Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành xi măng

Lời mở đầu Nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang hoạt động theo cơ chế thị trường mở ra một thời kỳ mới đầy cơ hội song cũng muôn vàn thách thức cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các ngành ở Việt Nam. Một tất yếu khách quan, một đòi hỏi cấp thiết trong nền kinh tế thị trường đối với mọi thành phần hoạt động kinh tế đó là cạnh tranh. Cạnh tranh giữa doanh nghiệp với doanh nghi

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp, cạnh tranh giữa các ngành rộng hơn nữa, cạnh tranh giữa các nước với nhau. Sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt hơn bởi các doanh nghiệp không bao giờ chỉ thoả mãn với phần thị trường đã chiếm lĩnh được vì như vậy đồng nghĩa với sự diệt vong mà luôn luôn tìm cách vươn lên để mở rộng thị trường. Để đạt được điều này các doanh nghiệp phải có sức cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả phải luôn luôn nỗ lực hết mình để xây dựng một chiến lược cạnh tranh với công cụ và biện pháp thích hợp nhằm tăng sức cạnh tranh. Trong điều kiện hội nhập nền kinh tế, nền kinh tế Việt Nam nói chung và từng ngành kinh tế cụ thể đang phải đương đầu với không ít khó khăn. Tại cuộc hội thảo về hội nhập thương mại toàn cầu tổ chức tháng 10/1999 tại thành phố Hồ Chí Minh học giả Kenichi Ohno thuộc viện nghiên cứu Ngân hàng phát triển Châu á đã chọn ngành xi măng Việt Nam làm một điển hình phân tích. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế mở cửa với sự đầu tư ồ ạt của nước ngoài vào Việt Nam ngành xi măng Việt Nam đang và sẽ phải chấp nhận sự cạnh tranh quyết liệt giữa một bên là Tổng công ty xi măng Việt Nam (chủ quản là Bộ xây dựng) một bên là các liên doanh nước ngoài tại Việt Nam và rộng hơn nữa là ngành xi măng của khu vực. Chính vì thế em đã chọn đề tài. "Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành xi măng" làm đề tài nghiên cứu của mình". Đề án gồm ba phần: Phần I: Lý luận chung về cạnh tranh. Phần II: Thực trạng ngành xi măng Việt Nam. Phần III: Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty xi măng và của toàn ngành xi măng Việt Nam. Đây là một đề tài rộng song với sự cố gắng của bản thân đề án được hoàn thành nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp và sự chỉ bảo của các thầy cô. Phần I Lý luận chung về cạnh tranh I-/ Tính tất yếu và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. 1-/ Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường ba vấn đề kinh tế cơ bản sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai được giải quyết thông qua thị trường. Thông qua các mối quan hệ cung cầu, giá cả và cạnh tranh mà quyết định nên sản xuất những mặt hàng gì, với số lượng bao nhiêu, kỹ thuật công nghệ nào và kết quả sản xuất ấy phân phối cho ai. Một điều tất yếu và là đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường đó là: bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia hoạt động kinh doanh một loại hàng hoá nào đó trên thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh là quy luật trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh không phải là cuộc chạy đua một lần mà là một quá trình liên tục. Đó là cuộc chạy "Maraton kinh tế" không có đích cuối cùng, ai cảm thấy đã đến đích người đó là nhịp cầu cho các đối thủ khác vượt lên. Chạy đua kinh tế phải luôn ở phía trước để tránh những trận đòn của người phía sau. Đã tham gia hoạt động kinh tế thì không thể lẩn tránh cạnh tranh. Vì như vậy là cầm chắc sự phá sản, sự diệt vong. Theo Marx "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch". Theo từ điển kinh doanh cạnh tranh trong cơ chế thị trường định nghĩa là: "sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình. Có thể hiểu cạnh tranh theo một nghĩa chung nhất là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong giành giật thị trường và khách hàng. Thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường. Đối với người mua thì muốn mua được loại hàng hoá dịch vụ chất lượng cao, giá rẻ. Còn ngược lại các doanh nghiệp bao giờ cũng muốn tối đa hoá lợi nhuận của mình. Vì mục tiêu lợi nhuận, họ phải giảm chi phí và tìm cách giành giật khách hàng và thị trường về phía mình. Và kết cục là cạnh tranh xảy ra. Cạnh tranh là một điều tất yếu của thị