Các biện pháp huy động vốn tại Công ty Thiết bị đo điện

Lời mở đầu Vốn của bất cứ một doanh nghiệp nào cũng được huy động từ nhiều nguồn khác nhau và bằng nhiều cách khác nhau để tài trợ cho các nhu cầu vốn của doanh nghiệp đó.Việc huy động vốn phải đạt được các hiệu quả sau: Phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục Huy động với chi phí thấp nhất Sử dụng tiết kiệm,có hiệu quả các nguồn vốn Dự phòng cho những thay đổi ngoài dự kiến Trong thời kỳ bao cấp,mọi nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp huy động vốn tại Công ty Thiết bị đo điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp đều được Nhà nước cấp phát hoặc cho vay ưu đãi khiến các doanh nghiệp chưa thực sự coi trọng vấn đề khai thác và sử dụng vốn có hiệu quả. Từ khi chuyển đổi cơ chế,các doanh nghiệp Nhà nước buộc phải năng động tìm kiếm nguồn vốn để có thể duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh. Từ những nhận thức trên và qua quá trình thực tập tại Công ty Thiết bị đo điện,em đã mạnh dạn chọn đề tài “Các biện pháp huy động vốn tại Công ty thiết bị đo điện ” làm đề tài nghiên cứu.Tuy nhiên,do khả năng hiểu biết còn hạn chế và phạm vi thời gian cho phép của luận văn,nên em chỉ xin trình bày những vấn đề chung cơ bản nhất. Luận văn của em được chia làm 3 phần và trong đó có sử dụng các phương pháp thống kê,tổng hợp,so sánh,phân tích để làm rõ các vấn đề: Cơ sở lý luận chung về các biện pháp huy động vốn Thực trạng huy động vốn tại Công ty Thiết bị đo điện Một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các biện pháp huy động vốn của Công ty Thiết bị đo điện trong thời gian tới. Đây là một đề tài tuy đã được đề cập đến nhiều nhưng cũng khá phức tạp, đòi hỏi khả năng phân tích và tổng hợp cao nhưng hiểu biết của bản thân em còn hạn chế do đó luận văn của em đã không tránh khỏi những thiếu sót về kiến thức chuyên môn cũng như nhận thức,suy luận.Vì vậy,em mong nhận được sự chỉ bảo và hướng dẫn của hội đồng và các thầy cô giáo để em có được sự hiểu biết đầy đủ và đúng đắn hơn về vấn đề này và luận văn của em được hoàn thiện hơn. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô đã tận tình dạy dỗ em trong 4 năm qua,đã trang bị cho em những kiến thức để có thể hoàn thành luận văn này.Em xin trân trọng cảm ơn vì trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn,em đã nhận được sự hướng dẫn,chỉ bảo tận tình của thầy giáo – Thạc sĩ Nguyễn Tú Anh.Cháu cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cô,các chú trong phòng kế toán tại Công ty Thiết bị đo điện đã cung cấp số liệu, thông tin và chia sẻ kinh nghiệm để luận văn của em thêm phong phú và chính xác. Chương i Cơ sở lý luận chung về các biện pháp huy động vốn trong doanh nghiệp i.Khái niệm chung về vốn 1.Khái niệm Vốn là biểu hiện bằng tiền các tài sản của doanh nghiệp.Vốn tạo nên cơ sở vật chất cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và là cơ sở gía trị của doanh nghiệp. Vốn dùng để mua sắm tư liệu sản xuất và trả lương cho người lao động nhằm hoàn thành quá trình sản xuất kinh doanh hay một dịch vụ nào đó nhằm với mục đích tạo ra lợi nhuận,làm tăng thêm giá trị sở hữu chủ doanh nghiệp .Như vậy vốn là điều kiện đầu tiên và không thể thiếu được để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên thực tế,vốn được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau nhưng nhiều nhà kinh tế cho rằng đặc trưng cơ bản của vốn là”vốn là một loại hàng hoá đặc biệt mà quyền sử dụng vốn có thể tách rời quyền sở hữu vốn ”.Vốn được xem là hàng hoá đặc biệt bởi vì nó có đầy đủ hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị và giá trị sử dụng.Giá trị của vốn chính là giá trị của bản thân nó,còn giá trị sử dụng là công dụng của vốn khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh hay quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Nét đặc biệt cuả vốn thể hiện ở chỗ quyền sử dụng vốn có thể tách rời chủ thể sử dụng vốn.Chính nhờ sự tách rời đó đã làm cho vốn có thể vận động,lưu thông trong lĩnh vực đầu tư,kinh doanh và luôn tiềm ẩn khả năng sinh lời . Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp vốn được chia thành hai loại : vốn cố định và vốn lưu động. 2.Vai trò của vốn trong doanh nghiệp Vốn có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh.Nó là tiền đề,điều kiện vật chất cần thiết của quá trình sản xuất kinh doanh.Nó vận động và thay đổi hình thái theo từng giai đoạn của quá trình sản xuất.Để quá trình này diễn ra liên tục doanh nghiệp phải đủ vốn.Trong thời kỳ bao cấp, hầu hết doanh nghiệp đều có vốn ngân sách nhà nước cấp và giao cho tập thể doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho nên không có chủ thực sự.Khi bước sang nền kinh tế thị trường.Các doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau nhưng sử dụng như thế nào cho có hiệu quả.Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân cho nên trong các doanh nghiệp sự hoạt động của vốn ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của chính doanh nghiệp cũng như nền kinh tế quốc dân.Vốn giúp doanh nghiệp xây dựng nhà xưởng máy móc,thiết bị,tạo dựng nên cơ sở vật chất kỹ thuật,hình thành nên nguồn nguyên vật liệu,trả lương công nhân …vốn cũng giúp cho doanh nghiệp mở rộng qui mô hoạt động,sửa chữa,mua sắm thêm tài sản cố định để thay thế những tài sản cố định cũ đã hao mòn,hư hỏng hoặc mất mát.Ngoài ra vốn được sử dụng trong tái sản xuất nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra một tiềm lực hơn cho sản xuất kinh doanh,dịch vụ,xã hội . 3.Phân loại vốn trong doanh nghiệp Vốn được phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau. 3.1.Nếu phân loại theo cơ cấu vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh thì vốn của doanh được chia thành vốn sản xuất và vốn đầu tư. -Vốn sản xuất :là biểu hiện giá trị của toàn bộ tư liệu sản xuất được sử dụng hợp lý và có kế hoạch vào hoạt sản xuất kinh doanh.Nguồn hình thành nên nguồn vốn là theo nhiều cách khác nhau,vốn sản xuất do nhiều nguồn góp lại.Về hình thái vật chất vốn chính là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đây là hai yếu tố cơ bản tạo ra của cải vật chất cho xã hội.Tư liệu lao động là phương tiện lao động để chuyển hoá đối tượng thành thực thể sản phẩm.Còn đối tượng lao động là cái mà tư liệu lao động tác động cơ,lý,hoá biến chúng thành sản phẩm mà con người mong muốn. -Vốn đầu tư : Là toàn bộ lượng tiền tích luỹ của xã hội,của cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ và là lượng tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác để duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực mới lớn hơn trong quá trình tái sản xuất xã hội.Với những cơ sở sản xuất kinh doanh lần đầu hình thành,vốn đầu tư chính là dùng để mua sắm máy móc thiết bị,sửa chữa nhà xưởng…. 3.2.Nếu phân loại theo nguồn hình thành thì vốn của doanh nghiệp được chia thành vốn chủ sở hữu và vốn vay. -Vốn chủ sở hữu : Là số tiền mà các chủ sở hữu,các nhà đầu tư đóng góp cho quá trình thành lập và đóng góp thêm trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp khác nhau mà nguồn hình thành vốn chủ sở hữu khác nhau.Nhưng thông thường gồm vốn góp và lãi chưa phân phối.