Biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu hàng hoá trong nền Kinh tế thị trường lấy mặt hàng gạo làm thí dụ

lời mở đầu Thương mại quốc tế (TMQT) đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn, là một trong những yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế và do đó nó góp phần quyết định sự thắng bại của một đường lối công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh: "Giữ vững độc lậ

doc58 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1137 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu hàng hoá trong nền Kinh tế thị trường lấy mặt hàng gạo làm thí dụ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn lực trong nước là chính đi đôi tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả". Vai trò này đã được Đảng ta nhận thức rất sớm và đã nhấn mạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Đảng ta đã khẳng định: "Xuất khẩu là một trong ba chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong 5 năm 1986-1990, không những có ý nghĩa sống còn đối với tình hình trước mắt mà còn là những điều kiện ban đầu không thể thiếu được để triển khai công nghiệp xã hội chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo". Hơn nữa, xuất khẩu được coi là yếu tố có ý nghĩa "quyết định" để thực hiện chương trình về lương thực, thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng và các hoạt động kinh tế khác. Xuất khẩu là cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ. Lương thực là sản phẩm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng đầu của con người và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đến toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Trong suốt thời gian qua, vấn đề an toàn lương thực luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Sau Đại hội VI của Đảng (1986) và đặc biệt sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) các chính sách đổi mới nói chung và trong nông nghiệp nói riêng đã tác động mạnh mẽ, có hiệu quả đến quá trình sản xuất lương thực. Việt Nam từ năm 1989 đã trở thành nước xuất khẩu gạo trên thế giới. Hiện nay, sản xuất lương thực không những đảm bảo đủ yêu cầu lương thực trên phạm vi quốc gia mà hàng năm còn phục vụ cho xuất khẩu, góp phần tạo ra nguồn ngoại tệ phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp - nông thôn nói riêng. Tuy đạt được một số thành công ban đầu nhưng Việt Nam hiện đang còn gặp nhiều trở ngại trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hoá. Nhất là trong hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực trong đó có xuất khẩu gạo, lĩnh vực mà Việt Nam còn thiếu nhiều kinh nghiệm buôn bán quốc tế và gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường. Vì vậy, chúng ta cần phải có những biện pháp từng bước hoàn thiện để phù hợp với thời cuộc, nhằm phát huy những nội lực bên trong và tiềm năng sẵn có mà tạo hoá đã ban cho dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ thực tế sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu hàng hoá, đồng thời trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu hàng hoá nói chung, xuất khẩu gạo nói riêng, cùng với lượng kiến thức đã được trang bị tại nhà trường và những tìm hiểu thực tế, để đi sâu nghiên cứu vấn đề em chọn đề tài: "Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường, lấy mặt hàng gạo làm ví dụ" làm đề án môn học. Bố cục của đề án gồm các phần: Lời nói đầu. Chương I : Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất khẩu... Chương II : Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam Chương III : Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam Kết luận. Hà Nội, tháng 11 năm 1999 Sinh viên thực hiện Đàm Thị Hằng Chương I Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường I-/ Tầm quan trọng của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân: 1-/ Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế (TMQT): Thương mại quốc tế là lĩnh vực kinh doanh buôn bán hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận và hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Buôn bán hàng hoá và dịch vụ là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế - xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá nói riêng của các quốc gia nói chung. Thương mại quốc tế tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. TMQT là một trong những yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế và do đó nó góp phần quyết định sự thắng bại của một đường lối công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển cũng như của Việt Nam. Khi quá trình phân công lao động quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu sắc thì TMQT đã trở thành một qui luật tất yếu khách quan và được xem là một điều kiện tiền đề, phương tiện cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Thực tế đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể tồn tại chứ chưa nói gì đến phát triển nếu như xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính chất tự cấp tự túc, không quan hệ với thế giới. Bởi vì, nền kinh tế tự cấp tự túc vô cùng tốn kém về cả vật chất và thời gian, cho dù quốc gia đó to lớn như Liên Xô (cũ), Mỹ và Trung Quốc cũng không có đủ sức làm việc này. Do vậy, TMQT đã trở thành vấn đề sống còn vì nó cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức sống của dân cư một quốc gia. Bí quyết thành công trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia là mở rộng thị trường quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến sâu và tinh, chiếm tỷ trọng cao trong hàng xuất khẩu. Sự ra đời và phát triển của TMQT gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hoá ngày một tăng. Số sản phẩm cùng dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của con người ngày một dồi dào. Điều đó phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng. TMQT cũng vì thế mà ngày càng phát triển mở rộng và phức tạp. Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương thì mỗi nước muốn đạt được sự thịnh vượng phải gia tăng khối lượng tiền tệ. Muốn có của cải, các nước phải phát triển buôn bán với nước ngoài. Lý thuyết trọng thương chỉ ra rằng lợi nhuận buôn bán là kết quả của sự thay đổi không ngang giá và lừa gạt giữa các quốc gia, TMQT chỉ có lợi cho một bên và gây ra thiệt hại cho bên kia. Đến giai đoạn cuối họ cho rằng có thể tăng cường nhập khẩu nếu qua đó đẩy mạnh được xuất khẩu, cán cân thương mại vẫn nghiêng về phía xuất khẩu. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia là cơ sở xuất hiện TMQT. Chính sự khác nhau đó mà mỗi nước có lợi thế riêng là chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của mình để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết khác mà trong nước chưa có điều kiện để sản xuất hay sản xuất với chi phí lớn không hiệu quả. Điều quan trọng ở đây là mỗi quốc gia phải tự xác định cho được những mặt hàng nào mà nước mình có lợi nhất trên thị trường cạnh tranh quốc tế. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích được lý do buôn bán giữa các nước về những mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch,... Do đó đã nhiều câu hỏi được đặt ra là: Tại sao Mỹ lại nhập cà phê và xuất khẩu lương thực? Tại sao Nhật Bản lại xuất khẩu hàng công nghiệp và chi nhập khẩu nguyên liệu thô? Tại sao một nền kinh tế kém phát triển như Việt Nam lại có thể hy vọng đẩy mạnh xuất khẩu?... Lý thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học David Ricardo (1817) đã phần nào giải thích một cách căn bản và có hệ thống những câu hỏi này. Quy luật lợi thế tương đối nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối (hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên. Thậm chí nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào TMQT để tạo ra lợi ích cho mình. Khi tham gia vào TMQT, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất, xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu các hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất. Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng TMQT vẫn diễn ra do sự chênh lệch giữa các nước về chi phí cơ hội của hàng hoá tạo ra trong điều kiện sản xuất khá giống nhau. Chẳng hạn như, một nền kinh tế khép kín có các nguồn lực nhất định có thể làm ra máy video và áo sơ mi. Càng dùng nhiều nguồn lực vào việc làm ra máy video, thì càng ít nguồn lực có thể dùng làm áo sơ mi. Chi phí cơ hội của máy video là lượng áo sơ mi bị hy sinh do dùng các nguồn lực vào việc làm ra các máy video thay cho các áo sơ mi. Cũng như sự trao đổi buôn bán ô tô là khá phát triển giữa Mỹ và Nhật Bản; điều tương tự cũng xảy ra đối với các mặt hàng điện tử giữa các nước Tây Âu. Rõ ràng là, không có thế lực nào bắt buộc hai nước phải buôn bán với nhau nếu một nước không có lợi. Các quốc gia hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn mặt hàng cũng như đối tác buôn bán có khả năng đem lại lợi ích cao cho họ. Do vậy, sự chênh lệch giữa các nước về chi phí tương đối trong sản xuất quyết định phương thức TMQT. Vậy TMQT bắt nguồn từ đâu: Một là, TMQT xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất thì chắc chắn đem lại lợi nhuận lớn hơn. Nguồn lực tự nhiên gồm: đất đai, thời tiết, khí hậu, vị trí địa lý. Nguồn tài nguyên ảnh hưởng tới TMQT là rất rõ, nó giải thích tại sao một nước kinh doanh xuất khẩu nông sản, lương thực, dầu lửa, dịch vụ du lịch,... Nguồn nhân lực là lực lượng con người trong một quốc gia. Đây là lực lượng trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nên nó ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện sản xuất, đặc biệt là lao động có kỹ năng cao. Lực lượng lao động của một nước càng có kỹ năng cao thì nước đó càng có nhiều khả năng để trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm chế tạo, đặc biệt là các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao giá cả phải chăng trên thị trường thế giới. Những thập kỷ qua đã nói lên điều này, nhờ dựa vào lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ mạt mà các nước Đông Nam á đã thành công chiến lược hướng vào xuất khẩu các sản phẩm có sử dụng nhiều lao động. Hạ tầng cơ sở của một nước như: giao thông vận tải với truyền thông, hệ thống cung cấp điện năng và các phương tiện công cộng đóng một vai trò quan trọng về việc có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển thương mại của một nước đó đối với thế giới. Ví dụ như đường sá, bến cảng không thích hợp có thể làm tăng chi phí lưu thông hàng hoá, không có điều kiện để phát triển các hoạt động dịch vụ. Ngược lại, cơ sở hạ tầng tốt là một nguồn lực phục vụ cho xuất khẩu, như hệ thống truyền thông tin phát triển giúp cho các bên liên lạc trao đổi dễ dàng, nhanh, xúc tiến quá trình thương mại giữa các nước. Hai là, hiệu quả kinh tế theo qui mô, nghĩa là hầu hết các hàng hoá được sản xuất ra đắt hơn khi sản xuất với khối lượng nhỏ, và trở nên rẻ hơn khi qui mô sản xuất tăng lên. Do vậy mà một nền sản xuất có qui mô lớn người ta có thể tiết kiệm trong việc sử dụng máy móc thiết bị và nguyên liệu. Hơn nữa, do sự phân công công việc ra giữa nhiều người khác nhau, mỗi người có thể trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực của quá trình sản xuất thông qua kinh nghiệm và đào tạo chuyên môn. Hiệu quả kinh tế theo qui mô có ý nghĩa quan trọng cho lĩnh vực TMQT của các nước nhỏ, và bị giới hạn nhiều hơn so với các nước lớn. Điều này cho thấy tại sao các nước nhỏ thường mở rộng thương mại hơn so với các nước lớn (khi đo lường, chẳng hạn bằng tỷ lệ xuất khẩu/GDP). Đối với các nước nhỏ việc cố gắng để sản xuất ra mọi hàng hoá trong nước chắc chắn là phi hiệu quả. Hiệu quả kinh tế theo quy mô là lý do quan trọng giải thích TMQT về những hàng hoá nhất định nào đó. Ba là, sự khác nhau về thị hiếu, sở thích, phong tục tập quán, sự độc quyền về bản quyền, bằng phát minh sáng chế, tri thức chuyên môn của một số người. Thị hiếu rất khác nhau cả giữa các nước và mọi người. Điều này nói lên việc buôn bán các sản phẩm rất khác nhau giữa các nước tương tự. Một tác động khác là sự tồn tại những bằng phát minh sáng chế, quyền sở hữu công nghiệp. Công ty có quyền sở hữu về một phát minh sáng chế có thể từ chối cấp giấy phép sản xuất hoặc gia công chế biến đối với các công ty ở nước khác hoặc chỉ cho phép với điều kiện là các sản phẩm ấy không được xuất khẩu. Điều này tạo cho nước sở hữu phát minh có một sự độc quyền thực sự về loại sản phẩm này. Trên thị trường thế giới. Cuối cùng là, do nhu cầu kinh tế hay sở thích làm giầu mà bất cứ một quốc gia nào trên thế giới cũng muốn. Muốn đất nước giàu có thì TMQT phải phát triển. Những lợi ích mà TMQT đem lại đã làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, là một phương tiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. TMQT vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên thế giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội văn minh hơn, thịnh vượng hơn. Trong thế giới hiện đại không một quốc gia nào bằng chính sách "đóng cửa với nước ngoài lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước". Muốn phát triển nhanh, mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải tận dụng có hiệu quả tất cả những thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của loài người đã đạt được. Nền kinh tế "mở cửa" sẽ mở ra những tiềm năng sẵn có của một nước nhằm sử dụng sự phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. Nhận thức được vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước đi đúng đắn trong đường lối đối ngoại của mình. Với chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ quốc tế, mở cửa và hướng mạnh ra xuất khẩu đã làm cho nền kinh tế nước ta sống dậy, hoạt động ngoại thương trong 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng kể, như hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở nước ta không ngừng gia tăng, từ năm 1986 đến năm 1996 trung bình hàng năm tăng 25-27% đóng góp một phần không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy, tại Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: "Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng. 2-/ Vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân (KTQD): Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Do đó xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại dễ đem lại những hiệu quả đột biến cao, hoặc có thể chịu thiệt hại khôn lường vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. ở một góc độ khác, xuất khẩu có vai trò rất quan trọng trong cán cân thanh toán quốc tế. ở các nước có nền sản xuất hàng hoá phát triển cao, xuất khẩu không những đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu trong nước mà còn đảm bảo chi cho các nguồn khác, ngoài ra còn tạo ra dự trữ ngoại tệ cho Nhà nước, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao mức sống của người dân. Nhờ có xuất khẩu mà phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo của mọi người, mọi đơn vị, mọi tổ chức, mọi ngành nghề, mọi địa phương trong xã hội, chất lượng sản phẩm luôn được nâng cao, việc đưa tiến độ khoa học kỹ thuật mới được thường xuyên và có ý thức. Việc xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dẫn tới việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nước một cách tự giác tạo sức mạnh phát triển cho các chủ thể một cách thiết thực, nó liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất với các nhà khoa học một cách thiết thực và có hiệu quả từ phía các nhà sản xuất, nó khơi thông nhiều nguồn chất xám ở cả trong và ngoài nước, tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các người giàu. Vì vậy, trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và chính sách TMQT nói riêng phải được coi là một chính sách cơ cấu có tầm quan trọng chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển của nền KTQD. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ được tối đa nguồn vốn kỹ thuật công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện phương châm phát triển thương mại với nước ngoài để đẩy mạnh sản xuất trong nước, vừa có sản phẩm tiêu dùng vừa có hàng hoá để xuất khẩu. Với những nước nghèo như nước ta, sự phát triển mạnh của xuất khẩu sẽ góp phần giải quyết những nhiệm vụ kinh tế quan trọng, thể hiện như sau: 2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước: Trong điều kiện nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ của trang thiết bị quá cũ, lạc hậu. Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước mắt chúng ta phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc, trang thiết bị hiện đại bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Ba nguồn vốn đầu phụ thuộc vào nước ngoài, vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu là xuất khẩu. Đối với nhiều nước, xuất khẩu đã trở thành nguồn tích luỹ chủ yếu trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá. 2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển: Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến và chế tạo hàng hoá xuất khẩu, nhất là các ngành áp dụng kỹ thuật tiên tiến sản xuất ra các hàng hoá có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, giúp tạo ra một năng lực công nghiệp mới không những cho phép tăng sản xuất về mặt số lượng mà còn tăng chất lượng sản phẩm vì tăng năng suất lao động. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ, đó là thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Việc phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu khắt khe của khách hàng và sản xuất ra những sản phẩm có trình độ kỹ thuật đạt tiêu chuẩn quốc tế mà một lực lượng lao động được đào tạo, rèn luyện về trình độ kỹ thuật và chuyên môn lành nghề. Điều đó có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông, thuốc nhuộm,... Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu (gạo, dầu, thực vật, chè,...) có thể kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó như bao bì,... - Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. - Xuất khẩu hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. - Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh. 2.3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân: Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn đề nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. 2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta: Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế,... xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta vừa kể trên lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò quan trọng là phương tiện hỗ trợ phát triển kinh tế mà còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như: kỹ thuật, lao động, nguồn tiêu thụ thị trường, vốn,... Đối với nước ta, nhằm khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về mặt kinh tế. Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh thế giới có nhiều thuận lợi: các tổ chức kinh tế - thương mại khu vực đã ra đời và đang hoạt động có hiệu quả, Đảng và Nhà nước ta đã gia nhập vào ASEAN, AFTA và đang trong quá trình hội nhập vào WTO,... Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đã tạo điều kiện thuận lợi để nước ta hoà nhập vào sự phát triển chung của thế giới sử dụng tốt những lợi thế của đất nước và thông qua quan hệ trao đổi để bù đắp những sự thiếu hụt, yếu kém, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới, để trở thành nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá hoàn chỉnh. 3-/ Vai trò của xuất khẩu gạo trong phát triển kinh tế và xã hội ở Việt Nam: Gạo là lương thực chính của nhiều quốc gia trên thế giới và gắn liền với cuộc sống hàng ngày của trên 2 tỷ người trên hành tinh. Sản lượng gạo trong những năm đầu thập kỷ 80 chiếm từ 32-35% tổng sản lượng lương thực toàn cầu, từ những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 gạo chiếm từ 26-28%. Bởi lẽ, gạo là bộ phận chủ yếu cấu thành trong nguồn thức ăn hàng ngày của con người, nó thoả mãn nhu cầu về năng lượng cho con người với giá rẻ. Với sự phát triển nhanh chóng của nông nghiệp, cơ cấu bữa ăn của con người từng bước thay đổi theo chiều hướng tỉ lệ năng lượng do gạo cung cấp giảm xuống, tỉ lệ năng lượng do thực phẩm cung cấp (bao gồm: thịt, trứng, sữa,...) và các sản phẩm khác như: rau, quả,... tăng lên. Tuy nhiên, gạo vẫn giữ vai trò chủ yếu không thể thiếu được đối với sự tồn tại và phát triển của con người bởi trong gạo có chứa chất bột và nhiều loại chất dinh dưỡng quan trọng mà ít sản phẩm khác có được. Việt Nam là một nước nông nghiệp dựa vào sản xuất lúa gạo là chính. Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong nền KTQD. Nó đóng góp khoảng 42% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), 71,9% lượng lao động cả nước hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Đối với Việt Nam, sản xuất các sản phẩm nông nghiệp nói chung, sản xuất lúa gạo nói riêng là một lợi thế. Xuất khẩu nông sản là một trong những biện pháp nhằm khai thác lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh để thu hút nguồn lực trong TMQT. TMQT các sản phẩm nông nghiệp giữ một vị trí vô cùng to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Nó là bộ phận hết sức quan trọng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và chương trình xuất khẩu của đất nước. Trong suốt thời gian qua, khoảng trên dưới 50% sản phẩm quốc dân hàng năm được thực hiện thông qua con đường xuất nhập khẩu. Xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thường chiếm tỉ trọng cao từ 30-40% tổng kim ngạch xuất khẩu các ngành. Trong đó xuất khẩu gạo chiếm tỷ trọng từ 40-50% tổng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Sản lượng gạo xuất khẩu bình quân hàng năm kể từ năm 1990 đến nay là trên 2 triệu tấn và xuất khẩu gạo vươn lên chiếm một vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Gạo xuất khẩu của Việt Nam không ngừng tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Do đó kim ngạch xuất khẩu gạo không ngừng tăng lên từ 274,6 triệu USD năm 1990 đến năm 1996 là 868,1 triệu USD, năm 1997 đạt 870 triệu USD, năm 1998 đạt 1.024 triệu USD tăng khoảng 154 triệu USD so với 1997 và chiếm 11% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1998 lớn thứ 4 trong các mặt hàng xuất khẩu. Với lượng ngoại tệ này, chúng ta đã nhập các loại máy móc thiết bị hiện đại của nước