Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự (TTHS) thì các biện pháp ngăn chặn (BPNC) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ các BPNC nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng có các điều kiện thuận lợi để giải quyết các vụ việc, ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội đang chuẩn bị thực hiện hoặc đang xảy ra, góp phần đắc lực cho việc phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi phạm tội. Trong số các BPNC, thì bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp ma

doc201 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2711 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tính cưỡng chế rất nghiêm khắc. Nếu bắt, giam, giữ oan, sai sẽ xâm phạm đến quyền tự do dân chủ của công dân và các quyền, lợi ích hợp pháp của con người được pháp luật bảo hộ. Ngược lại, không bắt, giam, giữ người phạm tội để những người đó vẫn tự do ngoài vòng pháp luật, tiếp tục gây án hoặc trốn tránh... gây khó khăn cho việc điều tra, xử lý vụ án cũng là làm thiệt hại đến quyền lợi của con người, của cộng đồng, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986) đất nước ta xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, việc xây dựng pháp luật đã đạt được những thành tích đáng kể. Lần đầu tiên Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) ra đời quy định trình tự, thủ tục của việc điều tra - truy tố - xét xử và thi hành án hình sự. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam đã được quy định khá cụ thể tại chương V và một số điều trong các chương khác của BLTTHS 1988. Trải qua quá trình thực hiện, BLTTHS 1988 đã nhiều lần được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế ở mỗi giai đoạn. Mặc dù pháp luật quy định về các trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam ngày càng cụ thể, ngày càng hoàn thiện hơn, song thực tiễn áp dụng các biện pháp này cho thấy tình hình vi phạm pháp luật vẫn còn khá phổ biến. Đó là việc bắt, tạm giữ, tạm giam không đúng đối tượng, không đúng thủ tục, sai thẩm quyền. Lạm dụng việc bắt khẩn cấp, bắt quả tang, tạm giữ thuộc vi phạm hành chính để áp dụng theo quy định của luật TTHS... dẫn đến nhiều trường hợp bắt, giữ, giam oan, sai người dân vô tội. Mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều biện pháp kiểm tra, chấn chỉnh song thực tế vi phạm vẫn xảy ra, nhiều vụ gây hậu quả nghiêm trọng đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cơ quan bảo vệ pháp luật. Một số vụ án oan sai điển hình trong đó có áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam như vụ: Nguyễn Ngọc Long ở Tây Ninh bị bắt giam gần 6 năm; vụ Trần Trung Hiếu ở Đông Triều - Quảng Ninh bị bắt giam 14 tháng; vụ Lại Xuân Hải ở Điện Biên - Lai Châu bị bắt giam 36 tháng; vụ Đỗ Cao Sen và Trương Thị Liễu bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tại Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Giám đốc thẩm tuyên không phạm tội trong khi đó ông Sen và bà Liễu đã bị bắt giam 16 tháng; vụ Vũ Biên Thùy ở Easup - Đắc Lắc bị bắt và tạm giam 2 lần tổng cộng 165 ngày, sau đó Tòa tuyên không phạm tội [2]. Trước tình hình như vậy, để chấn chỉnh một bước quan trọng công tác tư pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo công tác tư pháp, trong đó có việc chỉ đạo, chấn chỉnh các hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là một trong những nội dung quan trọng và cấp thiết. Chỉ thị 53/CT-TW ngày 21-3-2000 của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000 đã nêu: "... việc bắt, giam phải được xem xét, phê chuẩn đối với từng trường hợp, từng đối tượng cụ thể; đối với trường hợp bắt, giam cũng được hoặc không bắt, giam cũng được thì không bắt, giam" [21]. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng chỉ rõ: ... Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ đảm bảo đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình... [23]. Để khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị oan trong hoạt động TTHS, nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, ngày 17-3-2003 ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam đã ra nghị quyết về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra [1]. 2. Tình hình nghiên cứu về chế định bắt, tạm giữ, tạm giam Để thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật về tư pháp hình sự, trong thời gian qua đã có một số sách báo pháp lý ở nước ta đã tiến hành nghiên cứu về việc xây dựng và áp dụng các BPNC nêu trên như một số bài viết đăng tải trên các tạp chí như: Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND) (trước là Tập san Tòa án), tạp chí Dân chủ và Pháp luật (trước là Tạp chí Pháp chế xã hội chủ nghĩa) của các tác giả Võ Quang Nhạn, Phạm Thái, Đặng Văn Doãn... hay cuốn "Những điều cần biết về bắt, giữ, khám xét" của các tác giả Phạm Quang Mỹ, Phạm Hữu Kỳ (Nxb Công an nhân dân, 1983). Ngày 28-6-1988 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua BLTTHS, sự ra đời của Bộ luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc nghiên cứu các chế định TTHS nói chung và về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam nói riêng. Rất nhiều giáo trình giảng dạy ở bậc đại học, cao đẳng, trường nghề như Trường Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà nội, khoa Luật của các học viện như Học viện Cảnh sát, Học viện An ninh, Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội, trường Đào tạo các chức danh Tư pháp đã đề cập, nghiên cứu về các BPNC nêu trên, không những thế các BPNC đó còn là đối tượng nghiên cứu của một số tài liệu chuyên khảo hoặc bình luận như: "Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự" của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp - 1990, 1992; cuốn "Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự" của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, 1994; cuốn "Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật" của Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, 1993; cuốn "Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng" của Nguyễn Vạn Nguyên, Nxb Công an nhân dân, 1995; các bài viết của các tác giả Nguyễn Vạn Nguyên, Mai Bộ, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Văn Điệp, Vũ Gia Lâm, Nguyễn Nông, Vũ Tiến Trí... đăng trên các tạp chí, đặc san chuyên ngành, và các BPNC đó còn là đối tượng nghiên cứu để hướng dẫn áp dụng pháp luật vào thực tiễn như các thông tư liên ngành, đơn ngành, các chỉ thị, công văn hướng dẫn của các cơ quan Công an, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án, Bộ Tư pháp v.v... và gần đây nhất, tác giả Nguyễn Văn Thanh đã nghiên cứu đề tài "áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực lượng cảnh sát nhân dân" làm đề tài luận án tiến sĩ luật học. Để phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng nhu cầu của công cuộc cải cách kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, ngày 26-11-2003 tại kỳ họp thứ 4 khóa XI, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01-7-2004. Mặc dù BLTTHS 2003 vừa bắt đầu có hiệu lực, mặc dù đã có những chuyên đề, công trình nghiên cứu của các cấp, ngành và các cá nhân khác về vấn đề này, tuy đã có những kiến nghị, đề xuất nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật nhưng việc nghiên cứu đó vẫn chỉ đi sâu được một vài khía cạnh của các BPNC bắt người, tạm giữ và tạm giam, chưa đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung BLTTHS một cách toàn diện - một yêu cầu vẫn đang được đặt ra đối với nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay và trong tương lai. Chính vì vậy, tôi vẫn mạnh dạn chọn đề tài "Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp" làm đề tài cho luận án tiến sĩ của mình, với mong muốn nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện hơn về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong quy định của pháp luật TTHS hiện hành, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm khắc phục những thiếu sót, nhược điểm trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, góp phần nâng cao hơn nữa tính hiệu quả, tính thực tiễn của vấn đề này để phục vụ tốt hơn nữa cho các hoạt động tư pháp hình sự ở Việt Nam. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Với mục đích nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, luận án tập trung vào những vấn đề sau: - Nghiên cứu lý luận cơ bản về các BPNC và các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Trong đó nghiên cứu sơ lược quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam; nghiên cứu và phân tích pháp luật thực định về các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam, từ đó đưa ra các khái niệm về các biện pháp ngăn chặn nói chung và các khái niệm về từng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam cũng như từng trường hợp bắt nói riêng. - Nghiên cứu thực trạng áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam; tìm hiểu nguyên nhân của những vướng mắc, tồn tại, bất cập giữa các quy định luật và thực tiễn. - Đưa ra một số giải pháp về việc sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện pháp luật TTHS cũng như giải pháp về các biện pháp nâng cao tính hiệu quả đối với việc bắt, tạm giữ và tạm giam. 4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận án Bắt, tạm giữ, tạm giam là những chế định lớn và phức tạp trong luật TTHS, vì vậy trong phạm vi của một luận án tiến sĩ khó có thể nghiên cứu và giải quyết hết mọi vấn đề. Vì vậy, luận án chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu nội dung của các quy định về thẩm quyền, đối tượng, thời hạn, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn nêu trên với thực trạng áp dụng chúng, nghiên cứu nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định về các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam. Với phạm vi trên, đối tượng nghiên cứu của luận án là thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, thời hạn áp dụng, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt người, tạm giữ và tạm giam, trong đó luận án tập trung nghiên cứu nhiều hơn về những điểm bất cập, vướng mắc trong việc quy định và áp dụng các biện pháp nêu trên. 5. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài, tác giả luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu lý luận và các cán bộ làm thực tiễn. Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của khoa học luật hình sự, luật TTHS, tham khảo các công trình nghiên cứu của các tác giả, gắn kết giữa lý luận và thực tiễn là quá trình nghiên cứu các chỉ thị, nghị quyết Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác tư pháp, qua thực tiễn công tác thực hiện các hoạt động TTHS nói chung và về các BPNC bắt, tạm giữ và tạm giam ở Việt Nam nói riêng. 