trường, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng linh hoạt sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu. Nếu như lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh bắt buộc họ phải tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả nhằm thu được lợi nhuận tối đa. ở Việt Nam, cùng với sự chuyển đổi kinh tế, cạnh tranh được thừa nhận là một quy luật kinh tế khách quan và được coi là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức điều hành kinh tế ở từng doanh nghiệp. Chính vì vậy cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường, là phương thức hoạt động của thị trường. Nói đến thị trường là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế. Mọi quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp phải tuân theo quy luật cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trường hay có thể nói: cơ chế thị trường là vũ đài của cạnh tranh, là nơi gặp gỡ của các đối thủ cạnh tranh (các doanh nghiệp) mà kết quả là một doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường trong khi một số doanh nghiệp vẫn tồn tại và phát triển hơn nữa. Điều này đặt ra cho các doanh nghiệp đang yếu kém và lúng túng phải nhanh chóng thích nghi, nếu thích nghi được thì đó là cơ hội để phát triển và ngược lại, nếu không thích nghi được thì đấy là dấu hiệu của sự phá sản. Vì vậy trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đạt được một trình độ cạnh tranh cao là con đường đảm bảo chắc chắn cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối cao và duy nhất trong kinh doanh của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa vì đó là thu nhập hiện tại của mỗi doanh nghiệp và là tiền đề để hiện đại hoá và phát triển doanh nghiệp, tạo thu nhập trong tương lai cho họ. Bên cạnh đó trên thị trường có rất nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại hàng hoá, cạnh tranh trên thị trường là không tránh khỏi vì đó là cuộc cạnh tranh vì lợi ích vật chất giữa các doanh nghiệp với nhau. Cạnh tranh lành mạnh là một động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, tiến bộ khoa học kỹ thuật là điều kiên để phát triển tính tháo vát năng động nhạy bén và sáng tạo của các doanh nghiệp. 2-/ Vai trò của cạnh tranh đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh là một tất yếu trong nền kinh tế thị trường và là cơ chế vận động thị trường .Cơ chế thị trường là giải pháp tốt để giải quyết các vấn đề kinh tế vì nó có khả năng để lập lại trật tự kinh tế, nhất là nó tạo cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn luôn tìm cách để cải tiến lề lối làm việc, phát huy những kinh nghiệm thành công khắc phục những thất bại để phát triển xã hội. Kỹ thuật hệ thống thị trường có tính năng động uyển chuyển tự điều chỉnh được, tự sửa chữa được những yếu kém. Cơ chế thị trường thể hiện những mặt ưu việt đó một phần là do cạnh tranh giữ một vai trò quan trọng. - Thứ nhất cạnh tranh làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống. Khi đối đầu với cạnh tranh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có ý thức hạ giá bán của hàng hoá dịch vụ mà mình cung cấp thấp hơn hoặc bằng giá của đối thủ với mục đích, lôi kéo khách hàng và mở rộng thị trường. Cùng với hạ giá là sự tăng lên của chất lượng hàng hoá dịch vụ để ngày càng phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng. - Thứ hai, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh. Để giảm giá bán và tối đa hoá lợi nhuận các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào để sao cho chi phí sản xuất là thấp nhất. Trong điều kiện có cạnh tranh các nguồn lực được sử dụng một cách tốt nhất, tiết kiệm nhất, hiệu quả nhất để thu được sản phẩm đầu ra là hàng hoá dịch vụ có chất lượng cao nhất. - Thứ ba, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Để theo kịp và vượt lên đối thủ cạnh tranh các doanh nghiệp phải đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất bởi vì tiến bộ khoa học đóng vai trò là một lực lượng sản xuất quan trọng. Tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo thêm lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. - Thứ tư, cạnh tranh là công cụ để tước quyền thống trị về kinh tế. Cạnh tranh thủ tiêu sự độc quyền về kinh tế tạo môi trường để khai thác các nguồn lực và huy động các tiềm năng. Ngoài ra, cạnh tranh sẽ loại bỏ những doanh nghiệp có chi phí cao trong sản xuất kinh doanh hàng hoá và khuyến khích các doanh nghiệp có chi phí thấp. Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ sử dụng lãng phí nguồn lực của xã hội bằng những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của các nước phát triển. Đồng thời cạnh tranh là điều kiện giáo dục tính tháo vát năng động và sáng kiến cho các nhà sản xuất kinh doanh từ đó tạo ra các nhà sản xuất kinh doanh giỏi chân chính. Có thể nói cạnh tranh lành mạnh - động lực phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cũng như từng doanh nghiệp. 3-/ Các hình thái của cạnh tranh trên thị trường. Căn cứ vào mức độ cạnh tranh, thị trường có thể được phân loại như sau: a-/ Thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có rất nhiều người bán mà không người nào có ưu thế có thể cung ứng một số lượng sản phẩm lớn ảnh hưởng đến giá cả. Các sản phẩm bán trên thị trường là đồng nhất, tức là nó rất ít khác nhau về quy cách, mẫu mã, phẩm chất. Điều kiện tham gia và rút khỏi thị trường một cách dễ dàng. Những người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng với giá thị trường. Họ không có khả năng định giá. Do đó các doanh nghiệp làm ăn trên thị trường này chủ yếu tìm biện pháp giảm chi phí tới mức thấp nhất. Tác dụng của thị trường này: - Thúc đẩy các doanh nghiệp phải cải tiến công nghệ, thay đổi sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. - Làm cho người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn cho mình những sản phẩm vừa ý với mức giá thấp. - Các tài nguyên và các nguồn lực được phân phối theo hướng có lợi nhất làm cho doanh nghiệp chuyển sang kinh doanh mặt hàng phù hợp với yêu cầu của xã hội. Tuy nhiên hình thái cạnh tranh này rất khó tìm thấy trong điều kiện hiện nay. b-/ Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Có thể nói thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là một thị trường cạnh tranh bình thường vì thực tế nó rất phổ biến trong điều kiện hiện nay. Đây là thị trường mà sức mạnh thị trường thuộc về một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trường này kinh doanh hàng hoá và dịch vụ này là ở nhãn hiệu. Mặc dù sự khác biệt chỉ là khác biệt trong tâm trí người tiêu dùng, những mối nhãn hiệu hàng hoá đều mang hình ảnh với những uy tín khác nhau. Có hai hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Độc quyền tập đoàn. Đây là một thị trường mà ở đó có một vài doanh nghiệp đáp ứng hầu hết nhu cầu về một loại hàng hoá dịch vụ cụ thể nào đó. Những doanh nghiệp này rất nhạy cảm với các hoạt động kinh doanh của nhau. Thế nhưng, điểm đáng chú ý là các doanh nghiệp phụ thuộc lẫn nhau trong định giá và lượng hàng bán ra. Bởi vì một doanh nghiệp trong nhóm độc quyền giảm giá hàng hoá bán ra thì họ không bao giờ cảm thấy tin tưởng rằng có thể đạt được kết quả lâu dài vì sẽ có một doanh nghiệp khác có thể sẽ giảm giá xuống mức thấp hơn và ngược lại khi một doanh nghiệp tăng giá trong khi doanh nghiệp khác không tăng giá sẽ dẫn đến doanh nghiệp tăng giá phải trở lại giá cũ nếu không sẽ có nguy cơ bị mất khách hàng. Cạnh tranh mang tính độc quyền. Trên thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền sản phẩm của các doanh nghiệp là khác nhau. Người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm của doanh nghiệp thông qua nhãn hiệu, quảng cáo bao bì và các dịch vụ khác. Trên thị trường này, doanh nghiệp có quyền định giá hàng hoá bán ra nhưng không hoàn toàn theo ý mình và điều kiện mua bán hàng hoá cũng khác nhau. Doanh nghiệp có thể có uy tín độc đáo khác nhau đối với khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trạng thái thị trường độc quyền hầu như khó đặt được và nếu nó xuất hiện thì xem xét nó như trạng thái cạnh tranh độc quyền để giải quyết. Và như vậy, mức độ khốc liệt của cạnh tranh giảm dần từ cạnh tranh hoàn hảo đến cạnh tranh độc quyền. c-/ Thị trường độc quyền. Thị trường độc quyền là thị trường mà ở đó có một người bán độc quyền nhất có thể kiểm soát trên thị trường. Điều kiện gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường độc quyền có rất nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn hoặc do độc quyền kỹ thuật công nghệ. Vì vậy mà thị trường này không có cạnh tranh về giá mà người bán hoàn toàn quyết định