phân tích được liên tục, có hệ thống, tiện lợi trong những trường hợp nhu cầu vốn của khách hàng nhỏ, sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí cho việc phân tích. Nhưng nó mang tính chủ quan cao do phụ thuộc vào trình độ, bản lĩnh của người phân tích. Cách thứ hai: chuyên môn hóa các nội dung phân tích, và giao cho những chuyên gia đảm nhiêm. Cách này có ưu điểm là chuyên môn hoá cao, tránh được những sai sót do khiếm khuyết trong nghiệp vụ, đặc biệt như các mảng phân tích thủ tục pháp lý của hồ sơ vay và tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó cách này đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cá nhân hoặc phòng ban tham gia phân tích để đảm bảo tính hợp lý. Tính hệ thống và kịp thời. Để có tính hợp lý các nhà quản trị phải biết cách vận dụng trong từng điều kiện cụ thể. Việc mỗi nhân viên hay nhiều người cùng tham gia vào thực hiện một nội dung phân tích tuỳ thuộc vào quy mô của nhu cầu đề nghị cấp tín dụng, cung như mực độ phức tạp của việc phân tích như: nhu cầu tài trợ dài hạn thường đòi hỏi độ an toàn cao hơn khoản ngắn hạn nên cần thiết phải xử lý một lượng lớn thông tin. Do đó sự tham gia của nhiều người trong thẩm định là rất cần thiết, bảo đảm tính chính xác, khách quan và nhanh chóng. Bước 3: Quyết định tín dụng: Ra quyết định tín dụng như thế nào? chấp thuận hay không chấp thuận là công việc cực kỳ quan trọng. No không những ảnh hưởng đến tiến trình hoạt động của khách hàng, mà nó còn ảnh hưởng đến cả uy tín của ngân hàng. Trong thực tế ngân hàng rất sợ gặp hai loại sai lầm: Thứ nhất: là ra quyết định chấp thuận mà sau đó khách hàng lại không có khả năng trả nợ. Trường hợp này ngân hàgn có thể bị giảm bớt lợi nhuận, thậm chí mất vốn, giảm uy tín. Thứ hai: là quyết định không chấp thuận khách hàng có khả năng hoàn trả vốn tín dụng đúng hạn. Trong trường hợp này thiệt hại từ phía ngân hàng cũng đáng kể: tức là ngân hàng mất cơ hội tăng thu nhập, mất đi một khách hàng - cơ hội mở rộng ảnh hưởng/ thị phần của mình và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Các cơ sở để ra quyết định trong giai đoạn này là: Các thông tin từ giai đoạn trước chuyển sang. Thông tin cập nhật từ thị trường, các cơ quan có liên quan. Chính sách tín dụng của ngân hàng, những quy định hoạt động tín dụng của nhà nước. Nguồn cho vay của ngân hàng khi ra quyết định Kết quả thẩm định bảo đảm tín dụng, thường ngân hàng chỉ thẩm định bảo đảm tín dụng trong trường hợp xét thấy có thể chấp nhận yêu cầu tín dụng của khách hàn, vì chi phí cho việc này rất là tốn kém cho cả ngân hàng và khách hàng. Quyền phán quyết tín dụng ở ngân hàng thường do những nhân viên có trình độ, có kinh nghiệm và có uy tín tại ngân hàng. Việc phân công, phân nhiệm vụ phụ thuộc vào chính sách và phương pháp quản trị của mỗi ngân hàng. Có thể tập trung quyền ra quyết định tín dụng cho một người (giám đốc) hay tập thể (hội đồng quản trị...). Cách này có lợi thế là dễ điều hành vốn, dễ điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo mục tiêu sẵn. Tuy nhiên sẽ rất khó khăn nếu ngân hàng có một số lượng khách hàng xin cấp tín dụng cùng một lúc và nó cũng rất dẫn đến việc tiêu cực (quan liêu), nó cũng có thể tạo ra tính ỷ lại cho các nhân viên cấp dưới khi tham gia thẩm định đặc biệt là không phân rõ ràng được trách nhiệm của các cá nhân tham gia vào quá trình thành quyết tín dụng do vậy cách này chỉ thích hợp với các ngân hàng nhỏ, khách hàng không quá nhiều và đội ngũ nhân sự có trình độ thấp, thiếu kinh nghiệm. Cách thứ hai, thường gặp trong hoạt động tín dụng ngày nay là cách phân quyền bằng quy định các cức phán quyết tín dụng cho từng nhân viên. Trong luật tổ chức tín dụng của Việt nam cũng quy định về nguyên tắc phân định trách nhiệm ở điều 53 có nêu mức phán quyết phụ thuộc vào: Kinh nghiệm của nhân viên Thời hạn cấp tín dụng Loại cho vay: chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, có bảo đảm/ không có bảo đảm Đồng tiền cấp (nội tệ hay ngoại tệ) Đối với cách phân quyền này nhà quản trị phải xác định rõ kinh nghiệm và trình độ của các nhân viên tham gia vào giai đoạn này. Từ đó quy định số tiền tối đa mà họ có quyền quyết định. Mức độ phán quyết sẽ tăng lên theo trình độ của các nhân viên. Phân quyền phán quyết sẽ phát huy tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của các nhân viên, giảm sức ép lên nhà quản trị, giảm thời gian lưu trữ hồ sơ, tạo cơ sở kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng. Những khoản tín dụng lớn thường được hội đồng tín dụng xem xét và quyết định. Hội đồng tín dụng gồm những người có kinh nghiệm, năng lực trong tín dụng ngân hàng. Trước khi kết thúc giai đoạn này, nhà quản trị còn phải tính giá cả, chi phí cho khoản tín dụng này nếu được chấp thuận, định lượng những rủi ro có thể xảy ra để dự kiến thu nhập có được từ khoản tín dụng này. Về nguyên tắc, trên cơ sở lãi suất cơ bản tại ngân hàng (là lãi cho vay ngắn hạn áp dụng với khách hàng đạt tiêu chuẩn cao nhất) và loại rủi ro khách hàng được đánh giá ở giai đoạn trước, trong quá trình cập nhật thông tin mà người có thâmư quyền sẽ ra quyết định về lãi suất áp dụng với khoản tín dụng đó. Việc áp dụng lãi suất thả nổi hay cố định phụ thuộc vào chính sách quản trị rủi ro của ngân hàng. Thường lãi suất cố định được áp dụng với khoản tín dụng ngắn hạn. Kết thúc giai đoạn này được đánh dấu bởi các văn bản thể hiện kết quả ra quyết định tín dụng Nếu từ chối ngân hàng phải có văn bản thông báo và nêu lý do từ chối, và người ra quyết định tín dụng phải ghi ý kiến từ chối lên giấy đề nghị cấp tín dụng. Nếu chấp thuận ngân hàng sẽ ký kết hợp đồng tín dụng cùng với hợp đồng có liên quan tới bảo đảm tín dụng nếu có. Bước 4: Giải ngân: là nghiệp vụ áp tiền cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết theo hợp đồng. Giải ngân phải đảm bảo nguyên tắc vận động của tín dụng gắn liền vận động của hàng hoá. Hay nói cách khác, việc phát tiền vay phải có hàng hoá đối ứng, phù hợp với mục đích vay của hợp đồng tín dụng. Mặc dù giải ngân là cấp tiền cho người đi vay, nhưng phương thức giải ngân phụ thuộc vào nội dugn cam kết của hợp đồng tín dụng. Theo tính chất nghiệp vụ, giải ngân có thể chia làm hai loại: Thứ nhất - giải ngân là nghiệp vụ cấp tiền thuần tuý. Theo loại này thì ngân hàng chỉ thuần tuý cấp tiền cho khách hàng trong phạm vi mức tín dụng đã ký kết mà không đòi hỏi thêm những điều kiện đặc biệt nào. Loại giải ngân này thường được áp dụng trong cho vay tiêu dùng (thông qua thẻ tín dụng...) hay cho vay hộ sản xuất với mức tín dụng cấp không lớn. Thứ hai - giải ngân là quyết định cho vay phu kèm theo với việc cấp tiền. Khi hợp đồng tín dụng có quy định những điều kiện ràng buộc cho việc giải ngân, thì có thể xảy ra các tình huống sau: Ngân hàng có thể từ chối cấp tiền vay mặc đù đã ký hợp đồng tín dụng. Đó là những trường hợp ngân hàng thoả thuận những điều kiện để đảm bảo môi trường tốt cho khoản tín dụng. Như những vấn đề có liên quan đến chính sách đầu tư, thuế có liên quan đến doanh nghiệp và lĩnh vực kinh doanh của họ, hay những điều kiện về vốn đối ứng. Ngân hàng chỉ cấp tiền vay theo các quy định của hợp đồng tín dụng, đây là những trường hợp cấp vốn theo nhãng điều khoản ràng buộc trong hợp đồng. Trong trường hợp những điều kiện ràng buộc đã nêu trong hợp đồng chưa được thực hiện thì việc giải ngân cũng chưa được tiến hành. Phương pháp giải ngân: Trong cho vay để mua tồn kho, máy móc thiết bị hay các tài sản khác phương pháp giải ngân của ngân hàng là trả thẳng cho đơn vị bán dựa trên cơ sở các chứng từ cung cấp hàng hóa. Đây là phương pháp giải ngân cơ bản của ngân hàng. Phương pháp này sẽ gặp rủi ro khi chững từ mua hàng khống. Để hạn chế, ngân hàng phải kiểm tra chứng từ và các thông tin khác có liên quan. Khi cho vay để thực hiện các dự án đầu tư, việc giải ngân căn cứ vào khối lượng xây lắp đã hoàn thành. Việc phát tiền vay dựa trên cơ sở biên bản nghiệp thu hoàn thành công trình, hoặc hạn mục công trình. Nếu đó là một công ty bên ngoài nhận thầu thì việc giải ngân được trả thẳng cho đơn vị thi công. Đối với các kỹ thuật chiết khấu, factoring, cho vay theo tỷ lệ hàng tồn kho, khoản phải thu, việc giải ngân được thực hiện bằng cách chuyển vào tài khoản tiền gửi thanh toán của người đi vay. Trong cho vay để mua hàng nông sản, thuỷ hải sản của cá nhân và hộ gia đình ngân hàng giải ngân theo tiến trình mua hàng. Cơ sở của việc giải ngân dưa theo mức độ tồn kho hàng hoá và biên bản kiểm tra tồn kho của ngân hàng. Ngoài ra, đối với khoản cho vay nhỏ của ngân hàng sẽ giải ngân bằng tiền mặt như cho vay hộ nông dân hay cho vay cá thể buôn bán tại chợ... Cơ sở để ngân hàng thực hiện việc giải ngân là kế hoạch sử dụng vốn tín dụng đã được nêu trong hợp đồng tín dụng. Về nguyên tắc nhân viên giải ngân không phải là người ra quyết định tín dụng để bảo đảm an toàn và dễ kiểm soát. Bước 5: Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng Giai đoạn giám sát tín dụng sẽ được tiếp nối với mục tiêu theo dõi, đánh giá mức độ chấp hành hợp đồng tín dụng của khách hàng và kịp thời có các xử lý thích hợp. Mục tiêu của giám sát tín dụng là kiểm tra việc thực hiện các điều khoản đã cam kết theo hợp đồng tín dụng Khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích không? Kiểm soát mức độ rủi ro tín dụng phát sinh trong quá trình sử dụng vốn tín dụng Theo dõi thực hiện các khoản cụ thdẻ đã thoả thuận trong hợp đồng, kịp thời phát hiện những vi phạm và có cách xử lý thích hợp. Theo dõi và ghi nhân việc thực hiện quy trình tín dụng của các bộ phân, cá nhân có liên quan tại ngân hàng. Phương pháp giám sát: 1. Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng: qua hoạt động của tài khoản tiền gửi và tài khoản vay sẽ phản ánh tình hình tiêu thụ sản phẩm, lưu chuyển tiện tệ, sử dụng vốn vay và trả nợ. Việc biến động bất thường của tài khoản sẽ phản ánh những khó khăn trong quản trị tài chính, như khi tài khoản vãng lai luôn dư nợ là dấu hiệu khách hàng có khó khăn trong cho trả, qua đó ngân hàng sẽ là tuỳ theo các dấu hiệu mà có hướng kiểm soát trọng tâm. 2. Phân tích báo cáo tài chính theo định kỳ: đối với khách hàng vay thường xuyên (thấu chi, thẻ tín dụng ...) hoặc thời gian vay tương đối dài ngân hàng sẽ yêu cầu gởi báo cáo tài chính định kỳ để ngân hàng phân tích kịp thời, phát hiện được những thay đổi đáng chú ý trong khả năng trả nợ của khách hàng. 3. Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động kinh doanh/ nơi cư trú của khách hàng đi vay: khi viếng thăm khách hàng trong thời gian vay vốn sẽ cho chúng ta những thông tin bổ ích, như sự duy trì ý muốn trả nợ của khách hàng, thực trạng tổ chức sản xuất kinh doanh, thực trạng dự trữ tồn kho, chất lượng tài sản bảo đảm. 4. Kiểm tra các bảo đảm tiền vay: Đối với tài sản thế chấp ngân hàng kiểm tra việc sử dụng tài sản hợp lý đúng như cam kết trong hợp đồng. Việc kiểm tra được thực hiện bằng cách kiểm tra tại chỗ hiện trạng của tài sản và thông qua các báo cáo thường kỳ của khách hàng về tình trạng của tài sản. Khi kiểm soát nhân viên giám sát phải làm báo cáo công việc và nếu thấy những dấu hiệu vi phạm phải trình quản trị để có biện pháp kịp thời xử lý ngăn chặn. Trong trường hợp tài sản bị rủi ro như cháy, sạt lở, giá trị thường biến động mạnh thì ngân hàng phải kịp thời điều chỉnh hợp đồng cho phù hợp với điều kiện mới. Đối với tài sản cầm cố ngân hàng cần phân biệt: chấp hữu hay vật hữu. Nếu cầm cố tài sản chấp hữu những tài sản bảo đảm vẫn do khách hàng vay sử dụng và khai thác (dây chuyền sản xuất, máy móc phương tiện vận tải...) ngân hàng kiển tra tương tự như với tài sản thế chấp. Bên cạnh đó cần quan tâm đến vấn đề an toàn tài sản như phòng cháy, chống trộm cắp, đóng bảo hiểm... Nếu là cầm cố vật hữu đặc biệt tại kho của khách hàng hoặc của bên thứ ba, ngân hàng phải chú ý đến tính bảo toàn và giá trị và toàn vẹn về vật chất. Đối với bảo đảm bằng bảo lãnh ngân hàng cần thu thập những thông tin có liên quan đến người bảo lãnh đặc biệt là về uy tín của họ. Nhìn chung người bảo lãnh được ngân hàng coi là khách hàng vì vậy việc giám sát cũng giống như khách hàng đi vay. 5. Giám sát hoạt động khách hàng thông qua các mối quan hệ với các khách hàng khác: Với những khách hàng khác đây là giám sát thông qua tài khoản hoặc cho vay, qua đó cũng thể hiện tình hình hoạt động của khách hàng đi vay như tiến độ mua/bán hàng hóa, khả năng thanh toán, mức độ kỷ luật hợp đồng, tính trung thực trong các báo cáo tài chính/phương án kinh doanh. 6. Giám sát những thông tin khác: Ngân hàng phân tích những thông tin từ trung tâm phòng ngừa rủi ro, từ các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan thuế, toà án... Thu nợ: khách hàng có trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng đúng hạn và đầy đủ như trong cam kết theo hợp đồng. Tuỳ theo tính chất mà có nhiều phương pháp thu nợ khác nhau. Thu nợ gốc và lãi một lần ở kỳ khạn trả nợ cuối cùng Thu nợ gốc một lần và lãi nhiều lần Thu nợ gốc và lãi nhiều lần Thường ngân hàng sẽ theo dõi lịch trả nợ theo các nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng. Trước ngày đáo hạn trả nợ ngân hàng thường thông báo cho khách hàng biết về số tiền mà khách hàng phải trả và ngày thanh toán. Đối với những khoản tín dụng được thu hồi đầy đủ khi đáo hạn cả nợ gốc và lãi thì coi như nghĩa vụ của khách hàng với ngân hàng đã hoàn thành, và ngân hàng sẽ làm thủ tục giải chấp tài sản thế chấp hoặc giải toả tài sản cầm cố, lập biên bản giao nhận tài sản, giấy tờ, đồng thời tất toán tài khoản vay, chuyển hồ sơ tín dụng vào lưu kho. Đối với những khoản tín dụng thu theo kỳ hạn, thu lãi và gốc có lúc tách rời, nhân viên ngân hàng phải theo dõi lịch trả nợ thường xuyên có thông tin qua lại giữa nhân viên kế toán với nhân viên tín dụng. Một số biện pháp ngân hàng thường áp dụng trong giám sát thu nợ: Điều chỉnh kỳ hạn bằng cách nhập vào kỳ sau hoặc điều chỉnh hợp đồng về kỳ hạn trả nợ Chuyển nợ quá hạn khoản đến hạn chưa trả được Coi các kỳ hạn sau đó đều đến hạn và chuyển nợ quá hạn toàn bộ số nợ còn lại Khi đáo hạn do những nguyên nhân khách quan mà khách hàng không trả nợ đầy đủ và đúng hạn, nếu có nhu cầu và hội đủ các điều kiện, ngân hàng có thể xét gia hạn nợ (gia hạn nợ là ngân hàng chấp nhận kéo dài thêm thời gian cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng). Đảo nợ: là ký hợp đồng tín dụng mới để hoàn trả hợp đồng cũ. Phương pháp này chỉ áp dụng cho một số trường hợp nhất định, như ngân hàng cho vay ngắn hạn thuộc đối tượng cho vay trung, dài hạn do ngân hàng không có đủ nguồn vốn để cung ứng, hay nhu cầu quản trị danh mục cho vay của ngân hàng phải cấu trúc lại nợ. Phân loại tín dụng ngân hàng Phân theo mục đích vay Cho vay bất động sản: tức là cho vay nhằm mua, xây dựng bất động sản, nhà ở, đất đai.... Cho vay cộng nghiệp và thương mại là cho vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp khu vực cộng nghiệp và thương mại dịch vụ Cho vay nông nghiệp là cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón .... Cho vay định chế tài chính (financial institusion loans): cấp tín dụng ngân hàng, công ty tài chính , thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và định chế khác... Cho vay cá nhân Cho thuê Phân theo thời hạn tin dụng Cho vay ngắn hạn: là khoản cho vay có thời gian dưới 12 tháng Cho vay trung hạn là khoản tín dụng có thời hạn từ 12 đến 60 tháng Cho vay dài hạn là khoản tín dụng có thời hạn trên 60 tháng Phân theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng Cho vay không có bảo đảm (cho vay theo hình thức tín chấp). Đây là hình thức mà Ngân hàng áp dụng đối với các khách hàng có độ tín nhiệm cao. Tức là khách hàng này có mối quan hệ với Ngân hàng lâu năm và có uy tín đối với cả Ngân hàng và cả đối với các khách hàng mà họ đặt mối quan hệ. Trả nợ sòng phẳng cả vốn và lãI khi đến hạn không chây ỳ, chiếm dụng vốn của Ngân hàng. Cho vay có bảo đảm. Các khoản tín dụng mà khách hàng được Ngân hàng chấp thuận (ký kết hợp đồng tín dụng) thì kèm theo với nó phải là hợp đồng thế chấp tài sản hay hợp đồng cầm cố giấy tờ có giá ngắn hạn.. Đây là những tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của khách hàng vay vốn đem đến Ngân hàng để thế chấp cho khoản vay của mình Phân theo phương pháp hoàn trả Cho vay có thời hạn Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ (trả góp) Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà nó phụ thuộc vào tính chất của người đi vay Cho vay không có thời hạn cụ thể Phân theo xuất xứ tín dụng Cho vay trực tiếp Cho vay gián tiếp: mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh mà còn trong thời hạn tín dụng Chiết khấu thương phiếu Mua các phiếu hàng bán (deader paper) tiêu dùng và máy móc trả góp Nghiệp vụ factoring đây là nghiệp vụ mua lại các khoản nợ thương mại, trong đó bên mua (factor) nhận việc thu hồi nợ và chấp nhận rủi ro. Factoring thực chất là hình thức tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp. Bảo đảm tín dụng và các hình thức bảo đảm tín dụng . Bảo đảm tín dụng Bảo đảm tín dụng hay còn gọi là bảo đảm tiền vay là việc bảo vệ quyền lợi của người cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc sở hữu của ngươì đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Các ngân hàng và các định chế tài chính coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Trong cho vay kinh doanh, nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu thực tế đối với cho vay ngắn hạn, từ khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung và dài hạn. Trong cho vay tiêu dùng,nguồn thu nợ thứ nhất từ thu nhập cá nhân: tiền lương công nhân viên, các khoản thu nhập tài chính và các khoản thu nhập khác.... . Các đặc trưng cơ bản của bảo đảm tài sản Nói chung bất kỳ tài sản hay quyền về tài sản được phép giao dịch mà có khả năng tạo ra lưu chuyển tiền tệ đều có thể dùng làm bảo đảm. Tuy nhiên nhìn từ góc độ của người cho vay thì tài sản bảo đảm có các đặc trưng cơ bản sau. Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm Nó có ý nghĩa là thúc dục người vay khi đến hạn phải trả nợ cả vốn và lãi nếu không họ sẽ mất tài sản (tài sản này có giá trị lớn hơn giá trị của vốn vay). Nhưng nếu tài sản này nhỏ hơn giá trị của khoản vay thì họ dễ có động cơ không trả nợ. Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ Mức độ thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của người cho vay. Mức độ thanh khoản thấp hay tài sản khó bán thì ngân hàng khó chấp nhận. Mức độ thanh khoản trung bình thì có thể chấp nhận nhưng phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý. Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về xử lý tài sản . Các hình thức bảo đảm tín dụng Thế chấp tài sản Thế chấp tài sản là việc bên đi vay dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình hoặc quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghiã vụ đối với bên cho vay. Thế chấp bất động sản : nhà ở, các cơ sở sản xuất kinh doanh như nhà máy, khách sạn, nhà kho, của hàng..... và các tài sản khác gắn liền với đất đai. Ngoài ra kể cả hoa lợi, lợi tức, khoản tiền bảo hiểm và các quyền phát sinh từ bất động sản thế chấp. Giá trị quyền sử dụng đất: Thế chấp pháp lý và thế chấp công bằng Thế chấp pháp lý là hình thức thế chấp mà trong đó người đi vay thoả thuận chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng khi không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Thế chấp công bằng (thế chấp thông thường) là hình thức thế chấp mà trong đó ngân hàng chỉ nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm cho khoản vay. Khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng thì việc xử lý phải dựa trên cơ sở thoả thuận giữa hai bên hoặc nhờ đế toà án nếu có tranh chấp. Thế chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai Thế chấp thứ nhất là việc thế chấp tài sản để bảo đảm cho món nợ thứ nhất. Thế chấp thứ nhất không có nghĩa là lần đầu tiên đem tài sản đi thế chấp cho một khoản vay, mà nó được xác định trong mối tương quan giữa các khoản vay có thế chấp, tức là việc sử dụng tài sản làm bảo đảm cho nhiều khoản vay và thế chấp cho khoản vay thứ nhất được gọi là khoản thế chấp thứ nhất. Thế chấp thứ hai là hình thức thế chấp, trong đó người đi vay sử dụng phần giá trị chênh lệch giữa giá trị tài sản thế chấp và khoản vay thứ nhất được bảo đảm bằng tài sản đó để bảo đảm cho khoản nợ thứ hai. Trong xử lý tài sản thế chấp để thực hiện nhiều nghĩa vụ ta cần chú ý: Trong trường hợp phải x._.ử lý tài sản thế chấp để thanh toán một khoản nợ đến hạn, thì các khoản nợ khác tuy chưa đến hạn, nhưng cũng được coi là đến hạn. Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký thế chấp. Theo qui định hiện hành thế chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai chỉ được thực hiện tại một tổ chức tín dụng. Thế chấp trực tiếp và thế chấp gián tiếp Thế chấp trực tiếp (thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay ngân hàng) là hình thức thế chấp mà tài sản thế chấp do vốn vay tạo ra. Ví dụ ngân hàng hàng cho vay để mua một căn nhà và dùng chính căn nhà đó để thế chấp với ngân hàng. Còn với thế chấp trực tiếp chỉ áp dụng với cho vay trung và dài hạn đối với các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống và khách hàng đi vay phải thoả mãn các điều kiện sau: Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ Có dự án khả thi Có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay tối thiểu phải bằng 50% vốn đâu tư của dự án. Thế chấp gián tiếp là hình thức thế chấp mà trong đó tài sản thế chấp và tài sản dùng vốn vay để mua là khác nhau. Thế chấp toàn bộ và thế chấp một phần bất động sản Theo quy định của pháp luật thì người đi vay có thể thế chấp toàn bộ bất động sản hoặc thế chấp một phần. Nhưng trong thực tế thì các ngân hàng thường nhận thế chấp toàn bộ bất động sản. Thế chấp một phần chỉ áp dụng trong trường hợp phần tài sản thế chấp có thể phát mại riêng mà không ảnh hưởng đến quyền lợi của bên nhân thế chấp. Đối với các tài sản gắn liền với đất như nhà ở, các công trình xây dựng chỉ được nhân thế chấp cùng với giá trị quyền sử dụng đất. Cầm cố tài sản Cầm cố tài sản là việc bên đi vay giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tài sản cầm cố là động sản bao gồm: Tài sản thực như xe cộ, máy móc, hàng hoá, vang, tàu biển, máy bay, các loại khác... Tiền: tiền mặt, tiền trên tài khoản Giấy tờ có giá: cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu... Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả: quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác... Lợi tức và các quyền phát sinh từ các tài sản cầm cố Cầm cố tài sản cũng bao gồm cầm cố công bằng va pháp lý, cầm cố thứ nhất và thứ hai, cầm cố trực tiếp và gián tiếp. Bảo lãnh Bảo lãnh là việc bên thứ ba cam kết với bên cho vay sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay nêú khi đến hạn mà bên đi vay không thực hiên được như trong hợp đồng tín dụng đã ký kết. Bảo lãnh có bảo đảm bằng tài sản hoặc bằng uy tín. Bảo lãnh có bảo đảm bằng tài sản là bên bảo lãnh phải có tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Đây là hình thức bảo đảm kép, nhằm đề phòng khi người bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ thì Ngân hàng có thể xử lý tài sản kèm theo bảo lãnh. Bảo lãnh bằng uy tín là hình thức bảo lãnh chỉ dựa vào uy tín của người bảo lãnh. Bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Bảo lãnh riêng biệt và bảo lãnh duy trì. Bảo lãnh riêng biệt được áp dụng cho một số tiền vay cụ thể theo hợp đồng tín dụng và được hạch toán tiêng trên tài khoản cho vay. Bảo lãnh duy trì là bảo lãnh cho một loạt các giao dịch và mực bảo lãnh theo hạn mức tối đa (áp dụng cho loại hình cho vay thấu chi trên tài khoản vãng lai). Cho vay thế chấp tài sản Trong cho vay thế chấp tài sản cũng bao gồm những bước như trên nhưng nó cũng có sự khác biệt. Giám định tính chất pháp lý về quyền sở hữu tài sản hoặc quyền sử dụng đất. Việc xác định tính chất pháp lý về quyền sở hữu tài sản hoặc quyền sử dụng đất không phải là phức tạp, nhưng trong điều kiện của Việt Nam lại xẩy ra nhiều rủi ro liên quan đến thủ tục pháp lý: Nhiều loại tài sản chưa thực hiện việc đăng ký tài sản và cấp giấy chứng nhận về quyền sở hữu tài sản như nhà ở vùng nông thôn, các cơ sở kinh doanh. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước việc thế chấp chỉ dựa trên cơ sở giấy xác nhận của cơ quan quản lý Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước chưa quản lý hết toàn bộ tài sản có đăng ký hoặc quản lý phân tán ở nhiều đơn vị. Đất được giao cho cá nhân và tổ chức sử dụng nhưng chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. . Định giá tài sản thế chấp Về nguyên tắc thì định giá tài sản thế chấp thì theo giá cả thị trường. Nếu định giá cao thì có thể khi phát mại tài sản thế chấp trong trường hợp khách hàng không trả được nợ sẽ không thu hồi được gốc, lãi và các chi phí khác. Nếu định giá thấp thì ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu cầu khách hàng và làm suy yếu tính cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng. Đánh giá tài sản là một vấn đề phức tạp. Vì vậy, để định giá chính xác phải tổ chức theo hướng chuyên môn hoá về nghiệp vụ định giá tài sản thế chấp. Đối với tài sản có giá trị lớn, phức tạp cần thiết phải thuê các tổ chức tư vấn để thực hiện việc định giá tài sản thế chấp. . Xác định số tiền cho vay tối đa so với giá trị tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp là nguồn thu thứ hai vì vậy, thông thường giá trị tài sản thế chấp khi thanh lý dưới hình thức chuyển nhượng để thu hồi nợ (hoặc phạt mại) phải lớn hơn số tiền cho vay cộng với lãi và chi phí liên quan khác. . Hợp đồng thế chấp tài sản. Hợp đồng thế chấp tài sản được lập thành văn bản (riêng hoặc ghi trong hợp đồng tín dụng). Đối với tài sản được hình thành từ vốn vay, khi tài sản đã đưa vào sử dụng các bên phải lập phụ lục hợp đồng thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, trong đó mô tả đặc điểm và xác định giá trị tài sản. Hợp đồng thế chấp có thể là hợp đồng kinh tế và cũng có thể là hợp đồng dân sự nó phụ thuộc vào bản chất pháp lý của hợp đồng tín dụng. . Thời hạn thế chấp và giải chấp. Thế chấp tài sản không có thời hạn riêng mà thời hạn của nó phụ thuộc vào thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc kinh tế được bảo đảm bằng tài sản thế chấp. Tức là , khi người vay thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp thì thời hạn thế chấp cũng chấm dứt. Cho vay cầm cố tài sản. Tại khoản 2 điều 2 nghị định 178 của Chính Phủ ngày 29/12/1999 đã nêu: cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của các TCTD mà theo đó, nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp ... từ đó ta có thể thấy được đặc trưng của việc cầm cố tài sản là giấy tờ có giá để bảo đảm tiền vay là: Chế định cầm cố tài sản nói chung , giấy tờ có giá nói riêng để bảo đảm tiền vay không phải là nghiệp vụ kinh doanh của hoạt động Ngân hàng. Tài sản cầm cố không phải là nguồn trả nợ cho Ngân hàng. Hợp đồng cầm cố tài sản được lập riêng với hợp đồng tín dụng, giá trị pháp lý của hợp đồng cầm cố còn phụ thuộc vào các ngành luật khác... Quyền sở hữu đối với tài sản cầm cố vẫn thuộc về bên cầm cố không phải của Ngân hàng. Việc xử lý tài sản cầm cố để thu hồi nợ trong trường hợp bên cầm cố không thực hiện đúng nghiệp vụ của mình như đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng không phải là hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nên không chịu thuế. Ngân hàng không có quyền đem tài sản cầm cố cầm lại cho NHNN cũng như các TCTD khác để vay vốn khi không được dự đồng ý của bên cầm cố. Thông thường có những loại tài sản dùng để bảo đảm cho nợ vay Ngân hàng như sau: . Cầm cố hàng hoá. Điều kiện cầm cố hàng hoá: Hàng hoá có giá trị ổn định Hàng hoá dễ tiêu thụ trong hiện tại và tương lai. Hàng hoá được phép lưu hàng và khách hàng được phép kinh doanh hàng hóa đó. Trên thực tế hàng hoá cầm cố bao gồm: Hàng hoá mới mua hoặc nhập khẩu: nguyên vật liệu dùng cho sản xuất kinh doanh, hàng hoá sản xuất chờ tiêu thụ hoặc xuất khẩu: máy móc, thiết bị, xe cộ mới mua hoặc đang sử dụng... . Chiết khấu ký hoá phiếu. Đây là một hình thức cho vay bảo đảm bằng quyền về tài sản xuất phát từ hợp đồng ký thác hàng hoá. Quy trình ký thác hàng hoá như sau: Giao nộp hàng hoá để lưu giữ. Công ty kinh doanh kho phát hàng biên lai – ký hoá phiếu và giao cho người ký thác. Khi người ký thác muốn nhận hàng hoá phải xuất trình đồng thời cả biên lai và ký hoá phiếu. Đây là hình thức tương đối an toàn và thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng vì: Ký hoá phiếu đại diện cho một lượng hàng hoá có thực được lưu trữ tại kho an toàn. Mặt khác, các kho hàng hoá thường xuyên được bảo hiểm đầy đủ. Ngân hàng ít bị rủi ro về hư hỏng và mất mát hàng hoá, vì tại đây đã có một đội ngũ nhân sự có năng lực về kiểm soát và bảo quản hàng. Chiết khấu ký hoá phiếu sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng thương mại có thêm nguồn vốn thông qua tái chiết khấu ở Ngân hàng Trung ương. . Cầm cố chừng khoán. Cho vay cầm cố bằng chứng khoán là một nghiệp vụ cho vay đơn giản, khách hàng chuyển giao chứng khoán cho Ngân hàng để nhận tiền vay. Khi đáo hạn khách hàng trả nợ cho Ngân hàng và nhận lại các chứng khoán đã cầm cố. Các loại chứng khoản cầm cố: Công trái. Tín phiếu kho bạc. Trái phiếu đô thị Cổ phiếu Trái phiếu công ty Các loại giấy nợ khác. Thông thường đối với các chứng khoán Nhà nước tỷ trọng cho vay so giá trị định giá cao hơn so với các chứng khoán công ty, vì đối với các chứng khoán công ty có mức rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất cao (hay các chứng khoán công ty khả năng hoàn thả thấp và giá cả biến động với biên độ cao). . Bảo đảm bằng tiền gửi. Tiền gửi dùng để bảo đảm cho khoản ứng trước của Ngân hàng chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm (kể cả chứng chỉ tiền gửi). Đây là hình thức tín dụng an toàn và ít tốn kém vì: Không cần phải định giá Chi phí phát sinh trong việc quản lý bảo đảm không đáng kể Việc xử lý tài sản để thu hồi nợ tương đối đơn giản. Bảo đảm bằng vàng. Bảo đảm bằng vàng là hình thức bảo đảm trong cho vay đối với cá nhân. Vàng dùng làm bảo đảm được ký gửi và bảo quản tại Ngân hàng. Phần lớn các Ngân hàng Việt nam đều có nghiệp vụ kinh doanh vàng, đây là, một thuận lợi cho việc phân kim và định giá vàng, làm cơ sở để xác định mức cho vay. Bảo đảm bằng các khoản phải thu. Để làm cơ sở xử lý tài sản bảo đảm tức là Ngân hàng được phép trích tài khoản để thu hồi nợ khi khách hàng không thanh toán nợ đúng hạn, hợp đồng bảo đảm tiền gửi có điều khoản uỷ quyền cho Ngân hàng được dùng tiền gửi để thu hồi nợ khi khách hàng không trả nợ đúng hạn. Với hình thức bảo đảm an toàn này là có độ an toàn không cao. Vì vậy, khi thực hiện việc cho vay có bảo đảm bằng khoản thu Ngân hàng phải nghiên cứu và đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn sau: Tính liêm khiết của khách hàng vay vôn Bản chất và đặc tính của các khoản phải thu Xác định mức độ rủi ro của các khoản phải thu để định tỷ trọng cho vay. Nếu rủi ro thấp thì tỷ trọng cho vay cao và ngược lại. Bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu. Các công ty xây dựng hoặc các công ty cung ứng thiết bị, vật tư có hợp đồng về xây dựng hoặc hợp đồng cung cấp, nếu thiếu vốn để thực hiện hợp đồng có thể nhượng lại các hợp đồng đó cho Ngân hàng để được tài trợ vốn ngắn hạn. Cho vay bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu đôi lúc cũng có rủi ro cho Ngân hàng, rủi ro này xuất phát từ: Người nhận thần không đủ khả năng thực hiện hợp đồng. Chủ đầu tư hoặc người nhận thầu chính không sẵn lòng thanh toán khi bên nhận thầu đã thực hiện theo hợp đồng. Bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Xuất phát từ việc giải quyết các tổn thất tài chính gắn liền với tử vong, thương tật và hưu trí mà phần lớn các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vừa có ý nghĩa bảo vệ rủi ro, vừa là hình thức tiết kiệm. Tính chất tiết kiệm bao gồm trong hợp đồng bảo hiểm sẽ giúp cho người hưởng thụ có một ngân quỹ trong tương lai. Nguồn ngân quỹ này chính là cơ sở bảo đảm để thực hiện các quan hệ tín dụng Cho vay bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm án dụng cho các cá nhân và trong một số trường hợp cho các doanh nghiệp nhỏ. Đây là hình thức bảo đảm tương đối tiện lợi vì tính thanh khoản cao và ít tốn kém về chi phí quản lý. Cho vay có bảo đảm bằng bảo lãnh. Xét theo khía cạnh học thuật: Bảo lãnh Ngân hàng là một hình thức tín dụng chữ ký là hoạt động không dùng đến vốn của Ngân hàng. Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam ngày 12/12/1997 quy định bảo lãnh Ngân hàng là một trong các hình thức cấp tín dụng, được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghiệp vụ đã cam kết. Trong thương mại quốc tế thì bảo lãnh Ngân hàng được xem như một loại hình tài trợ ngoại thương, nhằm chống đỡ những tổn thất của người thụ hưởng bảo lãnh do sự vi phạm nghĩa vụ của bên đối tác liên quan. Bảo lãnh có chức năng cơ bản là: Là công cụ đảm bảo: đây là chức năng qua trọng nhất của bảo lãnh. Bằng việc cam kết chi trả khi xảy ra biến cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, các Ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự bảo đảm chắc chắn cho người thụ hưởng. Là công cụ tài trợ: bảo lãnh Ngân hàng không chỉ là công cụ bảo đảm với người thụ hưởng, nó còn là công cụ tài trợ thực sự về mặt tài chính cho người được bảo lãnh. Trong rất nhiều trường hợp, thông qua bảo lãnh khách hàng không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh chóng, được vay nợ hoặc được kéo dài thợ gian thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, tiền nộp thuế... vì vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn cho khách hàng nhưng với việc phát hành bảo lãnh Ngân hàng đã giúp cho khách hàng của họ được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như khi được cho vay thực sự. Phân loại bảo lãnh. Phân theo bản chất của bảo lãnh: Bảo lãnh đồng nghĩa vụ: tức là Ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên còn nghĩa vụ của Ngân hàng là nghĩa vụ bổ sung. Bảo lãnh độc lập: tức là nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng hoàn toàn tách rời với nghĩa vụ của người được bảo lãnh và việc thực hiện thanh toán chỉ căn cứ vào những điều kiện, điều khoản quy định văn bản bảo lãnh được thoả mãn mà thôi. Phân theo mục đích của bảo lãnh: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Loại bảo lãnh này chống đỡ rủi ro cho người thụ hưởng trong trường hợp người cung cấp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng. Đây là một loại BLNH được sử dụng nhiều nhất trong thực hành và được xem như là một công cụ đối ứng với tín dụng chứng từ. Bảo lãnh hoàn thanh toán. Loại bảo lãnh này được sử dụng trong các hợp đồng thương mại, dịch vụ...mà người mua hàng hay người thụ hưởng dịch vụ đã ứng trước tiền hàng cho người bán hay người cung cấp dịch vụ. Ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra sự tin tưởng cho người mua hàng và đồng thời cũng giúp người bán thoát khỏi những kho khăn tạm thời về ngân quỹ. Giá trị của bảo lãnh hoàn thanh toán thường tương ứng với toàn bộ số tiền đã ứng trước. Bảo lãnh trả chậm: loại này được sử dụng trong các hợp đồng mua bán thiết bị hàng hoá trả chậm. Quan hệ giữa người mua và người bán thực chất là quan hệ tín dụng thương mại, theo đó người mua chấp nhận trả tiền hàng hoá theo kỳ hạn nợ cụ thể. Để bảo vệ mình trước rủi ro không thanh toán đầy đủ và đúng hạn của người mua, người bán có thể yêu cầu một bảo lãnh trả chậm của Ngân hàng. Bảo lãnh dự thầu: Mục đích của loại hình này nhằm bù đắp thiệt hại về thời gian và chi phí cho người tổ chức đấu thầu do những vi phạm của các bên đối tác như: rút đơn dự thầu, không ký tiếp hợp đồng sau khi trúng thầu, bổ sung thêm các điều kiện khi ký kết hợp đồng so với bản dự thầu ... Bảo lãnh dự thầu giúp cho khách hàng khỏi phải chi một số tiền nhất định khi dự thầu và đồng thời bảo đảm cho người chủ công trình những khoản đền bù thoả đáng trong trường hợp người dự thầu vi phạm quy định. Các loại bảo lãnh tài chính khác: Phân theo điều kiện thanh toán của bảo lãnh. Bảo lãnh trực tiếp. Là bảo lãnh mà Ngân hàng chịu trách nhiệm phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của người được bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp. Là loại bảo lãnh trong đó người được bảo lãnh sẽ yêu cầu Ngân hàng thứ nhất (gọi là Ngân hàng chỉ thị) đề nghị Ngân hàng thứ hai (gọi là Ngân hàng phát hành) đưa ra cam kết bảo lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài và Ngân hàng phát hành ở ngay tại quốc gia của người hưởng thụ. Đồng bảo lãnh. Trong một số dự án có giá trị lớn, để giảm thiểu rủi ro các Ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này là một Ngân hàng đóng vai trò đầu mối phát hàng bảo lãnh nhưng có sự tham gia của các Ngân hàng đồng minh khác. Phân theo phương thức phát hành bảo lãnh. Bảo lãnh theo yêu cầu. Là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán của nó là người thụ hưởng bảo lãnh chỉ cần xuất trình yêu cầu thanh toán cho Ngân hàng phát hành. Bảo lãnh kèm chứng từ. Đây là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán là phải có chứng từ xác nhận của bên thứ ba. Loại hình này bảo vệ quyền lợi của người được bảo lãnh tốt hơn so với bào lãnh theo yêu cầu, nhưng như vậy có nghĩa là ưu quyền của người thụ hưởng sẽ bị giảm đi. Bảo lãnh kèm phát quyết của trọng tài kinh tế hoặc toà án. Trên đây là những lý thuyết tổng quát, chung nhất về hình thức tín dụng có bảo đảm mà các ngân hàng thương mại ngày nay thường áp dụng. Để hiểu rõ hơn về nghiệp vụ này chúng ta sang nghiên cứu chương II: Thực trạng cho vay có bảo đảm tại Sở Giao Dịch I ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam. chương II: Thực trạng cho vay có bảo đảm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Khái quát chung về Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Lịch sử hình thành và phát triển: Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch một phần gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngân hàng NHĐT&PT Việt nam. Chúng ta có thể chia thành 3 giai đoạn chính sau: Giai đoạn 1957- 1990: Đây là giai đoạn hình thành và phát triển NHĐT&PT Việt nam. Ngày 26 tháng 4 năm 1957, thủ tướng chính phủ ký nghị định 177- TTG thành lập Ngân hàng kiến thiết Việt nam tại Bộ Tài Chính thay thế cho Vụ cấp phát vốn kiến thiết cơ bản. Ngân hàng có nhiệm vụ chủ yếu là thanh toán và quản lý vốn do nhà nước cấp cho kiến thiết cơ bản, nhằm thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế và hỗ trợ công cuộc chiến đấu và bảo vệ tổ quốc. Từ năm 1957-1981, ngân hàng là một cơ quan của Bộ tài chính. Thời điểm này, hoạt động của ngân hàng nặng về kiểm soát và thanh toán các công trình xây dựng cơ bản hơn là cho vay, nặng về đánh giá và quản lý trước và trong khi cung ứng vốn, coi nhẹ quản lý sau khi cung ứng vốn. Ngân hàng không mang bản chất của một Ngân hàng. Ngày 24 tháng 6 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 259 - CP về việc chuyển Ngân hàng kiến thiết Việt nam trực thuộc Bộ Tài chính thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt nam. Với quyết định này ngân hàng được tổ chức của doanh nghiệp quốc doanh, nhiệm vụ mới của ngân hàng là thu hút và quản lý các nguồn vốn dành cho đầu tư xây dựng cơ bản các công trình không do ngân sách cấp hoặc không đủ vốn tự có, đại lý thanh toán và kiểm soát các công trình thuộc diện ngân sách đầu tư. Ngân hàng vẫn chưa thực hiện nhiệm vụ kinh doanh. Ngày 14 tháng 11 năm 1990 chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ra quyết định thành lập NHĐT&PT thay thế cho ngân hàng đầu tư và kiến thiết cũ. Bây giờ ngân hàng có chức năng huy động vốn trung và dài hạn trong nước và ngoài nước và nhận vốn từ ngân sách nhà nước cho vay các dự án chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và phát triển. Giai đoạn 1991-1997: Đây là giai đoạn ra đời và tìm hướng đi cho Sở giao dịch. Căn cứ quyết định 76/ QĐ - TCCB ngày 28/3/1991 của Tổng giám đốc NHĐT&PT Việt nam về việc thành lập Sở giao dịch NHĐT&PT Việt nam. Căn cứ và Điều lệ tổ chức, hoạt động của NHĐT&PT Việt nam ban hành kèm theo quyết định 349QĐ/NH5 ngày 16/10/1997 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt nam. Trong thời gian này, Sở giao dịch NHĐT&PT Việt nam là một đơn vị phụ thuộc thực hiện cho vay, nhận gửi từ trên xuống. Mọi hoạt động của Sở giao dịch đều mang tính bao cấp thực hiện theo chỉ thị (Sở giao dịch chủ yếu cho vay đối với các dự án phát triển kinh tế do NHĐT&PT TW chỉ định) lỗ, lãi không tự hạch toán, và không tự chịu trách nhiệm. Chủ yếu do ngân hàng mẹ đỡ đầu. Giai đoạn 1998 đến nay: Đây là giai đoạn Sở giao dịch có bước chuyển biến lớn thật sự tách ra trở thành một ngân hàng hạch toán độc lập. Năm 1998- 1999, mặc dù đã chính thức được tách ra nhưng Sở giao dịch vẫn còn hạch toán phụ thuộc. Một số chỉ tiêu về hoạt động kinh doanh của Sở như: nợ, lợi nhuận, dư nợ, lương, chi phí đều do NHĐT&PT Việt nam đề ra. Cơ cấu tổ chức: Cho đến nay, Sở giao dịch gồm có 11 phòng ban, một chi nhánh Gia lâm. Hiện nay Sở có 201 cán bộ công nhân viên. Sơ đồ cơ cấu tổ chức Sở giao dịch I NHĐT&PT Ban giám đốc Tín dụng Hành Chính Kho quỹ Giao dịch Nguồn Vốn Kinh doanh Kiểm Tra Kiểm Soát Nội bộ Thanh Toán quốc tế Điện toán Quản Lý Khách Hàng Kế Toán Tài chính Chi nhánh Gia lâm Kế Toán Tín dụng Nguồn Vốn Thanh Toán Quốc Tế Hành chính Sau đây là chức năng nhiệm vụ cụ thể của từng phòng ban trong Sở Giao Dịch: Phòng tín dụng: Thực hiện việc cho vay ngắn hạn, trung, dài hạn bằng VND và ngoại tệ, bảo lãnh cho các khách hàng theo chế độ tín dụng hiện hành, đảm bảo an toàn, hiệu quả của đồng vốn. Thực hiện tư vấn trong hoạt động tín dụng và dịch vụ uỷ thác đầu tư theo quy định.. Tổ chức việc lập kế hoạch kinh doanh hàng tháng, quý năm của phòng và tham gia xây dựng kế hoạch kinh doanh của Sở giao dịch. Tổ chức thực hiện công tác khách hàng thường xuyên: phục vụ và khai thác tiềm năng của khách hàng truyền thống, mở rộng phát triển khách hàng mới. Tham mưu cho Giám đốc về chiến lược kinh doanh, chính sách khách hàng, chính sách tín dụng và chính sách lãi suất của Sở giao dịch. Bên cạnh đó, phòng tín dụng cũng hỗ trợ cho phòng nguồn vốn trong việc huy động vốn nếu có khách hàng gửi vào ngân hàng thông qua phòng tín dụng. Phòng nguồn vốn kinh doanh: Phòng nguồn vốn thực hiện việc huy động vốn từ mọi nguồn vốn hợp pháp của khách hàng như: tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn.. bằng cả VND và ngoại tệ, bên cạnh đó phòng nguồn vốn cũng thực hiện nhiệm vụ mua bán, chuyển đổi ngoại tệ va các dịch vụ ngân hàng đối ngoại khác theo quy định của tổng giám đốc, phòng tổ chức quản lý và điều hành tài sản nợ, tài sản có bằng tiền của Sở giao dịch để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, an toàn đúng quy định của pháp luật và trực tiếp thực hiện một số nhiệm vụ kinh doanh tại Sở giao dịch theo phân công. Tổ chức thực hiện công tác thẩm định kinh tế kỹ thuật và tư vấn theo yêu cầu. Tổng hợp thông tin, báo cáo thống kê - phòng ngừa rủi ro phục vụ công tác điều hành của ngành và Sở giao dịch. Phòng Tài chính Kế toán: Thực hiện hạch toán kế toán để phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời mọi hoạt động kinh doanh và các nghiệp vụ phát sinh tại Hội sở Sở giao dịch. Thực hiện báo cáo kế toán đối với các cơ quan quản lý Nhà nược theo chế độ hiện hành và cung cấp số liệu báo cáo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của Ban lãnh đạo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ban Giám đốc Sở giao dịch. Trực tiếp thực hiện kinh doanh các dịch vụ Ngân hàng như: dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ trả lương... Phòng Quản lý khách hàng: Nghiên cứu thị trường, xác định thị phần của Sở giao dịch để tham mưu cho Giám đốc xây dựng chiến lược khách hàng, định hướng phát triển nền khách hàng bền vững phục vụ kinh doanh của Sở giao dịch. Xây dựng chính sách chung đối với khách hàng, nhóm khách hàng và từng khách hàng cụ thể. Tham mưu cho Giám đốc sử dụng chính sách khách hàng linh hoạt trong các thời kỳ, giao đoạn cụ thể về lãi suất, phí, dịch vụ và các chính sách khác để đạt được hiệu quả trong kinh doanh. Phòng Thanh toán quốc tế: Thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế như mở L/C, thanh toán L/Ccho khách hàng , thực hiện dịch vụ Ngân hàng quốc tế khác... Phòng Tổ chức hành chính kho quỹ: Nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức, quản lý cán bộ, tuyển chọn nhân viên, quản lý việc thu chi các quỹ lương, thưởng... Phòng Giao dịch: Gồm có các quỹ tiết kiệm: quỹ tiết kiệm số 1 tại 35 Hàng Vôi, quỹ tiết kiệm số 2 tại 3 Hàng Vôi, quỹ tiết kiệm số 3 tại 194 Trần Quang Khải, quỹ tiết kiệm số 4, 5 tại 53 Quang Trung; chức năng huy động vốn và cho vay cầm cố chứng từ có giá. Phòng Kiểm soát nội bộ: Thực hiện công tác kiểm soát trong nội bộ các hoạt động kinh doanh tại Sở Giao Dịch theo quy chế của ngành, của pháp luật cũng như của bản thân Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Phòng Điện toán: Chịu trách nhiệm quản lý về mặt kỹ thuật các máy móc, thiết bị... của Sở Giao Dịch. Thực trạng cho vay có bảo đảm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển. Tình hình huy động nguồn và hoạt động tín dụng tại SGDI. Huy động nguồn. Với bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào trên thị trường thì vấn đề quan trọng nhất là lấy nguồn vốn kinh doanh ở đâu. Đặc biệt, với hoạt động kinh doanh Ngân hàng là kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Đi vay để cho vay (đây chỉ là một trong những hoạt động của Ngân hàng). Vậy vấn đề nguồn vốn đối với mỗi Ngân hàng là vô cùng quan trọng. Nó là công cụ điều hành, giúp ban giám đốc quản lý sử dụng vốn hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, đảm bảo an toàn nguồn vốn thanh toán, tăng thu nhập cho Ngân hàng. Nhận thức được vấn đề đó, các cấp quản lý và cán bộ trong Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển đã ra sức thúc đẩy theo chiều sâu với các khách hàng truyền thống, tìm nguồn huy động mới nhằm mở rộng quy mô huy động vốn cho Sở. Kết quả đạt được như sau: đến 31/12/2001 nguồn vốn huy động được là 6.650.856 tỷ VND tăng 24% so với năm 2000. Trong đó huy động dân cư tăng 18% tiền gửi khách hàng tăng 32%, giữ vững thị phần huy động vốn của Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển, góp phần tạo một nền vốn tương đối ổn định cho hoạt động Ngân hàng. Trong năm cùng với cả hệ thống, Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển cũng đã thực hiện phát hành trái phiếu đợt 3 năm 2001 với tổng số huy động được gần 397 tỷ VND (USA chiếm 93,4%). Đưa số dư huy động trái phiếu đạt hơn 1.138 tỷ VND (bao gồm cả ngoại tệ chuyển đổi) tăng 5% so với đầu năm, cải thiện được cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn huy động. Đạt được kết quả như trên là do thực hiện mở rộng mạng lưới huy động, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, mang tính cạnh tranh, cải tiến phương thức phục vụ khách hàng theo hướng khép kín các dịch vụ Ngân hàng, làm tốt công tác Marketing Ngân hàng. Bảng 1: Tình hình huy động vốn của SGDI qua các năm. Đơn vị: tỷ đồng. Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Tổng Chênh lệch Số tương đối (%) Tổng Chênh lệch Số tương đối (%) TGKH TG có KH TG không KH 1.156 262 894 1 485 422 1 063 329 160 169 128 161 119 1 953 633 1 320 468 211 257 132 150 124 2.TGDC Tiết kiệm Kỳ phiếu Trái phiếu 2.571 1.564 467 540 3.727 1.916 728 1.083 1.156 352 261 543 145 123 156 200 4.392 2.350 904 1.139 665 433 156 56 118 123 121 105 3. Huy động khác. 33 31 2 96 97 66 308 Tổng cộng 3.760 5.339 1.579 142 6.651 1.316 124 Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh SDGI. Qua bảng 1: Ta thấy rằng tình hình huy động vốn của Sở Giao Dịch ngày càng tăng qua các năm. Nó thể hiện năm 1999 tổng nguồn vốn huy động là 3.760 tỷ VND sang năm 2000 tăng lên 1.579 tỷ VND hay tăng 42% (tổng huy động trong năm 2000 là 5.339 tỷ VND) so với năm 1999. Tốc độ tăng này được giữ vững và có phần mở rộng thêm sang năm 2001, tổng vốn huy động là 6.651 tỷ VND tăng 24% (hay tăng 1.312 tỷ VND ) so với năm 2000. Nó thể hiện qua từng hình thức huy động sau. Với huy động nhờ tiền gửi của khách hàng: năm 2000 đạt 1.485 tỷ VND tăng 28% tương đương với 329 tỷ VND. Trong đó: Tiền gửi không kỳ hạn tăng 69% tương đương 119 tỷ VND. Tiền gửi có kỳ hạn tăng 61% tương đương 161 tỷ VND. Nhưng mức tăng này lại bị giảm sút sang năm 2001 chỉ còn 32% tương đương với 467 tỷ VND trong đó. Tiền gửi có kỳ hạn tăng 24% tương đương 258 tỷ VND. Tiền gửi không kỳ hạn tăng 50% tương đương 211 tỷ VND. Với tỷ lệ tăng không đồng đều giữa tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng làm cho tỷ trọng trong tiền gửi của khách hàng cũng thay đổi theo nó thể hiện qua Bảng 2. Bảng 2: tỷ trọng tiền gửi khách hàng. Đơn vị: tỷ đồng. Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Tổng Tỷ trọng (%) Tổng Tỷ trọng (%) Tổng Tỷ trọng (%) Tiền gửi khách hàng. TG có kỳ hạn. TG không kỳ hạn 1.156 262 894 100 23 77 1485 423 1062 100 28 72 1954 634 1320 100 32 68 Nguồn: Báo cáo tài chính Sở Giao Dịch. Qua bảng 2 ta thấy tỷ trọng của tiền gửi của khách hàng của Sở Giao Dịch có nhiều thay đổi qua các năm. Tiền gửi có kỳ hạn năm 1999 chiếm 23% nhưng sang năm 2000 tỷ trọng này là 28%. Sang năm 2001 tỷ trọng này đạt 32%. Tiền gửi không kỳ hạn năm1999 là 77% sang năm 2000 giảm xuống còn 72% và năm 2001 lại tiếp tục giảm xuống chỉ còn chiếm 68% trong tổng TGKH. Sự biến động trên có thể do một số nguyên nhân sau: Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển mạnh nhu cầu vốn lưu động lớn nên các doanh nghiệp, khách hàng có nhu cầu về tiền, vốn lưu động bất cứ lúc nào mà không thể xác định trước được nên khách hàng, doanh nghiệp thường phải gửi vào tài khoản Tiền gửi không kỳ hạn của Ngân hàng để tiện cho việc thanh toán, rút tiền bất cứ lúc nào mà khách hàng, doanh nghiệp cần. Chính sách kích cầu của Đảng, Nhà nước ta cũng tạo đà cho sự phát triển nền kinh tế, nhu cầu tiêu dùng, sản xuất, vốn cho doanh nghiệp lớn. Do vậy, tiền gửi khách hàng xu hướng nhiều là tiền gửi không kỳ hạn. Với nguồn huy động từ tiền gửi của dân cư: Năm 1999 đạt 2.572 tỷ VND sang năm 2000 đạt 3.728 tỷ VND tăng 45% (hay 1.156 tỷ VND), năm 2001 đạt 4.393 tỷ VND tăng 18% (hay 666 tỷ VND) so với năm 2000. Có thể đưa ra một số nguyên nhân làm tiền gửi dân cư của Sở Giao Dịch tăng nhanh trong những năm qua là: Ngoài những nguyên nhân khách quan là: Cơ hội đầu tư ít, lãi suất ít biến động...từ thị trường còn có những nguyên nhân sau. Sở đã khắc phục được các yếu điểm, tập trung mở rộng mạng lưới huy động. Đặc biệt chú trọng công tác Marketing khách hàng nhất là các khách hàng có tiềm năng tiền gửi lớn như Quỹ các Tổng công ty, các Công ty Bảo hiểm... áp dụng các chính sách lãi suất linh hoạt, manh tính cạnh tranh, phối hợp chặt chẽ các mặt nghiệp vụ khác với công tác huy động vốn. Nâng cao chất lượng và mở rộng dịch vụ khách hàng. Bảng 3: cơ cấu nguồn huy động theo tiền gửi dân cư. ._.