6. Điểm mới của luận án Điểm mới của luận án thể hiện ở chỗ: đây là lần đầu tiên, các BPNC nghiêm khắc là bắt, tạm giữ, tạm giam được nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện, kết quả của quá trình nghiên cứu không những tìm ra các nhược điểm trong công tác xây dựng và thực thi pháp luật mà còn đưa ra được những kiến nghị đề xuất nhằm góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật TTHS, góp phần thúc đẩy việc áp dụng các quy định về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam vào thực tiễn thực thi pháp luật được nghiêm minh, chính xác, áp dụng đúng pháp luật, đúng trường hợp, đúng tội, đúng người, đảm bảo không để lọt người phạm tội đồng thời hạn chế tối đa việc bắt, giữ, giam oan, sai trong chế độ dân chủ của chúng ta. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 3 chương. Chương 1 Nhận thức chung về các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam 1.1. Lý Luận CƠ Bản Về Các Biện Pháp NGĂN Chặn Bắt, Tạm Giữ, Tạm GIAM 1.1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật TTHS Việt Nam 1.1.1.1. Khái niệm về biện pháp ngăn chặn Bộ luật tố tụng hình sự quy định một loạt các biện pháp cưỡng chế nhà nước do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng nhằm thực hiện những mục đích tố tụng nhất định. Căn cứ vào mục đích của chúng có thể phân loại các biện pháp cưỡng chế thành các nhóm sau: - Nhóm biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu thập và ghi nhận chứng cứ (khám người, khám nơi ở, xem xét dấu vết...); - Nhóm biện pháp cưỡng chế để đảm bảo cho quá trình tố tụng được tiến hành bình thường và thuận lợi (kê biên tài sản, áp giải bị can...); - Các BPNC (bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm). Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế TTHS thì các BPNC chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến thân thể, quyền con người, hạn chế một số quyền nhân thân của công dân. Chính vì vậy mà BLTTHS đã dành một chương riêng để quy định về các BPNC. Để việc hiểu và thực hiện tốt các quy định về BPNC, nhiều công trình, tài liệu, sách báo đã có những khái niệm khác nhau về các BPNC. Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông của Nhà xuất bản "Sách pháp lý" Matxcơva, 1973 giải thích rằng: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự do điều tra viên, dự thẩm viên, kiểm sát viên và tòa án áp dụng đối với bị can (người bị tình nghi) nếu có đủ căn cứ cho rằng bị can trốn tránh việc điều tra, dự thẩm hoặc trốn tránh tòa án, cản trở việc xác minh sự thật về vụ án, hay sẽ tiếp tục hoạt động phạm tội, cũng như để đảm bảo việc thi hành án [70]. BLTTHS Việt Nam hiện hành mặc dù không đưa ra một khái niệm về BPNC, tuy nhiên tại Điều 79 BLTTHS 2003 cũng đã quy định các căn cứ áp dụng các BPNC như sau: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Các căn cứ này cũng đã phản ánh một phần bản chất của của các BPNC của pháp luật TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, BPNC là biện pháp cưỡng chế tố tụng rất nghiêm khắc, đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng về chủ thể áp dụng, về thẩm quyền áp dụng, về đối tượng bị áp dụng, về căn cứ và mục đích áp dụng để từ đó mới có thể hiểu một cách thấu đáo và vận dụng đúng đắn vào thực tiễn. - Giáo trình luật TTHS Việt Nam - Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng: BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp khẩn cấp. Nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây khó khăn cho việc điều tra truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn [63]. - Cuốn "Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự" lại giải thích rằng BPNC là một loại biện pháp do cơ quan điều tra, VKS và Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả người bị kết án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc tiếp tục phạm tội. BPNC gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [59]. Có thể nói rằng, các sách báo, tài liệu nêu trên đã nêu lên được khía cạnh này hay khía cạnh khác khái niệm về các BPNC, nhưng nhìn chung vẫn chưa đưa ra được một khái niệm đầy đủ, khoa học chứa đựng tất cả các yếu tố cấu thành nên BPNC thể hiện ở các dấu hiệu đặc trưng như căn cứ áp dụng, mục đích, thẩm quyền áp dụng và đối tượng bị áp dụng BPNC. Vì vậy, cá nhân tôi cho rằng, một khái niệm hoàn chỉnh, chính xác về các biện pháp ngăn chặn thì trong khái niệm đó phải hàm chứa tất cả các dấu hiệu đặc trưng của các BPNC như: căn cứ áp dụng; mục đích áp dụng; thẩm quyền áp dụng và đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn. Tổng hợp từ những quy định của BLTTHS và một số khái niệm trên, qua phân tích có thể hiểu được rằng: Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố; khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội. Biện pháp ngăn chặn gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trong các BPNC biện pháp bắt được xếp thứ tự đầu tiên rồi đến tạm giữ, tạm giam. Vậy ta hãy xem xét từng khái niệm về các BPNC đó. 1.1.1.2. Khái niệm về biện pháp ngăn chặn bắt Bắt là một trong những hình thức thể hiện của BPNC. Bắt