Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm

lời mở đầu Chúng ta đang sống trong thời đại mới, thời đại của sự nghiệp phát triển kinh tế như vũ bão. Nó tạo điều kiện cho chúng ta những cơ hội mới, thời cơ mới nhưng đồng thời cũng đặt ra cho chúng ta những thách thức đó và nắm bắt được những thời cơ phát triển, chúng ta phải sáng suốt lựa chọn cho mình con đường đi đúng đắn và phù hợp với năng lực của mình. Hiện nay, ở nước ta, hầu hết các doanh nghiệp có vốn nhỏ, máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu... và đang rất cần nguồn vốn đầu tư nư

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc ngoài, để cải tiến, nâng cao chất lượng sản suất. Mặc dù, thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời, đã tạo ra kênh dẫn vốn trực tiếp tới các doanh nghiệp và xã hội. Nhưng vai trò của Ngân hàng Thương mại trong việc đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế vẫn chiếm vị trí rất quan trọng. Hệ thống ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn chính trong nền kinh tế. Cho nên hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Thương mại ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của nền kinh tế. Ngân hàng công Thương Hoàn Kiếm đã và đang tích cực tìm kiếm, triển khai các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. xây dựng cơ cấu nguồn vốn hợp lý, khai thác tiềm năng về vốn để đảm bảo nguồn vốn ổn định, từ đó, sử dụng vốn có hiệu quả là mục tiêu hàng đầu đặt ra cho Ngân hàng. Sự phát triển của Ngân hàng là sự đóng góp, khích lệ vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Toàn thể ban lãnh đạo Ngân hàng cũng như đội ngũ cán bộ công nhân viên chức đang cố gắng không biết mệt mỏi khắc phục những khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao. Sau một thời gian thực tập ở Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, được sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên phòng kinh doanh và sự hướng dẫn tận tình củ Thạc sĩ Nguyễn Quang Ninh, em đã nghiên cứu đề tài "Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng công Thương Hoàn Kiếm". Nội dung gồm 3 phần chính. CHƯƠNG I. Những vấn đề cơ bản về sử dụng vốn tại Ngân hàng Thương mại. CHƯƠNG II. Thực trạng về sử dụng vốn tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. CHƯƠNG III. Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Chương I Những vấn đề cơ bản về sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại I. Lý luận chung về Ngân hàng Thương mại 1. Khái niệm - Bản chất của Ngân hàng Thương mại. Trong nền kinh tế, Ngân hàng Thương mại đóng vai trò là trung gian Tài chính, là chiếc cầu chuyển tải những nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội đến tay những người có nhu cầu và có khả năng đầu tư sinh lợi. Nó giống như “hệ tuần hoàn” tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển một cách thuận lợi hơn. Bản chất của Ngân hàng Thương mại là trung gian Tài chính, là một cơ quan nhận một bộ phận tiền vốn nhàn rỗi trong xã hội đến tay những người có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư phát triển.Trong quá trình đó Ngân hàng Thương mại tạo ra cho mình những công cụ Tài chính thay thế tiền làm phương tiện thanh toán trong đó công cụ quan trọng nhất là tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có thể phát séc. Nhờ các công cụ này mà đại bộ phận tiền giao dịch trong nền kinh tế chu chuyển thông qua Ngân hàng, gắn các nhu cầu về lưu thông tiền tệ- thanh toán trong nước và quốc tế lại với nhau. Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, là doanh nghiệp tiến hành thường xuyên các nghiệp vụ huy động vốn và làm công tác tín dụng, cung cấp các phương tiện thanh toán, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và các nghiệp vụ Tài chính khác. Bên cạnh các Ngân hàng Thương mại, trong nền kinh tế cũng còn tồn tại các trung gian Tài chính khác, đó là các tổ chức phi Ngân hàng như Công ty Bảo hiểm, Công ty cầm đồ...làm nhiệm vụ nhận tiền gửi của khách hàng. Nhưng điểm khác biệt giữa Ngân hàng Thương mại với các trung gian Tài chính đó là sự chuyên môn hoá của các tổ chức Tài chính. Nó chỉ thực hiện một trong hai chức năng hoặc là nhận tiền gửi không cho vay hoặc là chuyên cấp phát. Tóm lại, Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. 2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại. Ngày nay, người ta khó có thể hình dung nổi nền kinh tế thị trường mà lại vắng bóng các tổ chức Tài chínhtrung gian làm chức năng “ cầu nối” giữa người có vốn và người cần vốn. Trong thực tế, các tổ chức Tài chính trung gianđược hình thành ở rất nhiều dạng, nhưng nọi dung hoạt động của chúng lại đan xen lẫn nhau khó phân biệt rõ ràng. Trong số các tổ chức Tài chính trung gian, hệ thống Ngân hàng Thương mại chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô Tài sản và về thành phần các nghiệp vụ. Xét về mặt đặc trưng hoạt độngkinh doanh của Ngân hàng Thương mại, cần chú ý các vấn đề sau đây: 2.1. Quan hệ tín dụng Ngân hàng dựa trên cơ sở hoàn trả. Ngân hàng Thương mại với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ hoạt động trên cơ sở “đi vay” để “cho vay” thông qua nghiệp vụ tín dụng của mình. Việc buôn tiền của Ngân hàng Thương mại suy cho cùng phải đạt được lợi nhuận. Muốn vậy, phải kinh doanh có hiệu quả. Hành vi buôn bán tiền của Ngân hàng Thương mại thực chất là đi mua quyền sử dụng vốn (thuê) để bán (cho thuê) lại quyền sử dụng đó, nhưng nó hoàn toàn khác với các loạikinh doanh khác của các tổ chức kinh tế. Trước hết, vốn mà Ngân hàng mua quyền sử dụngcủa những chủ thể cóvốn nhàn rỗi trong nền kinh tế phải được trả lại cả vốn và lãi cho chủ sở hữu của nó theo những cam kết đã giao ước. Là người đi vay, Ngân hàng Thương mại phải đảm bảo hoàn trả đúng hạn vốn huy động hoặc đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách hàng vời một món lợi tức hợp lý kèm theo. Là người cho vay, Ngân hàng Thương mại sử dụng vốn đi thuê để cho thuê lại, tức là tạm thời bán lại quyền sử dụng vốn cho người khác, Ngân hàng Thương mại vẫn luôn mong muốn khách hàng của mình sử dụng vốn vaycó hiệu quảvà hoàn trả đày đủ vốn và lãi đúng kì hạntheo những quy định đã cam kết. Như vậy, trong mối quan hệ tay ba giữa Ngân hàng Thương mại, người gửi tiền kí thác và người đi vay đều dựa vào lòng tin của nhau đẻ giải quyết tình trạng thừa hay thiếu vốn của các chủ thể nêu trên. 2.2. LãI suất - Biểu hiện đặc trưng về hoạt động kinh doanh của một trung gian Tài chính. Quan niệm về lãi suất là “giá cả của quyền sử dụng vốn vay” dựa vào các phân tích sau đây. Khi sử dụng vốn vay vào trong quá trình sản xuất hoặc kinh doanh người đi vay có thể thu được lơị nhuận, một phần lợi nhuạn này có thể được trả cho ngươI cho vay và được gọi là giá cả của quyền sử dụng khoản vay hay được gọi là lãi suất. Như vậy, khác với hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường, lợi nhuận ở đay được phân chia chứ không phải nhân lên, phần lợi nhuận đem chia đó là chi phí mà người đi vay phải trả cho việc “thuê”giá trị khoản vay về sử dụng trong kinh doanh theo thời gian nhất định. Khoản chi phí này cũng giống như chi phí trả tiền thuê nhà, khác chăng là trong quá trình sử dụng giá trị căn nhà giảm dần do hao mòn, còn giá trị khoản vay thì bất biến. Đó là đặc điểm khác biệt của việc “cho thuê giá trị” so với các loại hình cho thuê Tài sản trong kinh doanh thông thường khác. Có thể việc nghiên cứu kinh doanh ngân hang hay kinh tế học, người ta sẽ giải thích lãi suất bằng các lý thuyết khác một cách chi tiết hơn. Tuy nhiên, ở đây chúng ta sẽ giải thích lãi suất bằng lý thuyết “vốn có thể cho vay” theo quan niệm truyền thống. Lý thuyết “vốn có thể cho vay” là sự đơn giản hoá một vấn đề phức tạp. Mọi sự thay đổi về các điều kiện cung và cầu đề tác động đến lãi suất. LãI suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho người khác. Người đi vay coi lãi suất như khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền của người khác. Như vậy, lãi suất hàm chứa một mâu thuẫn: Người cho vay muốn có lãi suất cao nhất, trong khi người đi vay lại muốn có lãi suất thập nhất. Vì vậy như giá cả của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất được xác định bởi cung và cầu. Cung vốn có được chủ yếu từ các khoản ký thác của công chúng và lượng vốn được cung ứng phụ thuộc nhiều vào giá cả (lãi suất). Do đó nếu lãi suất quá thấp, đa số các dân chúng sẽ quyết định là không đáng để cho vaycác khoản tiêt kiệm của mình, họ sẽ giữ các khoản tiền này dưới dạng khả dụng (Tức là dễ chuyển thành tiền mặt) hơn và đẻ chi tiêu khi cần. Khi mà lãi suất tăng cao, lượng tiềntiết kiịem mà dânchúng sẵn sàng cho vaytăng lên, và số lượng vốn cung sẽ tăng lên lớn hơn. Những người đi vay vốn coi lãi suất là một khoản chi phí và như vậy, chi phí giảm khi cầu càng tăng, khi lãi suất tăng thì cầu vay vốn giảm xuống. 2.3. Yếu tố lòng tin trong hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng. Từ tín dụng xuất phat từ tiếng la tinh “credo” có nghĩa là “ sự giao phó” hay Tài “đặt niềm tin vào đó”, hoặc từ tiếng la- tinh “credittum” có nghĩa là “sự tín nhiệm”. Trong giới Tài chính, một người đưỡc xem là có uy tín khi người khác tin tưởng và sẵn sàng ký thác Tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức tín nhiệm của người cho vay, yếu tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là đièu kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh. Trong quan hệ kinh doanh thông thường khác, uy tín vẫn là yếu tố được đặt lên hàng đầu trong nhiều trường hợp, nhưng không đóng vai trò quyết định trong mua bán bởi các lẽ sau: Thứ nhất hàng hoá thông thường cồng kềnh mang tính chất chuyên dùng, khả năng thanh toán kém nên khó tẩu tán, việc kiểm tra uy tín kinh doanh trong mối quan hệ giao dịch dễ dàng, không cần thử thách. Ngược lại, kinh doanh tín dụng Ngân hàng là kinh doanh “ quyền sử dụng khoản tiền tệ”, Ngân hàng chỉ bán “ Quyền sử dụng” của tiền chứ không bán “tiền”, nên khi hết thời gian sử dụng của tiền theo cam kết, tiền quay về giữ nguyên giá trị của nó, phần chênh lệch theo thoả thuận nếu có là “giá bán” quyền sử dụng khoản cho vay trong thời gian nhất định. Do vậy tiền phát ra qua các thời gian nhất định rồi sẽ thu về, nó không được bán đứt. Hơn nữa giá bán (lãi suất) quyền sử dụng tiền tệ thường rất nhỏ so với giá trị khoản cho vay, nên sự bù đắp khi rủi ro xảy ra là quá ít ỏi. Từ đó có thể thấy rằng quan hệ tín dụng buộc phải có long ftin, trong nhiều trường hợp, vì thiếu lòng tin nên người ta thường phải tăng cường gia cố bằng các” quyền truy đòi”, bằng Tài sản (thế chấp) hay bằng pháp lý (bảo lãnh). Thiếu lòng tin quan hệ tín dụng có thể không phát sinh. Lòng tin của khách hàng là số tiền gửi của họ được cất dữ một cách tốt nhất và nhanh chóng được rút tiền ra khi cần thiết. Tuy nhiên trong quan hệ tín dụng, lòng tin của người cho vay đối với người đi vay quan trọng hơn nhiều, bởi lẽ người cho vay là người giao phó tiền bạc hoặc Tài sản của họ cho người khác sử dụng và lơì hứa hoàn trả. Lòng tin trong quan hệ ngân hàng lại càng đặc biệt hơn so với yếu tố lòng tin trong quan hệ tín dụng phi Ngân hàng, bởi lẽ sau đây: + Trong tín dụng thương mại, tiền vay là một phần vốn sản xuất của doanh nghiệp cho vay; còn trong tín dụng Ngân hàng, tiền vay dựa trên cơ sở “đi vay để cho vay”, do vậy Ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay và là nguời cho vay. Khi là người đi vay, Ngân hàng phải có được lòng tin của công chúng để họ ký thác Tài sản hoặc tiền bạc cho ngân hàng. Trong trường hợp ngân hàng là người cho vay, ngân hàng phải thẩm tra uy tín và khả năng hoàn trả của ngượi đi vay. ở đây ngân hàng thực hiện nghiệp vụ đi vay để cho vay, “mua” quyền sử dụng vốn của chủ thể có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế rồi “bán” quyền sử dụng vốn đó cho các chủ thể có nhu cầu để hưởng lợi tức. Cũng như bao doang nghiệp khác, hoạt động của các ngân hàng phải mang lại lợi nhuận và bảo toàn vốn, điều đó liênquan đến sự sống còn của các Ngân hàng Thương mại. + Khách hàng là người ký thác và khách hàng là người đi vay của ngân hàng rất là đa dạng và phức tạp, thuộc nhiều thành phần, ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Vì thế yếu tố lòng tin trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng được nhân lên rất nhiều lần: Ngân hàng phải ổn định lòng tin ở mức độ cao cho người ký thác, đồng thời phải thẩm định khắt khe uy tín của người vay. Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến việc cho vay đối với những người không có khả năng hoàn trả, ngân hàng sẽ không có vốn để hoàn trả cho người ký thác, tức là đánh mất lòng tin đối với công chúng từ đó ngân hàng sẽ không tiếp tục cho vay được, đó là chưa nói đế sự phá sánẽ diễn ra do ngan hàng mất khả năng thang toán. 2.4. Tín dụng của ngân hàng tạo tiền ký thác, tạo Tài nguyên cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chức năng tạo tiền và huỷ tiền là chức năng riêng có của tín dụng ngân hàng. Chức năng này làm cho hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng khác hẳn với các hoạt động kinh doanh thông thường khác. Khi ta mua chịu ở một cửa hàng nào đó thì quan hệ tín dụng phát sinh: số tiền ta nhận được qua mua chịu sễ bằng số tiền mà người bán chịu lẽ ra nhận được. Hoặc khi mua một trái phiếu, số tiền mà ta giảm đi cũng chính là số tiền mà công ty đó nhận được. Vậy trong tín dụng thông thường, việc cho vay chẳng qua là chuyển số tiền từ tay người này sang tay người khác sử dụng, người cho vay mất đi cái mà người cho vay nhận được. Điều này cũng giống như khi Ngân hàng Thương mại cho vay bằng tiền mặt. Nhưng khi ngân hàng cho vay bằng rút qua số dư Tài khoản tiền gửi ( tức cho vay chuyển khoản), thì ngân hàng không mất đi cái gì, mà khách hàng có thêm phương tiện tạo ra sức mua. Tóm lại, trong các loại tín dụng khác, cho vay hoặc là thu nợ là quá trình chuyển một số tiền từ tay người này sang tay người khác, không mất đi và cũng không tăng thêm. Trong khi đó Ngân hàng Thương mại cho vay (không bằng tiền mặt) sẽ làm giảm một lượng tiền. Ngân hàng Thương mại thông qua tín dụng để tạo tiền và huỷ tiền, cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Khi làm điều đó ngân hàng đã tạo ra Tài nguyên quan trọngnhất phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 2.5. Công nghệ ngân hàng là công nghệ đặc biệt: công nghệ biến đổi cơ cấu thời hạn của các đông tiền. Hoạt động kinh tễ xã hội luôn sản sinh ra tình trạng lưỡng lập, nghĩa là luôn có những người thừa tiền muốn cho vay và những người thiếu tiền muốn đi vay. Tuy vậy, khi những người đi vay và cho vay giao dịch trực tiếp với nhau, thì họ gặp phải những khó khăn hầu như nan giải. Những khó khăn này bao gồm sự không trùng hợp về thời gian (người cho vay chỉ thích “cho vay ngắn hạn”, còn người đi vay mong muốn có được “khoản vay dài hạn”), số lượng vốn (những người tiết kiệm có thể chỉ có những khoản vốn nhỏ muốn cho vay, trong khi người vay lại yêu cầu một khoản vay lớn) và những rủi ro, v.v... Như vậy, ván đè cơ bản nảy sinh là làm sao hoà hợp được ý nguyện của hai bên: người cho vay (đầu tiên) muốn cho vay ngắn hạn và người đi vay (cuối cùng) muốn được vay dài hạn. Thị trường