Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu Mây tre đan ở nước ta

Mục lục Trang Lời mở đầu 03 Chương 1 : Xuất khẩu và vai trò của nó đối với sự phát triển của một quốc gia 05 1.1 Tổng quan về xuất khẩu 05 1.1.1 Lý thuyết về thương mại quốc tế 05 1.1.2 Khái niệm xuất khẩu 06 1.1.3 Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 07 1.1.4 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu 11 1.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế 13 Chương 2 : Thưc trạng xuất khẩu mây tre đan trong những năm vừa qua 18 2.1 Tổng quan về xuất khẩu

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu Mây tre đan ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua 18 2.2 Tình hình xuất khẩu mây tre đan của Việt Nam trong những năm vừa qua 22 2.2.1 Vai trò của hàng mây tre đan 22 2.2.2 Chủng loại hàng mây tre đan 23 2.2.3 Thực trạng kim ngạch xuất khẩu 24 2.2.4 Thị trường xuất khẩu 25 2.3 Đánh gía tình hình xuất khẩu mây tre đan trong những năm vừa qua 27 2.3.1 Những thành tựu đạt được 27 2.3.2 Những vấn đề còn tồn tại 28 2.3.3 Những nguyên nhân tồn tại 28 Chương 3: Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mây tre đan trong những năm sắp tới 3.1 Các quan điểm và định hướng về xuất khẩu ở Việt Nam từ nay đến năm 2010 30 3.1.1 Những quan điểm cơ bản đổi mới chính sách ngoại thương và đẩy mạnh xuất khẩu ở Việt Nam 30 3.1.2 Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020 32 3.1.3 Mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu trong giai đoạn 1996-2010 35 3.2 Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mây tre đan 38 3.2.1 Thúc đẩy kinh doanh hàng xuất khẩu 39 3.2.1.1 Xây dựng cơ sở vật chất 40 3.2.1.2 Phát triển các làng nghề 41 3.2.2 Mở rộng thị trường xuất khẩu 44 3.2.2.1 Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu 44 3.2.2.2 Hoạt động Marketing 44 3.2.2.3 Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu 45 3.2.2.4 ứng dụng thương mại điện tử vào kinh doanh xuất khẩu 46 3.2.3 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 47 3.2.4 Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên 47 3.2.5 Hoàn thiện công tác tổ chức quản lý 48 3.2.6 Biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài 48 3.2.7 Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội 51 Kết luận 53 Tài liệu tham khảo 54 Lời nói đầu Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Các quốc gia trên thế giới phụ thuộc lẫn nhau trong mối quan hệ kinh tế, không có quốc gia nào phát triển mà không mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là ngoại thương. Xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá càng thể hiện một cách rõ nét chẳng hạn như sự lớn mạnh của các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới: WTO, EU, ASEAN, APEC ... Thêm vào đó, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới diễn ra hết sức sôi động và phát triển như vũ bão . Sự phát triển của khoa học công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Chính vì vậy, ngày nay hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển đi lên cửa mỗi quốc gia. Trong công cuộc phát triển kinh tế ,xây dựng đất nước, đặc biệt là sau khi tiến hành đổi mới kinh tế xã hội, Đảng và Chính phủ Việt Nam rất coi trọng hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc định ra một chiến lược phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, là một yêu cầu thực sự cấp bách đối với Việt Nam hiện nay. Chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam phải hướng vào không ngừng mở rộng phân công và hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, khai thác tối đa và có hiệu quả lợi thế so sánh của đất nước để phát triển kinh tế thông qua con đường xuất khẩu. Nó như là một phương tiện hữu hiệu cho phát triển kinh tế, tăng thu ngoại tệ phục vụ nhu cầu nhập khẩu, cải tiến công nghệ, kỹ thuật hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm. Hơn thế, hoạt động xuất khẩu còn là một yếu tố không thể thiếu nhằm triển khai thực hiện chương trình CNH-HĐH đất nước. Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng các chiến lược phát triển dài hạn, các chương trình, kế hoạch thực hiện cũng như đưa ra các biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu phát triển. Và đây cũng là nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu. Một trong số các mặt hàng xuất khẩu chiến lược đó có hàng mây tre đan. Hàng mây tre đan được làm từ các nguồn nguyên liệu như song mây, tre, rang, nứa,...Mà các nguồn nguyên liệu này rất sẵn có ở các vùng thôn quê và chi phí thấp . Hơn thế, các sản phẩm mây tre đan được sản xuất thủ công nên cần nhiều lao động. Việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng mây tre đan là vấn đề cấp thiết do đó qua tìm hiểu và nắm bắt được phần nào vấn đề cấp thiết đó cho nên em đã chọn đề tài: “Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu Mây tre đan ở nước ta” làm đề tài Đề án môn học của em. Mục đích của Đề án môn học là nhằm nghiên cứu các vấn đề lý luận chung và thực tế phát triển của nước ta để đề xuất các biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng mây tre đan, tạo ra nhiều việc làm cho các làng nghề, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động . Đề án môn học bao gồm 3 chương với nội dung như sau: - Chương 1: Xuất khẩu và vai trò của nó đối với sự phát triển của một quốc gia - Chương 2: Thực trạng xuất khẩu Mây tre đan trong những năm đổi mới - Chương 3: Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu Mây tre đan trong những năm sắp tới. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do hạn chế và thời gian và kinh nghiệm thực tế nên đề án môn học không tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết, em mong nhận được sự góp ý bổ sung của cô giáo và các bạn. Chương 1 Xuất khẩu và vai trò của nó đối với sự phát triển của một quốc gia 1.1- tổng quan về xuất khẩu 1.1.1-/ Lý thuyết về thương mại quốc tế . Xuất khẩu và nhập khẩu là nội dung quan trọng và cốt lõi của thương mại quốc tế.Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Hoạt động trao đổi giữa các quốc gia có vai trò vô cùng quan trọng đổi với nền kinh tế bởi thương mại quốc tế mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước. Thương mại quốc tế cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng so với đường giới hạn khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ đóng cửa, tự cung, tự cấp. Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội, sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và khả năng sản xuất. Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng, số sản phẩm và dịch vụ thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào,sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng. Điều này là tất yếu bởi thương mại quốc tế xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên sản xuất giữa các quốc gia dẫn tới việc chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu các mặt hàng từ nước ngoài mà kém lợi thế khi sản xuất trong nước. Tuy nhiên, vì sao một quốc gia hoàn toàn kém lợi thế hơn trong việc sản xuất các sản phẩm mà vẫn duy trì đưọc hoạt động thương mại quốc tế ? Quy luật lợi thế tương đối của David Ricardo đã trả lời cho câu hỏi này. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi quốc gia chuyên môn hoá vào sản xuất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất thì thương mại quốc tế đem lại lợi ích cho tất cả các nước. Nền tảng của quy luật lợi thế tương đối là chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội của một sản phẩm là số lượng các sản phẩm khác mà người ta phải từ bỏ để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm đó. Sự chênh lệch giữa các nước về chi phí cơ hội trong việc sản xuất ra một mặt hàng là cơ sở quyết định phương thức thương mại quốc tế. Và sau nay phát triển lên thành lý thuyết H-O. Lý thuyết H-O còn được gọi là lý thuyết lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có. Đây cũng chính là lý thuyết hiện đại giải thích về nguồn gốc thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Lý thuyết này được các nhà kinh tế nổi tiếng khác như T.M Rubczyuski, Wolfgang Stolper, Paul A Samuelson, James William...tiếp tục mở rộng và phát triển hơn để khẳng định những tư tưởng khoa học và giá trị thực tiễn to lớn của định lý H-O, hay còn gọi là quy luật H-O về tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất mà trước đó đã được Hecksher và Ohlin đưa ra với nội dung là: một nước sẽ xuất khẩu hàng hoá mà việc sản xuất nó cần sử dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của đất nước đó và nhập khẩu hàng hoá mà việc sản xuất nó cần nhiều yếu tố đắt và tương đối đắt ở nước đó. Tuy còn có những khiếm khuyết lý luận trước thực tiễn phát triển phức tạp của hoạt động thương mại quốc tế ngay nay. Xong quy luật này vẫn đang là quy luật chi phối động thái phát triển của thương mại quốc tế và có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn quan trọng đối với các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nước chưa phát triển. Vì nó chỉ ra rằng đối với những nước này, đa số là nước đông dân, nhiều lao động, nhưng nghèo vốn. Do đó, trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nước, cần tập trung xuất khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều lao động. Sự lựa chọn các sản phẩm xuất khẩu phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có, sẽ là điều kiện cần thiết để đưa các nước đang phát triển và chưa phát triển có thể nhanh chóng hội nhập vào sự phân công lao động và hợp tác thương mại quốc tế. Trên cơ sơ lợi ích thương mại thu được sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước 1.1.2. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu: Hoạt động xuất khẩu là quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia và lấy ngoại tệ làm phương tiện thanh toán. Sự trao đổi mua bán hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức ở cả bên trong và bên ngoài đất nước nhằm thu được ngoại tệ, những lợi ích kinh tế-xã hội, thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hoá trong nước phát triển, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Các mối quan hệ này xuất hiện khi có sự phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất. Chuyên môn hoá đã thúc đẩy nhu cầu mậu dịch nhưng ngược lại, một quốc gia sẽ không tiến hành chuyên môn hoá sản xuất nếu không chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động trao đổi hàng giữa các quốc gia. . Cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ và tác động của các quy luật kinh tế khách quan, phạm vi chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng nên sự ràng buộc giữa các quốc gia ngày càng lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Chuyên môn hoá sản xuất là biểu hiện sinh động của quy luật lợi thế so sánh. Quy luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất và coi đó là chìa khoá của phương thức thương mại. Phương thức đó là khai thác được lợi thế so sánh của nước xuất khẩu và mở ra tiêu dùng trong nước nhập khẩu. 1.1.3 Các hình thức của hoạt động xuất khẩu: 1.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp: Xuất khẩu trực tiếp là xuất khẩu hàng hoá do chính doanh nghiệp sản xuất hoặc đặt mua của doanh nghiệp sản xuất trong nước, sau đó xuất khẩu những sản phẩm này với danh nghĩa là hàng của mình. Để tiến hành một thương vụ xuất khẩu trực tiếp cần theo các bước sau: + Tiến hành ký kết hợp đồng nội địa trước, đây là hình thức ký kết với các đơn vị kinh doanh hàng hoá trong nước. Sau đó mua hàng và trả tiền cho các đơn vị sản xuất trong nước. + Ký hợp đồng ngoại (loại hợp đồng ký kết với các đối tác nước ngoài có nhu cầu mua sản phẩm của doanh nghiệp), tiến hành giao hàng và thanh toán tiền. Với hình thức xuất khẩu trực tiếp này có ưu điểm là đem lại nhiều lợi nhuận cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng, do không mất khoản chi phí trung gian và tăng uy tín cho doanh nghiệp nếu hàng thoả mãn yêu cầu của đối tác giao dịch. Nhưng nhược điểm của nó là không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể áp dụng theo được, bởi nó đòi một lượng vốn tương đối lớn và có quan hệ tốt với bạn hàng. 1.1.3.2 Xuất khẩu uỷ thác: Đây là hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp ngoại thương với vai trò trung gian xuất khẩu thay cho các đơn vị sản xuất bằng các thủ tục cần thiết để xuất hàng và hưởng phần trăm phí uỷ thác theo gía trị hàng xuất khẩu. Các bước tiến hành xuất khẩu uỷ thác: +Ký hợpđồng nhận uỷ thác cho đơn vị sản xuất sản phẩm xuất khẩu trong nước. + Ký hợp đồng với bên nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền. + Nhận phí uỷ thác từ đơn vị sản xuất. Ưu điểm của hình thức này là hạn chế được rủi ro, trách nhiệm ít, bởi người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, không đòi hỏi vốn lớn. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được cho doanh nghiệp ngoại thương không cao. Còn đối với doanh nghiệp sản xuất, khi thực hiện phương thức xuất khẩu này, họ sẽ mất một khoản phí uỷ thác và không được tiếp cận với khách hàng nước ngoài, tìm hiểu thị trường xuất khẩu. 1.1.3.3. Xuất khẩu gia công uỷ thác: Khi tiến hành xuất khẩu theo hình thức này, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đứng ra với vai trò nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm về cho đơn vị sản xuất, xí nghiệp gia công. Sau đó, khi sản phẩm được hoàn thành nhận lại và xuất cho bên đối tác. Các bước tiến hành: + Ký hợp đồng gia công uỷ thác với đơn vị sản xuất trong nước. + Ký hợp đồng gia công với nước ngoài và nhập nguyên vật liệu. + Xuất khẩu lại thành phẩm cho bên nước ngoài. + Thanh toán chi phí gia công cho đơn vị sản xuất ( bên nước ngoài thanh toán trả và doanh nghiệp thanh toán lại đơn vị sản xuất ). Để kinh doanh xuất khẩu theo hình thức này, doanh nghiệp không cần bỏ nhiều vốn kinh doanh nhưng hiệu quả tương đối cao, ít rủi ro, thị trường tiêu thụ chắc chắn. Tuy nhiên, đây cũng là một hình thức phức tạp bởi nó đòi hỏi phải tìm được đối tác nước ngoài có nhu cầu. Vì thế, doanh nghiệp phải có uy tín lớn trên thương trường và năng động trong kinh doanh. 1.1.3.4. Gia công quốc tế: Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó có một bên nhận gia công nguyên vật liệu hay bán thành phẩm của bên đặt gia công nhằm thu lợi nhuận ( phí gia công ). Hiện nay, hình thức gia công quốc tế được vận dụng khá phổ biến nhưng thị trường của nó chỉ là thị trường một chiều. Và bên đặt gia công thường là các nước phát triển, còn bên nhận gia công là các nước chậm phát triển. Đó là do sự khác nhau về lợi thế so sánh của mỗi quốc gia. Đối với bên đặt gia công, họ tìm kiếm một nguồn lao động với giá rẻ hơn giá trong nước nhằm giảm chi phí sản xuất tăng lợi nhuận. Còn bên nhận gia công có nguồn lao động dồi dào mong muốn có việc làm tạo thu nhập, cải thiện đời sống và qua đó tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. 