có tính chất khởi đầu cho việc áp dụng BPNC tiếp theo. Bắt là một trong những BPNC có tính cưỡng chế nghiêm khắc, vì vậy việc bắt nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục theo pháp luật quy định. Bắt là BPNC nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trốn tránh pháp luật, nhằm tạo điều kiện bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. ... Bắt người là BPNC mang tính đặc thù thường được áp dụng liền trước các BPNC như tạm giữ, tạm giam. BPNC này làm hạn chế một số quyền tự do của cá nhân người bị bắt, buộc họ phải có mặt tại địa điểm quy định để làm việc với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Biện pháp bắt người được tính từ thời điểm người có chức vụ theo luật định ra lệnh bắt đến khi kết thúc là người bị bắt được dẫn giải đến nơi để tạm giữ, tạm giam [33]. Bắt hiểu theo nghĩa rộng: Bắt không phải là biện pháp trừng phạt của pháp luật đối với người phạm tội mà là BPNC của hoạt động TTHS. Bắt đúng người, bắt kịp thời có tác dụng ngăn chặn mọi âm mưu và thủ đoạn chống đối của người phạm tội, không cho họ tiếp tục phạm tội, che giấu, trốn tránh hoặc gây khó khăn cho việc xác định sự thật để giải quyết vụ án. Bắt hiểu theo nghĩa hẹp: Đối với cá nhân người bị bắt là sự hạn chế một số quyền tự do của cá nhân, là điểm khởi đầu của sự trừng phạt của pháp luật nếu người đó là người thực hiện hành vi phạm tội, bởi vì khi thi hành án, thời gian tạm giữ, tạm giam được khấu trừ vào thời gian thi hành án. Bắt không theo quy định của pháp luật: bắt nhầm (bắt oan, sai) người vô tội sẽ gây một tác hại rất lớn, không những các quy định của pháp luật bị vi phạm, mà quyền bất khả xâm phạm của con người bị xâm hại, ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân được pháp luật bảo hộ. Từ đó nó ảnh hưởng xấu đến lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài nhân quyền để chống phá Nhà nước ta. Vì vậy, khi bắt người phải thể hiện thái độ kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, song cũng phải thận trọng khi xem xét đánh giá chứng cứ. Quá trình thực hiện BLTTHS các cơ quan tư pháp như: Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Bộ Tư pháp, đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật đơn ngành, liên ngành để hướng dẫn việc áp dụng BPNC trong đó có biện pháp bắt. Nhằm mục đích đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, tăng cường pháp chế XHCN, thực hiện mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật cũng như đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân, BLTTHS quy định ba trường hợp bắt, đó là: - Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; - Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; - Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Các trường hợp nêu trên là quy định chung để khi có căn cứ thuộc trường hợp nào thì cơ quan, người có thẩm quyền do luật định có thể áp dụng. Song căn cứ vào Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và ủy ban nhân dân (UBND), các quy định đối với người chưa thành niên, các quy định đối với người phạm tội là người nước ngoài, khi chủ thể thuộc các đối tượng này còn phải vận dụng thêm các quy định mang tính cá biệt để áp dụng BPNC cũng như áp dụng các quy định trong BLTTHS được đúng đắn. Việc áp dụng các biện pháp bắt cũng phải quán triệt các nguyên tắc chung, các chủ trương, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước ta. Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, có thể tóm tắt khái niệm về biện pháp bắt trong TTHS như sau: Bắt là biện pháp cưỡng chế được quy định trong luật TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền do luật định áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố; người đang có hành vi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong ba trường hợp bắt theo quy định của BLTTHS, trước tiên chúng ta nghiên cứu: (i) Bắt bị can, bị cáo để tạm giam Sự cần thiết của biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam Ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi pháp luật là công cụ sắc bén trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xóa bỏ tàn dư của xã hội cũ, thiết lập, bảo vệ các quan hệ xã hội mới tiến bộ, xây dựng Nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật là một quan điểm cơ bản đã được Đảng ta khẳng định. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ix của Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa lại khẳng định quan điểm này: Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật [22]. Trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: ổn định về chính trị, tăng cường về kinh tế. Bên cạnh những mặt tích cực thì tình hình tội phạm cũng có xu hướng gia tăng. Do ảnh hưởng của mặt trái của kinh tế thị trường, đã phát sinh nhiều tội phạm có tính đặc biệt nguy hiểm, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Để giữ gìn thành quả cách mạng, tạo môi trường lành mạnh, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội thì việc đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn chặn tội phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ngăn chặn tội phạm không chỉ bảo vệ kịp thời những khách thể được luật hình sự bảo vệ mà còn góp phần tích cực vào việc ngăn ngừa và hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra. Muốn