ngoài phù hợp với điều kiện của Việt Nam, xây dựng các nhà máy chế biến gạo, xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, đầu tư nghiên cứu các loại giống lúa cho năng suất cao chất lượng tốt,... Ngoài ra, xuất khẩu gạo tạo ra ngoại tệ góp phần không nhỏ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặt khác, cũng nhờ có xuất khẩu gạo bộ mặt nông thôn đã dần dần thay đổi: một số ngành nghề mới xuất hiện như thương mại dịch vụ, công nghiệp chế biến,... đã tạo ra công ăn việc làm cho người dân, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn. II-/ Những hình thức và nội dung kinh doanh xuất khẩu chủ yếu: 1-/ Các hình thức kinh doanh xuất khẩu chủ yếu: Theo qui định của NĐ 33 CP (19/4/1994) lĩnh vực kinh doanh này gồm các hình thức: - Hình thức trao đổi hàng hoá, hợp tác sản xuất và gia công quốc tế. - Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ vật tư phụ tùng cho sản xuất. - Chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất. - Làm các dịch vụ như đại lý, nhận uỷ thác xuất khẩu. - Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài hợp tác sản xuất và gia công quốc tế. 2-/ Nội dung kinh doanh xuất khẩu hàng hoá chủ yếu: Kinh doanh xuất khẩu là hoạt động hết sức phức tạp và chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau: Hoạt động xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hoá vượt qua biên giới của quốc gia, đối tác là người có quốc tịch khác, giao dịch với nhau bằng tiếng phổ dụng nhất của thế giới, chịu sự điều chỉnh của thông lệ quốc tế, luật ứng dụng của nhiều nước,... do đó, hoạt động xuất khẩu phải trải qua nhiều khâu ràng buộc lẫn nhau và đòi hỏi nhà kinh doanh xuất khẩu phải hết sức thận trọng, linh hoạt để nắm bắt được thời cơ, hạn chế rủi ro và thu được lợi nhuận cao nhất. Tuỳ theo các hình thức kinh doanh xuất khẩu khác nhau mà số bước thực hiện cũng như cách thức tiến hành có những nét khác biệt. Song nhìn chung kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trực tiếp thì nội dung chủ yếu của xuất khẩu được thực hiện theo trình tự sau: 2.1. Nghiên cứu thị trường: Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường so sánh phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra kết luận đúng đắn để lập kế hoạch marketing. Do vậy vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất kỳ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu để xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường. 2.2. Lập phương án kinh doanh: Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường đơn vị lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Xây dựng phương án phải nêu được: tình hình thị trường và đối tác, phác hoạ bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn, lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh, đề ra mục tiêu, biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt mục tiêu, sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh. 2.3. Tạo nguồn hàng xuất khẩu: Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty, một địa phương hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và bảo đảm điều kiện xuất khẩu được tức là hàng hoá phải đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư, sản xuất kinh doanh cho đến các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển, bảo quản sơ chế phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. 2.4. Thanh toán trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá: Thanh toán là bước bảo đảm cho người xuất khẩu thu được tiền về và người nhập nhận được hàng hoá, hiệu quả kinh tế trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu một phần lớn nhờ vào chất lượng của việc thanh toán. Thanh toán quốc tế là một khâu vô cùng quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương được hiểu là việc chi trả những khoản tiền tệ, tín dụng có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá và đã được thoả thuận qui định trong hợp đồng kinh tế. Trong xuất khẩu hàng hoá, thanh toán phải xem xét đến các vấn đề sau đây: tỷ giá hối đoái, các điều kiện đảm bảo hối đoái, tiền tệ trong thanh toán quốc tế, thời hạn thanh toán, các phương thức và hinh thức thanh toán quốc tế. 2.5. Giao dịch - đàm phán - ký kết hợp đồng xuất khẩu: - Các hình thức giao dịch: hiện nay trên thế giới tồn tại nhiều hình thức giao dịch, mỗi hình thức này có những đặc điểm riêng với kỹ thuật giao dịch riêng. Tuỳ thuộc vào mặt hàng dự kiến xuất khẩu, nhập khẩu mà doanh nghiệp lựa chọn hình thức nào cho phù hợp. Thông thường gồm các hình thức giao dịch: giao dịch trực tiếp, giao dịch qua thư tín, giao dịch qua điện thoại. - Đàm phán và nghệ thuật đàm phán: đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. Đàm phán trong kinh doanh bất kỳ một loại hình nào đều là một nghệ thuật. Trong kinh doanh TMQT, các chủ thể là ở các quốc gia khác nhau, với ngôn ngữ và tập quán trong kinh doanh cũng khác nhau làm cho việc đàm phán phức tạp hơn. Chính vì vậy, đàm phán kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải tinh tế và khéo léo để đi đến được kết quả là hợp đồng kinh tế phải được ký kết. Nội dung của hợp đồng bao gồm các điều khoản bắt buộc, là cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu xảy ra. 2.6. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu: Sau khi hợp đồng mua bán xuất nhập khẩu đã được ký kết, nghĩa là nghĩa vụ và quyền lợi của các bên ký kết trong hợp đồng đã đ._.ược xác lập. Thực hiện hợp đồng là một quá trình có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, đồng thời nó cũng ảnh hưởng lớn đến uy tín của doanh nghiệp và các mối quan hệ với bạn hàng ở các nước. Bất kỳ một sai sót nào xảy ra trong quá trình thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đều có thể dẫn đến hậu quả đáng tiếc như làm chậm tiến độ hợp đồng, suy giảm chất lượng hàng hoá,... dẫn đến những tranh chấp khiếu nại rất khó giải quyết, gây tổn thất về mặt kinh tế. Do vậy tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi phải tiến hành chu đáo. Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu: kiểm tra L/C, xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá, thuê tàu và mua bảo hiểm cho hàng hoá, làm thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu, làm thủ tục thanh toán, khiếu nại, trọng tài (nếu có). III-/ Những nhân tố chủ yếu tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá: A-/ Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài: Mỗi một chủ thể hoạt động trong xã hội đều chịu sự chi phối nhất định các yếu tố của môi trường bao quanh nó. Các yếu tố này tác động trực tiếp và gián tiếp qua lại lẫn nhau mà bản thân daonh nghiệp không thể kiểm soát được. Trong kinh doanh TMQT, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu, các doanh nghiệp phải thích nghi với nó. Các yếu tố này luôn biến đổi vì vậy làm cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu ngày càng trở nên phức tạp hơn. Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đòi hỏi các nhà kinh doanh phải nắm bắt và phân tích được tác động của từng nhân tố cá biệt tới hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ cụ thể. 1-/ Nhân tố kinh tế xã hội ở Việt Nam gồm: 1.1. Trạng thái của nền kinh tế trong nước: - Dung lượng sản xuất. - Tình hình nhân lực. - Nhân tố công nghệ. - Cơ sở hạ tầng. 1.2. Các chính sách và quy định của Nhà nước: Thông qua các chính sách và qui định của Nhà nước thiết lập môi trường pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của các doanh nghiệp, nên nó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu. Chúng ta có thể xem xét tác động của các chính sách đó dưới các khía cạnh. - Tỷ giá hối đoái. - Thuế quan và quota. - Các chính sách khác của Nhà nước. Những thay đổi cơ bản trong quản lý quá trình xuất nhập khẩu của Nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu. Đặc biệt là từ khi ra đời Nghị định 57/1998 NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành thì quyền tự do kinh doanh của thương nhân được mở ra một bước tiến mới, họ được quyền kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm, tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp. Thủ tục xin đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp với những điều kiện ràng buộc về vốn, tiêu chuẩn nghiệp vụ,... đối với doanh nghiệp đã được dỡ bỏ. Từ khi thi hành Nghị định này (1/9/1998) nước ta đã có hơn 30.000 doanh nghiệp được quyền tham gia xuất nhập khẩu, với con số này không tránh khỏi tình trạng tranh mua, tranh bán, ép giá, dìm giá làm cho nhiều doanh nghiệp bước đầu chưa có lối thoát nên hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu còn thấp. Những thay đổi về thông qua xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu, việc áp dụng các luật thuế mới đối với hàng hoá xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến quá trình xuất nhập khẩu. 2-/ Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý: Nguồn tài nhiên thiên nhiên là một trong những nhân tố quan trọng làm cơ sở cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất khẩu. Nó góp phần tác động đến loại hàng, qui mô hàng xuất khẩu của quốc gia. Vị trí địa lý có vai trò như nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế cũng như xuất khẩu của một quốc gia. Vị trí địa lý thuận lợi cho phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế và thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ: du lịch, vận tải, ngân hàng,... 3-/ ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới: Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đã làm cho sự phục thuộc giữa các nước ngày càng tăng. Vì vậy mỗi sự biến động của tình hình kinh tế xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh tế trong nước. Lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể ở nước ngoài, chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất khẩu, tình hình lạm phát, thất nghiệp hay tăng trưởng và suy thoái kinh tế,... của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu ở nước ta. Chẳng hạn như, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đến hoạt động xuất khẩu của ta là trong năm 1997, giảm sức cạnh tranh về hàng hoá xuất khẩu có khả năng làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tại Việt Nam trong thời gian tới. B-/ Nhóm các nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp: 1-/ Nhân tố bộ máy quản lý: Bộ máy quản lý là sự tác động trực tiếp của các cấp lãnh đạo xuống cán bộ công nhân viên, nhằm mục đích buộc phải thực hiện một hoạt động. Việc quản lý tập trung thống nhất và thiết lập cơ cấu tổ chức của bộ máy doanh nghiệp cũng như cách thức điều hành của các cấp lãnh đạo là nhân tố quyết định tính hiệu quả trong kinh doanh. Nếu đưa ra được cơ cấu tổ chức hợp lý, cách điều hành sáng suốt sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh, ngược lại dẫn đến hiệu quả thấp trong hoạt động kinh doanh. 