1.1.3.5. Xuất khẩu theo nghị định thư: Hình thức xuất khẩu hàng hoá này được ký kết theo nghị định thư gữa hai Chính phủ, và hàng hoá ở đây thường là hàng trả nợ. Xuất khẩu theo hình thức này sẽ hạn chế được rủi ro trong thanh toán ( do Nhà nước trả ), tiết kiệm chi phí nghiên cứu tìm thị trường, giá cả hàng hoá dễ chấp nhận… Nhưng xuất khẩu theo hình thức này đem lại lợi nhuận không cao. Hiện nay, hình thức này không được áp dụng phổ biến, bởi không đem lại nhiều lợi ích cho cả hai bên : hàng hoá không đồng đều, pha tạp, chất lượng không cao… 1.1.3.6. Xuất khẩu tại chỗ: Là hình thức mà hàng hoá xuất khẩu được bán ngay tại nước xuất khẩu. Doanh nghiệp ngoại thương không phải ra nước ngoài để đàm phán, ký kết hợp đồng mà người mua tự tìm đến doanh nghiệp để mua hàng.Hơn nữa,doanh nghiệp cũng không phải làm thủ tục hải quan,mua bảo hiểm hàng hoá hay thuê phương tiện vận chuyển. Đây là hình thức xuất khẩu đặc trưng, khác biệt so với hình thức xuất khẩu khác, và ngày càng được vận dụng nhiều theo xu hướng phát triển trên thế giới. 1.1.3.7. Tái xuất khẩu : Tái xuất khẩu là hình thức xuất khẩu những hàng hoá nhập khẩu nhưng qua chế biến ở nước tái xuất ra nước ngoài. Giao dịch trong hình thức tái xuất khẩu bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về lượng ngoại tệ lớn hơn so với số vốn ban đầu bỏ ra. Giao dịch này được tiến hành giữa ba nước : nước xuất khẩu , nước tái xuất và nước nhập khẩu. Hình thức tái xuất khẩu có thể diễn ra theo hai cách sau : + Hàng hoá đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất rồi đi từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược lại, dòng tiền lại được chuyển từ nước nhập sang nước tái xuất rồi sang nước xuất ( nước tái xuất trả tiền nước xuất rồi thu tiền nước nhập ). + Hàng hoá đi thẳng từ nước xuất sang nước nhập. Nước tái xuất chỉ có vai trò trên giấy tờ như một nước trung gian. Hoạt động tái xuất khẩu chỉ diễn ra khi mà các nước bị hạn hẹp về quan hệ thương mại quốc tế do bị cấm vận, hoặc trừng phạt kinh tế hoặc thị trường mới chưa có kinh nghiệm cần có người trung gian. 1.1.3.8. Buôn bán đối lưu: Buôn bán đối lưu là hình thức giao dịch trong đó hoạt động xuất khẩu kết hợp với hoạt động nhập khẩu và người bán cũng đồng thời là người mua. Lượng hàng hoá trao đổi ở đây có giá trị tương đương với nhau. Do đó, việc xuất khẩu hàng hoá theo hình thức này không phải là để thu ngoại tệ về mà nhằm thu về lượng hàng hoá có giá trị tương đương với lô hàng xuất khẩu . Các loại hình buôn bán đối lưu: + Hình thức hàng đổi hàng: là hình thức giao dịch mà hai bên trực tiếp trao đổi hàng hoá, dịch vụ có giá trị tương đương, không dùng tiền là phương tiện trung gian. + Hình thức trao đổi bù trừ: là hình thức xuất khẩu liên kết với nhập khẩu ngay trong hợp đồng, có thể từ trước hay bù trừ song song. + Nghiệp vụ đối lưu : là hình thức một bên giao thiết bị cho bên kia rồi mua lại thành phẩm hay bán thành phẩm. Hình thức buôn bán đối lưu có ưu điểm là : có thể thực hiện được khi các bên thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm, thiếu ngoại hối. Hơn nữa, nó tránh được những rủi ro do biến động của thị trường ngoại hối gây ra. Nhưng để thực hiện phương thức giao dịch này đòi hỏi phải tiến hành theo các yêu cầu sau: + Hai bên phải cùng tham gia vào cân bằng về mặt hàng hoá . + Cùng cân bằng về giá cả. + Cùng cân bằng về tổng giá trị hàng hoá trao đổi. + Cùng thoả thuận điều kiện giao hàng. Các yêu cầu trên được thực hiện đầy đủ sẽ tạo cho cả hai bên cùng thoả mãn với số lượng hàng mà mình nhận được. Do vậy, quan hệ giữa hai quốc gia sẽ ngày càng tốt đẹp và bền vững. Tóm lại, với các hình thức xuất khẩu được trình bày ở trên, việc áp dụng theo hình thức nào là tuỳ thuộc vào bản thân từng doanh nghiệp và bên đối tác tham gia thoả hiệp. Mà mỗi hình thức đều có những mặt tích cực và mặt hạn chế, cho nên khi tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần nghiên cứu đánh giá xem xét nên xuất khẩu theo hình thức nào để thu về nhiều lợi ích nhất cho doanh nghiệp. 1.1.4 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh được thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu: Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu: Tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu là số lượng bản tệ phải chi ra để có thể thu được một đơn vị bản tệ. Trong đó : Rx :Tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu C :Tổng chi phí xuất khẩu P :Giá xuất khẩu quốc tế Nếu tỷ suất tính ra thấp hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì mặt hàng xuất khẩu trong phương án kinh doanh có hiệu quả. Ngược lại, tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì mặt hàng xuất khẩu trong phương án kinh doanh không có hiệu quả. Trường hợp tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu bằng tỷ giá thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà đưa ra phương án kinh doanh phù hợp. Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn T tính theo công thức sau : Trong đó : S : là tổng số tiền bỏ ra để kinh doanh B : là lãi A : là khấu hao I : là khoản trả tiền lợi tức và tiền vay Chỉ tiêu tỷ xuất doanh lợi Rb được tính như sau : Chỉ tiêu điểm hoà vốn : Chỉ tiêu số lượng hàng hoá bán ra để thu hồi vốn : Trong đó : xi : Là số lượng hàng hoá bán ra để thu hồi vốn d : là chi phí cố định p : là giá bán một đơn vị hàng hoá v : là chi phí khả biến để sản xuất , thu mua một đơn vị hàng hoá Chỉ tiêu để tính doanh thu tại điểm hoà vốn Trong đó : So : là doanh thu ở điểm hoà vốn V : là tổng chi phí khả biến S : là tổng doanh thu bán hàng Tính thời gian đạt hoà vốn Trong đó : to : thời gian đạt hoà vốn t : thời gian trong kỳ hoạt động Sau khi phương án kinh doanh đã được đề ra , đơn vị kinh doanh phải cố gắng tổ chức thực hiện phương án đó thông qua việc quảng cáo , bắt đầu chào chuẩn bị hàng hoá ... 1.2.vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế Đối với mỗi quốc gia trên thế giới hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu được trong mục tiêu phát triển kinh tế đất nước. Mỗi quốc gia trên đều có điều kiện sản xuất, tài ngyên, thiên nhiên và trình độ kỹ thuật khác nhau ...vì thế một quốc gia không thể sản xuất các mặt hàng để đáp ứng nhu cầu của người dân, mà sẽ tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất các mặt hàng đem lại lợi thế cao hơn. Hoạt động xuất khẩu sẽ giúp quốc gia đó khai thác triệt để lợi thế so sánh và mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu. Xuất khẩu là cơ sơ của nhập khẩu, là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, và là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế . Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cớ sở hạ tầng. Luôn luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu còn giải quyết việc làm và chuyển đổi cơ cấu kinh tế . Vì vậy, vai trò của xuất khẩu thể hiện ở những điểm sau: a, Xuất khẩu tạo nguồn vốn quan trọng để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển. Để công nghiệp hoá đất nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ nhiều nguồn như: liên doanh đầu tư nước ngoài , vay nợ , viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, từ hoạt động xuất khẩu. Xong các nguồn vốn này rồi cũng phải trả nợ bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Vì vậy xuất khẩu là nguồn vốn quan trọng nhất để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu những tư liệu sản xuất thiết yếu phục vụ cho công nghiệp hoá và hiện đại háo đất nước. Bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới tăng trưởng chỉ dựa trên nguồn vốn vay nợ, viện trợ và đầu tư nước ngoài đã phải trả một giá đắt đã minh chứng cho điều này. Hơn nữa, trong thực tế xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ mật thiết với nhau, vừa là kết quả vừa là tiền đề của nhau. Đẩy mạnh xuất khẩu là để tăng cường nhập khẩu để nó mở rộng, tăng nhanh khả năng xuất khẩu. b, Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại: Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay là phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thế giới. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như ở nước ta, sản xuất về cơ bản chưa đủ để tiêu dùng nếu chỉ thụ động ở sụ dư thừa của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và chậm chạp. Hơn nữa, nó không góp phần chuyên môn hoá sản xuất và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi. Hai là, coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ở: Xuất khẩu tạo điều kiện cho ngành liên quan có điều kiện phát triển thuận lợi. Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là điều kiện tạo thêm vốn kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nước ta. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. Để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới về quy cách, chất lượng sản phẩm, muốn thắng lợi trong cạnh tranh thì một mặt sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác người lao động phải nâng cao tay nghề học hỏi kinh nghiệm sản xuất tiên tiến trên thế giới. Hơn nữa, nhu cầu sở thích của người tiêu dùng ngày càng đa dạng và hết sức phong phú, muốn xuất khẩu được hàng hoá đoì hỏi phải có sự đổi mới về mẫu mã, chất lượng, kiểu dáng, kích thước của hàng hoá. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành. c, Xuất khẩu góp phần tích cực vào giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu góp phần tích cực vào giải quyết công ăn việc làm. Các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, các khu công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã tác động tích cực đến đội ngũ lao động không chỉ gia tăng về số lượng lao động có việc làm mà từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ lao động để đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hoá. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế đối với mặt hàng xuất khẩu đã khiến cho Việt nam cũng đã bắt đầu hình thành và đang có xu hướng phát triển ngày càng mạnh đội ngũ lao động gồm cả trí thức, công nhân kỹ thuật cao trong một số ngành kinh tế kỹ thuật hiện đại như dầu khí, điện tử tin học, cơ khí chính xác, bưu chính viễn thông ... Phát triển các ngành sản xuất hàng xuất khẩu cần nhiều lao động là một trong những con đường chắc chắn nhất để tạo nên nhiều công ăn việc làm và thu được nhiều ngoại tệ mà không phải sử dụng tài nguyên quí hiếm. Dựa vào việc lập hàm hồi qui về mối quan hệ giữa xuất khẩu và việc làm cho thấy nếu xuất khẩu tăng lên 1% so với năm gốc thì chỗ việc làm cho người lao động sẽ tăng lên ít nhất 0,4% so với năm gốc. Xuất khẩu tạo công ăn việc làm và làm tăng thu nhập cho người lao động không chỉ ở các vùng đô thị, các khu chế xuất, các xí nghiệp công ty liên doanh đầu tư nước ngoài mà đã lan rộng đến nhiều vùng nông thôn. Do vậy, xuất khẩu đã góp phần cải thiện đời sống của nhân dân và từng bước xoá bỏ chênh lệch mức sống thực tế giữa các tầng lớp dân cư ở nhiều khu vực lãnh thổ khác nhau. Hơn nữa, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn nhập khẩu về vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ cho đời sống, và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. d, Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại đã làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng đầu tư vận tải quốc tế ... Đến lượt nó chính xác các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo điều kiện tiền đề mở rộng xuất khẩu. Như việc ký kết các hiệp định và tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực lại khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Như vậy, nhận thức được vai trò của xuất khẩu, đối với nước ta, một quốc gia đang chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì hoạt động xuất khẩu được đặt ra cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế xã hội. Không thể nào xây dựng được một nền kinh tế hoàn chỉnh nếu chỉ dựa trên nguyên tắc"Tự cung tự cấp", vì nó đòi hỏi rất tốn kém về vật chất, thời gian và cũng rất khó mà đạt được hiệu quả như mong đợi. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh nâng cao hiệu quả của hoạt động mở rộng ngoại thương, trên cơ sở" Hợp tác bình đẳng không phân biệt thể chế chính trị và đôi bên cùng có lợi" như nghị quyết của đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định. Hơn nữa, nước ta còn đang là một trong những nước có trình độ phát triển kinh tế thấp, những nhân tố thuộc tiềm năng là: Tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ. Còn những nhân tố thiếu là: vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý thì việc mở rộng quan hệ buôn bán giữa nước ta với nước ngoài là điều kiện quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế. Muốn phát triển nền kinh tế ta phải dựa vào sự đầu tư về vốn, kỹ thuật từ nước ngoài, trong đó kết hợp tận dụng nguồn lao động dồi dào, giá rẻ cùng với nguồn tài nguyên phong phú để tăng hiệu quả sản xuất, hấp thụ khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm hướng tới xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế đưa ra thị trường quốc tế thu được ngoại tệ, tạo công ăn việc làm cho người lao động, ổn định và phát triển nền kinh tế, biến nước ta trỏ thành một mắt xích quan trọng trong sự phân công và chuyên môn hoá lao động trên thế giới hiện nay. chương 2 Thực trạng xuất khẩu mây tre đan trong những năm đổi mới 2.1.Tổng quan về xuất khẩu của Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ 1990 đến nay Thực hiện chủ trương đa dạng hoá , đa phương hoá kinh tế đối ngoại từ năm 1986 đến nay hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta có những bước chuyển biến căn bản trong đó có sự góp phần của hoạt động xuất khẩu. Thời gian qua , Nhà nước đã tiến hành đổi mới , hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu . Do vậy hoạt động xuất khẩu đã đạt đượcnhững kết quả nổi bật , góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của đất nước. bảng 1:Tình hình xuất khẩu thời kỳ 1990-2000 Đơn vị :Triệu USD Năm Kim ngạch xuất khẩu ( Triệu USD) Tốc độ tăng (%) 1990 2.404 23,5 1991 2.087 -13,2 1992 2.580 23,7 1993 2.985 15,7 1994 4.054 35,8 1995 5.448 34,4 1996 7.255 33,2 1997 9.185 26,6 1998 9.361 1,9 1999 11.523 23,1 2000 14.308 23,9 Nguồn : Niên giám thống kê và Báo cáo của Bộ thương mại Trong những năm vừa qua nhìn chung kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thường đạt tốc độ cao trừ năm 1991 và năm 1998 năm 1991 là năm có kim ngạch xuất khẩu giảm sút so với năm 1990 song sự giảm sút đó không đáng kể so với những khó khăn hụt hẫng lớn do sự đổ vỡ câù thị trường Liên xô và Đông Âu gây ra kim ngạch xuất khẩu năm 1991 giảm 13,2% so với năm 1990 . Ngoài ra cũng phải nhận thấy năm 1991 là năm đầu tiên của Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu vượt trên 2 tỉ USD . Qua đó mới thấy được những cố gắng lớn của ngoại thương Việt Nam trong công cuộc đổi mới . Từ năm 1992 trở đi liên tục kim ngạch xuất._. khẩu của năm sau cao hơn năm trước với tốc độ tăng trưởng khá mạnh và đều vượt kế hoạch dự kiến ban đầu . Năm 1992 kim ngạch xuất khẩu đạt 2,58 tỷ USD tăng 2,37% so với năm 1991 . Năm 1993 kim ngạch xuất khẩu đạt 2,985 tỷ USD tăng 15,7 % so với năm 1992 . Năm 1994 kim ngạch xuất khẩu đạt 4,054 tỷ USD tăng 35,8% so với năm 1993 .Năm 1995 kim ngạch xuất khẩu đạt được 5.448 tỷ USD tăng 34,4 % so với năm, 1994 .Tính chung cả kế hoạch 5 năm ( 1991- 1995) tổng kim ngạch xuất khẩu đatj gần 16,5 tỷ USD vượt 10% so với kế hoạch đã được quốc hội đề ra : 12- 15 tỷ USD , bình quân hàng năm tăng khoảng 19,28 %. Số liệu phân tích trên có thể cho thấy tốc độ tăng trưởng của nước ta trong giai đoạn này là khá nhanh và cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế ( khoảng 8%) là phù hợp với xu thế phát triển kinh tế đã trở thành quy luật chung của cả thế giới , đặc biệt là các nước có nền kinh tế bắt đầu đi lên đang trong giai đoạn thực thi chính sách mở cửa nền kinh tế . Năm 1996 kim ngạch xuất khẩu đạt 7,255tỷ USD răng 33,2 % so với năm 1995. Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu đạt 9,185 tỷ USD tăng 26,6 % so với năm 1996 . Năm 1998kim ngạch xuất khẩu đạt 9,361 tỷ USD tăng 1,9 % so với năm 1997 .Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 11,523 tỷ USD tăng 23,1 % so với năm 1998 và năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 14,038 tỷ USD tăng 23,9 % so với năm 1999 . Nhìn chung tốc độ tăng trưởng bình quân từ 19,28 % thời kỳ 1991- 1995 tăng lên 21,74 % thời kỳ 1996- 2000 và cả thời kỳ 1991 –2000 kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 20,4 % cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (đạt khoảng 7,5%) kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu người tăng nhanh , năm 1991 mới đạt được 30 USD ,năm 1995 đạt 73 USD , đạt 119 USD , năm 1999 là 150 USD và đến năm 2000 con số này đã tăng lên 184 USD , vượt qua ngưỡng mọi nước có nền ngoại thương kém phát triển ( 170USD) . Những kết quả thành tựu khả quan đó đã chứng tỏ ngoại thương Việt Nam đã từng bước trở thành động lực trực tiếp cho quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước nền kinh tế và phần quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế của đất nước . Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có chuyển biến tích cực phù hợp theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá .Tỷ trọng các mặt hàng qua chế biến tăng , tỷ trọng nhóm các mặt hàng thô và sơ chế giảm . Thời kỳ 1991 – 2000 đánh dấu bước tiến quan trọng của một số mặt hàng chủ lực tạo ra diện mạo cho hàng xuất khẩu của Việt Nam đó là sự xuất hiện và tăng nhanh chóng của một số mặt hàng mới như dầu thô gạo điện tử , máy tính , hàng dệt may , giầy dép, thủ công mỹ nghệ, thuỷ sản ,cà phê hạt điều …Nếu như năm 1989mới có 2 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 200 triệu USD thì đến nay đã có 10 mătj hàng , trong đó có 4 mặt hàng vượt qua mức 1 tỷ USDvào năm 2000 là dầu thô , hàng may mặc , giầy dép và thuỷ sản ( Riêng dầu thô đã vượt mức 2 tỷ USD từ năm 1999 ) . trước đây xuất khẩu các mặt hàng chủ lực này chiếm 60% nay chiếm 75-80%. Điều đó phản ánh cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam đã được cải thiện theo hướng tăng dần đầu tư chiều sâu và chuyên môn hoá theo phân công lao động xã hội ,phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng kinh tế , nâng cao chất lượng xuất khẩu , phù hợp với tiến trình hội nhập và phân công lao động quốc tế . bảng 2 : Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu Đơn vị: % Mặt hàng Tỷ trọng bình quân Chỉ số phát triển bình quân 1990 - 1995 1996 - 2000 Dầu thô 23,5 18,8 130,0 Hàng dệt may 10,5 14,5 124,8 Giầy dép 2,7 10,3 157,3 Hàng thuỷ sản 12,4 9,2 119,6 Gạo 11,6 8,6 107,6 Cà phê 6,6 5,0 117,7 Cao su 3,0 1,7 112,4 Hàng thủ công mỹ nghệ 2,4 1,4 101,5 Hạt điêù 1,5 1,1 137,5 Hàng rau quả 1,1 1,0 110,8 Than đá 1,8 1,0 112,6 Hạt tiêu 0,6 0,9 124,8 Nguồn : Tổng hợp kinh tế xã hội Về thị trường xuất khẩu của nước ta đã chuyển biến kịp thời và không ngừng mở rộng từ năm 1991 sau khi thị trường truyền thống là Liên xô (cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã , Châu á là thị trường xuất khẩu chính của nước ta , chiếm 60% tổng kim ngạch . Tỷ trọng xuất khẩu sang các khu vực Âu – Mỹ đều tăng khá nhanh , nhất là thị trường các nước EU và Mỹ tỷ trọng thị trường Châu Âu tăng từ 6% năm 1991 lên 26% năm 2000 còn tỷ trọng thị trường Châu Mỹ tăng từ 0,3 % năm 1991 lên 6% năm 2000. Sự chuyển dịch co cấu thị trường như trên mang tính tích cực và phù hợp với chiến lược đa phương hoá thị trường , đa dạng hoá mặt hàng của ta .Điều này cũng cho thấy khả năng tham gia thị trường thế giới của ta đang tăng lên. Biểu đồ: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam, (Nguồn: Bộ thương mại) Trong thời qua , sự đổi mới về chính sách , cơ chế xuất khẩu theo hướng tháo gỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp đã thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau tham gia hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn FDI tăng trưởng nhanh hơn các doanh nghiệp trong nước từ 161 triệu USD năm 1994 lên 2577 triệu USD năm 2000 .Tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn FDI cũng tăng dần , 4% năm 1994 lên 19% năm 1997 và 22,4% năm 2000 . 2.2 Tình hình xuất khẩu mây tre đan của Việt Nam trong những năm vừa qua 2.2.1. Vai trò của hàng mây tre đan: Về kinh tế, việc xuất khẩu các sản phẩm hàng mây tre đan góp phần giải quyết tình trạng thiếu ngoại tệ của đất nước. Mặt khác, việc sản xuất hàng mây tre đan đòi hỏi một lượng vốn ban đầu không lớn nên khắc phục được tình trạng thiếu vốn cho các doanh nghiệp. Hơn nữa, việc sản xuất hàng mây tre đan còn góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho lực lượng lao động dư thưà ở các vùng nông thôn và tăng thu nhập cải thiện đời sống cho họ. Về xã hội, hàng mây tre đan là mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống đã được Đảng và Nhà nước ta nhận thức rõ vai trò của nó trong xã hội nên đã có chính sách phù hợp nhằm phát triển mặt hàng này. Khi phát triển mặt hàng này sẽ tạo nhiều việc làm cho số lượng lao động nhàn rỗi, góp phần giải quyết các tề nạn xã hội nảy sinh, bảo đảm đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc, ổn định xã hội. Mặt khác, thông qua việc sản xuất và xuất khẩu hàng mây tre đan nhiều nước trên thế giới hiểu biết hơn về con người và nền văn hoá của Việt Nam, góp phần đưa đất nước nhanh chóng hội nhập với nền văn hoá các nước trên thế giới. Như vậy, việc xuất khẩu hàng mây tre đan là vấn đề cấp thiết bởi nó đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho đất nước vì được làm từ các nguồn nguyên liệu sẵn có ở vùng nông thôn như mây, tre, rang, nứa,…và giải quyết các vấn đề xã hội cho đất nước. 2.2.2 Chủng loại hàng mây tre đan: Hàng mây tre đan là một trong những mặt hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất từ các nguồn nguyên liệu có sẵn trong nước với chi phí thấp. Các nguồn nguyên liệu này đa dạng, có tính mềm, dẻo, dai và bền, qua chế biến trở nên cứng cáp và chắc chắn. Vì thế, mặt hàng mây tre đan cũng rất đa dạng và phong phú về chủng loại và hình thức, mẫu mã. Có thể chia các sản phẩm mây tre đan thành các nhóm sau: + Nhóm 1: Các sản phẩm nội thất như bàn, ghế, giường, tủ… được làm chủ yếu từ các nguyên liệu song mây, guộc kết hợp với gỗ, sắt để tăng độ bền, cứng cho sản phẩm. Các sản phẩm mây tre đan loại này chiếm khoảng 15 % kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan mỗi năm. + Nhóm 2: Các sản phẩm mang tính trang trí thủ công như lẵng hoa, lộc bình, giỏ, làn, chao đèn, khay… Các sản phẩm loại này rất đa dạng về kích cỡ, màu sắc và kiểu cách mẫu mã. Nó có thể được kết hợp từ nhiều nguyên liệu khác nhau hay đơn thuần chỉ dùng một loại nguyên liêụ. Mặc dù được kết hợp từ nhiều nguyên liệu khác nhau nhưng nguyên liệu chính của sản phẩm vẫn là song mây, rang, guột. Lợi nhuận thu được từ việc xuất khẩu các sản phẩm thuộc nhóm này rất cao, chiếm 75% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan . + Nhóm 3: Các sản phẩm khác như: mành trúc, mành tre, túi du lịch…Các sản phẩm này thường được làm từ một nguyên liệu chính có kết hợp nhưng không đáng kể. Lợi nhuận thu về từ việc xuất khẩu các sản phẩm nhóm này chỉ chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan. 2.2.3 Kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan: Từ năm 1986 trở lại đây , dưới sự khởi xướng của Đảng và nhà nước con đường đổi mới của Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu đáng kể .Nền kinh tế đã đi vào ổn định và đang phát triển đi lên , quan hệ quốc tế được mở rộng , đời sống nhân dân được cải thiện Hòa vào xu thế phát triển của đất nước xuất khẩu mây tre đan cũng ngày càng một lớn mạnh hơn , có cái nhìn đúng đắn về xu thế biến động của thị trường . Hàng mây tre đan là các sản phẩm thủ công do bàn tay con người tạo ra từ các nguồn nguyên liệu sẵn có và chi phí thấp như : Tre mây rang … Do đó tận dụng được lao động dư thừa ở các vùng thôn quê với giá nhân công rẻ nên đêm lại nhiều lợi nhuận . Vì thế mặt hàng xuất khẩu mây tre đan được coi là một trong những các mặt hàng xuất khẩu chiến lược .Đến nay mặc mặc dù có những lúc thăng trầm nhưng mặt hàng mây tre đan vẫn giữ một vị trí khá quan trọng . Bảng3:Kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan trong những năm vừa qua Đơn vị: Triệu USD Năm Kim ngạch xuất khẩu Tỷ lệ tăng so với năm trước 1996 61.6 101% 1997 48.4 -21.4% 1998 36.8 -24% 1999 30.7 -16.6% 2000 20.6 -32.9% Nguồn: Niên giám thống kê Theo bảng số liệu ta thấy kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng mây tre đan tăng giảm qua mỗi năm song tốc độ tămg giảm không đều . Năm 1996 kim ngạch xuất khẩu tăng 101% so với năm 1995. Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu giảm 21.4%( tương ứng với 13.2 triệu USD) so với năm 1996. Năm 1998 giảm so với năm 1997 là 24% ( tương ứng với 11.6 triệu USD) . Năm 1999 giảm so với năm 1998là 16.6% (tương ứng với 6.1 triệu USD) .Năm 2000 giảm so với năm 1999 là 32.9% ( tương ứng với 10.1 triệu USD). Nhưng so với năm 1996 giảm 66.5%( tương ứng với là 41 triệu USD), giảm 57.4% so với năm 1997 (tương ứng với là 27.8 triệu USD),giảm 41.3% so với năm 1998 ( tương ứng với 16.2 triệu USD) Như vậy nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan có thể là : +Cùng với khó khăn chung , xuất khẩu hàng mây tre đan còn gặp phải trở ngại lớn trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu +Hơn nữa nhà nước chưa đầu tư quy hoạch phát triển sản xuất hàng hoá phục vụ cho xuấ khẩu nên hàng mây tre đan chưa đáp ứng được yêui cầu cao của thị trường về chất lượng sản phẩm. 2.2.4 Thị trường xuất khẩu : Thị trường là nơi diễn các hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ, là nơi đảm bảo đầu ra cho sản phẩm của các doanh nghiệp. Do đó, không có thị trường doanh nghiệp không thể tồn tại. Mà công tác thị trường lại vô cùng khó khăn bởi có hàng ngàn doanh nghiệp lớn nhỏ đang tham gia cạnh tranh tìm thị trường. Song với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, việc tìm kiếm thị trường lại càng khó khăn hơn, vì thị trường của họ ở bên ngoài, thông tin không đầy đủ , kịp thời, lại khác nhau về phong tục, tập quán, thị hiếu… Trên cơ sở hoạt động nghiên cứu tiếp cận thị trường xuất khẩu hàng mây tre đan đã đề ra và thực hiện các biện pháp nghiên cứu thị trường sau để mở rộng thị trường xuất khẩu hàng mây tre đan : + Giới thiệu sản phẩm thông qua các thương vụ của Bộ Thương mại tại nước ngoài. + Thông qua các đại diện nước ngoài tại Việt Nam. + Chào bán hàng thông qua chi nhánh ở nước ngoài Bằng các biện pháp nghiên cứu và tiếp cận thị trường trên, thị trường xuất khẩu hàng mây tre đan của nước ta ngày càng phát triển và mở rộng. Ban đầu, thị trường xuất khẩu hàng mây tre đan của nước ta chỉ là thị trường truyền thống Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu là chủ yếu. Đến nay, thị trường xuất khẩu đã được mở rộng sang các nước Tây Âu, Châu Mỹ, Châu á.Và trong tương lai với các biện pháp hoạn thiện hơn, thị trường xuất khẩu sẽ được mở rộng sang các nước Châu Phi. Bảng 4: Thị trường xuất khẩu hàng mây tre đan chínhcủa nưởc ta Đơn vị tính: Triệu USD Thị trường Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Ba Lan 5.3 14,4 4.85 15,8 3.67 17,8 Đài Loan 2.8 7,6 5.71 18,6 4.05 19,67 Đức 2.32 6,3 0.46 1,5 0.39 1,9 Lit va 1.18 3,2 4.61 15 0.22 1,05 Mỹ 0.01 0,04 0.04 0,14 0.037 0,18 Nga 8.98 24,4 5.99 19,5 5.05 24,5 Nhật 7.58 20,6 5.31 17,3 3.11 15,1 Rumani 3.9 10,6 2.36 7,7 1.88 9,15 Nước khác 4.73 12,86 1.37 4,46 2.19 10,65 Nguồn: Niên giám thống kê Qua bảng số liệu ta thấy, thị trường Nga và các nước Đông Âu vẫn là thị trường xuất khẩu chính của công ty chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan. Đây là thị trường mà sức tiêu thụ khá lớn, yêu cầu về sản phẩm không cao, là một thị trường đầy tiềm năng . Thông qua thị trường này, nước ta có cơ sở, nền tảng để mở rộng quan hệ kinh tế sang các nước khác. Chính vì vậy, nước cần phải duy trì và phát triển thị trường này hơn. Thị trường các nước Châu á cũng chiếm một tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan khá . Mà đứng đầu là Nhật Bản với mức tỷ trọng bình quân hàng năm trên 18%. Sau đó là Đài Loan và một số nước trong khối ASEAN. Quan hệ với thị trường này, xuất khẩu mây tre đan có thuận lợi về địa lý, về phong tục tập quán, nền văn hoá tương đồng nên hàng hoá mẫu mã của hàng mây tre đan dễ thích nghi với lối sống của họ. Còn thị trường Tây Âu, là thị trường mà nhu cầu về sản phẩm mỹ nghệ khá lớn song rất khắt khe về mẫu mã, chất lượng và màu sắc của hàng hoá. Vì vậy, để phát triển mở rộng thị trường này nhất thiết ngành mây tre đan phải nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mẫu mã, màu sắc . 2.3. Đánh giá tình hình xuất khẩu mây tre đan trong những năm vừa qua : 2 3.1 Những thành tựu đạt được : Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu tình hình hoạt động xuất khẩu mây tre đan ta thấy: Một là :qua mấy năm gần đây,xuất khẩu mây tre đan đã dần dần lấy lại được thị trường truyền thống không những thế mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu sang nhiều nước khác, đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu tăng lên. Hai là: Xuất khẩu đã hoàn thành tốt nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước , thực hiện đúng chính sách pháp luật của Nhà nước và cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân . Ba là: Xuất khẩu mây tre đan đã năng động, sáng tạo, đa dạng hoá các mặt hàng và phần nào đã đáp ứng được nhu cầu về hàng hoá có tiêu chuẩn cao. Bốn là:Xuất khẩu mây tre đan đã tổ chức liên doanh xây dựng đầu tư thành công các nhà máy sản xuất tại Việt Nam . Năm là: Xuất khẩu hàng mây tre đan, tạo được uy tín lâu dài trên thị trường thế giới, thu hút được nhiều khách hàng trong và ngoài nước đến đặt hàng tạo ra cơ sở để phát triển xuất khẩu hàng mây tre đan. Sáu là: Khôi phục được và phát triển làng nghề truyền thống trong đất nước như làng nghề mây tre đan. Bảy là:Đồng thời nhờ sự phát triển công tác xuất khẩu đã đem lại việc làm cho hàng nghìn lao động nhàn rỗi ở các làng nghề, tạo điều kiện phát triển kinh tế của đất nước . Tám là:Về công tác quản lý : Ngành mây tre đan đã tiến hành cắt giảm lực lượng quản lý , tăng cường lực lượng kinh doanh xuất khẩu thông qua việc tăng thêm cán bộ nhân viên cho phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. 