Đối với vốn góp đây là số tiền các bên tham gia đóng góp được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh.Còn lãi chưa phân phối chính là số tiền lãi của doanh nghiệp khi chưa được sử dụng cho các lĩnh vực khác nhau (chia lãi cổ đông,trả nợ lương nhân viên)thì được coi như là vốn chủ sở hữu. -Vốn vay: Đây là nguồn hình thành mà doanh nghiệp đi vay,đi chiếm dụng của các tổ chức cá nhân khác nhau.Doanh nghiệp phải có trách hoàn trả cả gốc và lãi số tiền vay này với những điều kiện có thời thanh toán và lãi suất khác nhau. 3.3.Phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn được chia thành nguồn vốn thường xuyên và vốn tạm thời. -Nguồn vốn thường xuyên: Đây là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng thường xuyên trong quá trình sản xuất kinh doanh.Bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu,vay dài hạn,vay trung hạn (trừ vay,nợ quá hạn) -Nguồn vốn tạm thời:là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong khoảng thời gian thuộc nguồn tài trợ tạm thời.Bao gồm các khoản vay,nợ quá hạn (kể cả vay,nợ dài hạn),các khoản chiếm dụng của người bán,người mua,của công nhân viên chức. 3.4.Phân loại theo đặc điểm chu chuyển vốn trong qúa trình sản xuất kinh doanh.Vốn của doanh nghiệp được chia thành vốn cố định và vốn lưu động. -Vốn cố định:Là một bộ phận của quá trình sản xuất kinh doanh,là biểu hiện về mặt giá trị của toàn bộ tài sản cố định đang phát huy tác dụng trong hoạt động của doanh nghiệp.Theo quy định hiện hành thì những tài sản có thời gian sử dụng ít nhất một năm và có giá trị sử dụng lớn hơn 5 triệu đồng Việt Nam thì mới được coi là tài sản cố định.Nguồn vốn cố định trong doanh nghiệp chính những là tài sản vô hình và hữu hình tham gia vào chu kỳ sản xuất có hình thái vật chất không đổi và giá trị hao mòn của nó được chuyển vào sản phẩm tuỳ theo mức độ hao mòn (khấu hao). -Vốn lưu động : để sản xuất kinh doanh ngoài nguồn vốn cố định doanh nghiệp cần có một lượng vốn để mua sắm đối tượng lao động vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Đồng thời doanh nghiệp cần có một lượng vốn trong lưu thông.Như vậy vốn lưu động của doanh nghiệp gồm toàn bộ giá trị tài sản lưu động và vốn lưu động. Trong quá trình sản xuất kinh doanh,tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm.Giá trị cuả nó được chuyển dịch một lần vào giá trị sản phẩm.Mặt khác trong hầu hết các doanh nghiệp quá trình tiêu thụ sản phẩm và quá trình thu tiền không thường diễn ra đồng thời.Khi nào thu được tiền thì vốn lưu động mới thực hiện được một vòng quay của mình.(Vòng luân chuyển vốn lưu động). 3.5.Phân loại theo phạm vi hoạt động thì có thể chia vốn của doanh nghiệp thành nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài của doanh nghiệp. -Nguồn vốn bên trong là nguồn vốn được hình thành từ bản thân doanh nghiệp -Nguồn vốn bên ngoài chính là nguồn vốn doanh nghiệp huy động từ bên ngoài để đáp ứng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình như từ các tổ chức tín dụng,ngân hàng,tổ chức tài chính,các cơ sở và cá nhân,phát hành cổ phiếu,traí phiếu,các khoản nợ khác. II.Nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Muốn sản xuất kinh doanh,doanh nghiệp phải có vốn để đầu tư vào mua sắm máy móc thiết bị,xây dựng nhà xưởng,mua sắm nguyên nhiên vật liệu …,các tài sản này được hình thành theo thời gian.Dưới góc độ nào đó,chúng ta có thể coi tổng chi phí cho sản xuất kinh doanh là nhu cầu vốn của doanh nghiệp.Việc xác định được nhu cầu vốn cho doanh nghiệp là rất quan trọng vì từ đó doanh nghiệp có các kế hoạch huy động nguồn vốn thích hợp với nhu cầu của mình. Nhu cầu vốn của các doanh nghiệp là không tuân thủ theo cùng một quy luật,điều này thể hiện ngay giữa các quý trong năm và giữa năm này với năm khác.Do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của các doanh nghiệp khác nhau,nên giữa các doanh nghiệp cũng có sự khác nhau về nhu cầu vốn.Các doanh nghiệp sản xuất theo mùa vụ thì vào chu kỳ mùa vụ nhu cầu về vốn rất cao.Các loại doanh nghiệp khác thường có nhu cầu vốn cao vào đầu năm và cuối năm.Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh,vốn trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm vốn đầu tư cho tài sản cố định và vốn đầu tư cho vốn lưu động. Đối với vốn cố định: nhu cầu vốn cố định là số vốn tiền tệ cần thiết mà doanh nghiệp phải trực tiếp ứng ra để mua sắm tài sản cố định,mua sắm máy móc thiết bị cho quá trình sản xuất.Nhu cầu vốn cố định chỉ xuất hiện khi doanh nghiệp muốn mua sắm máy móc thiết bị và các tài sản cố định để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.Còn giá trị tài sản cố định thì chuyển dần vào trong quá trình sản xuất kinh doanh qua mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh.Giá trị hao mòn của tài sản cố định sẽ được tính vào nguồn khấu hao luỹ kế của tài sản đó. Nhu cầu vốn lưu động: nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn tiền tệ cần thiết mà doanh nghiệp phải trực tiếp ứng ra để hình thành một lượng vốn dự trữ hàng tồn kho và các khoản cho khách hàng vay nợ,sau khi đã sử dụng khoản tín dụng của người cung cấp và các khoản phải trả nhưng chưa trả khác. Công thức xác định nhu cầu vốn lưu động : Tổng nhu cầu = Dự trữ vật tư hàng hoá + Nợ phải thu – Nợ phải trả . * Dự trữ vật tư hàng hoá được xác định trên lượng hàng tồn kho cần thiết cho doanh nghiệp. * Nợ phải thu được tính căn cứ vào thời gian khách hàng nợ trung bình và doanh thu tiêu thụ dự kiến.Ta có công thức : Nợ phải thu dự kiến = Số ngày khách hàng nợ trung bình * Doanh thu bình quân một ngày dự kiến * Nợ phải trả được tính dựa vào các điều kiện tín dụng do nhà cung cấp đưa ra và tình hình tài chính doanh nghiệp.Ta có công thức sau: Nợ phải trả = Số ngày thu nợ trung bình * Giá trị nguyên vật liệu,hàng hoá mua chịu bình quân một ngày. Ngoài ra,xác định nhu cầu vốn lưu động có thể còn dựa vào tình hình thực tế sử dụng vốn lưu động thời kỳ vừa qua của doanh nghiệp hoặc có thể dựa vào thực tế các doanh nghiệp cùng loại trong ngành. Khi nguồn tài trợ dài hạn không đủ trang trải nhu cầu về vốn thì doanh nghiệp phải tạo ra nguồn vốn ngắn hạn để bù cho phần thiếu hụt đó.Khi nguồn tài trợ dài hạn lớn hơn nhu cầu về vốn thì có nghĩa là doanh nghiệp đang thừa tiền cho cho đầu tư ngắn hạn,doanh nghiệp có thể sử dụng số thừa đó để cho vay. iii.Phân tích tình hình tài chính Quyết định lựa chọn biện pháp huy động vốn là kết quả của quá trình phân tích tình hình kinh doanh,nhu cầu vốn,tình hình tài chính doanh nghiệp. 1.Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn trong doanh nghiệp. Việc phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp cho biết trong một kỳ kinh doanh nguồn vốn tăng (giảm) bao nhiêu ?,tình hình sử dụng vốn như thế nào ?những chỉ tiêu nào là chủ yếu ảnh hưởng tới sự tăng giảm nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp?.Từ đó có các giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong doanh nghiệp. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét và đánh giá sự thay đổi các chỉ tiêu cuối kỳ so với đầu kỳ trên bảng cân đối kế toán về nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp. Xác định tình hình tăng giảm vốn trong doanh nghiệp theo nguyên tắc : +Sử dụng vốn: -Tăng tài sản, giảm nguồn vốn +Nguồn vốn -Giảm tài sản,tăng nguồn vốn +Nguồn vốn và sử dụng nguồn phải cân đối với nhau 2.Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn,tài sản cố định và đầu tư dài hạn.Để hình thành hai loại tài sản này phải có các nguồn vốn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh,ta cần tính toán và so sánh giữa nguồn vốn với tài sản. Khi nguồn vốn dài hạn <tài sản cố định Hoặc tài sản lưu động <nguồn vốn ngắn hạn Có nghĩa là nguồn vốn lưu động thường xuyên <0. Có nghĩa là nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho tài sản cố định.Doanh nghiệp phải đầu tư vào nợ ngắn hạn,tài sản lưu động không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn,cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng,doanh nghiệp phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả.Trong trường hợp như vậy giải pháp của doanh nghiệp là tăng cường huy động vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn hoặc thực hiện đồng thời cả hai giải pháp đó. Khi nguồn vốn dài hạn >tài sản cố định Hoặc tài sản lưu động >nguồn vốn ngắn hạn Có nghĩa là nguồn vốn lưu động thường xuyên >0 Có nghĩa là nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào tài sản cố định,phần dư thừa đã đầu tư vào tài sản lưu động.Đồng thời tài sản lưu động lớn hơn nợ vay ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt.Vốn lưu động thường xuyên bằng 0 có nghĩa là nguồn vốn dài hạn tài trợ cho tài sản cố định và tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn,tình hình tài chính như vậy là lành mạnh Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp,chỉ tiêu này cho biết hai điều cốt yếu: Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không ? Tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không? Nghiên cứu tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh,người ta còn sử dụng chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên để phân tích Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động,đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = Tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn Thực tế có thể xảy ra các trường hợp sau: +Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên >0 tức là hàng tồn kho và các khoản phải thu >nợ ngắn hạn.Tại đây,các doanh nghiệp có được từ bên ngoài,doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch. Giải pháp trong trường hợp này là nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho và giảm các khoản phải thu ở khách hàng +Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên >0 có nghiã là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp.Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh. 3.Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn ngoài việc so sánh cuối kỳ với đầu kỳ về số tuyệt đối và tỷ trọng,ta còn phải so sánh,đánh giá tỷ trọng từng loại tài sản và nguồn vốn chiếm tỷ trong tổng số và xu hướng biến động của chúng. 4.Phân tích các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính chủ yếu. 4.1.Nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán. Tình hình tài chính doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Hệ số thanh toán hiện hành = Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán nhanh = Tài sản lưu động - Hàng tồn kho Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toántức thời = Vốn bằng tiền Nợ ngắn hạn 4.2.Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính Hệ số nợ trên tổng tài sản = Tổng nợ phải trả Tổng tài sản Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu = Tổng nợ phải trả Tổng vốn chủ sở hữu Hệ số cơ cấu nguồn vốn = Tài sản cố định Tổng nguồn vốn 4.3Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán Hàng tồn kho Vòng quay vốn lưu động = Doanh thu thuần Tài sản lưu động Hệ số sử dụng tài sản cố định = Doanh thu thuần Tài sản cố định Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu Tổng tài sản 4.4Nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận và phân phối lợi nhuận Hệ số sinh lợi doanh thu = Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần Hệ số sinh lợi của tài sản = Lợi nhuận sau thuế + Tiền lãi phải trả Tổng tài sản Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu IV.Các phương thức huy động vốn trong doanh nghiệp. Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.Trong mọi loại hình doanh nghiệp,vốn được đầu tư vào sản xuất kinh doanh để tạo ra lợi nhuận,tức là làm tăng thêm giá trị cho chủ sở hữu doanh nghiệp.Hiểu lựa chọn và huy động vốn phù hợp với từng điều kiện cụ thể và từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh với chi phí thấp nhất là một trong những tiêu chuẩn rất quan trọng của người quản lý giỏi. Khi xuất hiện nhu cầu vốn,doanh nghiệp có thể tự tài trợ bằng các nguồn vốn của mình hoặc tìm các nguồn vốn từ bên ngoài để tài trợ cho nhu cầu vốn của mình. iv.1.Tự tài trợ 1.Vốn tự có của doanh nghiệp Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ đầu tư cũng phải đầu tư một số vốn nhất định.Đối với doanh nghiệp Nhà nước,vốn tự có ban đầu chính là vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước.Trong doanh nghiệp tư nhân,chủ doanh nghiệp phải có đủ số vốn pháp định cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp.Mức vốn pháp định được qui định riêng cho từng ngành nghề kinh doanh.Đối với công ty cổ phần,nguồn vốn do các cổ đông đóng góp chính là yếu tố quyết định để hình thành công ty.Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu công ty (theo tỷ lệ vốn góp ) và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên số cổ phần mà họ nắm giữ.Tuy nhiên,các công ty cổ phần cũng có một số dạng tương đối khác nhau,do đó các thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau. Ưu điểm của nguồn vốn này là công ty có thể sử dụng nguồn vốn này mà không phải trả bất cứ một chi phí nào.Tuy nhiên các công ty thích sử dụng các khoản nợ trong kinh doanh vì tỷ suất sinh lời cao hơn mặc dù chi phí sử dụng cao hơn. 2.Quỹ khấu hao. Trong kế toán,khấu hao là một loại chi phí làm giảm giá trị tài sản cố định được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm dịch vụ.Vì được xem là một khoản chi phí nên khâú hao là chi phí kế toán.Đây là loại chi phí không xuất quỹ (không phải là chi phí bằng tiền thực tế) nên không được xem như một luồng tiền trong dự toán vốn. Tuy khấu hao không phải là một luồng tiền,nhưng nó tác động đến luồng tiền một cách gián tiếp thông qua thuế.Mỗi khi mức khấu hao thay đổi nó sẽ tác động đến mức thuế phải nộp.Vì thuế là một luồng tiền thực tế,nên nó ảnh hưởng tới luồng tiền ròng cuối cùng được cân nhắc trong dự toán vốn (luồng tiền hoạt động say thuế).Việc tăng chi phí khấu hao sẽ làm giảm số lượng thuế phải nộp,tức là tạo ra một sự tiết kiệm về thuế,và làm tăng luồng tiền sau thuế.Thông thường thì các doanh nghiệp được sử dụng toàn bộ số khấu hao luỹ kế của tài sản cố định để tái đầu tư,thay thế,đổi mới tài sản cố định.Tuy nhiên khi chưa có nhu cầu tái tạo lại tài sản cố định doanh nghiệp có quyền sử dụng linh hoạt số khấu hao luỹ kế phục vụ cho yêu cầu kinh doanh của mình. Trong các Tổng công ty nhà nước,việc huy động số vốn khấu hao luỹ kế của tài sản cố định của các đơn vị thành viên phải tuân thủ theo đúng các quy định về chế độ quản lý tài chính hiện hành của Nhà nước,quy chế tài chính của Tổng công ty đã được Bộ trưởng Bộ Tài Chính thông qua. 3.Lợi nhuận giữ lại Đây là nguồn vốn mà doanh nghiệp có được trong quá trình sản xuất kinh doanh và đã loại trừ hết các loại chi phí cũng như thuế phải nộp cho Nhà nước.Doanh nghiệp có quyền sử dụng quỹ lợi nhuận để lại để phục vụ cho yêu cầu của mình. Hàng năm trong quá trình sản xuất,công ty tạo ra một luồng tiền nội bộ,luồng tiền này cho biết khả năng tự tài trợ cao nhất mà doanh nghiệp có thể khai thác.Luồng tiền nội bộ này được tính bằng công thức sau: Luồng tiền nội bộ = Lợi nhuận để lại + Khấu hao đã trích trong năm iv.2.Tài trợ huy động từ bên ngoài 1.Các nguồn tài trợ ngắn hạn 1.1.Các khoản phải nộp và phải trả cho công nhân viên Trong thực tế hoạt động của các doanh nghiệp thì các khoản tài trợ này không lớn lắm nhưng đôi khi nó cũng giúp doanh nghiệp giải quyết cho những nhu cầu vốn mang tính chất tạm thời.Các khoản phải trả và phải nộp trong doanh nghiệp thường bao gồm: Các khoản thuế phải nộp nhưng chưa nộp Các khoản phải trả cho cán bộ công nhân viên nhưng chưa đến kỳ trả nên chưa trả. Các khoản đặt cọc của khách hàng Phải trả cho các đơn vị nội bộ 1.2.Tín dụng của nhà cung cấp (tín dụng thương mại). Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp có thể sử dụng tài trợ bằng cách mua chịu của nhà cung cấp.Trường hợp này người ta còn gọi là tín dụng nhà cung cấp hay tín dụng thương mại.Trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp nguồn tài trợ này thể hiện ở khoản mục phải trả người bán.Công cụ để thực hiện loại tín dụng này phổ biến là dùng kỳ phiếu và hối phiếu. So với các khoản phải nộp và phải trả ở phần trên thì đây là nguồn tài trợ ngắn hạn rất ưa chuộng của các doanh nghiệp bởi vì thời hạn cũng linh động,hơn nữa với sự phát triển của hệ thống ngân hàng những người “cho vay” hoàn toàn có thể dễ dàng chiết khấu các trái phiếu để lấy tiền phục vụ cho những nhu cầu riêng khi trái phiếu chưa đến hạn thanh toán. 1.3.Vay theo hạn mức tín dụng Trong quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng thì thường các công ty (khách hàng) và ngân hàng có thoả thuận trước với nhau về hạn mức tín dụng.Tức là ngân hàng sẽ cho công ty vay trong một hạn mức nào đó không cần phải thế chấp.Trong “hạn mức” này công ty có thể vay bất kỳ lúc nào ngân hàng cũng không cần thẩm định.Cũng tương tự như vậy,trong “hạn mức ” tín dụng công ty có thể rút hoặc chi tiêu vượt quá số dư trên tài khoản. Hạn mức tín dụng được ngân hàng tạo sẵn cho công ty là do mối quan hệ kinh tế giữa họ,nhưng thông thường hạn mức này mỗi năm được thoả thuận lại một lần tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể. Đây là loại tài trợ tài trợ có chi phí rất thấp nhưng đôi khi nợ cũng gây ra trục trặc,ví dụ như ngân hàng gặp khó khăn về tài chính hay thanh toán thì công ty phải hoàn trả hoặc không vay được. 1.4.Thư tín dụng Đây là hình thức tài trợ được sử dụng trong nhập khẩu hàng hoá.Khi nhà nhập khẩu hàng hoá không có tiền trên tài khoản thì có thể đề nghị ngân hàng cung cấp tín dụng để mua hàng từ nhà xuất khẩu nước ngoài dưới hình thức mở thư tín dụng bên bán.Khi nhận được thông báo của ngân hàng phục vụ mình là đã có thư tín dụng thì hàng hoá của nhà xuất khẩu nước ngoài được chuyển đi,còn việc thanh toán sẽ là của ngân hàng phục vụ bên bán và bên mua.Sau khi số tiền theo thư tín dụng đã được ngân hàng phục vụ bên nhập khẩu thanh toán hoàn tất nó sẽ trở thành một khoản nợ do ngân hàng tài trợ cho nhà nhập khẩu. 1.5.Cho vay theo hợp đồng Hình thức cho vay này được áp dụng khi một công ty có những hoạt động về sản xuất,gia công cho khách hàng thì ngân hàng có thể sẽ cho vay căn cứ vào các hợp đồng đã được ký kết.Hình thức cho vay theo hợp đồng tỏ ra tương đối phù hợp với những doanh nghiệp nhỏ. 1.6.Cho vay có bảo đảm. 1.6.1.Tạo vốn bằng cách bán nợ. Một doanh nghiệp nào đó có thể gia tăng nguồn vốn ngắn hạn bằng các khoản nợ của mình.Cách tổ chức mua nợ thường là một ngân hàng,một công ty tài chính hay một công ty mua nợ.Sau khi việc mua bán hoàn tất thì bên mua nợ căn cứ vào hoá đơn chứng từ để thu hồi nợ và quan hệ kinh tế lúc bấy giờ là của người nợ và chủ nợ mới là bên mua nợ.Thực tiễn ở các nước thì những khoản nợ khó đòi hầu như đều được bán cho những công ty mua nợ.Những công ty mua nợ được pháp luật thừa nhận.Những khoản nợ được mua cao hay thấp tuỳ thuộc tính chất và mức độ khó đòi. 1.6.2.Vay ngắn hạn bằng cách thế chấp khoản phải thu. Các công ty trong quá trình hoạt động đều có thể đem các hợp đồng thu tiền để làm vật đảm bảo cho khoản vay.Thông thường các ngân hàng có thể căn cứ vào các hợp đồng đem thế chấp rồi sau đó mới cho vay.Số tiền mà các ngân hàng cho vay tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro của các hợp đồng thu tiền nhưng thông thường tỉ lệ giá trị cho vay chiếm khoảng 30-90% giá trị danh nghĩa của hợp đồng. 1.6.3.Chiết khấu bằng hàng hoá Các loại hàng hoá và tài sản cũng thường được sử dụng để thế chấp cho những khoản vay ngắn hạn.Giá trị của những khoản vay nhiều hay ít phụ thuộc vào gía trị thực của các hàng hoá tài sản.Trong trường hợp thế chấp này ngân hàng phải tính cả đến tính chất chuyển đổi của hàng hoá thành tiền và tính ổn định về giá cả của các loại hàng hoá đó.Thông thường những hàng hoá dễ dàng vận chuyển đi lại hoặc những hàng hoá mà có giám định chất lượng như xe hơi,máy tính thì đỡ rủi ro cao hơn nên ngân hàng cho vay với tỉ lệ thấp hơn so với gía trị của hàng hoá đem thế chấp. 1.6.4.Chiết khấu thương phiếu Thương phiếu là chứng từ biểu thị một quan hệ tín dụng,một nghĩa vụ trả tiền,được lập ra trên cơ sở các giao dịch thương mại.Chiết khấu là nghiệp vụ qua đó ngân hàng dành cho khách hàng được quyền sử dụng cho đến kỳ hạn của trái phiếu một khoản tiền tương đương của trái phiếu sau khi đã trừ khoản lãi phải thu,tức tiền chiết khấu và các khoản chi phí chiết khấu. 2.Các nguồn tài trợ dài hạn 2.1.Vốn huy động bằng cách phát hành cổ phiếu. Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để phát hành cổ phiếu để huy động vốn công ty. Ngoài các nguồn vốn trên công ty có thể huy động vốn bằng cách phát hành các loại chứng khoán.Bằng việc phát hành phát hành các loại chứng khoán, không phải thông qua tín dụng ngân hàng mà doanh nghiệp vẫn có thể thu hút tiền nhàn rỗi trong dân.Sau đây là một số loại chứng khoán mà công ty có thể phát hành: 2.1.1Cổ phiếu thường . Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì đặc điểm của nó đáp ứng được cả hai phía người đầu tư và phía công ty phát hành.Lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được phát hành,con số này được ghi trong điều lệ của công ty.Muốn tăng vốn cổ phần phải được đại hội cổ đông cho phép. Số cổ phiếu phát hành = Số cổ phiếu được phát hành - Số cổ phiếu đã phát hành Tuy nhiên ,trên thực tế ,việc quản lý và kiểm soát quá trình phát hành chứng khoán tuỳ thuộc vào chính sách cụ thể của nhà nước và uỷ ban chứng khoán quốc gia.Việc cho phép phát hành mới và phát hành bổ sung cổ phiếu không chỉ phụ thuộc vào tình hình tài chính của bản thân công ty,mà còn phải xem các nhân tố khác đặc biệt là nhiệt độ trên thị trường chứng khoán. Khi mua loại cổ phiếu này thì người đầu tư có quyền kiểm soát công ty , nhưng nếu kỳ kinh doanh đó công ty phát hành cổ phiếu mà thua lỗ thì người đầu tư không được hưởng thu nhập từ cổ phiếu của kỳ đó . 2.1.2.Cổ phiếu ưu tiên . Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu phát hành.Tuy nhiên,trong một số trường hợp việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp.Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có tỷ lệ nhất định.Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lợi tức trong kỳ chỉ đủ để trả cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường không được nhận cổ tức của kỳ đó.Việc giải quyết chính sách cổ tức được nêu rõ trong điều lệ công ty.Hội đồng quản trị của công ty có thể được thay đổi cách thức và tỷ lệ trả cổ tức trong mỗi năm để phù hợp với tình hình cụ thể.Phần lớn các công ty cổ phần quy định rõ:Công ty có nghĩa vụ thanh toán hết số lợi tức chưa thanh toán với cổ đông ưu tiên sau đó mới thanh toán cho các cổ đông thường.Các cổ phiếu ưu tiên có thể được thu hồi lại khi công ty thấy cần thiết. Một vấn đề rất quan trọng khi phát hành cổ phiếu ưu tiên,đó là thuế.Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp,cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế để lại,đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên.Mặc dù vậy như đã đề cập cổ phiếu ưu tiên vẫn có những ưu điểm đối với cả công ty phát hành cổ phiếu và người đầu tư.Những điều kiện ưu đãi đã làm giảm rủi ro cho cổ phiếu ưu tiên và như vậy đã làm tăng tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư và giảm chi phí huy động vốn cho nhà phát hành. 2.2.Phát hành trái phiếu. Trái phiếu là một tên chung của các giấy vay nợ dài và trung hạn,bao gồm: trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty.Người nắm giữ trái phiếu (sở hữu trái phiếu được gọi là trái chủ). Tuỳ theo luật pháp và tập quán từng nước,các công ty có thể phát hành trái phiếu với các kỳ hạn khác nhau. Một trong những vấn đề cần._. xem xét trước khi phát hành trái phiếu là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của công ty và tình hình trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi và cách thức trả lãi,khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.Trước khi quyết định phát hành nhà phát hành cần hiểu rõ ưu và nhược điểm của mỗi loại trái phíêu.Trên thị trường chứng khoán ở nhiều nước thường lưu hành những loại trái phiếu công ty như sau: 2.2.1.Trái phiếu có bảo đảm và không có bảo đảm *Trái phiếu có bảo đảm Đặc trưng của loại trái phiếu này là chúng được bảo đảm bằng những tài sản của công ty.Những tài sản để đảm bảo cho các trái phiếu phát hành thường là các bất động sản của doanh nghiêp,trong một số trường hợp vật đảm bảo cũng có thể là nhà xưởng hay những thiết bị đắt tiền. Khi phát hành trái phiếu có bảo đảm công ty có trách nhiệm giữ tài sản thế chấp trong tình trạng tốt nhất để đảm bảo cho khoản vay. Một tài sản nào đó có thể làm vật bảo đảm cho nhiều lần phát hành trái phiếu,có trường hợp công ty phát hành ghi rõ thứ tự của các lần phát hành để ưu tiên cũng có thể không cần ưu tiên nhưng tổng giá trị của các lần phát hành không được lớn hơn giá trị của tài sản thế chấp. * Trái phiếu không có bảo đảm Đây là loại trái phiếu phổ biến ở các doanh nghiệp.Khác với trái phiếu có bảo đảm,trái phiếu không có bảo đảm là trái phiếu không có một tài sản cụ thể nào để đảm bảo cho khả năng thanh toán của chúng,nhưng chúng vẫn được đảm bảo chắc chắn bằng thu nhập tương lai và giá trị thanh lý của các tài sản của doanh nghiệp theo thứ tự ưu tiên của luật phá sản. Trong luật phá sản của doanh nghiệp thì quyền lợi ưu tiên của các trái phiếu bao giờ cũng đứng trước cổ phiếu nhưng trong các trái phiếu thì các trái phiếu mới phát hành có thứ tự ưu tiên cao hơn những trái phiếu đã phát hành trước chúng. 2.2.2.Trái phiếu có qui định khác nhau về lãi suất. *Trái phiếu trả lãi theo thu nhập Trái phiếu trả lãi theo thu nhập là trái phiếu mà tiền lãi chỉ được trả khi người vay thu được lợi nhuận.Khi lợi nhuận thấp hơn số tiền vay thì trái chủ sẽ chỉ nhận được tiền trả bằng khoản thu nhập đó và không được quyền tuyên bố người vay bị phá sản.Số tiền trả cho trái chủ còn thiếu được chuyển sang những năm tiếp theo tuỳ theo qui định của khế ước của hai bên. Với doanh nghiệp thì loại trái phiếu này không hạn chế đòn cân nợ như những trái phiếu khác bởi vì loại trái phiếu này có tính chất linh hoạt cao rất thích hợp cho những doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính. 2.2.3 Trái phiếu có lãi suất cố định (Coupon) Loại trái phiếu này thường được sử dụng nhiều nhất trong các loại trái phiếu công ty.Lãi suất danh nghiã được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó.Như vậy cả công ty (người đi vay ) và người giữ trái phiếu (người cho vay ) đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại (kỳ hạn ) của trái phiếu.Việc thanh toán lợi tức trái phiếu cũng thường được quy định rõ khi phát hành trái phiếu.Ví dụ trả lãi 2 lần một năm vào ngày 30/6 và ngày 31/12. Để huy động vốn trên thị trường trái phiếu ,phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu.Tính hấp dẫn phụ thuộc vào mấy yếu tố sau: -Lãi suất của trái phiếu:Đương nhiên người đầu tư muốn hưởng lãi suất cao. Nhưng công ty phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được đối với trái phiếu của họ chứ không thể trả lãi suất quá cao cho nhà đầu tư.Lãi suất của trái phiếu phải được đặt ra trong mối tương quan với lãi suất trên thị trường vốn,đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh với các công ty khác.Tuy nhiên một ràng buộc khác là công ty có chịu nổi chi phí lãi vay này hay không?Và nếu đưa thêm các yếu tố khuyến khích khác vào trái phiếu thì không cần nâng cao mức lãi suất. -Kỳ hạn trái phiếu: Kỳ hạn của trái phiếu càng dài thì rủi ro càng lớn.Công ty phải tính đến sự ưa thích và lựa chọn của công chúng xét dưới góc độ kỳ hạn của trái phiếu. -Uy tín tài chính của công chúng và mức độ rủi ro:Công ty càng vững chắc về mặt tài chính và khả năng phát triển thì mức độ rủi ro nói chung càng thấp (chưa xét đến các nhân tố ).Trên thị trường chứng khoán quốc tế chứng khoán của các công ty lớn được gọi là “bluchip”-đó là chứng khoán của các công ty có độ tin cậy cao đối với các công ty khác. Trong việc phát hành trái phiếu,cũng cần chú ý đến mệnh giá vì nó có thể liên quan đến sức mua của dân chúng.Đặc biệt ở Việt Nam khi phát hành trái phiếu công ty cần xác định một mức mệnh giá vừa phải để nhiều người có thể mua được,tạo sự lưu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trường. 2.2.4Trái phiếu có lãi suất thả nổi Tuy gọi là lãi suất thả nổi nhưng thực ra loại này có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn quan trọng.Chẳng hạn lãi suất LiBOR hoặc lãi suất cơ bản. Khi nào nên phát hành loại trái phiếu lãi suất thả nổi? Trong điều kiện có mức lạm phát cao và lãi suất trên thị trường không ổn định thì có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này.Do các biến động của lạm phát kéo theo sự dao động của lãi suất thực (Net interest rate) các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi suất thoả đáng khi so sánh với tình hình thị trường.Vì vậy một số người ưa thích trái phiếu lãi suất thả nổi.Tuy nhiên,loại trái phiếu này có một vài nhược điểm: -Công ty không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu loại này, điều này gây khó khăn lớn cho việc lập kế hoạch tài chính. -Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. 2.2.5. Trái phiếu có thể thu hồi (Callable bond). Một số công ty có thể lựa chọn cách phát hành trái phiếu có thể thu hồi,tức là công ty có thể mua lại vào một thời gian nào đó (còn gọi là chuộc lại trái phiếu ).Loại trái phiếu như vậy phải được quy định công khai ngay khi phát hành để người mua được biết.Phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi công ty chuộc lại trái phiếu.Thông thường người ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ bị thu hồi.Ví dụ trong thời hạn 36 tháng.Loại trái phiếu có thể thu hồi có những ưu điểm sau: -Có thể được sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng -Khi cần thiết công ty có thể mua lại các trái phiếu,tức là giảm số vốn vay. Công ty có thể thay loại trái phiếu này bằng một nguồn tài chính khác bằng cách mua lại các trái phiếu đó. 2.5.Tín dụng thuê mua Tín dụng thuê mua là một hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại tài sản,máy móc,thiết bị…. Có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê vận hành và thuê tài chính. 2.5.1.Thuê vận hành Thuê vận hành có hai đặc trưng chính Thời hạn thuê thường là rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu ích của tài sản,điều kiện chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước ngay trong một thời gian ngắn. Người cho thuê chỉ phải trả tiền thuê theo thỏa thuận,người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận chuyển của tài sản như chi phí bảo trì,bảo hiểm,thuế tài sản…cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình. Như vậy hình thức thuê vận hành hoàn toàn phù hợp với những hoạt động có tính chất thời vụ.Hình thức thuê vận hành được coi là một loại hợp đồng để chấp hành,tài sản đi thuê không được phản ánh trong sổ sách kế toán của người đi thuê,số tiền thuê trả theo hợp đồng được ghi như một chi phí bình thường khác. 2.5.2.Thuê tài chính. Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hay dài hạn theo hợp đồng.Theo phương thức này,người cho thuê thường mua tài sản,thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua lại tài sản từ người cho thuê. Trong nhiều trường hợp một công ty bán ngay tài sản của mình cho người cho thuê rồi thuê lại.Trong hợp đông thuê tài chính thì thời hạn thuê tài sản của bên thuê phải chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng. 2.6.Nợ có kỳ hạn. Thông thường các doanh nghiệp cũng có thể huy động vốn bằng cách đi vay các tổ chức tài chính dưới dạng một hợp đồng tín dụng và doanh nghiệp phải hoàn trả khoản tiền vay theo lịch trình đã thoả thuận.Sử dụng các khoản vay dài hạn thường được trả vào những thời hạn định kỳ với những khoản tiền bằng nhau.Đó là sự hoàn trả dần khoản tiền vay bao gồm cả gốc và lãi trong suốt thời hạn diễn ra giao dịch. Lãi suất cố định được áp dụng khi người vay tiền muốn có một hợp đồng cố định và không phải lo lắng trước sự biến động của thị trường.lãi suất cố định được tính toán dựa trên mức độ rủi ro và thời gian đáo hạn và thông thường nó được qui định cao hơn so với lãi suất của trái phiếu công ty có thời gian đáo hạn và mức độ rủi ro tương tự. Lãi suất thả nổi là lãi suất có thể thay đổi tuỳ thuộc vào những biến động của thị trường.Lãi suất thả nổi được thiết lập dựa trên phần lãi suất ban đầu ổn định cộng với một tỷ lệ phần trăm nào đó tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro có liên quan đến khoản tín dụng đó. 2.7.Các công cụ có thể chuyển đổi. Các công ty thường phát hành những chứng khoán kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được.Tính chuyển đổi và phạm vi lựa chọn rộng rãi của các công cụ tài chính đó tạo khả năng cho các công ty và người đầu tư có thể tìm một phương thức thích hợp.Trên thị trường chứng khoán sự ra đời và phát triển của các công có khả năng chuyển đổi đã làm đa dạng hoá các sản phẩm tài chính và tăng thêm tính linh hoạt của các phương thức tài trợ cho các công ty,đặc biệt là các công ty lớn. Dưới đây là một số hình thức chuyển đổi điển hình nhất đang lưu hành ở thị trường tài chính ở Hoa Kỳ và Châu Âu. 2.7.1.Giấy bảo đảm Giấy bảo đảm là một chứng khoán đặc biệt thuộc nhóm công cụ dẫn xuất . Người giữ giấy bảo đảm có quyền được mua cổ phiếu trực tiếp từ một công ty theo mức giá nhất định vào một thời gian nhất định. Giấy bảo đảm là một công cụ tài chính thường được phát hành kèm theo trái phiếu công ty.Tuy nhiên chỉ có một số công ty và trong một số trường hợp mới phát hành loại giấy bảo đảm này nhằm tăng tính hấp dẫn của trái phiếu.Ví dụ như cứ mua 5 trái phiếu thì được nhận 3 tờ giấy bảo đảm.Đến một thời hạn nào đó công ty có thể cho phép người giữ giâý bảo đảm được mua 1 cổ phiếu thường.Trong những trường hợp khi thị giá cổ phiếu tăng lên và số cổ phiếu bán ra hạn chế thì rõ ràng các giấy bảo đảm khá hấp dẫn.Như vậy người giữ giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ phiếu thường được quy định trước về giá cả và thời gian. Trên thị trường chứng khoán có thể lưu hành theo hai phương thức: -Mua bán gắn liền với trái phiếu công ty -Mua bán riêng lẻ ,tức là giấy bảo đảm tách rời ngay khỏi trái phiếu và có thể được mua bán theo một giá riêng.Đương nhiên,cũng như các hàng hoá khác,thị gía của nó phụ thuộc vào quan hệ cung cầu,phản ánh tỷ suất lợi nhuận mong đợi mà giấy bảo đảm có thể mang lại cho người mua nó. 2.7.2.Chứng khoán có thể chuyển đổi Là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường.Nếu thị giá cổ phiếu trên thị trường tăng lên thì người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận nhờ việc hoán chuyển trái phiếu thành cổ phiếu. Việc huy động vốn bằng cách bán ra các trái phiếu có thể chuyển đổi có một số ưu điểm sau: -Có thể gắn bó người mua trái phiếu một cách lâu dài và đến Công ty có một thờigian thích hợp họ có thể mua cổ phiếu để trở thành cổ đông công ty -Do hấp dẫn hơn nên có thể hạ thấp lãi suất của chi phí,tức là giảm được chi phí lãi vay. -Làm đa dạng hoá các công cụ huy động vốn. Tuy việc phát hành các loại chứng khoán có rất nhiều ưu điểm nhưng nó cũng chứa những điều tiêu cực bởi thị trường chứng khoán là một môi trường hết sức thuận lợi cho hoạt động đầu cơ thao túng thị trường.Đầu cơ thao túng ở đây rất dễ gây ra một phản ứng dây chuyền để lại một hậu quả lâu dài trong nền kinh tế.Ngoài các hiện tượng chèn ép giá,mua bán nội gián thì việc mua cổ phiếu ngoài thị trường chính thức cũng tạo khả năng gây áp lực cho nhà đầu tư,đưa đến các thay đổi hay khống chế các thay đổi hay khống chế lãnh đạo công ty.Hơn nữa ở Việt Nam không phải công ty nào cũng được phép phát hành chứng khoán trên thị trường tập trung.Các chứng khoán này phải thuộc thuộc các doanh nghiệp làm ăn có lãi và thoả mãn các điều kiện do Chính phủ đặt ra trong 48/1998/NĐ-CP: Nếu là các tổ chức phát hành cổ phiếu lần đầu: -Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ VNĐ -Hoạt động kinh doanh có lãi liên tục trong hai năm liên tục gần nhất -Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc ) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh -Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu -Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành;trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ VNĐ trở lên thì tỉ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành -Cổ đông sáng lập ra phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu trong 3 năm kể từ ngày kết thúc việc phát hành -Trường hợp cổ phiếu phát hành có mệnh giá lớn hơn 10 tỷ VNĐ thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành. chương ii thực trạng sử dụng các biện pháp huy động vốn tại công ty thiết bị đo điện I.Đặc điểm chung của công ty thiết bị đo điện: 1.Quá trình hình thành và phát triển . Công ty Thiết Bị Đo Điện là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng Công ty Thiết Bị Kỹ Thuật Điện – Bộ Công Nghiệp,có trụ sở sản xuất tại số 10 Trần Nguyên Hãn –Quận Hoàn Kiếm –Hà Nội,với nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất các thiết bị đo đếm điện phục vụ cho nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu. Tiền thân của Công ty Thiết Bị Đo Điện là một phân xưởng đồng hồ thuộc Nhà máy Chế Tạo Biến Thế – Bộ Cơ Khí Luyện Kim,Công ty Thiết Bị Đo Điện được chính thức thành lập,lúc bấy giờ lấy tên là Nhà máy Chế Tạo Thiết Bị Đo Điện. Do được hình thành từ một phân xưởng đồng hồ nên cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như tiền vốn của Nhà máy lúc ban đầu rất nghèo nàn lạc hậu.Máy móc, thiết bị,nhà xưởng,đã cũ,thời hạn khấu hao gần hết,thành phẩm trong kho hầu hết là kém phẩm chất,khó tiêu thụ.Số lượng công nhân vào khoảng 300 người,trong đó công nhân nữ chiếm 50%.Trình độ tay nghề của công nhân thấp với bậc thợ bình quân là 3/7.Nhà máy hoạt động với số vốn được cấp là: -Vốn cố định : 5.216.000đ -Vốn lưu động:5.051.000đ Tuy khởi đầu với nhiều khó khăn như vậy nhưng tập thể cán bộ công nhân viên Nhà máy Thiết Bị Đo Điện đã cố gắng khắc phục và đã cho ra đời những sản phẩm có chất lượng cao,hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao.Sản phẩm chủ yếu là các loại máy phát điện có công suất từ 2-20KW (chiếm 70% tổng sản lượng ) và các loại thiết bị đo điện như:công tơ điện đồng hồ vôn –ampe,máy biến ròng …(chiếm 30%giá trị tổng sản lượng ) Năm 1989,nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.Thay đổi của cơ chế quản lý dẫn đến sự bao cấp của Nhà nước đối với các doanh nghiệp bị xoá bỏ,buộc các doanh nghiệp phải chủ động trong sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.Cùng với ảnh hưởng của sự thay đổi cơ chế quản lý của Nhà nước,hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy còn chịu một sự tác động rất lớn từ nhu cầu máy phát điện trên thị trường.Mạng lưới điện quốc gia ngày càng phát triển do công trình thuỷ điện Sông Đà hoàn thành và đi vào hoạt động nên nhu cầu về máy phát điện giảm đáng kể.