2-/ Nhân tố con người: Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động. Hoạt động xuất khẩu (XK) hàng hoá đặc biệt phải nhấn mạnh đến yếu tố con người bởi con người là chủ thể sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện qua hai chỉ tiêu chủ yếu nhất đó là: tinh thần làm việc và năng lực công tác. 3-/ Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp: Hiệu quả kinh doanh XK của các doanh nghiệp ngoại thương phụ thuộc rất lớn vào hệ thống mạng lưới kinh doanh của nó. Một mạng lưới kinh doanh rộng lớn; bố trí hợp lý là điều kiện để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động một cách thuận tiện hơn và do đó góp phần nâng cao hơn hiệu quả kinh doanh XK. Nếu mạng lưới kinh doanh quá thiếu, bố trí các điểm không hợp lý sẽ gây cản trở cho hoạt động kinh doanh làm triệt tiêu tính năng động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. 4-/ Khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp: Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp như vốn cố định và vốn lưu động là cơ sở cho hoạt động kinh doanh. Các khả năng này qui định qui mô tính chất của lĩnh vực hoạt động XK. Vì vậy nó cũng góp phần quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 5-/ Huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp: Nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của kinh doanh là lợi nhuận. Để thực hiện kinh doanh có lợi nhuận, các doanh nghiệp phải huy động và sử dụng triệt để nguồn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng. C-/ Các nhân tố ảnh hưởng đến XK gạo: Hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động XK gạo do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, bắt đầu từ phía bên ngoài và cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của Chính phủ và năng lực của doanh nghiệp. 1-/ Chất lượng: a-/ Chất lượng lúa gạo chịu ảnh hưởng của 4 nhóm nhân tố chính: - Nhóm nhân tố giống lúa. - Đặc điểm môi trường sinh thái. - Nhân tố kỹ thuật canh tác. - Nhân tố chế biến bảo quản: phơi sấy, xay xát, bao gói và kỹ thuật bảo quản,... Trong 4 nhóm nhân tố trên 2 nhân tố đầu ít thay đổi, 2 nhân tố sau dễ thay đổi bằng đầu tư kỹ thuật công nghệ. Giống là nhân tố xuyên suốt qua các khâu khác. b-/ Các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng: Khi đánh giá chất lượng gạo trên thị trường thế giới, người ta thường căn cứ vào rất nhiều chỉ tiêu song có 6 chỉ tiêu cơ bản được sử dụng phổ biến khi đánh giá: Biểu 1: Các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng gạo Chỉ tiêu Đơn vị tính Chất lượng cao Chất lượng trung bình Chất lượng thầp 1. Kích thước dài hạt mm ³ 7 6 - 7 < 6 2. Hình dáng hạt Dài/rộng ³ 3 2 - 3 < 2 3. Tỷ lệ tấm % Ê 10 10 - 15 > 15 4. Mầu sắc trắng trong Có 10% trắng bạc > 10% trắng bạc 5. Hàm lượng Amiloza % < 20 20 - 25 > 25 6. Nhiệt hoá hồ % < 70 70 - 74 > 74 Nguồn: Viện kinh tế nông nghiệp Ngoài 6 chỉ tiêu này người ta còn xem xét đánh giá chỉ tiêu khác như: Tỷ lệ sâu bệnh, hạt non, tỷ lệ độ đồng đều; Mức độ xát trắng, đánh bóng, hàm lượng protein, mùi thơm đặc trưng. 2-/ Các tổ chức tham gia xuất khẩu gạo Kể từ năm 1991, nhiều tổ chức đã tham gia XK gạo. Trong năm 1992, có trên 40 DN XK gạo. Các doanh nghiệph này cạnh tranh nhau về bán gạo, làm giá giảm, ảnh hưởng xấu đến kết quả XK. Một số doanh nghiệp không có kinh nghiệm cũng tham gia XK, họ ký kết những hợp đồng bất hợp lý và một số trong số đó không có khả năng thực hiện được. 3-/ Quản lý hạn ngạch XK. Trước kia, tổng số hạn ngạch XK được phân chia cho các tổ chức XK từ đầu năm. Từ năm 1992, phần lớn hạn ngạch được phân bổ theo khả năng thương thuyết và ký kết hợp đồng của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ký kết hợp đồng trước, nhận hạn ngạch sau để làm giảm bớt việc mua đi bán lại hạn ngạch. Từ năm 1993, Bộ Thương mại đệ trình và Chính phủ thông qua như sau: Thủ tướng thông qua tổng hạn ngạch XK dựa trên sự gợi ý của Bộ Nông nghiệp - PTNT, Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Bộ Thương mại. Chính phủ cho phép Bộ Thương mại kiểm soát tất cả các hoạt động xuất nhập khẩu. Bộ Thương mại phân bổ 70% tổng hạn ngạch cho các doanh nghiệp dựa trên khả năng xuất khẩu của họ, 30% còn lại sẽ tái phân bổ cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và các doanh nghiệp mới được cấp giấy phép dưới sự cho phép của Hiệp hội lương thực. 4-/ Quản lý về giá cả. Để bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, người sản xuất và các doanh nghiệp, Bộ Thương mại hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước để nghiên cứu thị trường và cung cấp các thông tin cần thiết. Ví dụ như: Tổ chức Hiệp hội lương thực, Bộ NN - PTNT, Ban vật giá để định ra giá sàn XK. Khi Bộ Thương mại cung cấp thông tin về mức giá mới, tất cả các tổ chức phải thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Các doanh nghiệp vi phạm sẽ bị phạt, trong trường hợp xấu nhất sẽ không được cấp giấy phép XK lâu dài. Sau khi công việc hoàn tất, tất cả các doanh nghiệp phải báo cáo cho Bộ Thương mại hoặc Hiệp hội lương thực về kết quả kinh doanh. Bộ Thương mại hoặc Hiệp hội lương thực sẽ thông báo những thông tin đó cho các doanh nghiệp khác để làm giảm áp lực của khách hàng nước ngoài về thương thuyết giá cả. 5-/ Các công cụ và chính sách. a-/ Thuế quan: Trong hoạt động XK nói chung, XK gạo nói riêng, thuế là một trong những công cụ quan trọng để điều tiết cung cầu gạo ở trong và ngoài nước. b-/ Tỷ giá và chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích XK: Một chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho XK là một chính sách duy trì tương đối ổn định và ở mức thấp. Còn ngược lại, nếu như ta chỉ khuyến khích một mặt hàng như gạo chẳng hạn thì sẽ hạn chế nhập khẩu các mặt hàng khác. Do vậy việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường xuyên để đạt được mức tỷ giá cân bằng trên thị trường và duy trì mức tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả trong nước sẽ có tác động tốt đối với hoạt động XK. Trợ cấp XK cũng là một trong các biện pháp có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ cho việc khuyến khích XK. Chương II Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam I-/ Tình hình xuất khẩu của nước ta trong thời gian qua. 1-/ Kim ngạch XK. Từ sau cuộc khủng hoảng 1986, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối đổi mới. Thực hiện đường lối đổi mới trong những năm qua, nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng kể, về cơ bản nền kinh tế nước ta đã ra khỏi khủng hoảng và đi vào ổn định và đang phát triển đi lên, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng. Trong giai đoạn này, kim ngạch XK cũng không ngừng gia tăng, đóng góp một phần không nhỏ cho GDP. Thực hiện chính sách hướng về XK, XK đã và đang trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chẳng hạn, tính đến năm 1997 kim ngạch XNK của nước ta chiếm hơn 70% thị phần của các nước thuộc khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Trong thời gian qua, thành tựu của XK hàng hoá ở nước ta không chỉ biểu hiện ở tổng kim ngạch mà còn ở sự chuyển đổi cơ cấu hàng hoá, cơ cấu ngành. Do vậy, sự phát triển của sản xuất hàng hoá XK theo xu hướng tiến bộ hơn và rất có lợi cho nước ta trong giai đoạn hiện nay. Biểu 2: Kim ngạch XK giai đoạn (1986 - 1998) Đơn vị: triệu USD Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng kim ngạch 677,8 723,9 833,5 1524 1815 2082 2975 3000 3600 5500 7100 8700 9361 10700 % tăng 6,8 15,1 82,9 19,0 14,7 18,9 21,2 20 52,8 29,0 22,5 7,4 Nguồn: Niên giám thống kê 1997 - 1998 Trong giai đoạn này, kim ngạch XK đã tăng liên tục từ 20 - 30% một năm. Năm 1986, kim ngạch XK chỉ đạt 0,6778 tỷ USD, thì đến năm 1997 giá trị XK đã đạt 8,7 tỷ USD, tăng hơn 12,8 lần, riêng năm 1989 XK tăng 82,9% so với năm 1988 là năm có tốc độ tăng cao nhất. Năm 1995 tăng 52,8% so với năm 1994 đây là năm tăng cao thứ hai trong giai đoạn này, năm 1996 tăng 29% và năm 1997 tăng 22,5%, năm 1998 tăng 7,6. Trong năm 1998 này không nằm trong trung tâm cơn bão tài chính tiền tệ khu vực nhưng chịu tác động rất nặng nề đến Việt Nam, đó là kim ngạch XK giảm đột ngột xuống còn 7,6% so với năm 1997. Do trong kim ngạch ngoại thương Việt Nam có tới trên 60% là giao dịch với các nước Châu á và 70% vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) cũng bắt nguồn từ đấy. Bởi vậy cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ nhất định ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam. 2-/ Cơ cấu mặt hàng XK Trong thời kỳ từ 1986 đến 1998, cơ cấu hàng XK đã có nhiều thay đổi, nhiều mặt hàng giá trị đã được nâng cao thông qua chế biến sâu và tinh. Chúng ta đã xây dựng một số mặt hàng XK chủ lực như dầu thô, than, thuỷ sản, nông sản, lâm sản. Cơ cấu hàng XK thời kỳ này như sau: - Hàng nông lâm, thuỷ sản, nguyên liệu và chế biến chiếm 56,6%. - Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 30,7% - Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản 12,7%. Để hiểu rõ hơn về cơ cấu hàng XK ta có thể đưa ra con số phản ánh tình hình hoạt động XK của các năm như sau: Biểu 3 - Cơ cấu XK (1991 - 1998) Cơ cấu XK 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 9 tháng 1999 - Nông lâm thuỷ sản 53% 49,5% 48,4% 48% 46% 45% 36,7% 37% 36% - Công nghiệp nhẹ tiểu thủ công nghiệp 14% 13,4% 17,6% 23,2% 28,4% 29,7% 36,5% 38,7% 36% Công nghiệp nặng và khoáng sản 33% 37,1% 34% 28,8% 25,3% 25,3% 27% 24,3% 28% Nhóm hàng nông lâm thủy sản tuy tỷ trọng cơ cấu XK có giảm đi nhưng giá trị tuyệt đối vẫn tăng, trong đó việc chế biến để nâng cao giá trị và đa dạng hoá mặt hàng có ý nghĩa rất lớn và rất được quan tâm. Tỷ trọng hàng hoá qua chế biến năm 1994 đạt 25% năm 1996 lên gần 30%, riêng khu vực xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài XK trực tiếp 160 triệu USD tăng 83,9%. Đặc biệt là mấy tháng đầu năm 1999 cơ cấu xuất khẩu hàng Việt Nam đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, và trong đó hàng điện tử, nguyên liệu thô và sơ chế giảm mặc dù ở mức khiêm tốn. Kim ngạch XK tăng cao là do kinh tế nhiều nước trong khu vực ASEAN và Châu á đã phục hồi, mua hàng nhiều hơn, đồng thời Nhà nước tăng cường tháo gỡ cơ chế chính sách thương mại, đã tạo sự thông thoáng hơn về XK. Nhờ đó 4 tháng đầu năm kim ngạch XK không tăng so với cùng kỳ năm 1998 nhưng đã tăng nhanh từ quí II-1999. Sau đây là cơ cấu XK hàng Việt Nam: Biểu 4: Cơ cấu XK % 10 tháng đầu năm 1999 Nông, lâm, hải sản 18,2% đạt 2 tỷ USD Khoáng sản 19,0% đạt 2,1 tỷ USD Dệt may-da giày 28,0% đạt 3,1 tỷ USD Điện tử, linh kiện điện tử 5,3% đạt 580 triệu USD Thủ công mỹ nghệ 1,5% đạt 180 triệu USD Các lĩnh vực khác 19,4% đạt 2,13 tỷ USD Mặc dù kim ngạch XK tăng, cơ cấu chuyển dịch đã có sự tích cực. Song cơ cấu XK vẫn nặng về dạng thô và nguyên liệu chiếm hơn 40% trong tổng kim ngạch XK. Chất lượng mẫu mã và giá cả XK chưa tạo được sức cạnh tranh mạnh mẽ so với các nước trong khu vực và trên thế giới, còn những khó khăn về thị trường, giá cả, về sản xuất. Các mặt hàng chủ lực vẫn còn đơn điệu, như đã có từ cách đây 9-10 năm, chưa XK những mặt hàng mốc. Bên cạnh đó công tác quản lý của Bộ máy Nhà nước vẫn còn chồng chéo chưa chặt chẽ chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Tất cả những tồn tại trên đã dẫn tới : mặc dù lượng XK tăng cao, song kim ngạch XK không tăng tương ứng. Các mặt hàng XK chủ lực đã đạt được tốc độ tăng nhanh cả về giá trị, khối lượng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch XK, việc chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến hàng hoá, hình thành các ngành sản xuất hàng hoá, các khu công nghiệp, mở rộng thị trường XK đã tạo ra nhiều mặt hàng XK chủ lực mới có khối lượng và giá trị XK trên 100 triệu USD, như hàng dệt may mặc, cà phê, cao su (1991-1993), giày dép, hạt điều, lạc nhân (1994-1995). Thời kỳ 1991-1995 các mặt hàng chủ lực chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch XK như: dầu thô 25%, thuỷ sản 12,8%, gạo 11,6%, hàng dệt may 10,6%, cà phê 7,5%, lâm sản 3,8%, cao su 3,3%, lạc nhân 1,8%, hạt điều 1,5%. Biểu sau đây bộc lộ xu hướng của một số ngành XK chủ lực trong những năm 1990-1995. Biểu 5: cơ cấu XK một số mặt hàng chủ lực (1990-1996) Đơn vị 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Nửa đầu 1996 Dầu thô 1.000 tấn 2.600 3.917 5.446 6.153 6.942 7.652 4.000 Than đá 1.000 tấn 1.075 1.173 1.623 1.432 2.137 2.200 1.580 Gạo 1.000 tấn 1.455 1.033 1.946 1.721 1.950 2.052 1.200 Hàng may mặc triệu USD 20 158 221 335 550 700 320 Cà phê 1.000 tấn 28 94 116 123 156 210 115,2 Cao su 1.000 tấn 20 63 82 97 105 130 63 Nguồn: - Bộ KH & ĐT - Dự báo phát triển thương mại Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội, 1995 trang 37. - Tổng cục thống kê. Như vậy, đến cuối năm 1995 nước ta đã hình thành được 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực là: dầu thô, gạo, thuỷ sản, lâm sản, hàng dệt may, cà phê, cao su, giày dép, hạt điều, lạc nhân. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng XK, có sức cạnh tranh và chỗ đứng nhất định trên thị trường thế giới, đặc biệt là hàng công nghiệp nhẹ như may mặc dệt tăng bình quân 50% mỗi năm, giày dép tăng 60%, một số hàng nông sản đã và đang có vị trí cao trên thị trường thế giới như gạo, cà phê, cao su, hải sản,... trong năm 1996: xuất khẩu 3,2 triệu tấn gạo, xuất khẩu 283 nghìn tấn cà phê, xuất khẩu được 194 nghìn tấn cao su, xuất khẩu được 651 triệu USD hàng thuỷ sản, tương ứng năm 1997: 3,600 triệu tấn gạo, 390 nghìn tấn cà phê, 197 nghìn tấn cao su, 760 triệu USD hàng thuỷ sản và trong năm 1998: 3,750 triệu tấn gạo, 382 nghìn tấn cà phê, thuỷ sản 858 triệu USD. Như vậy, xuất khẩu của các mặt hàng chủ lực ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, làm tăng kim ngạch XK và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kim ngạch XK qua các năm. Trong đó hàng XK qua chế biến đang có chiều hướng tăng, năm 1995 là 22%, năm 1996 là 21%, năm 1997 là 25% và năm 1998 là 28% đã góp phần giải quyết việc làm cho nhân dân, tích cực đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới, tăng nhanh giá trị hàng hoá và kim ngạch XK phù hợp với xu thế phát triển. Sau đây là biểu đồ biểu hiện tình hình XK hàng hoá của Việt nam trong các năm 1996-1998 và mấy tháng đầu năm 1999. Biểu 6: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực (1996-1998) Chỉ tiêu Mặt hàng Đơn vị tính Thực hiện 1996 Thực hiện 1997 Thực hiện 1998 9 tháng đầu 1999 Ước năm 1999 1. Dầu thô 1.000 tấn 8.705 9.615 12.144 10.890 14.000 2. Hàng dệt may triệu USD 1.150 1.350 1.450 1.200 1.500 3. Gạo 1.000 tấn 3.200 3.600 3.750 3.820 4.200-4.300 4. Cà phê 1.000 tấn 283 382 382 250 388 5. Thuỷ sản triệu USD 651 780 858 687 900-950 6. Giày dép các loại triệu USD 530 964,3 1.031,8 1.000 - 7. Lạc nhân 1.000 tấn 85 84 87 80 110 8. Than triệu tấn 3,6 3,5 3,163 2,1 9. Chè 1.000 tấn 21,0 31 34 21,5 35 Trong đó, tỷ trọng của các mặt hàng trên chiếm trong kim ngạch XK tăng qua các năm như sau: Biểu 7: Tỷ trọng một số mặt hàng chủ lực trong kim ngạch XK Chỉ tiêu Mặt hàng Tỷ trọng 1996 Tỷ trọng 1997 Tỷ trọng 1998 9 tháng 1999 1. Dầu thô 25% 16,3% 13,2% 15,99% 2. Hàng dệt may 16,2% 15% 15,5% 14,65% 3. Gạo 12% 10% 11% 10,77% 4. Cà phê 7,5% 21% 6,3% 4,59% 5. Thuỷ sản 9,1% 9% 9,2% 8,39% 6. Giày dép các loại 7,5% 11% 11% 12,21% Nguồn: Báo cáo tổng kết 1996-1998 và 9 tháng 1999 Ngoài ra, sự biến động của tỷ trọng của một số mặt hàng trong kim ngạch XK qua các năm cũng tăng lên như 1996: hàng điện tử chiếm 1,41%, hàng thủ công mỹ nghệ 1,11%, cao su 3,0%, lạc nhân 1,5%, hạt điều 1,5%. Đến năm 1997 và năm 1998 các tỷ trọng của một số mặt hàng này thay đổi không đáng kể tương đương như: 5,4%, 1,2%, 1,4%, 0,5%, 1,3%. Riêng mặt hàng điện tử có tỷ trọng và kim ngạch XK tăng trưởng cao so với năm 1997 (+25,5% kim ngạch XK). Đặc biệt là, theo thống kê của Bộ thương mại 9 tháng đầu năm 1999 XK đạt khoảng 8,19 tỷ USD tăng so với cùng kỳ năm trước 17%. Trong đó các mặt hàng XK chủ lực thì dầu thô là mặt hàng có kim ngạch XK tăng nhanh bởi tác động tăng giá của giá dầu thế giới, 9 tháng XK được 10,89 triệu tấn, kim ngạch XK đạt 1,31 tỷ USD. Dự kiến năm nay dầu thô XK có thể đạt 2 tỷ USD. Tiếp đó là gạo, mặc dù gạo Việt Nam đã có tính cạnh tranh cao nhưng do giá gạo thế giới hạ nên kim ngạch XK gạo chỉ đạt 882 triệu USD trên 3,82 triệu tấn gạo. Dự kiến XK gạo năm 1999 đạt 4,2-4,5 triệu tấn kim ngạch XK ằ 1,1 tỷ. Mặt hàng thuỷ sản vẫn giữ được tốc độ tăng 9% so với cùng kỳ 1998 đạt 687 triệu USD nhưng đã có dấu hiệu tăng chậm dần có khó khăn về nguyên liệu và giá XK thành phẩm giảm. Dệt may đạt kim ngạch XK 1,2 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Giày dép đạt 1 tỷ USD tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 1998, hàng điện tử và linh kiện máy tính tăng 21,5% đạt 420 triệu USD, hạt tiêu tăng 16% đạt 126 triệu USD, rau quả tăng 30% đạt 56 triệu USD, hàng thủ công mỹ nghệ tăng 47% đạt 119 triệu USD, than giảm 3% đạt khoảng 73 triệu đồng, chè các loại giảm khoảng trên 10% đạt khoảng 29 triệu USD, cà phê giảm trên dưới 10% đạt khoảng 376 triệu USD, cao su giảm trên dưới 5% đạt 86 triệu USD, lạc nhân giảm trên dưới 10% đạt khoảng 28 triệu USD (tất cả tỷ lệ tăng giảm là so sánh với cùng kỳ năm 1998). Như vậy, so sánh tiềm năng của nước ta với các nước trong khu vực thì mức xuất khẩu của ta tính ra theo đầu người còn rất thấp. Mặc dù, trong những năm qua, chúng ta đã hình thành được thêm nhiều mặt hàng XK chủ lực mới, kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng đó tăng khá nhanh, song về cơ cấu hàng hoá vẫn còn tồn tại mấy vấn đề cơ bản sau: - Trong các mặt hàng XK, tỷ trọng các hàng hoá thuộc nhóm ngành nông, lâm, hải sản vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn (năm 1998 là 37%). Điều này phản ánh cơ cấu sản xuất trong nước còn mang nặng tính công nghiệp. - Hàng XK được thu gom ở nhiều địa phương, nhiều vùng lãnh thổ khác nhau nên chất lượng không đồng đều. Chưa chú trọng qui hoạch vùng sản xuất hàng XK lớn và đồng bộ. Kết hợp với do thiếu sự hướng dẫn, điều hành, phân phối, khó hấp dẫn người mua nên sức cạnh tranh trên thị trường kém, chất lượng không ổn định làm giảm uy tín của ta với các bạn hàng nước ngoài. - Mặc dù đã hình thành thêm nhiều mặt hàng XK chủ lực nhưng vẫn chưa có mặt hàng XK chủ lực đạt giá trị hàng tỷ USD. - Tuy đã có sự chuyển biến theo hướng XK hàng chế biến, nhưng nhìn tổng thể thì hàng XK của Việt Nam phần lớn còn ở dạng thô và nguyên liệu chiếm 80% giá trị kim ngạch XK, hàng chế biến sâu và tinh chiếm tỷ trọng thấp. Các mặt hàng may mặc, giày dép tuy đạt giá trị kim ngạch cao, nhưng phần lớn là hàng gia công theo đơn đặt hàng cho nước ngoài, nên giá trị thực thu ngoại tệ mới chiếm 20% giá trị kim ngạch XK. 3-/ Thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam và khả năng cạnh tranh của hàng hoá thời gian qua: Nhờ thực hiện chính sách phát triển kinh tế đối ngoại nói chung và chính sách TMQT nói riêng, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, hợp tác bình đẳng, các bên cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau. Từ năm 1990 trở về trước Việt Nam mới có quan hệ thương mại với 40 nước, đến năm 1995 đã tăng lên đến 105 nước và tổ chức quốc tế, trong đó nước ta đã ký Hiệp định thương mại với 60 nước. Và đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 152 nước và tổ chức quốc tế. Hoạt động XK hàng hoá thực sự đã sang một thời kỳ mới với một số điểm nổi bật: thị trường XK được mở rộng nhanh theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, cơ cấu khu vực thị trường đã có sự thay đổi lớn, nhưng đến nay Việt Nam vẫn chủ yếu buôn bán với các nước trong khu vực. Song cơ cấu khu vực thị trường XK của Việt Nam tiếp tục chuyển dịch theo xu hướng bắt đầu từ 1991. Đó là xu hướng chuyển dịch từ Đông sang Tây (từ Đông Bắc á và Đông Nam á sang Tây Bắc Âu và Bắc Mỹ). Biểu 8: Cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991-1998 và dự báo đến năm 2000 (Tính bằng % của tổng kim ngạch xuất khẩu) Năm Các khu vực thị trường 1991 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 1. Châu á 80 75,80 72,40 69,6 67,7 65,0 61,0 56,0 - Đông Bắc á 50,00 49,0 44,0 40,0 36,0 30,0 - Đông Nam á 21,0 19,0 22,0 23,0 23,0 24,0 - Nam á -Trung Đông 1,4 1,6 1,7 2,0 2,0 2,0 2. Châu Âu 9,79 17,17 17,8 16,8 21,50 - Tây Bắc Âu 15,0 13,0 19,0 20,0 21,0 21,0 - SNG và Đông Âu 2,8 3,8 2,5 3,0 4,0 5,0 - Liên bang Nga 8,67 1,48 2,36 1,37 - - - 3. Châu úc 0,96 1,07 1,04 0,82 2,78 3,0 3,0 2,0 4. Châu Phi 0,68 0,56 0,70 0,7 0,80 1,0 1,0 1,0 5. Châu Mỹ 0,16 2,76 4,33 4,22 4,48 - Bắc Mỹ 0,16 2,59 3,4 3,7 3,80 7,0 9,0 12,0 - Mỹ Latinh 0,17 0,93 0,52 0,68 1,0 1,0 1,0 - Hoa Kỳ 3,10 3,43 3,21 - - - Tổng cộng 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Nguồn: Xét theo Châu lục - thị trường XK của Việt Nam chủ yếu diễn ra như sau: nếu năm 1991, thị trường Châu á chiếm tới 80% tổng kim ngạch XK của Việt Nam thì năm 1994 giảm xuống còn 75,8% và năm 1997 chỉ còn chiếm 67,7% và dự báo đến năm 1999 - 2000 chiếm 63-54% (Đông Bắc á: 40-30%, Đông Nam á 23-24%). Riêng thị trường Đông Bắc á năm 1995 chiếm tới 50% tổng kim ngạch XK của Việt Nam, nhưng đến năm 1997 thì còn chiếm 44,0%. Thị trường XK của Việt Nam phát triển theo hướng mở rộng sang Châu Âu, đặc biệt là Tây Bắc Âu, thị trường liên bang Nga và các nước Đông Âu có dấu hiệu phục hồi. Nếu như năm 1991, thị trường Châu Âu mới chỉ chiếm tỷ trọng 9,79% trong tổng kim ngạch XK của Việt Nam thì đến 1994 đã tăng lên gấp 2 lần đạt 17,17% và năm 1997 tiếp tục tăng lên 21,5%, dự báo 1999-2000 chiếm tỷ trọng 57-61%. Châu Mỹ mà đặc biệt là Hoa Kỳ là một hướng mới trong phát triển mở rộng thị trường XK của Việt Nam. Nếu 1991 Châu Mỹ mới chỉ chiếm tỷ trọng 0,16% trong tổng kim ngạch XK của Việt Nam thì năm 1994 đã tăng lên 2,76% và năm 1997 chiếm tới 4,48% và dự báo 1999-2000 chiếm khoảng 10-13%. Thị trường Việt Nam cũng đang được mở rộng đáng kể sang Châu úc đặc biệt là Ôxtrâylia. Nếu 1991 thị trường này mới chỉ chiếm 0,96% trong tổng kim ngạch XK của Việt Nam nhưng đến năm 1997 đã tăng 2,78% và dự báo 1999-2000 chiếm khoảng 2-3%. Mặt khác Việt Nam không chỉ phát triển và mở rộng thị trường sang các nước đang phát triển mà còn mở rộng thị trường XK tới toàn bộ các nước công nghiệp phát triển, các thị trường được coi là khó tính, khó len chân và có mật độ cạnh tranh cao. Thị trường XK của Việt Nam có sự chuyển dịch ngay trong nhóm các nước công nghiệp phát triển. Năm 1995 thị trường các nước G7 (7 nước công nghiệp phát triển) chiếm tỷ trọng 39,7% kim ngạch XK của Việt Nam, riêng Nhật Bản chiếm 26,8%, các nước còn lại chiếm 13,0%. Nhưng đến năm 1997, Nhật Bản chỉ còn chiếm 19,5% trong tổng kim ngạch XK của Việt Nam, 6 nước còn lại chiếm 14,1%. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ với 152 nước - trong đó có 10 nước bạn hàng lớn nhất chiếm tỷ trọng trên dưới 75% tổng kim ngạch XK của Việt Nam hàng năm đó là : Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, CHLB Đức, Thuỵ Sỹ, Mỹ. Tuy nhiên danh mục và cơ cấu 10 nước bạn hàng XK lớn nhất của Việt Nam trong các năm qua đã có sự chuyển dịch và biến đổi biểu 9 - Danh mục 10 nước bạn hàng XK lớn nhất của Việt Nam những năm 1994 - 1998 (Tính theo tỷ lệ % trong tổng kim ngạch XK) 1994 1995 1996 1997 1998 Tên nước Tỷ trọng % Tên nước Tỷ trọng % Tên nước Tỷ trọng % Tên nước Tỷ trọng % Tên nước Tỷ trọng % 1. Nhật Bản 28,46 1. Nhật Bản 26,81 1. Nhật Bản 22,88 1. Nhật Bản 19,54 1. Nhật Bản 14,85 2. Singapore 14,62 2. Singapore 13,65 2. Singapore 12,20 2. Singapore 12,98 2. Singapore 11,75 3. Trung Quốc 7,42 3. Đài Loan 8,06 3. Trung Quốc 8,94 3. Đài Loan 9,08 3. Đài Loan 6,95 4. Đài Loan 5,35 4. Trung Quốc 6,64 4. Đài Loan 8,24 4. Trung Quốc 5,51 4. Đức 5,77 5. Hồng Kông 4,86 5. Hồng Kông 4,71 5. Hàn Quốc 5,55 5. Hồng Kông 5,51 5. Trung Quốc 5,02 6. CHLB Đức 4,61 6. Hàn Quốc 4,31 6. Hồng Kông 3,8 6. Hàn Quốc 4,13 6. Mỹ 5,00 7. Pháp 3,15 7. CHLB Đức 4,0 7. Mỹ 3,43 7. CHLB Đức 4,13 8. Thái Lan 2,88 8. Mỹ 3,11 8. CHLB Đức 3,24 8. Thuỵ sỹ 3,33 8. Philippine 3,74 9. LB Nga 2,22 9. Pháp 3,10 9. LB Nga 3,36 9. Mỹ 3,21 9. Hồng Kông 3,53 10. Hàn Quốc 2,19 10. Thái Lan 1,85 10. Pháp 1,87 10. Thái Lan 2,73 10. Australia 3,50 Tổng cộng 75,76 75,24 72,54 Qua biểu 9 cho thấy: tổng kim ngạch XK sang 10 nước bạn hàng lớn nhất có xu hướng giảm từ 75,76% (1994) xuống 70,15% (1997). Tương tự như với 5 nước bạn hàng lớn nhất là Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông cũng có xu hướng giảm xuống từ 60,7% (1994) xuống còn 52,6% (1997). Đối với Nhật Bản - nước bạn hàng XK lớn nhất của Việt Nam trong nhiều năm qua - tuy số lượng giá trị tuyệt đối (kim ngạch XK sang Nhật Bản) tăng lên liên tục: năm 1994 là 1.153 triệu USD, năm 1995 là 1.461 triệu USD, năm 1996 là 1.660 triệu USD và năm 1997 đạt 1.700 triệu USD, nhưng tỷ trọng XK sang Nhật Bản trong tổng kim ngạch XK của Việt Nam lại có xu hướng giảm liên tục từ 28,5% của năm 1994 xuống 19,54% của năm 1997. Đáng chú ý là Hoa Kỳ tuy mới có quan hệ buôn bán với Việt Nam._.ệu quả đồng thời phải thực hiện trách nhiệm xã hội do pháp luật quy định. Khi phục vụ lợi ích chung, trong trường hợp doanh nghiệp XK bị thua thiệt, Nhà nước có chính sách hỗ trợ thích hợp. - Cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia XNK và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng: Quyết định 117 - HĐBT ngày 16 - 6 - 1987, Nghị định 64 - HĐBT ngày 10 - 6 - 1989, Nghị định 114 - HĐBT ngày 7 - 4 - 1992, Nghị định 33 - CP ngày 19/4/1994 ... đặc biệt là Nghị định 57/CP ngày 31-7-1998 của Chính phủ ban hành trên nền tảng Luật Thương mại quy định chi tiết việc thi hành về XK - NK hàng hoá trong hoạt động thương mại với nước ngoài, gia công và đại lý mua bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài, cơ chế quản lý về phạm vi hàng hoá được XK - NK là giảm dần mặt hàng phải xin giấy phép trừ hàng cấm XK - NK hoặc XK - NK có điều kiện, hàng có hạn ngạch, gộp lại danh mục không nhiều còn lại các doanh nghiệp được chủ động kinh doanh, mà không phải đến Bộ Thương mại xin giấy phép trước. Năm 1999 quota hàng XK có hai mặt hàng là gạo và hàng dệt may (do nước ngoài quy định) với cách phân bổ công khai và hợp lý. Để thực hiện vững chắc chiến lược “hướng về XK” đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng sắp xếp lại cơ cấu nền kinh tế để hoà nhập và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Muốn đứng vững và thắng lợi trong cạnh tranh ta phải biết khai thác và phát huy tối đa có hiệu quả các nguồn lực trong nước, phát huy lợi thế so sánh của ta so với các nước khác. Những lợi thế so sánh ở mức độ nhất định về lao động, tài nguyên, về địa lý... cho phép chúng ta sớm có những bước đi hợp lý hơn trong việc bố trí, sắp xếp lại nền kinh tế theo hướng XK. Phương pháp luận của chiến lược sản xuất hướng về XK là sự phân tích về sử dụng các “lợi thế so sánh” hay những nhân tố sản xuất thuộc tiềm năng của một đất nước như thế nào trong sự phân công lao động quốc tế, để mang lại lợi ích tối ưu cho một quốc gia. Theo cách tiếp cận đó, chiến lược “hướng về XK” là giải pháp “mở cửa” nền kinh tế quốc dân để thu hút vốn và kỹ thuật vào khai thác những tiềm năng lao động và tài nguyên của đất nước. B-/ Các biện pháp thúc đẩy XK hàng hoá nói chung và gạo nói riêng của Việt Nam. Những năm trước mắt cũng như lâu dài việc đẩy mạnh và mở rộng XK là một điều kiện cơ bản để tăng nhập khẩu, tăng nguồn ngoại tệ cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đảm bảo cho kinh tế phát triển trong thế chủ động, phát triển và nâng cao hiệu quả các hoạt động về ngoại thương thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài, đẩy nhanh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới của Việt Nam. Với ý nghĩa đó, XK được coi là một khâu chủ yếu trong kinh tế đối ngoại và việc khuyến khích, đẩy mạnh XK phát triển là một bộ phận trọng yếu của chính sách ngoại thương của nước ta. Để thực hiện tốt mục tiêu trên: hoạt động XK hướng vào thực hiện các nhiệm vụ sau: - Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất...). - Nâng cao năng lực sản xuất hàng XK để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch XK. - Tạo ra những mặt hàng, nhóm hàng XK có khối lượng và giá trị lớn đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về mặt chất lượng cao và số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. - Phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh XK nhằm tạo thành cao trào XK, coi XK là đột phá cho sự giàu có. Thị trường hàng XK của Việt Nam cũng như những nước khác luôn luôn khó khăn. Vấn đề thị trường không phải là mới và của riêng một nước nào mà nó trở thành “vấn đề trọng yếu” nan giải của nền kinh tế thị trường. Vì vậy việc hình thành một hệ thống các biện pháp đẩy mạnh XK trở thành công cụ quan trọng nhất để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. Mục đích của các biện pháp này là nhằm tăng cường hàng XK với những chi phí thấp tạo điều kiện cho người XK cạnh tranh trên thị trường thế giới. 1-/ Các biện pháp cơ bản của Việt Nam để cải tạo nguồn hàng, cải tiến cơ cấu và chất lượng hàng XK. 1.1-/ Xây dựng các ngành hàng XK chủ lực: Đẩy mạnh XK là mục tiêu quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam, là điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng GDP với tốc độ cao, là tiền đề để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Hiện nay ở Việt Nam nền kinh tế thị trường chưa phát triển, muốn đẩy mạnh XK phải có chiến lược xây dựng các ngành hàng XK chủ lực để tạo ra nguồn hàng lớn và ổn định. Mặc dù có chính sách đa dạng hoá mặt hàng XK, tức là một nước không chỉ chuyên vào XK một vài sản phẩm, các quốc gia đều có chính sách xây dựng các mặt hàng XK chủ lực. Hàng chủ lực là loại hàng chiếm tỷ trọng cao quyết định trong kim ngạch XK do có thị trường nước ngoài điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi. Việc xây dựng các mặt hàng XK chủ lực có ý nghĩa lớn đối với việc mở rộng quy mô sản xuất trong nước, trên cơ sở đó kéo theo việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, mở rộng và làm phong phú thị trường nội địa tăng nhanh kim ngạch XK đồng thời nhờ chó những mặt hàng XK chủ lực mà tạo điều kiện giữ vững ổn định thị trường XK và NK tạo cơ sở vật chất để mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài. Để hình thành được những mặt hàng XK chủ lực Nhà nước cần có những biện pháp, chính sách ưu đãi hỗ trợ trong việc nhanh chóng có được những mặt hàng XK chủ lực. Các biện pháp và chính ưu tiên có thể là thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước và các chính sách tài chính... cho việc xây dựng các mặt hàng XK chủ lực phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước và thị trường thế giới. 1.2-/ Tăng cường đầu tư cho XK: Để tăng nhanh nguồn hàng XK chúng ta không thể trông chờ vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, mà phải xây dựng thêm các cơ sở sản xuất mới để tạo ra nguồn hàng XK dồi dào, tập trung, có chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chẳng hạn, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại để sản xuất chế biến hàng XK, mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài để phát triển các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu mậu dịch tự do, vùng sản xuất nông - lâm - thuỷ sản lớn và tập trung.... Nâng cấp hoặc xây dựng mới các xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ bằng những công nghệ hiện đại và phù hợp điều kiện Việt Nam đổi mới kiểu dáng công nghệ, mẫu mã hàng hoá, áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến, nâng cao tay nghề của người lao động. Chú trọng phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, dần dần hình thành và phát triển công nghiệp nông thôn và thực hiện công nghiệp hoá nông thôn nhằm chuyển bớt lao động nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Trong thời kỳ từ nay đến năm 2010 nên chú trọng phát triển các ngành hàng sản xuất và XK thu hút nhiều lao động, mức vốn đầu tư cho mỗi lao động thấp và thời gian thu hồi vốn đầu tư nhanh, chẳng hạn như các ngành hàng: dệt may mặc, sản phẩm da, giày dép, hàng mây tre, hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm đồ gỗ, hàng tơ tằm, đồ nhựa, đồ chơi trẻ em, sành sứ, hàng điện tử, nông lâm thuỷ sản chế biến, dịch vụ phần mềm, dịch vụ du lịch, dịch vụ kho vận, bảo hiểm... Trong thời kỳ 2011 - 2020 tiềm lực kinh tế của Việt Nam đã tương đối mạnh, vốn đầu tư trong nước đã tăng lên nhiều, bởi vậy, có thể đẩy mạnh và mở rộng quy mô công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Trong thời kỳ này ngoài việc tiếp tục phát triển những ngành hàng của thời kỳ trước đó thì nên chú trọng phát triển các ngành hàng sản xuất và XK được chế biến sâu và tinh tạo ra hàng hoá có giá trị cao như sản phẩm cơ điện, hoá chất phân bón và sản phẩm cao su, khi hoá long xăng dầu và sản phẩm hoá dầu, xi măng và vật liệu xây dựng cao cấp, sản phẩm thuỷ tinh, hàng nông-lâm-thuỷ sản chế biến sâu có giá trị cao, dịch vụ tài chính, ngân hàng địa ốc. Do vậy, đầu tư vốn là biện páp cần được ưu tiên để gia công XK nhưng đầu tư phải đi liền với coi trọng và nâng cao hiệu quả đầu tư. Để khuyến khích bỏ vốn đầu tư làm ra hàng XK Nhà nước cần có các chính sách ưu tiên cho lĩnh vực này như ch phép vay vốn với lãi suất ưu đãi thấp, giảm hoặc miễn nộp thuế lợi tức một số năm, Nhà nước có thể áp dụng chính sách trợ cấp có điều kiện. 1.3-/ Đẩy mạnh gia công hàng XK. Gia công XK là đưa các yếu tố sản xuất từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của bên đặt hàng nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà để XK theo ngoại tệ chênh lệch do hoạt động gia công đem lại. Thông qua gia