Tài chính trực tiếp sẽ bị bế tắc không thể giải quyết nổi và người ta gọi đó là “ thể trạng yếu đuối” của thị trường Tài chính trực tiếp. Khi các ngân hàng cung cấp tín dụng, tức là ngân hàng cam kết khả năng thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng đã thiết kế cơ cấu thời gian hợp lý để đảm bảo khả năng thanh khoản. Ngay cả khi nhận tiền ký thác bằng cách tính toán giá trị cũng như thời hạncủa các tiêu sản đến hạn trong giai đoạn nào đó, ngân hàng cũng đã lên kế hoạch bổ sung bằng các nguồn ký thác mới. Các biện pháp thay đổi cơ cấu thời hạn ngân quỹ luôn luôn đáp ứng được yêu cầu về khả năng thanh toán cho khách hàng cũng như khả năng thanh khoản của ngân hàng đã hình thành một công nghệ đặc biệt của ngân hàng: công nghệ thay đổi thời hạn sử dụng của các đồng tiền. 3. Chức năng và vai trò của Ngân hàng Thương mại Tầm quan trọng của các Ngân hàng Thương mại được thể hiện qua các chức năng của nó. Chức năng của Ngân hàng Thương mại có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung được nhiều nhà kinh tế chấp nhận ở các chức năng sau: 3.1. Chức năng trung gian tín dụng Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của Ngân hàng Thương mại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những người có thể vì hướng do gì đó không dùng nó một cách sinh lời sang những người có ý muốn sinh lợi. Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể có nhu cầu tiền tệ cần bỏ sung có nhiều hạn chế hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại đã góp phần khắc phục hạn chế đó. Thực hiện chức năng này, một mặt, Ngân hàng Thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn dành cho việc sử dụng vốn mặt khác, trên cơ sở số vốn đã huy động được, tiêu dùng... của các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, Ngân hàng Thương mại vừa là người huy động vốn để đầu tư tìm kiếm lợi nhuận. Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn. Sự phát triển của thị trường tài chính làm suất hiện các khía cạnh khác của chức năng này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa công ty (khi phát hành cổ phiếu) với những nhà đầu tư: Chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua bán trái phiếu công ty... Theo cách này Ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên thị trường. Hơn nữa, tín dụng Ngân hàng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng Ngân hàng góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, đảm bảo quá trình sản suất kinh doanh liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư động viên vật tư hàng hoá đưa vào sản suất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản suất. Chức năng tín dụng của Ngân hàng Thương mại được hình thành rất sớm, ngay từ lúc hình thành các Ngân hàng Thương mại ngày nay, thông qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng Thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân. 3.2. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý phưong tiện thanh toán Việc làm trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian truyền thống như trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. ở các nước phát triển, phần lớn các công tác thanh toán ở trong nước được thực hiện thông qua sec và phần lớn séc thanh toán ở trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống Ngân hàng Thương mại. Với phương pháp công nghệ hiện đại hơn, các Ngân hàng Thương mại từng bước trang bị đầy đủ các máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật khác tạo điều kiện, thanh toán bù trừ được nhanh chóng giảm bớt chi phí và có độ chính xác cao. Quá trình lưu thông chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người bán có một đặc điểm phi vật chất. Bằng chứng là ở các nước, công nghiệp phát triển sử dụng hình thức chuyển tiền bằng điện tử là chuyện bình thường. Họ thanh toán bằng nối mang các máy vi tính của các Ngân hàng Thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người bán một cách nhanh chóng tiện lợi. Như vậy Ngân hàng đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc luận chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. 3.3. Chức năng tạo ra tiền Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng hai cấp Vào thế kỷ 19, hệ thống Ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các Ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ mà đã tạo nên một hệ thống, trong đó Ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý, về tiền tệ tín dung, là Ngân hàng của các Ngân hàng còn các Ngân hàng Thương mại, chuyên kinh doanh tiền tệ. Nhờ hoạt động trong hệ thống mà các Ngân hàng Thương mại đã tạo ra bút tệ. Việc tạo ra bút tệ là sáng kiến quan trọng trong lịch sử hoạt động Ngân hàng; Chức năng tạo ra bút tệ được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và đầu tư của Ngân hàng Thương mại trong mối quan hệ tuỳ thuộc vào Ngân hàng trung ương. Nhờ nhận tiền ký thác của khách hàng, Ngân hàng Thương mại có khả năng đầu tư. Nhưng khi đầu tư, Ngân hàng tạo ra tiền ký thác mới, còn gọi là tiền bút tệ, tiền chuyển khoản Ngân hàng Thương mại trở thành người cung ứng tiền bút tệ quan trọng, trong nền kinh tế. Với hàng loạt các nhân tố tác động ảnh hưởng đến quá trình tạo tiền, các nhà kinh tế đường thời đã đưa ra nhiều côg thức hoàn chỉnh. Chẳng hạn như công thức sau của giáo sư người Pháp ...P.F. LEHAMAN. Số nhân tiền gửi mở rộng = Trong đó: a: Tỷ lệ dự trữ pháp định. b: Tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi thanh toán r: Tỷ lệ dự trữ dư thừa trên tiền gửi thanh toán không vay hết. Tiền gửi mở rộng = x tiền gửi ban đầu. Tóm lại, khả năng tạo tiền là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một Ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, tín dụng nhiều Ngân hàng. Khả năng này tạo ra "bội số mức cung tiền tệ" liên quan chặt chẽ với việc công cụ dự trữ bắt buộc, của Ngân hàng trung ương. Chính vì vậy các bút tệ thực sự thúc đẩy sự phát triển kinh tế mà cũng có thể gây nên những tai họa lớn. Đây là nhân tố cơ bản trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng Thương mại. 3.4. Chức năng làm dịch vụ tài chính và dịch vụ khác Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và Ngân quỹ, Ngân hàng có những điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin, quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp. Với những điều kiện đó, Ngân hàng có thể làm tư vấn về tài chính và đầu tư cho doanh nghiệp, làm đại lý, phát hành cổ phiếu, trái khoán đảm bảo đạt hiệu quả cao và tiết kiệm được chi phí. Khi một doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp, họ có thể nhờ Ngân hàng cung cấp dịch vụ như: Lựa chọn chứng khoán phát hành, tư vấn các vấn đề lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề kỹ thuật khác. Ngoài ra Ngân hàng còn cung cấp dịch vụ lưu trữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng, làm dịch vụ thu lãi chứng khoán, chuyển lãi đó vào tài khoản khách hàng, hoặc còn có Ngân hàng Thương mại còn thực hiện việc mua bán các chứng khoán cho khách hàng, thu hồi vốn chứng khoán đến hạn... Hơn nữa, Ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác như: + Dịch vụ bảo quản an toàn vật có giá của khách hàng. + Dịch vụ cho thuê két ngân buổi tối. + Dịch vụ tín thác và uỷ thác Ngân hàng. II. Lý luận chung về sử dụng vốn của Ngân Hàng thương mại Để hiểu xem một Ngân hàng Thương mại (NHTM) hoạt động như thế nào chúng ta phải xem xét đến bản quyết toán tài sản của Ngân hàng đó, là bản kê tài sản có và tài sản nợ cuả nó. Bảng quyết toán này liệt kê các kết số, tức là nó có đặc trưng. Tổng tài sản có = Tổng tài