làm được việc đó, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm kiểm soát được hoạt động của người phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan này tìm ra sự thật của vụ án trong thời gian ngắn nhất. Nói cách khác, để đấu tranh phát hiện hành vi phạm tội một cách khách quan, chính xác, đồng thời kịp thời đưa vụ án ra xét xử thì hoạt động bắt bị can, bị cáo để tạm giam chính là một trong các biện pháp đó. Như vậy, bắt bị can, bị cáo để tạm giam là biện pháp cần thiết để giải quyết vụ án hình sự, được các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng như một biện pháp hữu hiệu phục vụ cho quá trình điều tra - truy tố - xét xử và thi hành án hình sự, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Ngoài trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, BLTTHS còn quy định các trường hợp bắt người khác nhằm phục vụ tốt cho cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Khái niệm về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam Để đảm bảo chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, với phương châm không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, các cơ quan và người có thẩm quyền theo quy định của luật TTHS được phép áp dụng các BPNC. Điều 79 BLTTHS quy định các căn cứ cho phép áp dụng BPNC, nội dung của điều luật là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bắt người trong đó có trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Mặc dù Điều 80 BLTTHS quy định tương đối đầy đủ việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng không giải thích thế nào là bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Chính vì thế có rất nhiều quan điểm khác nhau về biện pháp này. Từ điển Luật học - Nxb Bách khoa (1999) nêu: Bắt người để tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáo do người có thẩm quyền ra lệnh: Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán án nhân dân tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên chủ tọa phiên tòa. Đối với lệnh bắt của những người sau: Trưởng công an, phó trưởng công an cấp huyện; Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên; thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp trong quân đội nhân dân thì phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát trước khi thi hành [71]. Theo Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: "Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự" [68]. Các khái niệm trên chưa đầy đủ ở chỗ chưa chỉ ra căn cứ, thẩm quyền áp dụng BPNC nghiêm khắc này. Qua nghiên cứu điều luật và quá trình thực hiện luật TTHS, theo tôi chỉ có thể đưa ra khái niệm bắt bị can, bị cáo để tạm giam sau khi đã phân tích các yếu tố về mục đích, ý nghĩa của việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam, đối tượng, thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Thứ nhất: Về mục đích, ý nghĩa của biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. - Bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo cho việc ngăn ngừa tội phạm. Ngăn ngừa tội phạm không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra hoặc không cho tội phạm đang được thực hiện tiếp tục. Ngăn ngừa kịp thời tội phạm có ý nghĩa rất lớn trong việc giảm bớt hậu quả của tội phạm. Kịp thời ngăn chặn tội phạm không những bảo vệ được đối tượng tác động của tội phạm mà còn ngăn ngừa, hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra. Trong thực tế không phải bị can, bị cáo nào cũng hối lỗi sau khi thực hiện tội phạm, đặc biệt đối với những bị can, bị cáo phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Vì vậy, khi bị can, bị cáo có biểu hiện tiếp tục phạm tội thì việc áp dụng BPNC bắt sẽ nhằm hạn chế tối đa hành vi phạm tội của bị can, bị cáo xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ - Bắt bị can bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Các BPNC được áp dụng nhằm đảm bảo các điều kiện pháp lý cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án theo đúng các quy định của pháp luật; bảo đảm cho sự có mặt của bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng khi cần thiết; bảo đảm để bản án đã tuyên có điều kiện thi hành khi có hiệu lực pháp luật cũng như đảm bảo tính chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng đó. Trên thực tế, ở mỗi giai đoạn tố tụng thì BPNC bắt do một cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng với mục đích đảm bảo cho cơ quan đó hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình do pháp luật quy định. ở giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp bắt, tạm giam với mục đích ngăn ngừa tội phạm và bảo đảm các điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ điều tra như: Đảm bảo sự có mặt của bị can để thường xuyên làm việc, chống việc bị can tiêu hủy chứng cứ, thông đồng với nhau để khai báo; ngăn ngừa việc bị can bỏ trốn gây khó khăn cho việc xử lý vụ án. Sau khi truy tố, tống đạt được ngay cáo trạng hoặc các quyết định cần thiết khác, áp dụng BPNC trong giai đoạn này không những đảm bảo cho VKS hoàn thành nhiệm vụ của mình mà còn đảm bảo cho sự liên tục của quá trình giải quyết vụ án. Trong giai đoạn xét xử, việc áp dụng BPNC bắt nhằm bảo đảm sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa. Việc