ản, cần nhấn mạnh các đặc điểm sau: Phải nắm chắc về pháp luật, đặc biệt là luật kinh tế và luật dân sự. Phải nắm chắc các quy định, thể chế, vận dụng một cách linh hoạt. Phải có khả năng tổng hợp, phân tích các điều đúng, chưa đúng, chưa phù hợp của chế độ, thể lệ để kiến nghị với cấp trên. Phải có kiến thức khoa học tâm lý, trình độ ngoại ngữ và tin học. Đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng, thẩm định dự án, đề xuất với lãnh đạo ra quyết định, đồng thời theo dõi quá trình sử dụng vốn và thu nợ. Quyết định đúng sai của người lãnh đạo phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ này. Do đó ngoài tiêu chuẩn chung là trình độ kiến thức về nghiệp vụ cần đòi hỏi họ là những người trung thực, khách quan, thắng thắn, kiên định rõ ràng, có ý thức bảo vệ tài sản của Ngân hàng. Ngoài trình độ chuyên môn, cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng phải sâu sát thực tế, hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, nắm vững pháp luật và các vấn đề có liên quan. Muốn vậy ngân hàng phải thường xuyên tổ chức kiểm tra kiến thức về nghiệp vụ, pháp luật, tâm lý... và cần có khuyến khích về mặt vật chất. Xây dựng một chiến lược Marketing ngân hàng đúng đắn. Cùng với việc lập thêm phòng Marketing, cần phải xây dựng một chiến lược Marketing đúng đắn nhằm thu hút khách hàng. Để tăng quy mô tín dụng, tăng khả năng xâm nhập thị trường của ngân hàng vào một thị trường mới thì ngân hàng phải thu hút được nhiều khách hàng có quan hệ tín dụng với mình. Để làm được điều đó Sở Giao Dịch I NHĐT&PT phải xây dựng được một chiến lược Marketing đúng đắn và hấp dẫn. Cụ thể cần thực hiện các biện pháp sau: Thứ nhất: Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu nhu cầu của thị trường, cụ thể là của khách hàng về nhu cầu vay vốn và các dịch vụ khác của ngân hàng là yếu tố đầu tiên quyết định các bước tiến theo của việc xây dựng chiến lược Marketing ngân hàng. Khi khách hàng lựa chọn ngân hàng để quan hệ tín dụng khi họ quan tâm đến thái độ phục vụ, mức lãi suất, phí dịch vụ, các dịch vụ đi kèm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng... Để có được đầy đủ các thông tin về nhu cầu của thị trường, các ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu thu thập các thông tin về nhu cầu của khách hàng và nghiên cứu về các đối thủ cạnh tranh. Việc nghiên cứu nhu cầu của khách hàng nhằm trả lời câu hỏi họ cần gì ở ngân hàng, cần lúc nào? bao nhiêu? Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh tức là nghiên cứu các ngân hàng cùng tham gia vào thị trường xem xét khả năng, điểm mạnh, điểm yếu của các ngân hàng khác và các tổ chức hoạt động tín dụng. Thực hiện tốt việc này, ngân hàng mới nắm rõ được nhu cầu của khách hàng, nhìn lại chính mình để thấy rõ điểm mạnh để phát huy, điểm yếu để khắc phục và đưa ra chiến lược phát triển lâu dài trong hoạt động kinh doanh. Thứ hai. Xây dựng một chiến lược sản phẩm hấp dẫn. Một sản phẩm hấp dẫn mà khách hàng có thể tìm thấy nhiều lợi ích từ đó thì chắc chắn khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm đó. Một chiến lược sản phẩm đúng đắn sẽ thu hút được khách hàng, mở rộng được quan hệ tín dụng. Ngược lại nếu một sản phẩm không có tính hấp dẫn thì sẽ không thu hút được khách hàng. Do đó Sở giao dịch cần phải hiểu rằng, trong hoạt động của ngân hàng, rất khó có thể đưa ra được một sản phẩm mới, mà phần lớn chỉ là cải tiến, tạo ra sự khác biệt, hấp dẫn dẫn trong sản phẩm truyền thống của ngân hàng. Sự cải tiến này lại nằm trong quy định của Ngân hàng cấp trên, tuy nhiên trong tình hình hiện nay khi mà hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt thì càng buộc các ngân hàng phải có các sản phẩm và cung ứng các dịch vụ mà thị trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, đa dạng và phong phú về chủng loại. Ngân hàng ngày càng phải đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà mình cung cấp, tăng khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Sở Giao Dịch I ngày càng khẳng định vị trí của mình trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ, ngân hàng khu vực Hà Nội và các vùng phụ cận, do đó cần phải chú ý vào các điểm sau trong chiến lược sản phẩm của mình: Đa dạng hoá các hình thức tín dụng đối với cả khu vực quốc doanh và khu vực ngoài quốc doanh. Trong tương lai gần khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là khu vực kinh tế đa dạng về quy mô, ngành nghề sản xuất kinh doanh. Vì vậy nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời hạn vay, phương thức trả vốn và lãi vay là không giống nhau. Chính vì vậy để đạt được mục tiêu thoả mãn đồng thời lợi ích của khách hàng và của ngân hàng, ngân hàng phải đưa ra các hình thức tín dụng phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Ngoài cách cho vay theo truyền thống qua việc đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cần phải phát triển mạnh mẽ các hình thức cho vay khác như: - Cho vay đảm bảo bằng các khoản thu. Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người mua chịu làm cho các doanh nghiệp này bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động bằng cách cho vay một khoản tín dụng ngắn hạn dựa theo tỷ lệ phần trăm so với khoản thu. Các doanh nghiệp phải trình đầy đủ các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu các khoản thu của mình. Hình thức hùn vốn đầu tư liên doanh liên kết với khách hàng. Đây là một hình thức rất mới để giúp ngân hàng mở rộng tín dụng, không nhất thiết phải cho vay mà tìm trong số khách hàng của mình các doanh nghiệp làm ăn có hiêụ quả, có hiệu quả, có triển vọng thì ngân hàng ký thoả thuận liên doanh liên kết để cùng sản xuất kinh doanh. Bằng hình thức này ngân hàng không những mở được tín dụng của mình mà còn có điều kiện để xâm nhập thị trường, từ đó tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp. Vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn vay vừa có thu nhập cao do là người trực tiếp đầu tư. Với sự giúp đỡ của các nhân viên ngân hàng, chắc chắn doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả. Tổ chức dịch vụ: “Cung cấp tín dụng tại nhà”. Đây là dịch vụ mà chưa có một ngân hàng nào cung ứng. Nhưng thiết nghĩ các doanh nghiệp buôn bán, sản xuất sản phẩm thuần tuý đã thực hiện cung cấp sản phẩm tại nhà, hay cung cấp theo yêu cầu của khách hàng với dịch vụ vận chuyển. Điều này tạo ra một bước ngoặc mới trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt và tín dụng ngân hàng là sản phẩm mang tính đặc biệt và tín dụng ngân hàng là sản phẩm mang tính đặc biệt, thì tất nhiên ngân hàng cũng có thể làm dịch vụ cung cấp tín dụng tại nhà. Thực hiện cấp tín dụng tại nhà sẽ giúp được ngân hàng xem xét được tận nơi cơ sở vật chất, trong thiết bị của doanh nghiệp, có điều kiện đánh giá về tình hình làm ăn của khách hàng. Mặc dù chi phí cho khoản vay này sẽ cao hơn bình thường song nó đảm bảo chắc chắn, ít rủi ro do nắm được cơ bản tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, hơn nữa chắc chắn loại hình này nếu được áp dụng sẽ đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng. Tiến hành phân loại khách hàng để cho vay. - Đơn vị xếp loại A: Là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định có lãi trong 2 năm gần đây nhất, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước và không có nợ quá hạn đối với Ngân hàng. Nếu các doanh nghiệp thuộc loại này có phương án khả thi thì có thể cho vay ưu tiên về thủ tục, lãi suất hoặc có thể cho vay bằng tín chấp. - Đơn vị xếp loại B: Là những doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh doanh không ổn định uy tín trên thị trường chưa cao. Đối với các doanh nghiệp này nên cho vay trên cơ sở cầm cố thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ 3. - Đơn vị xếp loại C: Là những đơn vị kinh doanh thua lỗ, không có biện pháp khắc phục, quan hệ dây dưa với các ngân hàng, thường xuyên có nợ quá hạn tại ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp này không nên tiếp tục cho vay đồng thời tìm mọi biện pháp để thu hồi nợ quá hạn. Tất nhiên đây chỉ là một cách phân loại tạm thời, không phải là một khuôn mẫu cứng nhắc. Tiến hành phân loại theo các tiêu thức khác nhau cho phù hợp. Cần có các dịch vụ kèm theo sản phẩm chính của chi nhánh, thông thường đó là dịch vụ tư vấn. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất cần sự tư vấn của chi nhánh vì khả năng quản lý, trình độ lập dự án và kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này còn rất hạn chế và kém bén nhạy trên thị trường, không có khả năng dự đoán về những biến động. Dịch vụ tư vấn ở ngân hàng đã có nhưng mức độ chưa đạt được như mong muốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Để thu hút các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về quan hệ với chi nhánh cần phải tổ chức một dịch vụ tư vấn khách hàng thật tốt về tất cả mọi lĩnh vực: tư vấn về thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, quản lý quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực khác. Muốn cho có một dịch vụ tư vấn thì Sở Giao Dịch I cần phải có một đội ngũ cán bộ thật sự hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực để có thể tư vấn cho khách hàng. Điều đó sẽ giúp khách hàng làm ăn có hiệu quả hơn cũng như tránh được rủi ro có thể xảy đến cho ngân hàng và ngày càng gây uy tín cho khách hàng, thu hút được khách hàng. Thứ 3: Xây dựng một chính sách giá cả linh hoạt. Lãi suất được coi là giá cả của sản phẩm tín dụng của ngân hàng. Đối với ngân hàng giá mua chính là chi phí của các yếu tố đầu vào mà chủ yếu là lãi suất huy động. Giá bán chính là lãi suất cho vay. Chênh lệch về giá thành là lợi nhuận của ngân hàng. Đối với khách hàng họ sẽ chọn mức lãi suất nào mang lại nhiều lợi ích cho họ nhất. Lợi ích của khách hàng và của ngân hàng về cơ bản là trái ngược nhau. Vấn đề quan trọng là phải biết kết hợp hài hoà sao cho hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên việc xác định mức lãi suất cho vay ra cũng như lãi suất huy động vào lại phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy Sở cần có chính sách lãi suất đảm bảo đồng thời lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và theo luật pháp quy định. Điều này rất khó đạt được và lại càng khó đảm bảo khi Sở giao dịch đang chú ý đến việc thu hút khách hàng. Để tăng cường thu hút khách hàng mở rộng quy mô tín dụng thì Sở giao dịch phải tính đến một mức lãi suất cho vay thấp hơn, linh hoạt hơn và phải hy sinh một phần lợi nhuận của mình. Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo mức vay vốn và thời hạn vay. Chẳng hạn nếu mức vay của khách hàng lớn thì mức lãi suất cho vay có thể nhỏ hơn. Về cơ bản, lãi suất cho vay ngắn hạn phải thấp hơn lãi suất chung và dài hạn. Ví dụ nếu khách hàng vai từ 1 đến 3 tháng với khối lượng vay lớn thì có thể lãi suất giảm xuống thấp hơn một chút so với lãi suất cho vay ngắn hạn. Chính sách cho vay lãi suất này sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn và thực tế lợi nhuận của ngân hàng sẽ lớn hơn so với một chính sách giá cả cứng nhắc. Thứ tư: Xây dựng chiến lược khách hàng. Muốn mở rộng hoạt động tín dụng thì Sở giao dịch cần phải có một chiến lược khách hàng lâu dài. Chiến lược ấy phải gắn bó với lợi ích của khách hàng. Việc xây dựng chiến lược khách hàng cần phải thực hiện các vấn đề sau: - Ngân hàng phải được uy tín với khách hàng trong việc đảm bảo an toàn tín dụng, hẫp dẫn về lợi ích vật chất, áp dụng chính sách không phân biệt về lãi suất giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tiếp tục duy trì chế độ ưu đãi đối với các doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng lớn và thực hiện qua hệ sòng phẳng với ngân hàng. - Hỗ trợ, tư vấn cho khách hàng, khơi dậy khả năng và nhu cầu của khách hàng tiềm năng. - Thực hiện đa dạng hoá các khách hàng theo hướng: duy trì và củng cố quan hệ tín dụng với các khách hàng đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để giúp cho hoạt động tín dụng ổn định với các doanh nghiệp này. Mở rộng thêm các mối quan hệ với các khách hàng mới để tăng thêm thị phần. Thực hiện chính sách lôi cuốn và hẫp dẫn khách hàng đồng thời vẫn bảo đảm được nghĩa vụ đối với khách hàng. Thứ năm: Xây dựng chính sách giao tiếp khuyếch chương. Ngân hàng cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo các chính sách, chế độ, thể lệ cho vay tới khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay thực tế Sở Giao Dịch chưa chú trọng tới việc này nên nhiều đơn vị kinh tế nghĩ rằng việc vay của ngân hàng rất khó vay về thủ tục thời gian hơn nữa họ cũng không hiểu về các hình thức mà Sở giao dịch đang áp dụng cho vay về thời gian, lãi suất từ đó Sơ giao dịch bị mất khả năng được lựa chọn làm cho đơn vị tài trợ cho khách hàng. Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt nên để thúc đẩy hoạt động có hiệu quả hơn, Sở giao dịch cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo để các doanh nghiệp nắm bắt được chủ trương chính sách đổi mới đối với các thành phần kinh tế. Cho khách hàng biết được những áp dụng cơ chế tín dụng mới, thể lệ cho vay mới theo cơ chế thị trường để khách hàng thấy được thiện chí của Sở giao dịch, thấy được những lợi ích trong quan hệ với Sở giao dịch . Hiện nay, Sở Giao Dịch I hoạt động theo phương thức bị động tức là nếu có khách hàng đến xin vay thì cán bộ tín dụng xem xét, thẩm định và quyết định có cho vay hay không. Do đó ít có cơ hội gặp được khách hàng tốt. Nên trong phòng Marketing của Sở giao dịch được mở, và cử một số cán bộ Marketing làm nhiệm vụ Marketing cho hoạt động của Sở giao dịch, giúp Sở giao dịch chủ động tìm kiến khách hàng từ đó tăng tính hiệu quả cho hoạt động tín dụng. Phòng Marketing trong Sở giao dịch không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền quảng cáo mà quan trọng hơn là tìm hiểu về khách hàng, phân loại khách hàng, lựa chọn một số đối tượng khách hàng làm đối tượng chính để tiếp cận. Cũng từ việc tìm kiếm, nghiên cứu về khách hàng, hiểu rõ các nhu cầu của khách hàng, phòng Marketing đưa ra các giải pháp, chiến lược như chiến lược sản phẩm, chiến lược lãi suất, nhằm tạo ra một sự khác biệt trong ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh. Từ đó thoả mãn tốt nhất nhu cầu, cơ hội lựa chọn tốt cho khách hàng, cuốn hút khách hàng. Nâng cao chất lượng thẩm định trước khi đưa ra quyết định cho vay. Thực hiện đúng quy trình thẩm định dự án, nâng cao chất lượng thẩm định trước khi quyết định cho vay là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao qui mô tín dụng đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng. Để làm được điều đó, việc thẩm định dự án phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn thông tin khác nhau để đối chiếu, đảm bảo tính chính xác của nguồn thông tin thu nhận được, xử lý các thông tin đó để có các căn cứ ra quyết định có cho vay hay không. Trong quá trình thẩm định 5 điều kiện quan trọng mà cán bộ ngân hàng đòi hỏi phải có từ khách hàng xin vay là: * Tư cách pháp lý. * Tình hình hoạt động kinh doanh, kết quả hoạt động kinh doanh trong 2 năm gần nhất. * Khả năng quản lý, điều hành của chủ các doanh nghiệp. * Khả năng về tài chính, tài sản thế chấp. * Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh. Trong các điều kiện mà khi thẩm định, đánh giá, cần phải đưa ra xem xét kỹ các vấn đề. - Về tư cách pháp lý: đó là việc căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập. - Qua các báo cáo tài chính thường kỳ của doanh nghiệp kết hợp với sự thanh tra, giám sát của cán bộ chuyên môn để đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng quản lý tài chính của chủ doanh nghiệp. - Về vấn đề tài sản thế chấp: hiện nay các ngân hàng coi tài sản thế chấp như là một "bảo bối" khi quyết định cho vay. Bởi vì họ luôn có tư tưởng rằng cho vay bằng tài sản thế chấp là an toàn nhất. Bởi khả năng phát mại tài sản để thu hồi phần nợ không đòi được từ khách hàng. Nhưng chính việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp đã gây ra những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của ngân hàng cả về quy mô lẫn chất lượng tín dụng.Bởi vì có rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh có phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng do không có tài sản thế chấp hoặc có nhưng các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu không rõ ràng. Mặt khác chính bản thân tài sản thế chấp cũng có chứa đựng nhiều rủi ro khi có biến động về giá. Hơn nữa các chi phí khi tiến hành phát mại tài sản làm cho số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bị giảm đi rất nhiều. Do đó chi nhánh cần phải nhìn lại vấn đề tài sản thế chấp. Coi đó là điều kiện bất đắc dĩ trong đòi hỏi từ khách hàng chứ không phải là một nguyên tắc đúng đắn. Đây là một vấn đề quan trọng cần quan tâm để có quan điểm đúng đắn về tài sản thế chấp. - Về việc thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh. Đây là khâu chủ chốt và quan trọng bậc nhất đối với ngân hàng nhằm đạt hiệu quả mong muốn cũng như phòng tránh rủi ro. Trong khi vấn đề tài sản thế chấp đang còn nhiều vướng mắc, thì việc căn cứ vào tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh để ra quyết định cuối cùng là điều hết sức cần thiết. Vì vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thực sự có năng lực, kinh nghiệm đánh giá xem xét tính khả thi của dự án trên toàn bộ các phương diện, kỹ thuật, tài chính, kinh tế xã hội để đưa ra những quyết định đúng đắn. Ngoài ra thông qua quá trình thẩm định, cán bộ ngân hàng có thể tư vấn thêm cho khách hàng các vấn đề có liên quan đến tính khả thi của dự án, phòng tránh rủi ro cho cả khách hàng và ngân hàng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, ngân hàng cũng phải chú trong tới công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ bảo đảm nghiêm túc các điều kiện, yêu cầu của quy trình tín dụng. Tiến hành kiểm soát ở các 3 giai đoạn: trước, trong và sau khi quyết định cho vay đối với khách hàng. Đặc biệt trong giai đoạn thu nợ không nên cứng nhắc dập khuôn mà phải thực sự hợp tác với người vay. Thu thập đầy đủ các thông tin về khách hàng. Yêu cầu của các ngân hàng là phải nắm bắt đầy đủ các thông tin về khách hàng vay do đó việc tìm hiểu đầy đủ các thông tin về khách hàng là điều hết sức quan trọng. Nó góp phần giảm bớt các rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Trên thực tế có thể tìm thấy thông tin về các doanh nghiệp qua các luồng sau: - Thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, tivi... - Thông tin qua các cơ quan quản lý nhà nước như cơ quan thuế, hải quan từ trung tâm thông tin tín dụng. - Thông tin từ các đối tác làm ăn với các doanh nghiệp. - Thông tin từ các trung tâm tư vấn cho các doanh nghiệp, từ các ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với doanh nghiệp. - Thông tin từ bản thân doanh nghiệp. Để nắm bắt được các thông tin này một cách chính xác, Sở cần phải tiến hành một số giải pháp sau: - Tạo mối quan hệ mật thiết gắn bó với các trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp. - Thường xuyên thông tin với trung tâm thông tin tín dụng để biết được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Tiến hành các cuộc thảo luận, các hội nghị khách hàng để nắm bắt được nhiều thông tin. - Thu thập từ nhiều nguồn khác như: sách, báo, tivi... Ngoài các giải pháp chính trên, Sở Giao Dịch I cần có các giải pháp khác để như: Một là: Hiện đại hoá cơ sở vật chất trang thiết bị nhằm phục vụ tốt hơn nữa nhiệm vụ kinh doanh như: đầu tư thêm máy tính và các phần mềm ứng dụng cũng như các máy móc chuyên dụng để tăng chất lượng phục vụ của dịch vụ chuyển tiền, tiền gửi, rút tiền tự động... hay đầu tư mua sắm, xây dựng các phương tiện như két bạc, nhà kho nhằm bảo quan tài sản cầm cố cho khách hàng một cách tốt nhất. Hai là, thiết lập các mối quan hệ với các ngân hàng khác trên cùng khu vực để có cơ hội tiếp cận, học hỏi và cho vay hợp vốn... Ba là, tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nhằm đảm bảo hơn nữa chất lượng tín dụng. Bốn là. Để tăng cường và mở rộng dịch vụ bảo lãnh phải nghiên cứu xây dựng quy trình tiên tiến, nhanh gọn, mức phí hợp lý, lấy doanh số bảo lãnh làm cơ sở để tăng thu phí cũng như tạo ra được tiền đề cho tăng trưởng tín dụng, không nặng về lệ phí. Năm là: phải làm tốt công tác tư vấn, cung cấp các thông tin chính xác trong phạm vi cho phép giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp được bảo lãnh, kiên quyết không thoả hiệp với khách hàng để phát hành bảo lãnh khi biết trước được có rủi ro bằng phương pháp thuyết phục. Sáu là: Để mở rộng tín dụng có bảo đảm (tài sản thế chấp là bất động sản)thì Ngân hàng cần phải đưa ra quy trình đánh giá, định giá tài sản thế chấp một cách nhanh nhất, chính xác nhất, tạo điều kiện thuận lợ cho khách hàng khi thế chấp vay vốn. Bẩy là: Ngân hàng cần mở rộng thêm các hình thức cầm cố như: cầm cố bảo hiểm nhân thọ, hợp đồng nhận thầu… Để tăng doanh số của nghiệp vụ cho vay cầm cố và làm tăng khả năng ảnh hưởng của Sở giao dịch lên thị trường hiện nay. Kiến nghị. . Kiến nghị với Nhà nước. Mặc dù, Nhà nước đã có nhiều cự đổi mới trong công tác làm luật và ban hành các văn bản pháp quy nhưng vẫn còn thiếu đồng bộ, nhất quán trong các văn bản. Và nó là nguyên nhân dẫn đến tâm lý e ngại sẽ gặp nhiều bất lợi về mặt pháp lý khi các Ngân hàng muốn đơn giản hoá các thủ tục cho vay, đầu từ, bảo lãnh… xin đơn cử ra đây một dẫn chứng: Tại điều 10 NĐ 165/1999/NĐ- CP ngày 19/11/1999 có quy định “ hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng biệt hoặc ghi trong hợp đồng”. Nhưng tại khoản 6 mục 2 chương II Thông tư 06/2000/TT- NHNN1 ngày 4/4/2000 của Ngân hàng Nhà nước lại quy định “Hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh phải lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng tín dụng, đối với hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản phải lập thành văn bản riêng”. Với hai điều nêu trên thì các Ngân hàng thương mại sẽ chọn Thông tư 06 để áp dụng cho đỡ phiền phức về mặt hợp lý. Vì vậy, sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng thương mại. Vậy khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các quy định có liên quan đến hoạt động của Ngân hàng thương mại hay các quy định về hoạt động cho vay có bảo đảm cần chú ý đến sự nhất quán, đồng bộ giữa các văn bản. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước. Hiện nay luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng đã thực sự đi vào nền kinh tế. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện các luật này tại các ngân hàng và các tổ chức không phải là ngân hàng còn đang gặp nhiều khó khăn. Ngân hàng Nhà nước cần có các văn bản hướng dẫn, phối hợp cùng với các ngân hàng thương mại tiến hành cụ thể hoá, áp dụng nó vào thực tiễn để pháp huy tính đúng đắn của hai Bộ luật này. Đồng thời quá trình thực hiện nó sẽ giúp cho các ngân hàng thương mại và ngân hàng Nhà nước nhận thấy những ưu điềm để phát huy, hạn chế để khắc phục và sửa chữa. Thêm vào đó thị trường tài chính chưa phát triển một cách toàn diện, hoàn chỉnh Nhà nước chỉ mới có pháp lệnh về thị trường chứng khoán, các công ty cho thuê tài chính. Vì vậy cần phải xem xét, xây dựng các bộ luật như luật chứng khoán và thị trường chứng khoán... trình Chính phủ xem xét và thông qua nhằm tạo điều kiện phát triển thị trường tài chính một cách hoàn chỉnh. Hiện nay các ngân hàng chủ yếu là thiếu vốn chung và dài hạn mặc dù đã có quy định cho phép chuyển một phần vốn ngắn hạn sang cho vay chung và dài hạn. Tuy nhiên nhu cầu vốn trung và dài hạn vẫn còn rất lớn để đầu tư vào các cơ sở hạ tầng... Việc hoàn thiện các văn bản sẽ góp phần vào việc tăng trưởng nguồn vốn chung và dài hạn cho các ngân hàng. Điều đó góp phần đáp ứng nhu cầu vốn chung và dài hạn của nền kinh tế. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác nhằm chấn chỉnh những sai sót, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, phòng ngừa các tổn thất... Trong đó phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với các ngân hàng thương mại chấp hành tốt và các ngân hàng thương mại vi phạm quy định. Cần có các biện pháp và chủ trương thiết thực hỗ trợ các ngân hàng thương mại khai thông tồn đọng nợ quá hạn tại các ngân hàng thương mại. Điều chỉnh, bổ sung các nghị định liên quan đến việc xử lý nợ quá hạn. Có giải pháp rất điểm nhanh gọn bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng đối với các khoản nợ khê đọng, đặc biệt là nợ phát sinh trước luật công ty và luật phá sản. Với nghiệp vụ tín dụng dưới hình thức cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn cũng chỉ được nêu tại khoản 5 điều 57 Luật các tổ chức tín dụng “ việc chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác để cấp tín dụng trong hệ thống tổ chức tín dụng do NHNN quy định”. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước nhanh chóng ban hành văn bản dưới luật để các Ngân hàng thương mại sơm đưa nghiệp vụ này vào thực hiện. Ngân hàng Nhà nước cũng cần quy định rõ về một hạn mức cho vay đối với nghiệp vụ bảo lãnh.Để các Ngân hàng thương mại lấy căn cứ xét duyệt, phát hành thư bảo lãnh. 3.3.3. Kiến nghị đối với NHĐT&PT Việt Nam. Tổ chức giải quyết các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động của Sở giao dịch như việc phê duyệt mức cho vay vượt quyền phán quyết, khi tái thẩm định các dự án đầu tư... Hỗ trợ Sở Giao Dịch I trong việc lắp đặt trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình hoạt động như hệ thống máy tính, máy rút tiền tự động, nối mạng trong toàn bộ ngân hàng... Đặc biệt là trợ giúp về kinh phí và kỹ thuật trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ ngân hàng cho các cán bộ nhân viên Sở Giao Dịch I. Thường xuyên kết hợp với NHĐT&PT tổ chức các buổi thảo luận, hội nghị, nghiên cứu khoa học để vừa nắm được các thông tin về tình hình hoạt động của ngân hàng, vừa cung cấp thêm các kinh nghiệm kiến thức quý báu trong quá trình hoạt động. Phối hợp chặt chẽ với ngân hàng Nhà nước tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin rủi ro, thông tin tín dụng nhằm ngày càng nâng cao chất lượng tín dụng, giúp Sở giao dịch phòng ngừa rủi ro. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh các sai sót phòng ngừa rủi ro... kết luận Hình thức tín dụng có bảo đảm đã và đang dữ một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại hiện nay. Hơn nữa, nó còn là một trong những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất hiện nay nó gắn chặt trách nhiệm của người đi vay đối với khoản tín dụng của mình hay đối với ngân hàng vay (Thường thì các ngân hàng đánh giá tài sản thế chấp bao giờ cũng nhỏ hơn giá trị thực của nó, và vì vậy mà khách hàng sẽ có sự so sánh về khoản tín dụng mình được vay và giá trị tài sản thế chấp mà mình thế chấp cho ngân hàng, như vậy sẽ có trách nhiệm hơn với khoản vay). Bên cạnh đó thì khi khoản tín dụng đó có vấn đề (có nguy cơ không thu được vốn và lãi) thì tài sản thế chấp sẽ là nguồn thu thứ hai cho ngân hàng để bù đắp lại khoản vốn mà ngân hàng đã cho doanh nghiệp vay. Đối với hình thức cho vay cầm cố các giầy tờ có giá ngắn hạn thì ngân hàng không mấy quan tâm đến khách hàng kinh doanh mặt hàng gì mà chỉ quan tâm đến tính chất pháp lý của lượng giấy tờ có giá mà khách hàng mang đế cầm cố. Hình thức này thì hầu như ngân hàng ít gặp rủi ro trừ trường hợp cán bộ ngân hàng không thẩm định kỹ tính chất pháp lý của các giấy tờ đó. Qua việc phân tích thực trạng tình hình cho vay có bảo đảm tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đâu tư & phát triển Viên Nam và đưa ra những biện pháp có tính thiết thực nhằm mở rộng hình thức tín dụng này tại Sở qua đó ta thấy được tầm quan trọng của hình thức tín dụng này trong hoạt động kinh doanh ngành ngân hàng hiện nay. Mục lục: Lời nói đầu. 1 Chương I: Tổng quan về tín dụng ngân hàng. 3 1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng. 3 1.1.1. Khái niệm tín dụng. 3 1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng 3 Quy trình tín dụng ngân hàng: 4 Phân loại tín dụng ngân hàng 15 Bảo đảm tín dụng và các hình thức bảo đảm tín dụng 17 1.3.1. Bảo đảm tín dụng 17 1.3.2. Các đặc trưng của tài sản bảo đảm 17 1.3.3. Các hình thức bảo đảm tín dụng 18 1.4. Cho vay thế chấp tài sản 21 1.4.1. Giám định tính chất pháp lý về quyền sở hữu tài sản hoặc quyền sử dụng đất. 21 1.4.2. Định giá tài sản thế chấp 22 1.4.3. Xác định số tiền cho vay tối đa so với giá trị tài sản thế chấp. 22 1.4.4. Hợp đồng thế chấp tài sản 22 1.4.5. Thời hạn thế chấp và giải chấp. 23 1.5. Cho vay cầm cố tài sản. 23 1.5.1. Cầm cố hàng hoá 24 1.5.2. Chiết khấu ký hoá phiếu. 24 1.5.3. Cầm cố chừng khoán. 25 1.5.4. Bảo đảm bằng tiền gửi. 25 1.5.5. Bảo đảm bằng vàng 26 1.5.6. Bảo đảm bằng các khoản phải thu. 26 1.5.7. Bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu. 26 1.5.8. Bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. 27 1.6. Cho vay có bảo đảm bằng bảo lãnh. 27 Chương II: Thực trạng cho vay có bảo đảm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. 31 2.1. Khái quát chung về Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: 31 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển: 31 2.1.2. Cơ cấu tổ chức: 32 2.2. Thực trạng cho vay có bảo đảm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển. 35 2.2.1. Tình hình huy động nguồn và hoạt động tín dụng tại SGDI. 35 2.2.2. Tình hình cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại Sở Giao Dịch I 46 2.2.3. Nghiệp vụ bảo lãnh 55 2.2.4. Cho vay cầm cố tài sản. 60 2.3. Đánh giá hoạt động cho vay có bảo đảm tại Sở Giao Dịch. 62 2.3.1. Thành tựu. 62 2.3.2. Một số mặt chưa đạt được trong năm qua. 64 Nguyên nhân 65 Chương III: Một số biện pháp nhằm mở rộng hình thức tín dụng có bảo đảm tại Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. 67 3.1. Phương hướng, nhiệm vụ kinh doanh năm 2002: 67 3.1.1. Thuận lợi. 67 3.1.2. Khó khăn 67 3.1.3. Phương hướng: 69 3.2. Giải pháp. 71 3.2.1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ chi nhánh. 71 3.2.2. Xây dựng một chiến lược Marketing ngân hàng đúng đắn. 73 3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định trước khi đưa ra quyết định cho vay. 78 3.2.4. Thu thập đầy đủ các thông tin về khách hàng. 80 3.3. Kiến nghị. 82 3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước 82 3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước. 83 Kiến nghị đối với NHĐT&PT Việt Nam 84 Kết luận 85 Tài liệu tham khảo 1. Sách Tài chính doanh nghiệp (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) 2. Sách Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính. Tác giả Frederic S. Mishkin. 3. Sách Ngân hàng thương mại. Tác giả Edward W. Reed và Ed.ward K. Gill. 4. Sách Ngân hàng thương mại. Tác giả Lê Văn Tư. 5. Luật các tổ chức tín dụng và Luật ngân hàng Nhà nước. 6. Quy chế cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng. 7. Quy định cho vay đối với khách hàng Sở Giao Dịch I 8. Quy định về phân cấp quyền phán quyết mức cho vay tối đa đối với một khách hàng Sở Giao Dịch I 9. Các báo cáo hoạt động kinh doanh của Sở Giao Dịch I 10. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Thị trường tài chính... các năm 1999 , 2000 & 2001. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0217.doc
Tài liệu liên quan