sản nợ + vốn. Hơn nữa, bảng quyết toán tài sản một Ngân hàng liệt kê các nguồn vốn của Ngân hàng (tài sản nợ) và sử dụng vốn (tài sản có). Các Ngân hàng bằng nhiều cách để huy động vốn. Sau đó họ dùng vốn này có được tài sản có. - Bảng quyết toán của tất cả các Ngân hàng Thương mại thưòng có kết cấu dưới dạng sau: Tài sản có (sử dung vốn) Tài sản nợ (nguồn vốn) 1. Khoản mcụ dự trữ 1. Khoản mục tiền gửi 2. Khoản mục CK ngắn hạn 2. Khoản mục đi vay 3. Khoản mục cho vay 3. Các loại vốn uỷ thác 4. Khoản mục đầu tư 4. Vốn sở hữu của Ngân hàng 5. Các tài sản có khác 6. TSCĐ tích lũy 1. Cấu trúc nguồn vốn tại Ngân Hàng thương mại 1.1. Nguồn vốn tiền gửi Nguồn vốn tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất chiếm bộ phận lớn trong tổng số nguồn vốn của NHTM, thường chiếm khoảng 50 - 60% nhưng hiện nay tỷ lệ này đang giảm dần. Theo tính chất giao dịch việc huy độn vốn chia làm loại: Tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm và nó có thể được chia thành dạng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Nguồn vốn nằm trên tài khoản thanh toán và tiết kiệm không kỳ hạn là khá lớn bởi vì nó phục vụ cho nhu cầu thanh toán giao dịch trong nền kinh tế. Đặc điểm của nguồn vốn này thường là ngắn hạn, không ổn bởi vì khách hàng có thể rút tiền trên tài khoản bất kỳ lúc nào họ có nhu cầu. Ngân hàng sử dụng vốn phải đối phó với rủi ro thanh khoản hoặc sự ứ đọng vốn nhưng ngược lại chi phí sử dụng nó rất thấp. Việc huy động nguồn vốn tiền gửi phụ thuộc nhu cầu thanh toán của từng cá nhân. Ví dụ như những ngày giáp tết hay, Noel, nhu cầu chi tiêu lớn, khách hàng thường đến Ngân hàng để rút tiền. Lãi suất cũng có yếu tố quan trọng có tính cạnh tranh lơn, nhất, là trong thời kỳ khan hiếm tiền tệ. Sự thu hút nguồn tiền gửi phụ thuộc vào mức độ đa dạng hoá dịch vụ trình độ công nghệ Ngân hàng hiện đại tạo ra sự thuận lợi cho khách hàng. Uy tín, thâm niên, sự giao tiếp lịch sự của đội ngũ cán bộ công nhân viên ảnh hưởng khả năng huy động tiền gửi của Ngân hàng. Ngoài ra khả năng sử dụng vốn như khả năng cho vay, khả năng đầu tư sẽ ảnh hưởng gián tiếp trong việc huy động nguồn vốn. 1.2. Nguồn vốn đi vay Ngân hàng Thương mại có thể đi vay từ NHNN, các tổ chức tín dụng khác có thể vay trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Khi Ngân hàng Thương mại vay vốn từ NHNN nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, đáp ứng nhu cầu thanh khoản, đáp ứng nhu cầu cấp tín dụng cho các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế. Trong trường hợp Ngân hàng Thương mại gặp khó khăn và có khả năng phá sản mà ảnh hưởng đến hệ thống Ngân hàng, NHNN có thể cho vay. Khi NHNN chho Ngân hàng Thương mại vay dựa vào các chứng khoán (chứng khoán cầm cố, chứng khoán chiết khấu), và chỉ cho vay tối đa 70% giá trị thực tế của chứng khoán đó. Chi phí để có khoản vốn này là khá lớn, ảnh hưởng đến kế hoạch của Ngân hàng, nhất là lợi nhuận, nên đây là giải pháp cuối cùng Ngân hàng mới huy động. Các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng luôn là người bạn đồng hành, người bạn hàng của nhau. Khi một Ngân hàng cần một nguồn vốn trung và dài hạn hay một dự án lớn đem lại lợi nhuận cao Ngân hàng Thương mại thường đi vay tức thời với lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng. Hoặc hai Ngân hàng Thương mại thuộc hai nước có, thời gian làm việc ngược nhau thường ký kết hợp đồng tín dụng qua đêm để tận dụng nguồn vốn tuy nhiên cách làm này chi phí hơi cao vì lãi suất tín dụng qua đêm là lãi suất nóng. Ngoài ra Ngân hàng Thương mại có thể vay vốn trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ thông qua phát hành các kỳ phiếu ngắn hạn, trái phiếu trung và dài hạn. Đặc điểm của nguồn vốn đi vay là ổn định hơn, nguồn vốn tiền gửi nhưng chi phí vốn cao hơn. Tỷ lệ nguồn vốn đi vay đang có xu hướng chiếm khoản 15 - 20% tổng nguồn vốn Ngân hàng Thương mại. Việc huy động vốn còn phụ thuộc chính sách tiền tệ của NHNN, các hoạt động nói chug của Ngân hàng Thương mại và tính năng động của thị trường chứng khoán. 1.3. Các nguồn vốn khác của Ngân hàng Thương mại Ngân hàng Thương mại ra còn có những nguồn vốn khác như nguồn vốn uỷ thác, nguồn vốn mà Ngân hàng đứng ra quản lý hộ một tổ chức ra bảo lãnh cho một tổ chức để đầu tư vào một dự án lớn mang lại lợi nhuận cao, trong trường hợp này Ngân hàng sẽ hướng hoa hồng, và hướng dịch vụ quản lý. Nguồn vốn trong thanh toán hình thành từ đặc điểm thanh toán không dùng tiền mặt khi mà sự vận động giữa hàng hoá và tiền tệ luôn có một khoảng thời gian nhất định. Kế toán ngày một hiện đại thì khoảng thời gian này ngày một rút ngắn, nguồn vốn bị thu hẹp nhưng tang tính cạnh tranh cho Ngân hàng Thương mại. Nguồn vốn hình thành từ các khoản nợ của Ngân hàn nhưng chưa đến hạn phải trả. Các loại nguồn vốn này thường chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, Ngân hàng có thể chủ động sử dụng ít chịu sự rủi ro. 1.4. Vốn chủ sở hữu và các quỹ Trước khi bước vào hoạt động, mỗi Ngân hàng đều có một khoản vốn nhất định nhiều hơn hoặc bằng với vốn pháp định do Nhà nước đặt ra, gọi là vốn điều lệ. Đối với Ngân hàng quốc doanh, vốn điều lệ thường do ngân sách Nhà nước cấp, các Ngân hàng cổ phần do các cổ đông đóng góp. Vốn điều lệ phục vụ cho việc mở rộng, khởi động Ngân hàng, tạo ra cơ sở vật chất ban đầu để Ngân hàng đi vào hoạt động. Vốn điều lệ thể hiện qui mô, uy tín của Ngân hàng. Tỷ lệ vốn nhỏ chỉ chiếm 5 -10% tổng nguồn vốn. Thườg các Ngân hàng cổ phần sau một thời gian hoạt động muốn nâng vốn điều lệ lên bằng cách phát hành thêm cổ phiếu các nguồn vốn bổ sung được trích trên cơ sở lợi nhuận không chia lợi nhuận sau thuế, hoặc tăng nguồn vốn này bằn cách phát hành trái phiếu Ngân hàng. Vốn sở hữu của Ngân hàng như một cái đệm chống đỡ sự sụt giảm giá trị của những tài sản có của Ngân hàng. Trong Ngân hàng hình thành lên nhiều quĩ dự phòng rủi ro, quĩ phúc lợi nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, hạn chế rủi ro cho các cơ quan bảo hiểm, đảm bảo thanh khoản và cung cấp một phần tài sản có bù đắp thua lỗ. Tóm lại, để có một cơ cấu nguồn vốn tối ưu đảm bảo yêu cầu ổn định cho việc sử dụng và tối thiểu hoá chi phhí đòi hỏi Ngân hàng phải xét đến các yếu tố về khả năng huy động vốn trong dân cư, uy tín Ngân hàng... đồng thời phải quan tâm đến vấn đề đầu ra. Tránh tình trạng vốn huy động được từ các nguồn vốn ngắn hạn không thể cho vay trung và dài hạn được hay tình trạng ứ đọng vốn do không có dự án khả thi, giảm lợi nhuận của Ngân hàng. III. Sử dụng vốn tại Ngân hàng Thương mại Trong bản quyết toán, tài sản của một Ngân hàng Thương mại, bên tài sản có thể hiện kết quả của việc sử dụng vốn của Ngân hàng đó. Phân tích theo tính lóng dần của các loại tài sản, việc sử dụng vốn trong Ngân hàng Thương mại gồm những mục sau. 1. Tiền dự trữ Đây là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh khoản của Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên của khách hàng. Ngân hàng Thương mại phải duy trì một bộ phận vốn, để gửi vào một tài khoản nào đó như ở NHNN, tổ chức tín dụng các Ngân hàng Thương mại khác... và một lượng được cất giữ tại Ngân hàng đó, gọi là tiền dự trữ. Mức dự trữ cao hay thấp phụ thuộc vào qui mô hoạt động của Ngân hàng, mối quan hệ thanh toán bằng tiền mặt và chuyển khoản, thời vụ của các khoản chi tiền mặt. Tiền dự trữ hiện hành không có lãi nhưng các Ngân hàng Thương mại vẫn giữ chúng bởi một vài lí do nhất định. Ngân hàng buộc phải làm như vậy vì hai nguyên nhân.Thứ nhất, theo luật pháp hiện hành, các Ngân hàng Thương mại phải nộp một tỷ lệ nhất định tiền gửi mà Ngân hàng