2 3.2 Những vấn đề tồn tại: Thứ nhất là: Tỷ trọng mặt hàng xuất khẩu mây tre đan còn thấp và chưa có tính chiến lược lâu dài. Thứ hai là: Hiệu quả chưa cao, lợi nhuận còn thấp tốc độ chu chuyển vốn chưa cao. Thứ ba là : Hoạt động marketing chưa được tiến hành tốt, còn nhiều hạn chế và lúng túng, hình thức còn manh mún nhất thời và phân bổ rải rác trong các bộ phận. Còn mang tính thụ động chờ khách hàng, chưa giải quyết được khâu trung gian trong thị trường xuất khẩu hàng hoá . Chính vì vậy, các hoạt động xuất khẩu chưa được khuyếch trương, tính hệ thống chưa được phát huy, làm mất nhiều cơ hội . Thứ tư là : Các đơn vị sản xuất trực tiếp chưa có nhiều nên chưa tận dụng hết nguồn lao động dư thừa trong nhân dân . Thứ năm là :Chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có của đất nước và chưa tích cực đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu của đất nước . 2.3.3 Những nguyên nhân tồn tại : Xuất khâu mây tre chưa có các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu mây tre đan để tạo ra các mặt hàng có số lượng lớn, đảm bảo chất lượng và chủ động được nguồn hàng xuất khẩu, bởi các làng nghề sản xuất hàng mây tre đan quy mô nhỏ và phân tán không đồng đều. Mà xuất khẩu chủ yếu là khai thác, thu mua gom hàng hoá từ các làng nghề trong đất nước . Các làng nghề sản xuất hàng mây tre đan không được đầu tư xây dựng nhà máy chế biến nguyên liệu có chất lượng cao để tạo ra các sản phẩm mây tre đan đủ tiêu chuẩn xuất khẩu . Cơ chế chính sách của Nhà nước luôn có sự thay đổi nên ảnh hưởng đến việc xuất khẩu hàng mây tre đan. Các thành phần kinh tế đều tham gia xuất khẩu trực tiếp gây lên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Xuất khẩu mây tre đan cũng gặp nhiều khó khăn trong vấn đề huy động nguồn vốn kinh doanh. Đó là vấn đề muôn thủa mà ngành chưa tìm ra lối thoát. Vì vậy, mà tốc độ huy động nguồn hàng có chất lượng của ngành còn thấp. Về lao động, lực lượng cán bộ làm công tác xuất khẩu còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ chuyên môn và kinh nghiệm kinh doanh xuất khẩu hàng mây tre đan. Cơ sở vật chất chưa phát triển đồng bộ, công tác thị trường còn yếu kém, thị trường truyền thống chưa ổn định. Công tác phát triển xúc tác tiến thương mại chưa được đầu tư đúng mức nên thị trường hàng xuất khẩu chưa thực sự được mở rộng. Chương 3 một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mây tre đan trong những năm sắp tới 3.1 Các quan điểm và định hướng về xuất khẩu ở việt nam từ nay đến năm 2010. 3.1.1 Những quan điểm cơ bản đổi mới chính sách ngoại thương và đẩy mạnh xuất khẩu ở Việt Nam. Trong thời đại ngày nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão với tốc độ nhanh trên tất cả các lĩnh vực. Sự phát triển của khoa học - công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Một quốc gia không thể tách rời khỏi sự vận động của nền kinh tế thế giới mà nó ảnh hưởng và cũng đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của nền kinh tế nước khác. Chính vì vậy, ngày nay hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển đi lên của mỗi quốc gia. Hoà nhập với xu thế này, trong công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất coi trọng hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc định ra một cách nhanh chóng chiến lược phát triển kinh tế, trong đó ngoại thương được đặc biệt coi trọng là một vấn đề thời sự cấp bách đối với Việt Nam hiện nay. Chiến lược kinh tế của Việt Nam hướng vào việc không ngừng mở rộng phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học - kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động ngoại thương nhằm khai thác tối đa có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ và vốn trên thê giới để phát triển kinh tế trong nước thông qua con đường xuất nhập khẩu. Việc xác lập một hệ thống quan điểm cơ bản về đổi mới và phát triển xuất khẩu theo đường lối mở cửa kinh tế do các Đại hội VI,VII, VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra là rất cần thiết, nhằm làm cơ sở thống nhất cho việc hoạch định và thực thi thành công các mục tiêu, chính sách của hoạt động xuất khẩu. Theo phương hướng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 đã khẳng định “phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu”, “mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty và các tư nhân nước ngoài, trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi” và phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu của Việt Nam đã được thể chế hoá trong pháp luật của Nhà nước. Có thể tóm tắt những điểm cơ bản sau: Đẩy mạnh xuất khẩu, bao gồm xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu dịch vụ, nhằm đáp ứng nhu cầu về nhập khẩu, về ngoại tệ cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. Phấn đấu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, mở rộng quy mô xuất khẩu, đa dạng hoá hàng hoá xuất khẩu, thu hẹp chênh lệc giữa xuất khẩu và nhập khẩu, góp phần cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế. Khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất các sản phẩm hướng về xuất khẩu. Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, thị trường nhập khẩu phù hợp với cơ chế thị trường trên cơ sở gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa Việt Nam và nước ngoài. Mở rộng quyền hoạt động xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đi đôi với sự quản lý thống nhất của Nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương bằng luật pháp và đòn bảy kinh tế. Chính sách ngoại thương đã và đang hình thành ở nước ta hoàn toàn xuất pháp từ đường lối xây dựng và phát triển đất nước của Nhà nước Việt Nam, đồng thời có tính đến xu hướng phát triển của thị trường thế giới, khả năng phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam với các nước và tổ chức trên thế giới. Trong những năm tới sự phát triển kinh tế ở nước ta cần hường về xuất khẩu, coi đây là nội dung cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế. Theo kinh nghiệm của nhiều nước đang phát triển đã đạt được sự phát triển kinh tế cao, đặc biệt là các nước công nghiệp mới, thì việc lựa chọn chiến lược hường về xuất khẩu là một trong những bí quyết quyết định sự thành công trong nhịp độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để thực hiện vững chắc chiến lược “hướng về xuất khẩu” đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng cơ cấu lại nền kinh tế để hoà nhập và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Muốn đứng vững và thắng lợi trong cạnh tranh, cần phải biết khai thác, phát huy tối đa và có hiệu quả các nguồn lực trong nước, phát huy lợi thế so sánh của nước ta với nước khác. Việc cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân được tiến hành trên cơ sở chuyển dần các sản phẩm nguyên liệu thô sang tập trung sức phát triển nhanh chóng công nghiệp chế biến để xuất khẩu. Trong tương lai, nên xuất khẩu sản phẩm tinh là chính, không nên xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu và bán thành phẩm, vì khi đó hoạt động xuất khẩu bất lợi cả về lợi thế địa vị độc quyền và giá cả, lợi nhuận. Vì vậy, cần tìm kiếm một cơ cấu ngành hàng và mặt hàng chủ lực để xuất khẩu sao cho vừa đáp ứng những yêu cầu của thị trường thế giới trước mắt cũng như lâu dài, đồng thời có thể khai thác và phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước và dần dần đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. 