bắt, tạm giam bị cáo còn có ý nghĩa ngăn ngừa không cho các bị can, bị cáo thông cung, đe dọa người làm chứng, người bị hại, bảo đảm cho việc xét xử tại phiên tòa được khách quan và thi hành ngay được bản án khi có hiệu lực pháp luật. Thứ hai: Về đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Theo quy định tại Điều 80 BLTTHS thì bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án đưa ra xét xử để tạm giam, phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Như vậy đối tượng của việc bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo được định nghĩa tại Điều 49 và Điều 50 BLTTHS : - Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự; - Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người không bị Tòa án đưa ra xét xử không phải đối tượng bắt để tạm giam theo quy định tại Điều 80 BLTTHS. Nếu họ có hành vi phạm tội thì có thể bị bắt theo trường hợp khẩn cấp hoặc quả tang chứ không phải là bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Nói như vậy nhưng không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị bắt tạm giam mà khi cần bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có những căn cứ theo quy định của pháp luật. Thứ ba: Về căn cứ áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải tuân theo các căn cứ quy định tại Điều 79 BLTTHS, bao gồm các căn cứ sau: - Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử. - Có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. - Khi có căn cứ rõ ràng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc thi hành án hình sự. Các căn cứ này phải được thể hiện bằng các tài liệu do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo đúng trình tự mà luật định, các căn cứ này được đánh giá trên cơ sở khách quan toàn diện chứ không phải ý muốn chủ quan của một người, hay một cơ quan nào đó. Trong tình hình hiện nay trình độ của điều tra viên có hạn, dẫn đến trường hợp có lúc, có nơi thực thi pháp luật không nghiêm như: báo gọi không thấy bị can đến, hoặc bị can khai báo chưa thành khẩn nên Điều tra viên cho là bị can gây khó khăn cho việc điều tra và đề nghị phê chuẩn lệnh bắt tạm giam. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam tức là người bị bắt sẽ bị tạm giam cho nên ngoài căn cứ áp dụng chung cho các BPNC ở Điều 79 ra còn phải căn cứ vào điều kiện để tạm giam quy định ở Điều 88 BLTTHS đó là: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tộ._.i ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự (BLHS) quy định mức hình phạt trên 2 năm tù và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Như vậy nếu dưới 2 năm tù mà có các điều kiện ở Điều 79 BLTTHS thì cũng không được bắt tạm giam. Ngoài ra, nếu không phải trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì không bắt, không tạm giam đối với người già yếu, bệnh nặng có nơi cư trú rõ ràng, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng. Như trên đã nêu, đây là trường hợp bắt để tạm giam cho nên việc xem xét căn cứ để bắt và căn cứ để tạm giam là rất quan trọng bởi vì nếu bắt xong mà không tạm giam được thì rất khó xử lý. Nếu bắt tạm giam mà không đủ các căn cứ mặc dù họ là bị can, bị cáo, thì lệnh tạm giam đó vẫn là vi phạm pháp luật, phải bị xử lý. Gần đây việc vi phạm trong việc bắt giam còn xảy ra nhiều gây hậu quả nghiêm trọng, bắt tràn lan cả trường hợp không đáng bắt gây quá tải cho các trại tạm giam. Đã có nhiều vụ dư luận lên tiếng phản đối, các thế lực thù địch lợi dụng, khai thác để chống phá Nhà nước ta. Để chấn chỉnh vi phạm này, Bộ Chính trị đã có quan điểm chỉ đạo rõ ràng tại Chỉ thị 53/CT-TW ngày 21/3/2000 và Nghị quyết 08/NQ/TW ngày 02/01/2002: Trường hợp bắt giam cũng được, không bắt giam cũng được thì không bắt giam; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện xử lý kịp thời những trường hợp oan sai trong bắt giữ, khi xem xét căn cứ để bắt giữ phải quán triệt đầy đủ các nguyên tắc quy định trong luật TTHS, lấy các chỉ thị, nghị quyết của Đảng nêu trên làm cơ sở lý luận, kết hợp nhuần nhuyễn với tình hình chính trị địa phương để ra một quyết định đúng đắn có tính khả thi và có tính giáo dục trong việc áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Khi có căn cứ để áp dụng thì người có thẩm quyền phải xem xét và quyết định. Thứ tư: Về thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là việc rất hệ trọng, ảnh hưởng đến một số quyền con người, cho nên việc quy định thẩm quyền ra lệnh và phê chuẩn chỉ hạn chế và tập trung ở một số cơ quan và người tiến hành tố tụng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS thì người có thẩm quyền ra lệnh bao gồm những người sau: - Viện trưởng, phó viện trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp. - Chánh án, phó chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp. - Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC; Hội đồng xét xử (HĐXX). - Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh của ủy ban thường vụ quốc hội số 23/2004/PL-UBTVQH11 ngày 20 tháng 8 năm 2004 về tổ chức điều tra hình sự thì cơ cấu tổ chức của Cơ quan điều tra gồm có: Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân bao gồm: a) Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc thuộc tỉnh ; b) Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc thuộc Trung ương. Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân bao gồm: a) Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương; Cơ quan điều tra hình sự khu vực. b) Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương. Cơ quan điều tra ở Viện kiểm sát nhân dân gồm có: a) Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; b) Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung ương. Cơ quan điều tra có Thủ trưởng, Phó thủ trưởng và Điều tra viên. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ những ngưòi có chức vụ là Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp mới có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, còn chỉ với chức danh Điều tra viên bình thường thì không có quyền này. Những người theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 BLTTHS được quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, tuy nhiên lệnh của họ chưa có hiệu lực thực tế. Lệnh này chỉ khi được VKS cùng cấp phê chuẩn thì mới được thi hành. Đây là thủ tục pháp lý bắt buộc để đảm bảo cho hiệu lực thi hành của lệnh đó. Nếu lệnh chưa có sự phê chuẩn của VKS mà đã thi hành thì coi như không có hiệu lực pháp luật, công dân có quyền phản đối, và người ra lệnh, người thực hiện lệnh đã vi phạm pháp luật, vi phạm này thuộc trường hợp bắt giam người trái pháp luật. Trên thực tế, đã có trường hợp Cơ quan điều tra lợi dụng lệnh bắt, tạm giam như lệnh bắt khẩn cấp; VKS khi phê chuẩn thì người bị bắt đã ở Cơ quan điều tra rồi, các thủ tục tiếp sau chỉ là hợp thức hóa, bởi vì luật không bắt buộc Kiểm sát viên phải có mặt tại cơ quan hoặc nơi thi hành lệnh. Hoặc có trường hợp Cơ quan điều tra báo gọi bị can lên trụ sở làm việc rồi quản thúc, giữ trá hình ở Cơ quan điều tra, khi có nhu cầu thủ tục thì đưa lên xe về trụ sở UBND xã nơi cư trú làm thủ tục bắt. Do sự nhận thức về điều luật này hạn chế nên công dân không có sự phản đối, UBND xã không thể từ chối cho nên việc bắt vẫn diễn ra bình thường. Trường hợp này dù có đúng là bắt được bị can thì vẫn thuộc trường hợp bắt sai về thủ tục. Để chấn chỉnh tình trạng này trước hết cần chú trọng công tác tuyên truyền pháp luật để nâng cao trình độ dân trí, tăng cường sự giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Thứ năm: Về thủ tục bắt bị can bị cáo để tạm giam. Khoản 2 Điều 80 BLTTHS quy định trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải là lệnh viết, lệnh phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ người ra lệnh, họ tên, địa chỉ của người bị bắt, lý do bắt. Lệnh phải được người ra lệnh ký đóng dấu. Những lệnh phải phê chuẩn thì phải có mục phê chuẩn của VKS, ghi rõ số, ngày, tháng, năm phê chuẩn, họ tên, chữ ký của người phê chuẩn và phải có đóng dấu. Tóm lại, lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam ngoài hình thức thể hiện đặc thù như tên gọi ra còn phải được thể hiện dưới thể thức văn bản pháp lý nhà nước. Người được giao chủ trì thi hành lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải chuẩn bị phương tiện, bố trí lực lượng, phải có sự tham dự của các thành phần bắt buộc. Đảm bảo cho việc bắt được an toàn, nghiêm túc, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, quyền uy của Nhà nước, lệnh bắt phải được đọc công khai, phải có sự giải thích lệnh cho người bị bắt biết. Việc bắt người phải được lập biên bản ghi rõ ngày, giờ, tháng năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản. Những việc đã làm, tình hình diễn biến khi thi hành lệnh bắt, thái độ chấp hành của người bị bắt, người liên quan. Ghi rõ những đồ vật, tài liệu bị thu giữ, (ghi đủ số lượng, còn cụ thể phải lập biên bản riêng), những khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải ghi đầy đủ, tỉ mỉ tránh việc bắt người có nhiều nội dung, tình huống nhưng không ghi hết hoặc ghi quá vắn tắt theo mẫu biên bản in sẵn, gây khó khăn cho việc giải quyết về sau, không có điều kiện khắc phục. Biên bản lập xong được đọc công khai cho các thành phần có mặt nghe, các ý kiến bổ sung phải được ghi lại đầy đủ. Người bị bắt và các thành phần tham gia phải ký xác nhận vào biên bản. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một trong những trường hợp của BPNC bắt - một BPNC rất nghiêm khắc, vì vậy khi thi hành lệnh phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú, làm việc. Trong trường hợp bắt tại nơi cư trú của bị can, bị cáo thì phải có người láng giềng chứng kiến. Đại diện chính quyền địa phương tham gia với tư cách là người quản lý về nhân hộ khẩu của người bị bắt trong địa bàn của mình quản lý. Gắn trách nhiệm của chính quyền địa phương với việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đồng thời sự có mặt của chính quyền địa phương sẽ hỗ trợ, giúp sức khi cần thiết để việc thi hành lệnh bắt được thuận lợi. Sự có mặt của người láng giềng chứng kiến có ý nghĩa đảm bảo việc bắt người được công khai, dân chủ, đồng thời tăng cường tính giáo dục, tuyên truyền pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi về sự có mặt của người đại diện chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc, nên BLTTHS quy định thành ba trường hợp: - Nếu bị can, bị cáo bị bắt tại nơi cư trú thì phải có đại diện chính quyền xã phường hoặc thị trấn, người láng giềng của người bị bắt có mặt chứng kiến. - Đối với trường hợp bắt bị can, bị