công XK không những chúng ta có điều kiện giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân mà góp phần tăng thu nhập quốc dân, nó thúc đẩy sản xuất trong nước, khắc phục khó khăn do thiếu nguyên liệu để sản xuất các mặt hàng XK, đặc biệt là ngành công nghiệp nhẹ, tranh thủ vốn và kỹ thuật nước ngoài. Để tranh thủ được những lợi ích của gia công XK, chúng ta cần lựa chọn mặt hàng gia công và lựa chọn khách hàng gia công sao cho mang tính chất lâu dài và ổn định. Bên cạnh đó cần giải quyết một số khó khăn ở trong nước nhằm phục vụ gia công như máy móc thiết bị hiện đại cho các cơ sở gia công ổn định và lâu dài, khắc phục kiểu làm ăn tùy tiẹn của các bên gia công về quy cách, phẩm chất về thời gian giao hàng... 1.4-/ Nhằm khai thác triệt để và có hiệu quả những lợi thế của đất nước và tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn lao động. Nhà nước cần sớm có biện pháp tổng thanh tra nhằm đánh giá, phân tích thực chất hiệu quả kinh doanh trong lĩnh vực XNK, phân loại, sắp xếp lại các doanh nghiệp XNK, đồng thời đẩy mạnh việc thực hiện các chủ trương chính sách đã ban hành về lĩnh vực XNK hàng hoá. 2-/ Biện pháp thuộc về thị trường. Mở rộng thị trường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá là một yêu cầu cấp bách, trên cơ sở duy trì và phát triển các thị trường hiện có, khôi phục thị trường truyền thống, tập trung mọi cố gắng để mở thêm các thị trường mới ở khu vực Bắc Mỹ, Trung Đông và Châu Phi, chú trọng đến thị trường có khả năng tiêu thụ nhiều sản phẩm của ta. Cần tăng cường hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mở rộng thị trường, phát triển quan hệ ổn định lâu dài ký được những hợp đồng dài hạn có giá trị lớn đối với những mặt hàng XK chủ lực của ta. Điều đó đòi hỏi sự chỉ đạo thống nhất để kết hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại cấp Chính phủ, hoạt động hợp tác quốc tế như ký các hiệp định thương mại tham gia vào các tổ chức WTO, APEC, GSTP (hệ thống toàn cầu về ưu đãi thương mại giữa các nước đang phát triển), mở rộng thị trường của các Bộ, ngành, cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, hoạt động tìm kiếm bạn hàng của các hiệp hội ngành hàng, các Tổng công ty, của bà con Việt kiều ở nước ngoài. 3-/ Biện pháp thuộc về huy động và tận dụng vốn có hiệu quả. Nhà nước tập trung quản lý XK vào một đầu mối đó là Bộ Thương mại, bảo đảm trên thực tế quyền kinh tế XK đã được pháp luật quy định đối với tất cả các doanh nghiệp. Khẩn trương sửa đổi thủ tục, loại bỏ những quy định gây phiền hà cho kinh doanh XNK. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh hàng XK nâng cao trình độ tổ chức quản lý và tiếp thị của doanh nghiệp để phù hợp với nền kinh tế thị trường. Quan tâm phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của các doanh nghiệp này, thường xuyên lắng nghe ý kiến của họ để đề ra các chính sách phát triển kinh tế phù hợp với từng giai đoạn phát triển cuả đất nước. 4-/ Nhóm biện pháp thuộc công cụ vĩ mô của Nhà nước. 4.1-/ Chính sách thuế. Trong nền kinh tế thị trường thuế là công cụ vô cùng quan trọng của Nhà nước để quản lý và điều hành hoạt động XNK. Thông qua chính sách thuế để đẩy mạnh khuyến khích sản xuất hàng XK. Mặc dù các năm qua Nhà nước đã không ngừng hoàn thiện chính sách thuế, xong một số chính sách chưa đồng bộ hợp lý giữa thuế XNK và thuế sản xuất mặt hàng đó ở trong nước, thuế đối với việc tạo ra nguyên liệu cho sản xuất hàng XK, thuế đối với những hàng XK mới mà trước đó chưa ai XK ... đã xảy ra tình trạng nhập khẩu tràn lan bất chấp quan hệ cung cầu, gây ứ động đình trệ sản xuất trong nước hoặc buôn lậu khai man, khai sai để giảm thuế, trốn thuế... Trừ một số mặt hàng cấm XNK và những mặt hàng Nhà nước trực tiếp quản lý như gạo, dệt may... Các mặt hàng còn lại nên chăng dùng chính sách thuế thay cho sự quản lý bằng “xét duyệt mặt hàng”, bằng việc hạn chế kim ngạch XNK, miễn giảm đối với các sản phẩm XK, chỉ đánh thuế đối với các sản phẩm không khuyến khích XK. 4.2-/ Mở rộng chế độ trợ cấp XK, đặc biệt đối với nông sản XK dưới hai hình thức: - Trực tiếp - Gián tiếp 4.3-/ Tín dụng XK: - Nhà nước cho vay vốn dài hạn với lãi suất thấp để sản xuất, khai thác kinh doanh hàng XK, bán chịu dài hạn các doanh nghiệp quốc doanh hàng XK, cho thuê nhà máy quốc doanh (khô hoặc ướt) sản xuất hàng XK. Bên cạnh những chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng hiện nay, Nhà nước nên quy định tỷ trọng XK bắt buộc cho xí nghiệp liên doanh, khuyến khích các hình thức đầu tư BOT, BT các doanh nghiệp sản xuất hàng XK. - Thực hiện tín dụng ưu đãi đối với ngành phải huy động vốn cho sản xuất, gia công chế biến khai thác hàng XK, những ngành sản xuất, khai thác, chế biến hàng XK chủ lực hoặc truyền thống nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng XK Việt Nam trên thị trường quốc tế. - Sử dụng và khai thác sức mạnh của tín dụng quốc tế trong việc hỗ trợ tín dụng cho XK của Việt Nam bằng cách mở ra các lộ trình tín dụng đồng tài trợ quốc tế, đồng tài trợ liên doanh, bao tín dụng tương đối và tuyệt đối hoặc mua bán nợ lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước của các nước. 4.4-/ áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái, linh hoạt, hợp lý như: Xác lập chế độ thanh toán hàng XK theo tỷ giá hối đoái riêng với mức cao hơn tỷ giá hối đoái thị trường. Phá giá có mức độ đồng ngân hàng Việt Nam, hạn chế NK hàng nước ngài vào góp phần cải thiện tình hình thiếu hụt của cán cân thanh toán vãng lãi của Việt Nam, để đẩy mạnh XK đặc biệt đối với hàng dầu thô, dệt may, da giày, điện tử, cà phê, cao su... 5-/ Nhóm biện pháp thuộc về thông tin. Hiện nay hệ thống thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Củng cố và hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế (cả tin trong nước và tin thế giới), đồng bộ hoá hệ thống thống kê từ Trung ương đến cơ sở, áp dụng các biện pháp: Xâm nhập thị trường và tiêu thụ hàng hoá ở nước ngoài. Điều này được thể hiện rõ như sau: - Lập ra các viện nghiên cứu và cung cấp thông tin cho các nhà XK. - Lập các cơ quan Nhà nước ở nước ngoài để nghiên cứu tại chỗ tình hình thị trường hàng hoá, thương nhân và chính sách của Chính phủ nước sở tại. - Đào tạo cán bộ chuyên gia giúp cho các nhà XK. - Nhà nước đứng ra ký kết các Hiệp định thương mại, Hiệp định hợp tác kỹ thuật, vay nợ, viện trợ... trên cơ sở đó thúc đẩy XK. 6-/ Biện pháp thuộc về con người: Con người là trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển giáo dục, KH - CN, kinh tế hài hoà với phát triển xã hội, bảo vệ môi trường để phát triển kinh tế bền vững giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá Việt Nam. Phát triển nguồn nhân lực tương xứng với nền kinh tế. Đặc biệt là trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ với trình độ chuyên môn giỏi, nhanh chóng nắm bắt được tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của thế giới, nêu cao tinh thần dân tộc khi làm ăn với các đối tác nước ngoài... Đây là những yếu tố quyết định sự thành bại của chiến lược công nghiệp hoá hướng về XK, đẩy nhanh tốc độ và quy mô XK, làm cho sản phẩm XK của Việt Nam ngày càng có tính cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Cuối cùng là chúng ta nên áp dụng hình thức hàng đổi hàng để đẩy mạnh XK, nhất là đối với các thị trường mà điều kiện thanh toán không thuận lợi. Trong điều hành XNK cần gắn việc NK thiết bị phương tiện có giá trị cao, vật tư hàng hoá khối lượng lớn của một nước với việc XK hàng hoá của ta. C-/ Các biện pháp thúc đẩy XK gạo nói riêng của Việt Nam 1-/ Quan điểm, định hướng XK gạo. 1.1-/ Quan điểm chung - Một là, mở rộng thị trường XK gạo phải hoà nhập với xu hướng tự do hoá, thương mại quốc tế và khu vực. Trên cơ sở của lợi thế so sánh mà từng bước tự do hoá thị trường tuỳ theo trình độ phát triển của sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường, tuỳ theo từng giai đoạn mà có bước đi phù hợp. - Hai là, mở rộng thị trường XK gạo phải đảm bảo an ninh thường trực quốc gia, tăng cường an ninh lương thực, nâng cao hiệu quả của sản xuất. 1.2-/ Định hướng XK gạo. - Tăng cường XK gạo chất lượng cao vào thị trường nhập khẩu gạo thường xuyên như Châu Âu, Bắc Mỹ, Trung Đông, giữ vững thị trường Malaysia, Singapore, Hồng Kông, Hàn Quốc, từng bước thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Những thị trường này từ nay đến năm 2005 chiếm 20 - 30% thị phần XK gạo của Việt Nam. - Theo dõi chặt chẽ nguồn cung của các nước Châu á sẵn sàng đáp ứng nhu cầu nhập bổ sung đột xuất của khu vực này, nhất là các thị trường Indonexia, Phillippine, Irắc, Iran, Trung Quốc..., giữ vững thị trường Nam Mỹ và Châu Phi. 2-/ Biện pháp thúc đẩy mở rộng XK gạo Việt Nam 2.1-/ Biện pháp vĩ mo 2.1.1-/ Quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo XK. - Vùng Đồng bằng sông Hồng + Chọn vùng và quy hoạch vùng trồng lúa hàng hoá + Dự kiến bố trí các vùng sản xuất lúa chất lượng cao. + Tổ chức hệ thống sản xuất giống lúa. + Tăng cường hệ thống khuyến nông và phòng trừ dịch bệnh. + Tăng cường cơ sở hạ tầng và chế biến lúa gạo. + Đổi mới các chính sách đối với sản xuất + Vốn đầu tư vùng sản xuất lúa gạo chất lượng cao. + ước tính hiệu quả. - Vùng Đồng bằng sông Cửu Long + Chọn vùng lúa XK + Dự tính quy mô vùng lúa gạo XK ĐBSCL + Hệ thống các biện pháp sản xuất chế biến lúa gạo XK - ĐBSCL + Chính sách đối với các vùng lúa gạo XK ở ĐBSCL + Vốn đầu tư cho vùng lúa gạo XK + Sơ bộ hiệu quả vùng lúa gạo XK. 2.1.2-/ Đổi mới tổ chức quản lý và điều hành vĩ mô về XK lúa gạo. Đây là biện pháp để hoà nhập vào xu thế tự oa hoá thương mại toàn cầu từng bước mở cửa thị trường, giảm dàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan, cũng như giảm độc quyền kinh doanh lúa gạo. - Đổi mới tổ chức: Tổ chức lại hệ thống các doanh nghiệp kinh doanh XK gạo. Cho phép các DN của mọi thành phần kinh tế them gia XK gạo nếu có đăng ký kinh doanh, gạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường nội địa. Gắn các công ty kinh doanh XK với từng vùng sản xuất lúa gạo để các công ty phối hợp với các địa phương (Sở Nông nghiệp, Trung tâm khuyến nông tỉnh...) khuyến cáo và hỗ trợ, bao tiêu sản phẩm khi bà con nông dân chuyển đổi giống. - Đổi mới quản lý và điều hành vĩ mô về XK gạo Cải thiện cơ chế quản lý bằng hạn ngạch, nên chăng thực hiện đấu thầu hạn ngạch gạo, phát triển hệ thống kinh doanh lương thực mang tính tập trung "đầu mối" có tính cạnh tranh cao trong và ngoài nước. Uỷ ban An ninh lương thực Việt Nam phải thực hiện đúng cam kết Rome 1996 về việc đảm bảo an ninh lương thực ở mọi nơi mọi lúc, phải hợp tác chặt chẽ với Asean trong lĩnh vực an ninh lương thực. Chẳng hạn như, hạn ngạch XK gạo 2000 là 4 triệu tấn, UBND tỉnh phân bổ 90% chỉ tiêu hạn ngạch cho các doanh nghiệp, phần còn lại cho các doanh nghiệp XK có hiệu quả. Tiếp tục duy trì đầu mối kinh doanh XK gạo như hiện nay những vẫn có chọn lọc các đầu mối chủ lực để đấu thầu quốc tế, tham gia ký kết hợp đồng XK gạo lớn tiếp tục duy trì cơ chế cho các doanh nghiệp XK gạo không thường xuyên được XK nếu có điều kiện và đảm bảo chính sách chung. Nhà nước tiếp tục quy định giá sàn mua lúa cho nông dân. Phó thủ tướng giao cho Bộ NN-PTNN làm việc với hiệp hội lương thực Việt Nam để xây dựng và công bố tiêu chuẩn gạo XK của Việt Nam với cuối quý I/2000 đồng thời tiến hành XK gạo và loại bỏ ngay những tiêu cực trong hoạt động này. 2.1.3. Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng: Để hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp XK, Chính phủ nên thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này sẽ làm nhiệm vụ bảo lãnh các khoản vay, cùng chia sẻ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với Ngân hàng. Quỹ này có thể bảo lãnh các khoản như: chứng từ thương mại, nộp thuế, thực hiện hợp đồng tiền vay để mua máy móc, vật tư phục vụ sản xuất gạo XK,... 2.1.4. Lập quỹ bảo hiểm: Đối với mặt hàng gạo, giá cả rất không ổn định, việc lập ra quỹ bảo hiểm để hạn chế bớt rủi ro cho người sản xuất là thực sự cần thiết nhất là đối với mặt hàng gạo. Bởi vì quỹ bảo hiểm có nhiệm vụ trợ giúp các thành viên Hiệp hội khí giá cả biến động thất thường. 2.1.5. Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại: Thị trường gạo thế giới là một trong những thị trường biến động phức tạp nhất. Do vậy cần thiết phải thành lập trung tâm xúc tiến thương mại bởi vì chức năng của trung tâm là cung cấp thông tin, tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại, nghiên cứu thị trường và đưa hàng Việt Nam ra thị trường quốc tế. 2.1.6. Chính sách khuyến khích sản xuất lúa gạo XK và mở rộng thị trường tăng khả năng cạnh tranh của XK gạo Việt Nam. - Chính sách khuyến khích sản xuất lúa gạo XK như chính sách ruộng đất, chính sách đầu tư và thuỷ lợi phí, chính sách tín dụng, chính sách giá và an toàn lương thực kích cầu để giữ giá lúa trong giai đoạn thu hoạch rộ, Chính phủ có những chính sách hỗ trợ việc mua lúa và XK gạo để giá thu mua không bị rớt xuống dưới giá sàn. - Chính sách khuyến khích mở rộng thị trường và tăng khả năng cạnh tranh của XK gạo Việt Nam. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý XK gạo theo6tuấn già hướng đơn giản hơn thông thoáng hơn phù hợp với cơ chế thị trường. Chẳng hạn như, hệ thống văn bản pháp lý, cơ chế quản lý XK gạo, chính sách thuế XK gạo, chính sách tín dụng thích hợp, chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư thoả đáng vào cơ sở hạ tầng kho tàng, bến cảng, khâu chế biến để giảm chi phí chế biến chi phí lưu thông,... tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh XK lúa gạo, chờ cơ hội giá thế giới có lợi mới XK. 2.2. Biện pháp vi mô: Để giải quyết tốt vấn đề về XK gạo phải đưa ra rất nhiều biện pháp sau đây là một số biện pháp điển hình: 2.2.1. Đảm bảo chủ động trong khâu mua lúa gạo, không ép giá nông dân. 2.2.2. Tiếp tục tăng cường vai trò hiệu quả hoạt động của Hiệp hội XK gạo như: hoạt động tiếp thị XK và mở rộng thị trường. 2.2.3. Quan hệ tốt với bạn hàng quốc tế. 2.2.4. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, bồi dưỡng cán bộ công nhân viên. - Thường xuyên gửi cán bộ, các nhà doanh nghiệp trẻ có năng lực đi học nghiên cứu ở các lớp đào tạo cán bộ kinh doanh trong và ngoài nước. - Đào tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ mới vào nghề, giúp họ nâng cao được trình độ nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Định kỳ gửi cán bộ đi đào tạo lại. - Đào tạo đội ngũ kỹ thuật viên để có đủ năng lực kiểm tra, giám định hàng hoá, đảm bảo chất lượng hàng hoá đúng yêu cầu, tiêu chuẩn quốc tế. - Cử cán bộ kinh doanh ra nước ngoài để nắm bắt được nhu cầu thị trường vừa học hỏi kinh nghiệm làm ăn, gây dựng các mối quan hệ làm ăn. 2.2.5. Hỗ trợ nông dân cải tiến kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng gạo. Yếu tố quyết định đến chất lượng gạo XK là trong khâu thu mua doanh nghiệp cũng cần phải thực hiện việc giám định chất lượng sản phẩm nghiêm túc, chú trọng bảo quản, các hoạt động chế biến đóng gói,... cũng phải được tiến hành khẩn chương để chuẩn bị sẵn sàng cho XK. Thông thường đơn đặt hàng gạo XK theo các tiêu chuẩn sau đây: Bảng 18: Tiêu chuẩn gạo XK Tiêu chuẩn % tấm 5% 10% 15% 20% Bạc bụng 2 2 7 5 Tạp chất 0 1 0,5 0,5 Bệnh 1 0,5 0 0 Độ ẩm % 14 14 14 14 Nguồn: Viện kinh tế Nông nghiệp 2.2.6. Thực hiện kịp thời các nghị định thông tư, chỉ thị của Chính phủ về dự trữ lương thực và XK gạo. Tóm lại, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh mở rộng thị trường XK hơn nữa để hạt gạo Việt Nam đến trực tiếp người tiêu thụ trong thời gian tới cần tăng tỷ trọng gạo đặc sản chất lượng cao trong XK. Nên coi các biện pháp trên là những phương sách để mở rộng thị trường gạo cao cấp sang Châu Âu, Bắc Mỹ và các nước khác. Hợp tác với các nước Tây Âu và các tổ chức quốc tế để tranh thủ làm gạo theo các chương trình viện trợ cho Châu Phi (hoặc đổi hạt điều). IV-/ Một số ý kiến nhằm thúc đẩy XK hàng hoá của Việt Nam: 1. Muốn tiến nhanh và hội nhập với nền kinh tế thế giới để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào XK, chúng ta phải tham gia một cách tích cực, toàn diện và có hiệu quả hơn nữa vào các thể chế kinh tế - thương mại quốc tế để tranh thủ điều kiện quốc tế, mở rộng thị trường của Việt Nam. 2. Để thắng trong cạnh tranh, hàng hoá Việt Nam phải nâng nhanh chất lượng, mẫu mã, quy cách, đa dạng hơn về phương thức kinh doanh,... Muốn vậy, cần có chiến lược chuyển giao công nghệ một cách hữu hiệu theo hướng tăng cường được các loại hình công nghệ phục vụ cho sản xuất các mặt hàng XK mà Việt Nam đang có lợi thế về tài nguyên và lao động. Đồng thời chính sách thị trường đúng đắn để không chỉ cung cấp tin tức về thị trường theo cách nói về tiềm năng và triển vọng chung như trước mà phải thiết lập được hồ sơ về thị trường về thương nhân và về mặt hàng, trong đó có các thông số về dung lượng giá cả, thuế quan, quy cách chất lượng, thị hiếu, các đối thủ có thể cạnh tranh,... Các thông tin trên được cập nhật và phong phú thêm thông qua tham tán thương mại, mang Internet, Motnet,... Đồng thời, cần chú trọng tới việc phát triển đa dạng các hình thức dịch vụ. 3. Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa các chính sách đẩy mạnh XK, chẳng hạn: - Tiếp tục cải tiến về cơ chế chính sách cần khắc phục sự hạn hẹp do cách ghi ngành hàng cụ thể trong giấy chứng nhận kinh doanh hiện hành, thay vào đó chỉ ghi một số ngành nghề có hạn ngạch, có điều kiện, những ngành nghề còn lại được ghi gộp "kinh doanh thương mại hoặc sản xuất thương mại". - Cần sớm có sự cải sửa các chi tiết về thủ tục kiểm tra hàng hoá ra vào cửa khẩu. - Về thuế, cần thực hiện chủ trương tạm thời không thu thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung đối với các doanh nghiệp XK trên 50% sản phẩm sản xuất ra hoặc có doanh thu từ XK chiếm trên 50% tổng doanh thu và áp dụng một cách thoả đáng Luật thuế VAT đối với việc nhập khẩu các thiết bị máy móc,... trong nước chưa sản xuất được để tạo tài sản cố định đầu tư mở rộng sản xuất hàng XK. - Tuân thủ xu hướng thông thoáng nhưng ở thời điểm nhất định, nên chăng có thể áp dụng biện pháp tình thế. 4. Về xuất khẩu gạo: rút ra những yếu tố hạn chế trong điều hành XK gạo những năm qua, gần đây Chính phủ cho Bộ NN-PTNT cùng địa phương tiếp tục triển khai quy hoạch, xây dựng các vùng sản xuất lúa hàng hoá với các giống lúa có chất lượng cao, giá thành đầu tư sản xuất hợp lý, với nhiều loại giống phù hợp với sinh thái của từng vùng và yêu cầu của khách hàng. Đồng thời triển khai một loạt các biện pháp khuyến khích khác như: - Triển khai dự án lúa gạo chất lượng cao: 300 ngàn ha ở phía Bắc, 1 triệu ha ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đẩy mạnh thực hiện các chương trình về thuỷ lợi đã được qui hoạch. - Mở rộng các phương thức kinh doanh phân bón của các nhà máy sản xuất phân bón tại thời điểm vào vụ sản xuất ở một số khu vực tập trung nhằm bảo đảm giá phân bón hợp lý cho nông dân. Năm 2000, cơ chế điều hành XK gạo và nhập khẩu phân bón vẫn giống như 1997-1999, có bổ sung những giải pháp điều chỉnh, xử lý những mặt chưa được. Như hạn ngạch gạo, căn cứ vào kết quả XK năm 1999. Thủ tướng Chính phủ giao một lần từ đầu năm hết 100% chỉ tiêu cho các tỉnh, Bộ. Tỉnh, Bộ giao cho doanh nghiệp trên cơ sở kết quả kinh doanh của doanh nghiệp năm 1999. Việc điều chỉnh tốc độ XK tuỳ vào tình hình sản xuất và thị trường, giá cả do Thủ tướng Chính phủ quyết định mang tính định hướng cho từng quí theo đề nghị của Hiệp hội lương thực, Ban điều hành và giao cho Ban điều hành XK gạo và nhập khẩu phân bón quyết định cụ thể. Các doanh nghiệp ngoài đầu mối trong năm 1999 xuất khẩu trên 5 ngàn tấn gạo thì Bộ thương mại tiếp tục cho phép XK khi khách hàng mở L/C thanh toán nếu bảo đảm giá xuất khẩu chung. kết luận Thực hiện hướng về XK trong những năm qua của Việt Nam đã làm cho kim ngạch XK tăng lên không ngừng, khai thác được lợi thế của đất nước về tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ mạt; giải quyết công ăn việc làm cho người lao động tăng thu nhập cải thiện đời sống cho nhân dân góp phần ổn định xã hội. Đồng thời có nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, vật tư để ngày càng không ngừng tăng thêm mặt hàng xuất khẩu trong danh mục, tăng tỷ trọng các mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao trong tổng kim ngạch XK, đặc biệt là các mặt hàng chủ lực, nhanh mạnh vào chế biến sản xuất tinh và sâu mở ra các mặt hàng xuất khẩu mới, tận dụng một cách tối đa công nghệ hiện đại của nước ngoài đã nâng cao chất lượng hàng hoá đã làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới như gạo, dệt may thuỷ sản,... và đang từng bước xâm nhập vào những thị trường khó tính, xuất khẩu trực tiếp. Và cuối cùng là làm tăng thêm nguồn ngoại tệ để phục vụ cho nhập khẩu. Tóm lại thực hiện được đầy đủ các biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam là một trong các nhân tố quan trọng góp phần vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước đưa đất nước sớm ra cuộc khủng hoảng và tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bài viết này được hoàn thành với sự hướng dẫn của thầy giáo TS. PGS Đặng Đình Đào. Song do trình độ có hạn nên bài viết không tránh được một số hạn chế, rất mong được sự góp ý của thầy. Xin chân thành cảm ơn ! tài liệu tham khảo 1. G.A. Schomell "Các nghiệp vụ quản lý xuất nhập khẩu". Trung tâm thông tin TM VN 1990. 2. Các Nghị định, chỉ thị của Chính phủ về xuất nhập khẩu. 3. Tình hình kinh tế xã hội 1997 - Tổng cục thống kê. 4. Võ Thu Thanh "Kinh tế đối ngoại" NXB Thống kê 1994 5. "Kinh tế đối ngoại VN - Nội dung giải pháp hiệu quả". NXB thống kê 1994 6. Tạp chí thị trường giá cả từ 1990-1999 7. Thương nghiệp thị trường Việt Nam 1990-1999 8. Tạp chí Thương mại từ 1990-1999 9. Con số và sự kiện từ 1990-1999 10. Kinh tế và dự báo từ 1990-1999 11. Kinh tế phát triển từ 1990-1999 12. Việt Nam - Đông Nam á từ 1990-1999 13. Thông tin lý luận từ 1990-1999 14. Phát triển kinh tế từ 1990-1999 15. Tạp chí ngân hàng từ 1995-1999 16. Những vấn đề thế giới 1990-1999 17. Thời báo kinh tế từ 1997-1999 18. Hà Nội mới 1999 19. Diễn đàn Doanh nghiệp 1997-1999 20. Doanh nghiệp thương mại 1998-1999 mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0650.doc
Tài liệu liên quan