giá. Trên thị trường độc quyền, đường cầu của toàn xã hội về một loại hàng hoá dịch vụ chính là đường cầu của hãng độc quyền. Doanh nghiệp độc quyền có thể chi phối và quyết định giá cả và lượng hàng hoá bán ra trên thị trường bằng các biện pháp ứng xử của mình. Để bán hàng hoá với giá cao và thu được nhiều lợi nhuận doanh nghiệp độc quyền có thể tạo ra sự khan hiếm hàng hoá giả tạo. Do vậy nhiều nước đã có luật chống độc quyền. Bởi vì độc quyền không những gây ra sự thiếu hụt hàng hoá ảnh hưởng xấu đến người tiêu dùng mà còn gắn với sự trì trệ. Tuy nhiên độc quyền cũng có mặt tích cực của nó, đó là đem lại lợi ích cho xã hội nhờ đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển. Doanh nghiệp độc quyền thường có trình độ tập trung hoá sản xuất cao, mở rộng được quy mô sản xuất nên giảm được chi phí sản xuất trên một đơn vị sản xuất. II-/ Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và sự cần thiết khách quan phải tăng khả năng cạnh tranh. 1-/ Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn có vị trí vững chắc trên thị trường thì cần phải có tiềm lực đủ mạnh để cạnh tranh. Cạnh tranh là môi trường của kinh tế thị trường đồng thời là mục tiêu của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Để duy trì và tăng khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp phải luôn luôn đưa ra các phương án, các giải pháp tối ưu để giảm chi phí sản xuất để từ đó giảm giá thành, giá bán áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức tốt mạng lưới bán hàng và biết chọn đúng thời điểm bán hàng nhằm thu hút được khách hàng, mở rộng thị trường. Chỉ tiêu tổng hợp nhất để đánh giá sức cạnh tranh của một doanh nghiệp là một thị phần mà doanh nghiệp chiếm được. Thị phần càng lớn càng thể hiện rõ sức cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Để tồn tại và có sức cạnh tranh, doanh nghiệp phải chiếm giữ được một phần thị trường bất kể nhiều hay ít, chính điều này đã phản ánh được quy mô tiêu thụ của doanh nghiệp. Qua đó ta cũng có thể đánh giá được sức cạnh tranh của mỗi một doanh nghiệp ưu thế cũng như các điểm mạnh, điểm yếu tương đối của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong ngành. Tăng sức cạnh tranh là một điều tất yếu của mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, một doanh nghiệp nếu không tìm cách để vượt lên đối thủ thì nghĩa là doanh nghiệp đó đang thụt lùi. Bởi lẽ tất cả đều có ý thức phải vượt lên chính mình và vượt lên đối thủ. Không nỗ lực liên tục, không tìm mọi cách để tăng sức cạnh tranh thì đồng nghĩa với diệt vong. 2-/ Tại sao phải tăng khả năng cạnh tranh. Thực chất của tăng sức cạnh tranh là tạo ra ngày một nhiều hơn các ưu thế về mặt giá cả, giá trị sử dụng, chất lượng, uy tín của sản phẩm và doanh thu, nhằm giành được những ưu thế tương đối trong cạnh tranh đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan. Các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh một mặt sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, mặt khác nó sẽ đào thải không thương tiếc những doanh nghiệp yếu thế không đủ sức cạnh tranh. Do vậy để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu tìm ra các giải pháp để giảm chi phí sản xuất giá thành, giá bán sản phẩm, tổ chức hệ thống tiêu thụ một cách tốt nhất, đúng lúc nhất mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Đi đôi với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật những đòi hỏi, yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng ở mức cao hơn. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp buộc phải tiến hành các hoạt động Marketing, tìm hiểu thị trường và trong cuộc chiến này người nào nhanh hơn người đó sẽ thắng. Như vậy, cùng với cạnh tranh, tăng sức cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Để thắng thế trong các cuộc cạnh tranh, doanh nghiệp buộc phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh thông qua các yếu tố trực tiếp như giá thành, giá bán chất lượng sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp hay gián tiếp như các hoạt động quảng cáo, tham gia hội chợ... ở nước ta, đang từ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước chắc chắn có phần nào bỡ ngỡ. Từ chỗ chỉ hoạt động sản xuất một cách thụ động theo chỉ tiêu pháp lệnh đến nay tất cả các doanh nghiệp phải tự quyết định lấy những