Đây là thời kỳ khó khăn nhất, đánh dấu một bước ngoặt lớn của Nhà máy. Lúc này nhu cầu về máy phát điện giảm nhưng nhu cầu về máy thiết bị đo điện trên thị trường lại tăng.Với tư duy thực tế cùng với sự năng động sáng tạo,Ban lãnh đạo Nhà máy đã quyết định chuyển hướng sản xuất kinh doanh, đang từ sản xuất máy phát điện chuyển sang sản xuất thiết bị đo điện.Tuy nhiên,hai mặt hàng này lại có sự khác nhau lớn nên việc thay đổi là rất khó khăn.Với sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên,những trở ngại ban đầu dần dần được khắc phục,hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn được tiếp tục duy trì,sản phẩm của Nhà máy đã bắt đầu lấy lại được uy tín trên thị trường. Năm 1990,Bộ tài chính đã cấp vốn cho Nhà máy.Nhà máy hoạt động với số vốn là: -Vốn cố định : 1.859.649.000đ -Vốn lưu động:1.556.320.000đ Cuối năm 199,tận dụng lợi thế thương mại,với địa điểm nằm ở trung tâm thành phố,diện tích đất rộng 11750m2,Nhà máy đã cho xây dựng nhà khách Bình Minh về sau được nâng cấp lên thành khách sạn,khai thác thêm nguồn thu cho Nhà máy. Ngày 1/6/1994,Nhà máy đổi tên thành Công ty Thiết Bị Đo Điện để phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh. Để mở rộng và cải tiến công nghệ sản xuất,đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước,vươn tới xuất khẩu ra nước ngoài,Công ty đã ký hợp đồng chuyển giao công nghệ với hãng LANDiS & GYR của Thuỵ Sĩ.Công ty không ngừng cải tiến mẫu mã,nâng cao chất lượng sản phẩm,tăng năng suất lao động.Sản phẩm của công ty đã đạt chất lượng iEC,chiếm ưu thế trên thị trường nội địa và được xuất sang một số nước châu á thông qua hãng LANDiS &GYR. Tháng 12/1999,Công ty thiết bị đo điện là doanh nghiệp cơ khí đầu tiên ở Việt Nam đã được tổ chức quốc tế AFQA của Pháp cấp chứng chỉ iSO 9001. Công ty cho ra đời ngày càng nhiều sản phẩm phong phú,đa dạng,chất lượng cao.Các sản phẩm chủ yếu của Công ty là:công tơ điện các loại,đồng hồ vôn – ampe,máy biến dòng,hạ thế,cầu chì rơi các loại,TU,Ti trung cao thế các loại.Công ty thường xuyên phối hợp với các công ty điện tử trong nước và trường Đại học Bách Khoa nghiên cứu sản xuất thêm nhiều sản phẩm mới như:công tơ 3 pha 3 giá,công tơ cơ điện tử,máy biến dòng trung cao thế nhiều chủng loại đáp ứng nhu cầu thị trường,nghiên cứu chế tạo công tơ điện tử hợp tác với hãng Tôshiba của Nhật Bản.Các sản phẩm của Công ty Thiết bị đo điện chiếm tới hơn 90% thị phần trong nước,ngoài ra còn được xuất khẩu đi nhiều nước khác như:Singapo,Phillipin,Mianma,Srilanka,Mỹ …. Bảng 1:Một số các loại chỉ tiêu công ty đã được trong giai đoạn 1998-2001: Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1.Giá trị tổng sản lượng Triệu đồng 92.640 98.600 116.281 132.788 2. Sản lượng hiện vật Cái 1 057.380 1 054.590 1 123.577 182.365 3. Doanh thu Triệu đồng 159.204 128.540 144.870 9.276 4.Lợi nhuận Triệu đồng 14.983 10.992 13.900 173.689 5. Nộp ngân sách Triệu đồng 9.959 9.608 9.783 14.004 6.Vốn kinh doanh -Vốn nhà nước cấp -Vốn tự bổ sung Triệu đồng 32.418 13.922 18.196 32.721 13.922 18.799 32.922 13.922 18.923 8.322 37.074 7.Thu nhập người lao động đồng /tháng 1.650.000 1.676.000 1.800.000 1.800.000 Nhờ biết phát huy nội lực,đầu tư đổi mới kỹ thuật,công nghệ đúng hướng,10 năm qua Công ty đã liên tục đạt mức tăng trưởng cao.Năm 2000,lần đầu tiên Công ty Thiết bị đo điện cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu hơn 1.060.000 công tơ điện các loại cùng với nhiều sản phẩm khác và đã được Thủ tướng Chính phủ tặng “Cờ thưởng luân lưu dẫn đầu thi đua Ngành sản xuất thiết bị kỹ thuật điện. Trong 10 năm qua,Công ty đã nộp ngân sách Nhà nước 51,2 tỷ đồng.Công ty hiện có đủ vốn để chủ động trong sản xuất kinh doanh không phải dựa nhiều vào vốn ngân hàng.Từ năm 1999 đến nay,Công ty đảm bảo đủ việc làm cho 810 CBCNV với mức thu nhập bình quân trên dưới 1.800.000 đ/người /tháng.Công ty hiện đang đầu tư 9 tỷ đồng xây dựng mở rộng thêm một cơ sở sản xuất mới tại Gia Lâm (Hà nội ) và trang bị mới các hệ thống sơn sấy chân không,các máy tự động in bộ số cho công tơ điện cục bộ để thử nghiệm máy biến dòng và máy biến áp Cho đến nay,Công ty thiết bị đo điện là doanh nghiệp vào loại lớn chuyên chế tạo các loại thiết bị đo điện hàng đâù ở nước ta với công nghệ hiện đại,và cách quản lý tiên tiến trong khu vực Đông Nam á. Bước vào thế kỷ mới của thiên niên kỷ thứ 3,Công ty thiết bị đo điện tràn đầy sức sống của một doanh nghiệp trẻ về nhiều mặt,chắc chắn sẽ lập nên những thành tích mới rất đáng tự hào cho ngành công nghiệp thiết bị kỹ thuật điện Việt Nam,góp phần vào sự nghiệp CNH-HĐH nước nhà. 2.Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Thiết bị đo điện: Để đảm bảo tính hiệu quả và quản lý tốt sản xuất,Công ty thiết bị đo điện thực hiện quản lý theo mô hình trực tuyến,từ Giám đốc xuống thẳng các phòng ban,không có trung gian.Bộ máy quản lý của Công ty gọn nhẹ để đảm bảo sản xuất có hiệu quả và quản lý tốt nhất theo chế độ một thủ trưởng. Đứng đầu công ty là Giám đốc,người có quyền lực cao nhất,chịu mọi trách nhiệm với nhà nước,với tập thể và cán bộ công nhân viên trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh,chịu trách nhiệm chuyên sâu về tổ chức lao động,kỹ thuật công nghệ,khách sạn. Giúp việc cho Giám đốc là một Phó giám đốc,phụ trách chính về sản xuất kinh doanh và trực tiếp chỉ đạo các cán bộ phân xưởng được uỷ quyền.Ngoài ra còn có một số chuyên viên khác. Bên dưới là một hệ thống phòng ban chức năng (9 phòng ban ).Các phòng ban bố trí các cán bộ quản lý được đào tạo chuyên môn hoá,giúp đỡ Giám đốc kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện các quyết định đề ra. Chức năng ,nhiệm vụ của các phòng ban , phân xưởng như sau: Phòng kế hoạch Xây dựng các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn,nắm bắt nhu cầu thị trường, cân đối năng lực sản xuất,xây dựng kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,chịu trách nhiệm điều độ sản xuất,chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch đối với các phân xưởng. Phòng vật tư Căn cứ vào lượng vật tư thực tế tại kho,căn cứ vào tính chất định mức tiêu hao nguyên vật liệu,lập kế hoạch thu mua,gia công và triển khai thực hiện kế hoạch đó (thu mua,gia công,bảo quản,cấp phát). Phòng kỹ thuật Phụ trách thiết kế kỹ thuật sản xuất sản phẩm của Công ty,nhận chuyển giao công nghệ và các công trình nghiên cứu khoa học,cung cấp các định mức tiêu hao nguyên vật liệu …. Phòng KCS Kiểm tra chất lượng các chi tiết do phân xưởng sản xuất ra từ khâu quyết toán các khoản với khách hàng,Nhà nước,tính toán trả lương cho cán bộ công nhân viên ,… Phòng kế toán Thực hiện hạch toán sản xuất kinh doanh,giao dịch,thanh quyết toán với các khoản với khách hàng,Nhà nước,tính toán trả lương cho cán bộ công nhân viên … Phòng tổ chức quản lý Quản lý nhân sự,đào tạo sắp xếp cán bộ,tổ chức sản xuất khen thưởng,kỷ luật,ký hợp đồng lao động … Phòng hành chính Quản lý công văn,giấy tờ,tiếp tân,quản lý nhà tập thể,xây dựng cơ bản,vệ sinh công nghiệp. Phòng lao động tiền lương Xây dựng các đơn giá tiền lương của tất cả các chi tiết sản phẩm làm cơ sở cho việc trả lương theo sản phẩm nhằm tiết kiệm chi phí đồng thời đảm bảo trả lương công bằng …. Phòng bảo vệ Giám sát việc chấp hành nội quy,quy chế bảo vệ,ra vào nhà máy,tiến hành công tác phòng cháy,chữa cháy …. Các phân xưởng Mỗi phân xưởng có 01 quản đốc và 01 phó quản đốc,01 nhân viên kinh tế phân xưởng giúp việc cho quản đốc trong việc quản lý vật tư lao động tiền lương,thiết bị chung của phân xưởng. Khách sạn Không hạch toán độc lập,có bố trí nhóm kế toán hàng ngày hạch toán theo kiểu báo sổ. II.Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty Thiết bị đo điện trong giai đoạn 1999-2001 Tình hình kinh doanh của Công ty thiết bị đo điện luôn ổn định và ngày càng phát triển trong những năm gần đây. Căn cứ vào bảng báo cáo kết quả kinh doanh của công ty ngày 31/12/1999, 31/12/2000,31/12/2001,ta lập bảng sau: Bảng 2:Bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Thiết bị đo điện Đơn vị : ngàn đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm2001 Tổng doanh thu 127.799.910 147.031.450 182.423.400 Tổng chi phí 120.754.160 134.511.457 168.629.880 Lợi nhuận trước thuế 7.045.750 12.519.993 13.793.520 Giá trị sản xuất kinh doanh của Công ty Thiết bị đo điện tăng đều hàng năm trong 3 năm qua và doanh thu cũng tăng với một tỷ lệ tương ứng.Điều đó chứng tỏ doanh thu tăng do sản xuất và tiêu thụ năm sau cao hơn năm trước. Nhu cầu về mặt hàng này trong nước không những không giảm mà luôn ổn định và có xu hướng tăng cùng với việc thị trường xuất khẩu mở rộng làm cho khối lượng sản xuất và tiêu thụ của công ty ngày càng lớn. Doanh thu của Công ty bao gồm doanh thu từ ngành sản xuất–kinh doanh và cả ngành dịch vụ (doanh thu từ hoạt động kinh doanh khách sạn ).Tổng doanh thu năm sau cao hơn năm trước:năm 2000 tăng so với năm 1999 là 77,7% năm 2001 tăng so với năm 1999 là 95,7%,nhưng doanh thu từ hoạt động kinh doanh khách sạn lại giảm hàng năm:năm 1999 là 11.127.035.000 chiếm 8,7% tổng doanh thu,năm 2000 là 9.191.240.000 chiếm 6,3% tổng doanh thu và giảm so với năm 1999 là 17,4%,năm 2001 doanh thu khách sạn là 9.186.590.000 chiếm 5,03% tổng doanh thu và cũng giảm so với năm 2000 là 0,9%.Như vậy tổng doanh thu tăng chỉ do từ hoạt động sản xuất mang lại. Sản phẩm của công ty thiết bị đo điện có những ưu thế cạnh tranh so với sản phẩm của nước ngoài là giá nhân công rẻ nên giá thành sản phẩm rẻ,từ đó sản phẩm có lợi thế cạnh tranh về giá trong khi đó sản phẩm lại đạt tiêu chuẩn Quốc Tế.Điều này giúp cho Công ty đứng vững được trên cả những thị trường lớn như Mỹ,Singapo ….Tuy nhiên thị trường mục tiêu của công ty chủ yếu là trong nước và thị trường các nước thứ 3 trên thế giới. Theo chế độ hiện hành thì lợi nhuận của Công ty được hình thành từ 3 nguồn sau:từ hoạt động sản xuất kinh doanh,từ hoạt động tài chính,và từ các hoạt động bất thường.Tại Công ty Thiết bị đo điện,lợi nhuận chủ yếu mang lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh Căn cứ vào bảng báo cáo kết quả kinh doanh trong 3 năm gần đây của công ty,ta lập bảng sau: Bảng 3:Báo cáo kết quả hoạt đông sản xuất kinh doanh Đơn vị : ngàn đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Tổng doanh thu (1) 127.799.910 147.031.450 182.423.400 Tổng chi phí (2) 120.754.160 134.511.457 168.629.880 Lợi tức từ hoạt động sxkd(3) = (1)- (2) 7.045.750 12.519.993 13.793.520 Thu nhập tài chính (4) 3.760 0 0 Chi phí tài chính (5) 0 0 0 Lợi tức từ tài chính (6) = (4) – (5) 3.760 0 0 Thu nhập bất thường (7) 226.250 20.000 0 Lợi tức bất thường (8) 198.943 0 0 Thu nhập bất thường (9) = (7) – (8) 27.307 20.000 0 Tổng lợi tức trước thuế (10)= (3)+(6)+(9) 7.076.817 12.539.993 13.793.520 Thuế lợi tức (11) (25%) 1.769.204,250 3.134.998,250 3.448.380 Lợi tức sau thuế (12) = (10) – (11) 5.307.612,750 9.404.994,750 10.345.140 Qua ba năm 1999,2000,2001 thu nhập của Công ty Thiết bị đo điện chủ yếu từ hoạt động sản xuất kinh doanh,các khoản phải thu bất thường là không đáng kể.Còn thu nhập từ hoạt động tài chính thì chỉ có ở năm 1999 là 3.760.000 đồng,nguyên nhân chủ yếu là Công ty không có các khoản đầu tư tài chính,chỉ có năm 1999 Công ty có khoản góp vốn liên doanh 110.000.000 đồng song đã tiến hành rút vốn do tỷ suất lợi nhuận thu được không cao (=3.760.000/110.000.000 = 3,4%). Tóm lại,lợi nhuận của Công ty cao hay thấp là phụ thuộc nhiều vào tình hình sử dụng vốn trong kinh doanh.Nếu Công ty đẩy nhanh được quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thì Công ty sẽ giành được lợi nhuận cao hơn. iii.Phân tích tình hình tài chính của Công ty Thiết bị đo điện trong vài năm gần đây. 1.Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong giai đoạn 1999-2001. Bảng 4:Bảng diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong giai đoạn 1999-2001 Đơn vị :ngàn đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Sử dụng vốn Nguồn vốn Sử dụng vốn Nguồn vốn Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng Vốn bằng tiền 6.154.100. 33,24 8.406.561 57,8 Các khoản phải thu 9.948.766 53,74 11.087.969 76,2 Hàng tồn kho 8.478.496 45,8 2.798.604 19,2 TSLĐ khác 2.523.100 13,63 1.657.400 11,4 TSCĐ 1.754.998 9,48 983.782 0,67 Đầu tư dài hạn 67..279 0,36 Nợ ngắn hạn 3.460.160 18,6 1.688.034 11,6 Nợ dài hạn 38.080 0,46 Nợ khác 513.000 0,35 Vốn chủ sở hữu 4.550.549 24,69 1.965.887 22.78 Cộng 18.510.186 100 18.510.186 100 14.550.599 100 14.550.599 100 Năm 2000,nguồn vốn và sử dụng vốn của Công ty tăng 18.510.186.000 đồng,tăng 25,5% so với năm 1999,xét về,mục tiêu tăng trưởng thì kết quả này là khả quan.Trong đó,sử dụng vốn chủ yếu nằm trong hàng hoá bán chịu của và hàng tồn kho.Trong năm 2000 Công ty đã đầu tư vào hai khoản mục này rất lớn,chiếm tới 99,54% trong sử dụng vốn của Công ty.Chủ yếu Công ty dùng cốn bằng tiền của mình,quỹ khấu hao và vay ngắn hạn để trả nợ dài hạn,đầu tư vào hàng tồn kho,còn lại vừa đủ cho phần khách hàng nợ.Giải pháp là doanh nghiệp phải tăng cường thu hồi các khoản phải thu ở khách hàng. Trong năm 2001,nguồn vốn và sử dụng vốn của Công ty tăng 14.550.559.000 đồng,tăng 18% so với năm 2000 và tăng 20% so với năm 1999,như vậy nguồn vốn và sử dụng vốn đã tăng chậm lại,tuy nhiên Công ty vẫn duy trì tốt mục tiêu tăng trưởng và phát triển.Trong đó sử dụng vốn tăng chủ yếu đầu tư vào lượng vốn bằng tiền và hàng tồn kho,trả một phần nợ ngắn hạn và đầu tư vào tài sản lưu động.Các khoản phỉa thu đã giảm 11.087.969.000 đồng.Công ty đã dùng nguồn vốn chủ sở hữu của mình và số nợ thu được cùng quỹ khấu hao để trang trải nhu cầu vốn mà không phải huy động thêm nguồn vốn từ bên ngoài. 2.Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh. Để phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh ta dựa vào nguồn vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của Công ty. Bảng 5:Bảng vốn lưu động thường xuyên của Công ty giai đoạn 1999-2001 Đơn vị : ngàn đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Vốn lưu động thường xuyên 35.174.925 41.375.073 44.837.743 Nhìn vào bảng trên ta thấy nguồn vốn lưu động thường xuyên của Công ty luôn lớn hơn 0 và tăng lên qua các năm.Như vậy nguồn vốn dài hạn của Công ty dư thừa để đầu tư vào tài sản cố định,phần dư thừa đầu tư vào tài sản lưu động.Đồng thời tài sản lưu động lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt.Tình hình tài chính của Công ty như vậy là lành mạnh. Dựa vào công thức tính nhu cầu vốn lưu động thường xuyên ta lập bảng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của Công ty trong giai đoạn 1999-2001 như sau: Bảng 6:Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên Đơn vị : ngàn đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên 18.132.423 33.009.774 26.557.482 Nhìn vào bảng trên ta thấy nhu cầu v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0092.doc
Tài liệu liên quan