huy động được tại NHNN (ví như 10%) để đảm bảo toàn tiền gửi. Đây cũng là công cụ quan trọng quản lý lưu thông._. tiền tệ. Thứ hai, bản thân Ngân hàng cũng thấy rõ sự cần thiết phải giữ một ít tiền mặt mà không nên cho vay hết dù cho nó thừa khả năng làm điều đó. Việc giữ lại tiền mặt này là để đảm bảo an toàn cho những hoạt động còn lại, và vì thế dự trữ tiền mặt trong tài sản có còn gọi là "khoản đầu tư cho sự an toàn". Ngoài ra, các Ngân hàng nhỏ gửi tiền vào các Ngân hàng lớn để đổi lấy các dịch vụ khác nhau như tập hợp séc, giao dịch ngoại tệ.v.v. Các khoản này có tính lỏng nhất trong các loại tài sản có của Ngân hàng chiếm khoảng 7% tổng tài sản, phục vụ nhu cầu thanh khoản tại Ngân hàng. 2. Đầu tư vào chứng khoán Có thể thấy NHTM thực hiện nghiệp vụ đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận, nâng cao khả năng thanh khoản, đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh nhằm phân tán rủi ro. Trong việc đầu tư vào chứng khoán, NHTM chủ yếu mua các trái phiếu kho bạc, các trái phiếu có tính thanh khoản cao. Đây là những công cụ chính của thị trường tiền tệ tài chính. Việc mua và dự trữ các loại trái phiếu này một mặt tạo ra thu nhập cho ngân hàng, mặt khác chúng là những công cụ tài chính dễ lưu động hoá, vì vậy khi cần tiền ngân hàng có thể bán hoặc chiết khấu ở ngân hàng khác hoặc ở NHNN. 3. Tiền cho vay Cho vay là một hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng Thương mại đểtạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư. Kinh tế càng phát triển, hướng cho vay của các Ngân hàng Thương mại càng tăng và loại hình cho cũng trở nên vô cùng đa dạng. ở hầu hết các nước công nghiệp trong nhóm 10 và 15 nước hàng đầu thế giới, cho vay của các Ngân hàng Thương mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Khu vực cho vay ngắn hạn nhường chỗ cho thị trường tiền tệ tài chính cung ứng. Ngược lại hầu hết các nước đang phát triển cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn. Nhưng nói chung, lợi nhuận chủ yếu của Ngân hàng vẫn là hoạt động cho vay hay nói rộng ra là hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại 67% tổng tài sản của Ngân hàng ở dạng tiền cho vay tạo ra hơn 60% thu nhập của Ngân hàng khác bởi chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản vay mãn hạn và cũng có xác suất rủi ro vỡ nợ cao hơn. Theo thời gian, các khoản cho vay có thể chia thành các khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Cho vay ngắn hạn thường đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động hay khó khăn tạm thời về vốn. Cho vay trung và dài hạn thường đáp ứng nhu cầu cho những dự án lớn, hay đổ mới dây chuyền công nghệ... Việc phân loại theo thời gian giúp Ngân hàng lập kế hoạch để huy động vốn và đầu tư. Phân loại theo đối tượng cho vay, có khoản cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp, cho vay tiêu dùng.v.v. Các Ngân hàng cho vay công nghiệp thường dựa vào tính chất, chu kỳ kinh doanh, để đáp ứng mục đích, và mang lại hiệu quả sử dụng vốn. Cho vay nông nghiệp dựa vào thời vụ và rủi ro do tự nhiên. Cho vay tiêu dùng thường là cho vay đối với cán bộ làm công ăn lương, công việc ổn định, tiền lương ổn định, đảm bảo khả năng trả nợ cho Ngân hàng. 4. Các khoản đầu tư Ngân hàng Thương mại có thể tham gia đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn, chứng khoán chính phủ.v.v. Các Ngân hàng Thương mại mua chứng khoán vì mục đích thanh khoản và đa dạng hoá hoạt động, để nâng cao lợi tức và phục vụ như các vật kí quĩ cho các tài sản nợ ký thác với chính quyền địa phương, chính phủ.v.v. Tỷ lệ lớn nhất của đầu tư chứng khoán là chứng khoán chính phủ bởi tuy có mức lãi hạn chế những linh hoạt, không có rủi ro tín dụng và ít rủi ro về lãi suất so với trái phiếu dài hạn. Thông thường lợi tức tương ứng với độ rủi ro. Khoản vốn này chiếm khoảng 15 à 19% tổng tài sản. IV. Các vấn đề liên quan đến việc sử dụng vốn an toàn và hiệu quả 1. Quản lý nguồn vốn tại Ngân hàng Thương mại Phân tích cơ cấu nguồn vốn và quản lý nguồn vốn hướng tới mục tiêu ổn định hoạt động của Ngân hàng và đặc biệt hướng tới lợi nhuận. Nghĩa là, Ngân hàng phải đạt được chiến lược làm sao tạo nguồn vốn ổn định có thể ổn định sử dụng. Và xây dựng được cơ cấu vốn hợp lý và giảm chi phí vốn ở mức thấp nhất. Quản lý nguồn vốn về qui mô nghĩa là xem xét Ngân hàng Thương mại có khả năng huy động vốn cao nhất là bao nhiêu. Cơ cấu, qui mô từng loại vốn ảnh hưởng tới việc trả lãi Ngân hàng và ảnh hưởng tới ổn định hoạt động Ngân hàng như thế nào. Các Ngân hàng hiện đại thường lập ra những bài toán tối ưu về cơ cấu nguồn vốn và qui mô từng loại nguồn vốn. Quản lý chi phí trả lãi là đưa chính sách lãi suất huy động phù hợp với từng thời kỳ trên cở sở chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Tính toán tổng chi phí trả lãi - chi đầu vào - để xác định chi đầu ra. Quản lý kỳ hạn của nguồn vốn, Ngân hàng xác định ra những kỳ hạn huy động, xác định được khả năng trả nợ đảm bảo nhu cầu rút tiền của khách hàng, tính toán kỳ hạn bình quân của các khoản tiền gửi. Trong quản lý kỳ hạn Ngân hàng áp dụng "Nguyên lý thợ kim hoàn "để tính thời hạn trung bình của các khoản tiền gửi. Bất cứ hoạt động cho vay hay đầu tư nào đều tiềm ẩn những dạng rủi ro khác nhau và mức rủi ro cũng khác nhau. Sử dụng vốn tại Ngân hàng thương mại dựa trên nguyên tắc an toàn và hiệu quả thường phải quản lý thanh khoản, kiểm soát rủi ro trong hoạt động của mình. 2. Quản lý thanh khoản Thanh khoản là khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán tín dụng cho bất kỳ khách nào tại bất kỳ thời điểm nào. Thanh khoản là một trong số các vấn đề mà nhà quản lý Ngân hàng thường xuyên phải quan tâm. Mức độ thanh khoản mà một ngân hàng riêng biệt nào đó cần đến, tuỳ thuộc vào lượng biến đổi xảy ra ở số tiền gửi và nhu cầu tín dụng. Có nhiều biến động bất thường xảy ra trong nền kinh tế, theo thời vụ, theo chu kỳ. Rất khó lòng dự đoán được thời gian xảy ra và tính khốc liệt của biến động bất thường ấy do chúng không tuân theo những khuôn mẫu định sẵn. Những biến động thời vụ trực tiếp liên quan đến mùa vụ khác với biến động bất thường được lặp lại hàng năm, và những biến động ấy có thể thay đổi cùng thời gian. Ví như một Ngân hàng đặt tại khu nông nghiệp, mức tiền gửi sẽ tăng vào mua thu hoạch và nhu cầu tín dụng sẽ tăng vào mùa xuân. Các biến động chu kỳ thường khó dự đoán hơn các biến động theo thời vụ. Trong suốt thời kỳ suy thoái của một chu kỳ sản suất, nhu cầu tín dụng giảm và tiền gửi Ngân hàng cũng có thể giảm theo. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương có khuynh hướng bù đắp cho sự giảm sút tiền gửi Ngân hàng trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng, suốt thời kỳ kinh tế trì trệ. Trong giai đoạn chấn hưng, nhu cầu tín dụng tăng vượt mức tăng tiền gửi, khiến Ngân hàng bán các tài sản lưu hoạt. Kết quả của những biến động này trong nền kinh tế đã tác động đến mức tiền gửi do đó ảnh hưởng trực tiếp đến tính thanh khoản. Vấn đề đặt ra cho Ngân hàng là phải quản lý thanh khoản. Quản lý thanh khoản của Ngân hàng xác định nhu cầu khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản tín dụng cho khách hàng tại bất kỳ thời điểm nào, tránh tình trạng khách hàng đến rút tiền ô ạt dẫn đến tình trạng Ngân hàng phá sản. Điều quan tâm hàng đầu là Ngân hàng phải tính toán các loại tài sản có khả năng chuyển thành tiền mặt. Việc xác định một mức thanh khoản hợp lý trong từng thời kỳ là hết sức khó khăn. Ngân hàng phải dự đoán được nhu cầu của nền kinh tế tại các thời điểm khác nhau. Đồng thời dựa vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng trung ương ban hành để có chính sách tín dụng phù hợp. Trong từng trường hợp thanh khoản có vấn đề Ngân hàng thường dùng biện pháp bán đi các chứng khoán để chuyển đổi như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu và cổ phiếu của các công ty có chất lượng cao được ưa chuộng trên thị trường. Tiếp theo Ngân hàng rút các khoản tiền gửi tại các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác. Trường hợp khẩn cấp, Ngân hàng phải tiến hành thương lượng với các Ngân hàng thương mại khác để bán đi các khoản tín dụng có chất lượng cao. Thông báo trì hoãn các khoản nợ sẽ là phương cách cuối cùng của Ngân hàng thương mại. Để quản lý thanh khoản Ngân hàng phải dựa vào các lí thuyết cơ bản như lí thuyết cho vay thương mại, lí thuyết về khả năng chuyển đổi, lí thuyết về lợi tức dự tính và các vấn đề về quản lý tình hình dự trữ. 2.1. Lý thuyết cho vay thương mại Thanh khoản của một Ngân hàng thương mại được đảm bằng một bộ phận tài sản biểu hiện dưới hình thức cho vay. Bộ phận này được lưu chuyển trong suốt quá trình kinh doanh. Ngân hàng cấp tín dụng cho doanh nghiệp tương ứng với các chu kỳ kinh doanh tướng ứng, do vậy Ngân hàng luôn có các khoản nợ có thể thu hồi được. Với cách phân đoạn qúa trình kinh doanh giúp Ngân hàng đảm bảo được thanh khoản đồng thời doanh nghiệp có kế hoạch trả nợ đối với từng thời kỳ. Cho vay thương mại thường áp dụng với các khoản cho vay vốn lưu động. Hạn chế là Ngân hàng khó mở rộng đối với loại cho vay trung và dài hạn ảnh hưởng tới thị trường tín dụng trong tương lai vì liên quan đến các vấn đề công nghệ , đổi mới công nghệ, vấn đề mở rộng sản suất. 2.2. Lý thuyết về khả năng chuyển đổi Cơ sở giá thuyết cho rằng thanh khoản của một Ngân hàng được duỳ trì, nếu nó giữ được các tài sản có thể chuyển đổi hoặc bán cho người cho vay hoặc đầu tư để lấy tiền. Nếu tiền cho vay không được hoàn trả, vật thế chấp từ các khoản vay có bảo đảm, có thể bán được trên thị trường để nhận tiền. Nếu cần, các quĩ và các khoản tín dụng có thể được chuyển đổi tại Ngân hàng trung ương. Như vậy, một Ngân hàng thương mại nào đó sẽ có thể đáp ứng nhu cầu về thanh khoản, miễn là nó luôn luôn có tài sản để bán. Tương tự như vậy, hệ thống Ngân hàng sẽ luôn mang tính thanh khoản, miễn là Ngân hàng trung ương sẵn sàng mua lại các tài sản dưới dạng chiết khấu và phụ thuộc vào hệ thống tài chính, quan hệ cung cầu trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ. 2.3. Lý thuyết về lợi tức dự tính Được xây dựng trên cơ sở thanh khoản của Ngân hàng thương mại được đảm bảo bằng việc chi trả tiền vay theo lịch trình định sẵn được dựa trên cơ sở của lợi tức tương lai của người vay. Lý thuyết này không phủ nhận tính khả thi của các lý thuyết về cho vay thương mại và lý thuyết về khả năng chuyển đổi. Thay vào đó, nó nhấn mạnh đến triển vọng về việc hoàn trả tín dụng cùng lợi tức, hơn là lệ thuộc nặng lề vào việc kí quĩ. Cũng như thế, nó cho rằng, thanh khoản của một Ngân hàng có thể bị ảnh hưởng bởi qui mô đáo hạn của các khoản cho vay và đầu tư. Cho vay kinh doanh ngắn hạn sẽ có nhiều thanh khoản hơn là chovay có kỳ hạn, và cho vay tiêu dùng trả góp sẽ có nhiều thanh khoản hơn là cho vay được đảm bảo bởi bất động sản nhà cửa. Lý thuyết này được áp dụng và phát triển rất nhanh trong một số loại cho vay của Ngân hàng thương mại: cho vay kinh doanh có kỳ hạn, cho vay tiêu dùng trả góp và cho vay bất động sản nhà cửa. Tất cả những khoản cho vay này có đặc điểm chung là tăng tính chất thanh khoản của chúng, do chúng có thể được trả dần. Một khoản mục đầu tư có nhiều khoản cho vay với sự hoàn trả đều đặn hàng tháng hoặc hàng quí về số gốc và lãi, thực chất đó là thanh khoản bởi vì luồng tiền vào ra đều đặn hàng tháng có thể đoán trước được. Khi cần đến thị trường ngân quĩ có thể sử dụng. Nếu không nó sẽ bị giữ lại để đảm bảo thanh khoản trong tương lai. Lý thuyết lợi tức dự tính đã khuyến khích nhiều ngân hàng thương mại áp dụng một mô hình bậc thang trong khoản mục vốn đầu tư. Có nghĩa là có một sự xê dịch thời gian đáo hạn nào đó để cho mức khấu hao diễn ra trên cơ sở đều đặn và có thể dự đoán được. Nhược điểm của lí thuyết này là Ngân hàng có thể bị ảnh hưởng và mức thanh khoản có thể bị suy giảm nếu khách hàng không trả nợ đúng kỳ hạn hay việc xác định kỳ hạn nợ của khách hàng không hợp lý. 2.4. Quản lý tình hình dự trữ Thực chất là quản lý khối lượng tiền sao cho phù hợp với nhu cầu dự trữ pháp định do Ngân hàng trung ương qui định. Việc duy trì vốn quĩ gửi tiền mặt trong từng thời gian đoạn hoạt động là hết sức cần thiết. Ngân hàng phải tính toán một số hệ số quan trọng trong từng thời kỳ * Hệ số vốn khả dụng = Hệ số >= 1 là tốt < 1 là mức nguy hiểm * Hệ số chuyển đổi = Hệ số này >= 0,6 < 0,6 là mất an toàn * Hệ ố an toàn vốn = Hệ số này >= 0,8 là an toàn < 0,8 là mât an toàn (Theo thống kê kinh nghiệm của nhiều Ngân hàng trong nhiều trường hợp, nhiều thời kỳ khác nhau) 3. Quản lý rủi ro Rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng là những biến cố sự kiện, hiện tượng xảy ra trong quá trình hoạt động của Ngân hàng thương mại gây ra thất thoát lớn về tài sản, ảnh hưởng đến uy tín, làm giảm lợi nhuận thậm chí thua lỗ, nguy hiểm hơn là dẫn đến phá sản. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro. Về phía Ngân hàng , là do không có chính sách huy động và sử dụng vốn hợp lý. Đặc biệt trong việc xem xét các dự án cho vay không tính tới hiệu quả kinh tế hoặc tính toán sai lệch do thông tin không đầy đủ hoặc thiếu chính xác. Việc quản lý tài sản nợ, nguồn vốn của ngân hàng có vấn đề, chưa thực hiện cơ cấu đầu tư, cơ cấu tài sản. Trình độ cán bộ Ngân hàng có nhiều điểm bất cập, không có khả năng xem xét đánh giá khách hàng. Ngân hàng không dự báo được diến biến thị trường, tình hình cung cầu các loại sản phẩm. Về phía khách hàng, bản thân họ không có dự án khả thi, việc đầu tư không có căn cứ kinh tế nên việc sử dụng vốn không hiệu quả. Khách hàng có chủ tâm lừa đảo Ngân hàng, họ có ý định vay nhưng không trả nợ. Các biến động về môi trường kinh tế chính trị xã hội trong nước và nước ngoài cũng tạo nên rủi ro. Rủi ro cũng xuất phát từ chính sách kinh tế, thiên tai. 3.1. Quản lý rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu được nợ khi đến hạn hoặc Ngân hàng không cho vay được tạo nên đọng vốn nghĩa là Ngân hàng đã chi phí cho các khoản vay lớn hơn thu nhập từ hoạt động cho vay, thu lỗ. Hoặc Ngân hàng đầu tư vào thị trường chứng khoán kém hiệu quả, Ngân hàng chỉ có thể bán chứng khoán với giá thấp hơn giá đi mua hoặc không có khả năng bán đi. Các dự án đầu tư không có khả năng sinh lời. a. Hệ số rủi ro Hr = HR <= 10% tam được Hr > 10% Ngân hàng phải xem xét lại Ngoài ra phải sử dụng một số chỉ tiêu khác để đo lường rủi ro. >= 70% chấp nhận < 70% khả năng cho vay kém Để quản lý rủi ro tín dụng các Ngân hàng thương mại phải xác định mục đích các loại cho vay theo từng đối tượng ngành nghề , thời gian, các Ngân hàng phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trên cơ sở sử dụng nhiều phương pháp khác nhau theo một qui trình chặt chẽ như phỏng vấn, khảo sát, thực tế...xem xét uy tín khách hàng . Kết hợp thời gian cho vay, nguồn vốn cho vay, khả năng cho vay. 3.2. Quản lý rủi ro lãi suất Lãi suất cho vay của Ngân hàng khác với lãi suất các công cụ trên thị trường tiền tệ chẳng hạn như Ngân khố phiếu và thương phiếu, ở chỗ là chúng được đàm phán giữa người vay và Ngân hàng hơn nữa là quyết định trong một thị trường được tổ chức sẵn. Vì là kết quả của phương pháp xác định giá cả tín dụng được đàm phán, các mức lãi suất cho vay của