vấn đề quan trọng mang tính sống còn của doanh nghiệp (sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, bao nhiêu...). Các doanh nghiệp Nhà nước buộc phải làm quen với điều này cũng như phải thích nghi với môi trường kinh doanh mới của cơ chế thị trường, chấp nhận cạnh tranh. Đặc biệt là trong giai đoạn này, khi đất nước ta đang xây dựng một nền kinh tế mở, kêu gọi đầu tư từ bên ngoài vào Việt Nam các hãng nổi tiếng trên thế giới đầu tư vào nước ta ngày càng nhiều. Họ rõ ràng có nhiều ưu thế hơn mình về tài chính cũng như trình độ kỹ thuật kinh nghiệm quản lý. Môi trường cạnh tranh ngày càng rộng hơn và mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Muốn phát triển kinh tế, theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới không còn cách nào các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận cạnh tranh và tìm mọi cách để ngày càng nâng cao khả năng cạnh tranh. 3-/ Một số công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp. a-/ Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm Điều quan trọng nhất đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh là phải trả lời được câu hỏi cơ bản. Sản xuất cái gì ? cho ai? như thế nào? và như vậy có nghĩa là doanh nghiệp đã xây dựng cho mình một chính sách sản phẩm. Không một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường mà lại không có sản phẩm kinh doanh cho dù là hữu hình hay vô hình. Vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp là phải làm cho sản phẩm của mình thích ứng được với thị trường, mở rộng thị trường tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Để có thể cạnh tranh được với các đối thủ trên thị trường doanh nghiệp phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp phải luôn được thoả mãn không ngừng để theo kịp nhu cầu của thị trường bằng cách cải tiến các thông số chất lượng, mẫu mã, bao bì đồng thời tiếp tục duy trì các loại sản phẩm hiện nay đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần phải nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng hoá sản phẩm không chỉ để đáp ứng được nhu cầu thị trường thu nhiều lợi nhuận khi mà cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt, quyết liệt. Đi đôi với việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm để đảm bảo đứng vững trong điều kiện cạnh tranh, doanh nghiệp có thể thực hiện trong tâm hoá sản phẩm vào một số loại sản phẩm nhằm cung cấp cho một nhóm người hoặc một vùng thị trường nhất định của mình. Trong phạm vi này doanh nghiệp có thể phục vụ khách hàng một cách tốt hơn có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh và như vậy doanh nghiệp tạo dựng một bức rào chắn, bảo đảm giữ vững được phần thị trường của mình. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần phải thực hiện chiến lược khác biệt hoá sản phẩm, tạo ra các nét độc đáo riêng cho mình để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng và các sản phẩm của mình nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Như vậy sản phẩm và xác định cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. b-/ Yếu tố giá cả. Giá của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới mức giá cuối cùng đảm bảo hai bên cùng có lợi. Giá cả đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp. "khách hàng là thượng đế" họ có quyền lựa chọn những gì mà họ cho là tốt nhất và cùng một loại sản phẩm với chất lượng đương đương nhau chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá bán thấp hơn, khi đó sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Giá cả được thể hiện như một vũ khí để cạnh tranh thông qua định giá sản phẩm. Định giá thấp, định giá ngang thị trường là chính sách định giá cao. Với một giá ngang thị trường giúp doanh nghiệp giữ được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra những biện pháp giảm giá thành thì lợi nhuận thu được sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh cao. Ngược lại với mức giá thấp hơn giá thị trường thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng và tăng lượng tiêu thụ, doanh nghiệp sẽ có cơ hội xâm nhập thị trường, chiếm lĩnh thị trường mới. Mức giá doanh nghiệp áp đặt cao hơn giá thị trường chỉ sử dụng được với các doanh nghiệp có tính độc quyền, điều này giúp cho doanh nghiệp thu được rất nhiều lợi nhuận (lợi nhuận siêu ngạch). Để