3.1.2Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu phải căn cứ vào lợi thế so sánh của nước ta so với các nước trên thế giới, phải mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội; nhu cầu của thế giới về loại hàng hoá đó cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu phải phù hợp với bước đi của nước ta từng giai đoạn 1996 - 2000, 2001 - 2010 và 2011 - 2020. Chuyển đổi nhanh cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá bạn hàng; từng bước thực hiện tự do hoá thương mại, phát triển thị trường trong nước nhiều thành phàn, thực hiện thị trường mở; khuyến khích các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Nhu cầu của thế về loại hàng hoá Việt Nam xuất khẩu đang tăng, các nước đều có cơ hội tăng nhu cầu thông qua các giải pháp tổ chức thị trường và tiếp thị. Chuyển đổi nhanh cơ cấu hàng xuất khẩu từ thô và sơ chế sang chế biến sâu. Trước đây ta xuất nguyên liệu thô, các nước nhập nguyên liệu thô của ta về chế biến sâu để sử dụng trong nước và tái xuất nay ta tổ chức chế biến để xuất sản phẩm chế biến. Thực hiện nguyên tắc “có đi có lại” trong kinh doanh thương mại do tổ chức thương mại thế giới (WTO) đề ra; tạo nên mối quan hệ gắn bó giữ thị trường xuất khẩu và thị trường nhập khẩu, phấn đấu từng bước cân bằng xuất khẩu với từng nước và cân bằng tổng xuất - tổng nhập. Ta sử dụng lao động rẻ có thể sản xuất ra sản phẩm có giá cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường của nước khác. Thực hiện chiến lược “công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu” để tạo ra nhiều hàng hoá đạt chất lượng quốc tế có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, hoạt động nhập khẩu cũng phải thực hiện tốt chiến lược này. Công nghệ nhập khẩu là công nghệ hiện đại đồng bộ của những nước kinh tế phát triển, công nghệ nguồn (Mỹ, Nhật bản, EU, Canada...) giảm đến mức tối đa nhập khẩu công nghệ trung gian và công nghệ đã qua sử dụng. Bảng 5- Những căn cứ để định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu đến năm 2000, 2010, và 2020. TT Tên nhóm hàng hoá và dịch vụ Nhu cầu trong nước Tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu làm căn cứ đầu tư A B C D 1 Lương thực, cây công nghiệp, rau quả và thuỷ sản Nhu cầu đến năm 2020. - Lương thực: 30 - 35 triệu tấn. - Rau quả: 30 - 40 triệu tấn. - Thuỷ sản: 1,8 - 2 triệu tấn - Xuất khẩu 3 triệu tấn gạo, nông sản chế biến và rau quả 5 - 8 tỷ USD/năm - Có khả năng xuất khẩu thuỷ sản chế biến 2,5 - 3 tỷ USD/năm 2 Hàng công nghiệp nhẹ: - Hàng dệt - may mặc. - Hàng giầy dép và sản phẩm da. - Hàng tiểu thủ công nghiệp. Đến năm 2020 nhu cầu hàng chục triệu sản phẩm may mặc, hàng chục triệu đôi giày và hàng triệu sản phẩm tiểu thủ công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm. - Hàng dệt - may mặc 30%. 2000: 3 tỷ USD, 2010: 5 tỷ USD; 2020: 10 tỷ USD. - Hàng giày dép và các sản phẩm da: 40% 2000: 1,5 tỷ USD, 2010: 3 tỷ USD, 2020: 5 tỷ USD. - Hàng tiểu thủ công nghiệp: 10% - 2000: 10 triệu USD; 2010: 30 triệu USD. 3 Các ngành dịch vụ chủ yếu: - dịch vụ quảng cáo - dịch vụ xuất nhập khẩu. - dịch vụ phần mềm và sản xuất phần mềm. - Dịch vụ du lịch - Dịch vụ tài chính Bình quân hàng năm có 5 - 10 triệu khách du lịch trong nước đi nghỉ mát và tham quan, có hàng chục triệu tấn hàng hoá xuất nhập khẩu. - Có khả năng thu hút 5 - 10 triệu khách du lịch quốc tế/năm. - Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nước ta từ 20 - 30% năm. - Làm dịch vụ xuất khẩu và dịch vụ phần mềm cho các nước. - Làm dịch vụ cho các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 4 Nhóm hàng điện tử - tin học - bưu chính viễn thông. - Máy tính điện tử. - Thiết bị điện tử - Hàng tiêu dùng điện tử. - Đồ chơi điện tử. - Thiết bị viễn thông. Nhu cầu bình quân hàng năm: - Máy tính điện tử: 100.000 chiếc. - Ti vi: 300.000 chiếc. Đồ chơi điện tử: 100.000 chiếc. - Máy điện thoại: 30 - 33 chiếc/100 dân (mục tiêu năm 2010) - Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp điện tử - tin học: 20%/năm. - Tốc độ tăng trưởng dịch vụ 14%/năm - Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng điện tử - tin học bình quân 50%/năm. Nguồn: Chuyên đề nghiên cứu kinh tế - Viện kinh tế thế giới 1999. 3.1.3. Mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu trong giai đoạn 1996 - 2000 và 2000 - 2010. Để từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2000 với mục tiêu tổng quát là phấn đấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) khi đó phải tăng gấp 2 lần so với năm 1990. Có nghĩa là đến năm 2000, GDP/đầu người của Việt Nam cũng phải đạt ít nhất là 400 USD, gấp 2 lần so với 200 USD của năm 1990. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và khả năng phát triển, Đại hội VIII đã xác định rằng để đạt được như vậy, trong kế hoạch 5 năm (1996 - 2000). GDP của Việt Nam phải có mức tăng bình quân hàng năm khoảng 9 - 10%. Để góp phần tích cực thực hiện mục tiêu tổng quát này, riêng trong lĩnh vực ngoại thương, kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam sẽ phải đạt mức bình quân khoảng 28%, nâng mức kim ngạch xuất khẩu trên đầu người năm 2000 lên trên 200 USD. Và do đó, tổng kim ngạch xuất khẩu ở năm 2000 cũng phải tăng lên ít nhất 7 - 8 lần so với năm 1990, hoặc gấp 3,2 - 3,7 lần so với năm 1995, nghĩa là sẽ phải đạt khoảng 17 - 20 tỷ USD. Hai phương án tăng trưởng xuất khẩu đến năm 2000 và 2010 được Bộ Thương mại và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng nhiều nhà khoa học, quản lý, hoạch định chiến lược, chính sách kinh tế đối ngoại trình Đại hội VIII như sau: Phương án I: Phương án có mức tăng trưởng xuất khẩu 24,5%/năm. Năm Dân số (triệu người) Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu là 24,5%/năm Kim ngạch (triệu USD) Bình quân (USD/người) 1998 78,8 10.200 130 1999 80,3 12.600 156 2000 81,8 15.200 186 1996-2000 57.800 2000 -2010 518.360 2010 92,4 105.533 1.142 Nguồn: Bộ Thương mại. Phương án I là phương án xây dựng từ yêu cầu thực tiễn là phấn đấu hoàn thành và vượt mục tiêu đã được Đại hội VIII đề ra ở mức trung bình, từ nay đến năm 2010 sẽ có mức tăng GDP bình quân hàng năm khoảng 9%. Theo phương án này thì 5 năm 1996 - 2000 sẽ đạt khoảng 57,8 tỷ USD, tăng gấp 3,4 lần và kim ngạch xuất khẩu tại năm 2000 sẽ phạt đạt mức 15,2 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so với năm 1995; và do đó tốc độ bình quân tăng xuất khẩu 5 năm 1996 - 2000 sẽ phải đạt khoảng 24,5%. Hoàn thành phương án này, thời điểm năm 2000, Việt Nam sẽ phải đạt kinh ngạch xuất khẩu đầu người khoảng 170 - 190 USD, và như vậy, Việt Nam sẽ được xếp vào danh sách những nước có nền ngoại thương tương đối phát triển. Phương án II - Phương án có mức tăng trưởng xuất khẩu 28 - 30%/năm Năm Dân số (triệu người) Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 28-30%/năm Kim ngạch (triệu USD) Bình quân (USD/người) 1998 78,8 10.950 139 1999 80,3 13.900 173 2000 81,8 17.500 213 1996-2000 62.630 2001-2010 580.560 2010 92,4 156.402 1.607 Nguồn: Bộ Thương mại Phương án II là phương án tăng trưởng xuất khẩu ở mức cao, nhằm vượt lên trên tránh tụt hậu về lâu dài. Theo phương án này, nếu thực hiện được, ngoại thương Việt Nam sẽ đạt được sự nhảy vọt cả về lượng và chất, vì khi đó (năm 2000), Việt Nam có thể đạt kim ngạch xuất khẩu ở mức 17 - 20 tỷ USD còn cao hơn tổng kim ngạch xuất khẩu đã đạt 5 năm (1991 - 1995), và gộp cả 5 năm kim ngạch xuất khẩu 1996 - 2000 có thể đạt tới 62,630 tỷ USD, tăng gần 3,7 lần giai đoạn 1991 - 1995 với mức tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 28 - 30%. Điều cần lưu ý là việc xác định phương án II về cơ bản đã được căn cứ từ mục tiêu phấn đấu ở mức cao của dự thảo các văn kiện trình Đại hội VIII: GDP bình quân hàng năm (1996 - 2000) tăng khoảng 10%, tương ứng theo kim ngạch xuất khẩu bình quân cũng phải tăng ở mứ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35212.doc