ngân hàng không đồng nhất. Chúng phản ánh cả tính cá biệt của khoản tín dụng lẫn cung cầu tín dụng trên thị trường tiền tệ. Lãi suất cũng thay đổi so với mức rủi ro tín dụng trên hàng loạt các yếu tố: tiền cho vay thời hạn, qui mô cho vay, chi phí thực hiện và giám sát khoản cho vay, số dư tiền gửi của người vay và các chứng khoán. Hơn nữa lãi suất còn bị ảnh hưởng bởi phong tục tập quán, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng và các nguồn vốn khác, lãi suất khống chế tối đa và thái độ của các giám đốc Ngân hàng và người vay, liên quan đến các điều kiện kinh tế trong tương lai. Lãi suất có thể biến động và biến đổi nhưng lãi suất cho vay phải dựa mức lãi suất cơ bản do nhà nước qui định. Rủi ro lãi suất là rủi ro Ngân hàng phải chịu khi có các khoản cho vay hoặc nợ theo lãi suất cố định, do diễn biến lãi suất về sau gây ra. Vậy rủi ro lãi suất của Ngân hàng là chi phí nguồn vốn trở nên cao hơn thu nhập từ sử dụng vốn. Hay nói cách khác rủi ro lãi suất là sự mất mât cân bằng giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra do ngân hàng không dự đoán được cung cầu trên thị trường vốn và tiền tệ làm ảnh hưởng tới thu nhập của Ngân hàng. Để đo lường rủi ro lãi suất, lợi nhuận của Ngân hàng được tính như sau: Ln = L đầu ra= (L đầu vào + CF ) > 0 Ngân hàng có lãi Lãi suất bình quân đầu vào * Lãi suất bình quân đầu ra DL = Lr - Lv Sau đó: DS - DL = TN (Doanh số bình quân ) (Doanh số bình quân của Ngân hàng ) Ngân hàng phải nghiên cứu diễn biến thị trường tiền tệ, thị trường vốn, nghiên cứu quan hệ cung cầu vốn dài hạn, trung hạn va ngắn hạn, có chính sách huy động vốn tương ứng. Nghiên cứu diễn biến tinh hình của lạm phát đồng thời phân đoạn thị trường. Trong từng trường hợp thị trường có nhiều rủi ro không nên cho vay thời hạn lâu dài vì Ngân hàng khó thay đổi hợp đồng tín dụng. Thay vào đó thì hợp đồng với khách hàng theo lãi suất điều chỉnh theo mức biến động lãi suất trên thị trường. 3.3. Quản lý rủi ro hối đoái Các rủi ro trong việc giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ khác nhau do tác động của kinh tế và chính trị của một nước. Việc duy trì nắm giữ một ngoại tệ của một quốc gia nào đó là mạo hiểm, vì nó khiến Ngân hàng phải gánh chịu một rủi ro hối đoái phát sinh từ biến động tỷ giá ngoại tệ thể hiện các khoản cho vay và nợ so với đồng nội tệ. Thí dụ đồng yên nhật giảm 1,5% so với đồng nội tệ thì các Ngân hàng ký thác bằng đồng yên và lượng tiền lên tới 100 triệu đồng đã thiệt hại 1,5 triệu đồng. Những biến động ngắn hạn, những thay đổi lớn về giá trị trao đổi có thể xảy ra. Một Ngân hàng tham gia giao dịch ngoại hối phải giới hạn việc tham gia dài hạn, những thay đổi lớn về giá trị trao đổi có thể xảy ra. Một Ngân hàng tham gia vào dịch vụ giao dịch ngoại hối, phải giới hạn việc tham gia vào các loại tiền tệ khác nhau. Và thực hiện một khối lượng kinh doanh tiền tệ vừa đủ để các thiệt hại có thể bù đắp bằng lợi tức. Hơn nữa Ngân hàng phải cảnh giác không chỉ với những thay đổi về tỷ giá hói đoái mà cả vớii những nguyên nhân của những thay đổi ấy để có thể áp dụng các biện pháp giảm bớt rủi ro. Về các loại tiền tệ chủ yếu các Ngân hàng hay các khách hàng có thể giảm bớt rủi ro với các giao dịch trong thị trường tỷ giá hối đoái có kỳ hạn. Chúng ta sẽ thấy hối đoái có kỳ hạn, giai đoạn đầu là bán ngoại tệ giao ngay năm phát sinh rủi ro làm phát sinh rủi ro lãi suất. Vì vậy giảm thiểu rủi ro hối đoái chúng ta biết nhận và phân tích thông tin từ bên ngoài một cách tỷ mỉ, chính xác. 3.4. Quản lý rủi ro thanh khoản Sự an toàn của Ngân hàng vấn luôn là mối quan tâm với nhiều người, từ các giới chức điều hành đến nhà kinh doanh, các cổ đông Ngân hàng đến các công dân các đất nước, vì những vụ phá sản của Ngân hàng liên quan sự phát triển kinh tế đất nước hơn bất cứ một sự phá sản của bất cứ một doanh nghiệp nào khác. Các thua lỗ của Ngân hàng, nếu nghiêm trọng, có thể làm các cổ đông mất vốn đầu tư, mất mát các khoản tiền gửi, bao gồm các khoản tiết kiệm mà suốt đời nhiều người mới có được và vốn tích luỹ cuả các doanh nghiệp qua nhiều thế hệ. Các thua lỗ của Ngân hàng có ảnh hưởng bất lợi đến niềm tin của quần chúng và chuyển sang ảnh hưởng đối với các thành phần kinh tế khác mang tính dây chuyền. Mặc dầu khó nhận ra một cách chính xác các nguyên nhân của những vụ phá sản Ngân hàng, lịch sử của những vụ phá sản cho thấy, các điều kiện mất khả năng thanh khoản của Ngân hàng góp phần quan trọng. Từ đó, các Ngân hàng quan tâm đến vai trò của vốn tự có, khả năng tính lỏng các loại tài khoản trong việc ngăn ngừa chống các vụ phá sản. Thực chất thành khoản là khả năng chi trả các khoản nợ đối với khách hàng và đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng là người gửi. Đó là tổng hợp của nhiều loại rủi ro Hr = Hệ số này ³ 25% chấp nhận được Ê 25% khả năng thanh khoản của Ngân hàng bị suy giảm Để quản lý rủi ro thanh khoản Ngân hàng phải tính toán một cơ cấu hợp lý các loại tài sản, đặc biệt có tỷ lệ hợp lý. 3.5 Chỉ số thu nhập ròng trên tài sản (ROA) ROA = Chỉ tiêu ROA phản ánh thu nhập trên tài sản có của ngân hàng, được dùng để đo lường khả năng sinh lợi của tài sản có. Chỉ tiêu ROA thể hiện khả năng sử dụng linh hoạt các khoản mục của tài sản có, tỷ lệ này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản có càng cao. Hệ số ROA càng cao chứng tỏ: + Kết quả các hoạt động hữu hiệu + Tỷ trọng thấp giữa tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn so với tổng ký thác + Kết quả của các lợi tức cao kiếm được từ tài sản có Ngoài ra, các ngân hàng còn sử dụng chỉ số lợi nhuận trên tổng thu nhập để đánh giá khả năng mạng lại lợi nhuận của một đồng thu nhập. Chương II Thực trạng việc sử dụng vốn tại ngân hàng công thương hoàn kiếm I. Khái quát chung về Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm Ngân hàng công thưong Hoàn Kiếm là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng công thương Việt Nam, trụ sở đặt tại số 37 Hàng Bồ - Hoàn Kiếm - Hà Nội là một phố cổ thuộc trung tâm thành phố Hà Nội. Trước đây là Ngân hàng cấp quận, trực thuộc Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội. Cho đến năm 1986, nó được tách ra thành một Ngân hàng độc lập để phục vụ cho các thành phần kinh tế thuộc địa bàn quận. Tuy nhiên sau khi chỉ thị 218/CT ngày 03 /07/1987 của HĐBT và nghị định số 53/HĐBT ra ngày 26 /04 /1988 chính thức chuyển hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp, thì Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm được chính thức tách ra thành một Ngân hàng Thương mại, thực hiện đầy đủ các chức năng kinh doanh tiền tệ và hạch toán độc lập. Mười năm qua, trên bước đường xây dựng và trưởng thành, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã gặp không ít khó khăn, thậm chí vấp váp trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Bên cạnh đó, nằm trên cùng địa bàn quận, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm còn chịu sự cạnh tranh của nhiền Ngân hàng lớn của trong và ngoài nước như Ngân hàng ngoại thương Việt Nam Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, Công ty bank, Banh of American; ANZ (úc),... Tuy sự cạnh tranh này gây không ít khó khăn cho Ngân hàng nhưng Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã từng bước khắc phục khó khăn, chủ động điều chuyển vốn, đa dạng hoá hình thức dịch vụ, đáp ứng yêu cầu cao nhất về nhu cầu tín dụng và thanh toán quốc tế. ngay Ngân hàng đã thu hút được hơn 1200 khách hàng tới mở tài khoản hơn 500 doanh nghiệp có quan hệ tín dụng, trên 1720 khách hàng thường xuyên tới vay vốn đưa tổng dư nợ của chi nhánh lên tới 641 