chiếm lĩnh được ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường. c-/ Chất lượng sản phẩm Nếu như trước kia giá cả được coi là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay nó phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Trên thực tế cạnh tranh bằng giá cả là "biện pháp nghèo nàn" nhất vì nó làm giảm lợi nhuận thu được mà ngược lại cùng một loại sản phẩm chất lượng sản phẩm nào tốt đáp ứng được yêu cầu thì người tiêu dùng cũng sẵn sàng mua với một mức giá cao hơn một chút cũng không sao nhất là trong thời đại ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật đang giai đoạn phát triển mạnh, đời sống của nhân dân dần được nâng cao rất nhiều so với nước. Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định bằng các thông số có thể đo được hoặc có thể so sánh được, thoả mãn những điều kiện kỹ thuật và những yêu cầu nhất định của người tiêu dùng và xã hội. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố công nghệ dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình độ quản lý... Chất lượng sản phẩm là một vấn đề sống còn đối với một doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam khi mà họ đang phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào Việt Nam. Một khi chất lượng sản phẩm không được đảm bảo thì có nghĩa là doanh nghiệp sẽ bị mất khách hàng, mất thị trường, nhanh chóng đi tới chỗ suy yếu và bị phá sản. Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan điểm mới về chất lượng đã xuất hiện. Chất lượng sản phẩm không chỉ là tốt, bền đẹp mà nó còn do khách hàng quyết định. Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ quan còn sự đánh giá của khách hàng mang tính khách quan, ở đây, nhân tố khách quan đã tác động, chi phối yếu tố chủ quan. Đây là một quan điểm mới xuất phát từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Chất lượng sản phẩm thể hiện tính quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp ở chỗ: + Nâng cao chất sản phẩm sẽ làm tăng tốc tiêu thụ sản phẩm tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. + Sản phẩm chất lượng cao sẽ làm uy tín của doanh nghiệp kích thích khách hàng mua hàng và mở rộng thị trường. + Chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. d-/ Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm: Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận. Việc đầu tư của quá trình tổ chức tiêu thụ sản phẩm là phải lựa chọn các kênh phân phối sản phẩm một cách hợp lý có hiệu quả nhằm mục đích đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của khách hàng nhanh chóng giải phóng nguồn hàng để bù đắp chi phí sản xuất thu hồi vốn. Xây dựng một mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt cũng có nghĩa là xây dựng một nền vững chắc để phát triển thị trường bảo vệ thị phần của doanh nghiệp có được. Bên cạnh việc tổ chức mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo khuyến mại các dịch vụ sau bán hàng. Đây cũng là hình thức cạnh tranh phi giá gây sự chú ý và thu hút khách hàng. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm được tổ chức tốt sẽ tăng sản lượng bán hàng từ đó sẽ tăng doanh thu, tăng lợi nhuận dẫn tới tốc độ thu hồi vốn nhanh kích thích sản xuất phát triển. Công tác tổ chức tiêu thụ tốt cũng là một trong những yếu tố làm tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Các hoạt động như quảng cáo tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng,... là hình thức tốt nhất để giới thiệu về sản phẩm và doanh nghiệp của mình giúp cho các doanh nghiệp tìm ra được nhiều bạn hàng mới, mở rộng thị trường nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. e-/ Tài sản vô hình: Tài sản vô hình là tài sản quí giá nhất của công ty không thể định lượng được. Người ta không thể bỏ tiền ra mua được mà phải qua một quá trình đòi hỏi phải nhiều cố gắng mới tích luỹ được. Đó là lòng tin của khách hàng đối với công ty cũng như đối với sản phẩm là hình ảnh quen thuộc và nổi tiếng của nhãn hiệu là những hiểu biết về các luồng thông tin và khoa học kỹ thuật là việc kiểm soát khâu phân phối là bầu không khí tổ chức nhân sự trong cơ quan xí nghiệp và sau cùng là các kỹ năng quản trị. Tài sản vô hình là nguồn lợi thế cạnh tranh, là chìa khoá trong việc kích thích của xí nghiệp vì ba lý do: Nó khó tích luỹ, nó có khả năng đa dụng và nó là đầu vào đầu ra trong các hoạt động kinh doanh. 1) Việc tích lũy tài sản này đòi hỏi những cố gắng liên tục và mất nhiều thời gian không thể bỏ tiền mua được. Chính vì nó khó tích luỹ nên nó lợi thế để cạnh tranh. Nếu việc tích lũy dễ dàng thì đối thủ cạnh tranh đã dễ dàng bắt chiếc được rồi. 2) Tài sản vô hình thì đa năng sử dụng, chẳng hạn như danh tiếng của xí nghiệp đối với khách hàng về một sản phẩm nó sẽ kéo theo sự chấp nhận một sản phẩm khác của hãng. 3) Thông tin vừa biểu hiện ở đầu vào, vừa biểu hiện ở đầu ra trong hoạt động của xí nghiệp. Chẳng hạn như sự hiểu biết kỹ thuật của một sản phẩm được nâng cao hơn do tích luỹ thêm kiến thức khoa học ở đầu vào giúp cho hãng sản xuất ra các mặt hàng khác. Tài sản vô hình có thể tích luỹ bằng hai cách: trực tiếp và gián tiếp. + Trực tiếp: thông qua quảng cáo trên truyền hình, radio để tạo ra hình ảnh quen thuộc về nhãn hiệu là các chương trình huấn luyện để cho nhân viên thấy rằng khách hàng là mối quan tâm hàng đầu của công ty. + Gián tiếp: cách gián tiếp thông qua hoạt động hàng ngày nếu một sản phẩm đã được thiết kế tốt và hãng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao, hãng dễ dàng được danh tiếng nhờ ở lời truyền miệng. Việc tích luỹ tài sản vô hình qua con đường gián tiếp có thể sẽ lâu hơn con đường trực tiếp nhưng nó thường đáng tin cậy hơn và vững chắc hơn. 4-/ Phương pháp đối phó với đối thủ cạnh tranh: Khi doanh nghiệp tìm các lợi thế cạnh tranh thì các nhà doanh nghiệp khác cũng có chiến lược cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh, nhà doanh nghiệp phải luôn luôn có giải pháp bảo vệ mình khỏi sự tấn công của các đối thủ cạnh tranh. Để giữ vững cạnh tranh nhà doanh nghiệp thường sử dụng những giải pháp sau làm giảm ý chí tấn công của các đối thủ cạnh tranh tạo lập hàng dào ngăn chặn sự tấn công của đối phương. Đồng thời doanh nghiệp cần có những giải pháp mới đối với hệ thống phân phối hàng hoá nhằm củng cố chặt chẽ mối quan hệ với bạn hàng nhận thấy nếu không làm ăn chặt chẽ với doanh nghiệp mà lại làm ăn với doanh nghiệp khác sẽ dẫn đến sự thiệt thòi. Trong các thủ pháp nhằm xây dựng hàng rào chắn với các đối thủ và tránh đối đầu với đối thủ cạnh tranh thì phương pháp hay được áp dụng nhất là chia tuyến thị trường ngăn cản sự ra nhập hợp tác. - Chia tuyến thị trường: Đây là phương pháp làm cho các đối thủ cạnh tranh thấy rằng mình không phải là đối thủ, kẻ thù của họ. Giải pháp này có những cách tiếp cận sau: + Chọn các tuyến thị trường chưa được hoặc còn ít các nhà doanh nghiệp tiếp cận. + Tiếp cận những thị trường mà nhận thấy đối phương đang hoạt động tới. Khi chọn tuyến thị trường, nhà doanh nghiệp cần phân tích: + Tiềm năng của tuyến thị trường cần tiếp cận ra sao ? + Bằng cách nào để xâm nhập thị trường ? + Làm gì để bảo vệ vị trí của doanh nghiệp khi đối phương tấn công trên tuyến thị trường này ? + Tại sao các nhà doanh nghiệp chưa hoặc tiếp cận yếu với tuyến thị trường này? Trên cơ sở luận chứng đầy đủ các dữ kiện nhà doanh nghiệp cần chủ động dũng mãnh chiếm thị trường sao cho thấy lợi: ã Ngăn chặn sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh. Sau khi mở rộng tuyến thị trường nhà doanh nghiệp phải củng cố và tìm mọi biện pháp để hạn chế sự xâm nhập của các đối thủ cạnh tranh trên tuyến thị trường mình hoạt động. Có thể có những cách làm như sau đây: + Chuẩn bị khối lượng hàng hoá, chất lượng tốt hoặc có sản phẩm mới để phản công sản phẩm của đối phương. + Có thể giảm giá thấp hơn sản phẩm của đối phương. + Có chính sách hấp dẫn hơn với các đại lý các nhà bán sỉ, lẻ, người tiêu dùng. + Nâng cao uy tín sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. + Khai thác các lợi thế của doanh nghiệp. Tuy nhiên ngăn chặn chỉ làm chậm sự xâm nhập của đối phương mà thôi chứ không thể nào loại bỏ sự xâm nhập của các nhà cạnh tranh khác. ã Hợp tác với các nhà doanh nghiệp. Ngày nay xu hướng đối đầu giữa các nhà doanh nghiệp có giảm đi. Xu hướng chủ yếu là hợp tác trên những phương diện có thể hợp tác được như: các lĩnh vực về khoa học, kỹ thuật, tiêu chuẩn hoá chất lượng sản phẩm, tham gia hiệp hội,... Tóm lại, để thành công một công ty phải triển khai những chiến lược cạnh tranh để có hiệu quả chống lại đối thủ và đem lại._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0101.doc