tỷ đồng. Tổng số CBCNV chi nhánh Ngân hàng lên tới 215 người, số cán bộ có trình độ đại học tới 70%, được bố trí tương đối hợp lý giữa các phòng ban. Cơ cấu tổ chức ngân hàng công thương Hoàn Kiếm bao gồm: Ban giám đốc gồm có 1 giám đốc và 3 phó giám đốc phụ trách 3 mảng khác nhau. Ngân hàng chia thành các phòng ban. + Phòng tổ chức hành chính tổng hợp 36 người + Phòng vi tính 14 người + Phòng kiểm soát 12 người + Phòng ngôn ngữ 25 người + Phòng thanh toán quốc tế 24 người + Phòng kinh doanh 27 người + Phòng nguồn vốn 57 người + Phòng kế toán 28 người Chi nhánh nngân hàng công thương Đống Đa là một chi nhánh Ngân hàng nhỏ có qui mô tương đối lớn. Mô hình tổ chức bộ máy cùng với đội ngũ như hiện nay là một nhân tố quan trọng góp phần vào những thành quả trong thời gian của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Về hoạt động của Ngân hàng, lịch sử phát triển của chi nhánh là huy động tiền gửi dân cư từ các quỹ tiết kiệm, trong đó VND chiếm gồm 100% với lãi suất đầu vào lớn. Việc cho vay tập trung chủ yếu ở các tổ hợp tác, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp thuộc kinh tế quận, các khách hàng tư nhân cá nhân. Năm 1997 là khởi đầu của cách nhìn nhậnmới, quan điểm đánh giá vê cơ cấu hoạt động và chiến lược khách hàng đã thay đổi cơ bản. Ban lãnh đạo và CBCNV ngân hàng nhận thức rõ ràng. Họ trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, trách nhiệm phát triển ngân hàng được giao phó tới từng cán bộ nhân viên,. cho nên để phát triển ngân hàngthành ngân hàng mũi nhọn của ngành cũng như toàn bộ hệ thống ngân hàng thì cán bộ ngân hàngcần phỉa đoàn kết toàn bộ ngân hàng thì cán bộngân hàng cần phải đoàn kết thành tập thể mạnh, phát huy nhữngphẩm chất vốn có cũng như tính sáng tạo của chính mình đe đóng góp nhiều hơn cho hoạt động ngân hàng. Ban lãnh đoạ cũng đang thực hiện chính sách lương thưởng cho từng cán bộ để họ có những mục tiêu để phấn đấu. Như vậy, qua đó trình tìm hiểu tiếp cận, làm thị trường thuyết phục đến nay chi nhánh đã thu hút những khách hàng có tiềm năng dồi dào về tài chíh có thế mạnh trong cạnh tranh , hoạt động kinh doanh phải có hiệu quả. Qua hơn 10 năm thành lập và đổi mới ngân hàng đã thu được những thành quả đáng khích lệ và biểu dương ; Về hoạt động kinh doanh tín dụng Các hoạt động cho vay, huy động vốn nội tệ,ngoại tệ, ngắn hạn trung hạn và dàịhn đều tăng trưởng mạnh so với năm 1996. Hoạt động tín dụng vẫn giữ vai trò chủ đạo quyết định đến sự thành bại của ngân hàng chiếm trên 90%, tổng thu nhậ. Dự nợ của chi nahnhs tập trung chủ yếu là ở các doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu tổng côngty 90,91 và các đơn vị có tình hình tài chính lành mạnh. Dự nợ lành mạnh tăng trưởng nhanh vào ngày 30 /12 /97 là 351 tỷ đồng thì đến 31 /12 /2001 là 688 tỷ đồng tuy nhiên hậu quả 80 tỷ đồng nợ quá hạn vẫn là gánh nặng ảnh hưởng lớn kết quả kinh doanh của chi nhánh. Trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Ngân hàng hầu như từ một chi nhánh hầu như không có liên quan đến lĩnh vực thanh toán L/c nay đã vươn lên vị trí cao trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng công Thương thu được nhiều phí cho Ngân hàng. Bên cạnh đó nghiệp vụ thanh toán ngân quĩ và các nghiệp vụ khác cũng phát triển đồng bộ, đáp ứng yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Công tác nguồn vốn. Ngân hàng đã tạo được nguồn vốn ổn định và lớn đủ khả năng đáp ứng được mọi nhu cầu về vốn đối vơí mọi khách hàng, đồng thời có đủ vốn để chuyển cho các Ngân hàng trong cùng hệ thống đang thiếu vốn. Như vậy Ngân hàng đang ngày càng tự hoàn thiện mình để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường với mục tiêu trở thành một Ngân hàng hiện đại, đa chức năng. II.Thực trạng sử dụng vốn tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Dưới đây là bảng cân đối tài sản của ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Đơn vị: triệu đồng Tài sản nợ (Nguồn vốn ) 1998 1999 2000 2001 A. Tiền gửi và các khoản vay 1697513 10915.787 2181173 4209187 1. Tiền gửi KBNN và tiền vay NHNN 29 29 29 30 2. Tiền gửi và tiền vay TCTD 110140 1.280.000 1358.611 2.500.142 3. Tiền gửi của khách hàng. 588.344 635.758 822.533 Tiền gửi doanh nghiệp 258.347 160.583 291.847 Không kỳ hạn 192.681 111.971 201.890 740.954 Kỳ hạn dưới 12 tháng 65.598 48.431 89.597 334.286 Kỳ hạn trên 12 tháng 180 360 14330 Tiền giử tiết kiệm 329.997 475.174 530.686 620.345 Không kỳ hạn 7.440 5.956 5164 5486 Kỳ hạn 1 - 3 tháng 110.222 103.109 115.482 135.113 Kỳ hạn 6 - 9 tháng 173.377 273.158 305.936 357.945 Kỳ hạn trên 12 tháng 38.955 82.950 104.404 121.801 B. Các giấy tờ có giá (kỳ phiếu ) 1.734 1991 2000 Giấy tờ có giá trị trên 12 tháng 1.734 1991 2000 C. Tài sản nợ khác 19.427 38.093 46.005 65939 1. thanh toán vốn 16.481 13.800 162.42 25.001 Tài khoản điều chuyển 16.481 12.212 14.373 22.134 Vốn Khác 1.588 1.869 2.866 2. Tài sản nợ khác 2.936 25.293 29.767 40.938 Uỷ thác đầu tư 144 168 230 Quản lý và giữ hộ 101 119 163 Đảm bảo thanh toán 17.936 21.110 29.131 Ngoại tệ kinh doanh 4.229 4977 6868 Các khoản phải trả 1.009 389 455 623 Hao mòn tài sản cố định 1.910 2.234 3.082 Tài sản Nợ khác 1.927 581 680 931 D. Vốn và quĩ của TCTD 106.267 164.180 188.423 212.342 1. Vốn 1.6620 2. Quý và dự phòng 101 122 275 3. Thu thập 104.647 164.101 188.332 212.239 4. Chênh lệch đánh giá lại tài sản -22 -31 -172 Tổng cộng 1.823.197 2.120.794 2.417.705 4.489.467 Tài sản có (Sử dụng vốn ) Số tiền 1998 1999 2000 2001 A. tiền mặt và dự trữ tại NH 195.980 156.661 130.670 111.570 1. Tiền mặt và ngân phiếu thanh toán 26.810 40.224 33.520 28.620 2. Tiên giử và đầu tư CK tại NHNN 16.917 116.437 91750 82.577 Tiền gửi tại NHNN 16.917 115.261 96.050 91.642 Mua TF kho bạc 1.176 3. giá trị tồn kho kim loại đá quý 1.100 946 B. Các khoản đầu tư 5000 13.184 15.070 17.930 1. CKDTư 500 13.184 15.070 17.930 Tiền gửi tại các TCTD 7.184 8.070 10.430 Hùn vốn mua cổ phiếu 5000 7000 7500 Thanh toán mua bán 2000 2000 Ngoại tệ kinh doanh C. Cho vay trong nước 678.825 570.449 620.756 640.111 1. Tín dụng đối với TCTD 2. tín dụng đối với TCKT và cá nhân 687.825 570.449 620.756 640.111 Loại ngắn hạn 556.609 426.954 383.364 363.116 Loại trung và dài hạn 106.894 84.695 150.500 152.090 Tài trợ uỷ thác 23.893 51.536 70.440 80.324 D. Tài sản cố định 4630 6.654 6.504 6.954 1. Tài sản cố định 4.630 6.654 6.540 6.954 E. Tài sản có khác 1.106.144 1.376.846 1.823 3.428.475 1. Thanh toán vốn 932.087 1.231.137 162.3000 3428475 Thanh toán điều chuyển 930.382 1.229.549 1620000 3122137 Vốn Khác 17054 1588 3000 6337 2. Tài sản có khác 174.057 154.709 200.000 384.841 Mua bán ngoại tệ 80.851 4.229 29.229 932270 Chi phí 92.544 140.837 170.000 290.341 Khác 662 643 771 1230 Tổng cộng 1.823.197 2.120.794 2.417.705 4.487.467 1. Thực trạng về cơ cấu nguồn vốn Ta nhận thấy, năm 2001 nguồn vốn tiền gửi và tiền vay vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu 78,00%. điều này cho thấy ngân hàng chủ yếu hoạt động bằng nguồn vốn đi vay và tiền gửi của các thành phần kinh tế khác. Nếu làm một phép so sánh giữa tiền gửi tiết kiệm với tiền gửi của các doanh nghiệp thì lượng tiền gửi tiết kiệm cao gấp 1,7 lần lượng tiền gửi của các doanh nghiệp. Cá biệt năm 1999 lượng tiền gửi cao gấp 3 lần lượng tiền gửi của doanh nghiệp. Hiện tượng này có thể giải thích như sau: Thứ nhất: NHCT Hoàn Kiếm nằm trên địa bàn Hoàn Kiếm là quận nội thành có số dân đông nhất. Hơn nữa địa bàn hoạt đông của NHCT Hoàn Kiếm rất rộng có thể được mở rộng ra cả 5 quận nội thà._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29895.doc
Tài liệu liên quan