cáo tại nơi làm việc thì phải có đại diện của cơ quan, tổ chức mà bị can, bị cáo là thành viên chứng kiến. - Nếu bị can, bị cáo bị bắt tại nơi khác thì phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người. Việc bắt bị can bị cáo để tạm giam không mang tính chất cấp bách như bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người bị bắt, của thân nhân, của cơ quan tổ chức nơi người đó làm việc, tránh gây căng thẳng do việc bắt người gây ra, khoản 3 Điều 80 BLTTHS quy định: "Không được bắt người vào ban đêm...". Ban đêm được tính từ 22 giờ tối hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau, điều đó có ý nghĩa là chỉ được bắt bị can, bị cáo để tạm giam từ 6 giờ đến 22 giờ. Ngoài thời gian đó mà tổ chức bắt bị can, bị cáo để tạm giam là vi phạm thủ tục TTHS. Người bị bắt và công dân có quyền phản đối. Người ra lệnh và thi hành lệnh mà cố ý làm trái quy định, vi phạm pháp luật có thể bị xử lý về hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, để đảm bảo việc bắt người được an toàn có hiệu quả, Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án cần thực hiện nghiêm chỉnh quy định về bí mật nhà nước đối với việc ra lệnh, phê chuẩn lệnh bắt. Cơ quan điều tra phải bố trí lực lượng theo dõi để khi tiến hành bắt người bị bắt có mặt, chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, điều kiện để việc bắt đạt hiệu quả cao. Tóm lại, bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một trường hợp trong BPNC bắt - BPNC rất nghiêm khắc trong số các BPNC được BLTTHS quy định cho người có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án được áp dụng đối với bị can, bị cáo khi xét thấy cần thiết cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Việc áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, có thể đưa ra một khái niệm về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam như sau: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một trường hợp của biện pháp ngăn chặn bắt trong TTHS, do người có thẩm quyền áp dụng đối với người đã bị khởi tố về hình sự hoặc đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử khi có những căn cứ do BLTTHS quy định nhằm phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Ngoài trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, BLTTHS còn quy định các trường hợp bắt người khác nhằm phục vụ tốt cho cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. (ii) Bắt khẩn cấp - một trường hợp bắt người trong TTHS Cơ sở pháp lý của biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là một trường hợp của BPNC bắt thường áp dụng đối với người chưa bị khởi tố về hình sự, không cần sự phê chuẩn trước của VKS, nhằm chặn đứng hành vi phạm tội hoặc những hành động cản trở việc điều tra, truy tố và xét xử của người đó. Có thể nói rằng, trước khi BLTTHS được ban hành, thì các quy định về biện pháp bắt nói chung và bắt người trong trường hợp khẩn cấp nói riêng đã có những tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong một thời gian dài. Việc sử dụng chúng đã góp phần kịp thời ngăn chặn các tội phạm nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm đến tính mạng, tài sản của nhân dân. Tuy nhiên, do sự phát triển của xã hội, các quan hệ xã hội ở nước ta cũng đã có nhiều thay đổi. Trước tình hình mới nảy sinh đó, các quy định về những trường hợp bắt khẩn cấp cũng đã bộc lộ những sơ hở nhất định (như sự thiếu chặt chẽ, tính chưa cụ thể trong các quy định của pháp luật...). Cho nên dễ dẫn đến tình trạng bắt khẩn cấp tràn lan. Có thể nói, việc quá lạm dụng bắt khẩn cấp đã có những ảnh hưởng không tốt trong dư luận quần chúng nhân dân. Mặt khác, nó còn làm mất đi tính đặc biệt của biện pháp này và biến nó thành một trường hợp được áp dụng phổ biến. Tình trạng đó đã làm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại, nó đi ngược lại những lợi ích của việc tăng cường pháp chế XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang đặc biệt quan tâm. Nhằm khắc phục những thiếu sót và hạn chế nêu trên, để bảo đảm cho việc bắt khẩn cấp chỉ áp dụng trong những trường hợp cần thiết (hay thực sự đúng nghĩa là khẩn cấp) nhằm chặn đứng hành vi phạm tội và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội. Đồng thời, hạn chế tới mức tối đa những vi phạm về quyền và lợi ích hợp pháp của công dân các BLTTHS 1988 và 2003 đã quy định một cách khá cụ thể, rõ ràng các trường hợp bắt khẩn cấp như sau: - Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. - Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc chỗ ở của người bị tình nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp thể hiện tính chất đặc biệt cấp bách của việc ngăn chặn tội phạm. Tính chất cấp bách đó được thể hiện ở chỗ: nếu như không tiến hành bắt ngay người có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì người đó sẽ gây tổn thất nghiêm trọng cho Nhà nước, xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và sở hữu của công dân hoặc cản trở việc điều tra, xét xử, trốn tránh pháp luật. Do đó, đối tượng bị bắt khẩn cấp là bất kỳ ai nếu như người đó có đầy đủ các điều kiện thuộc vào một trong các trường hợp được bắt khẩn cấp nêu trên. Nói tóm lại, bắt người trong trường hợp khẩn cấp là một chế định không thể thiếu trong BPNC bắt của pháp luật TTHS. Với đặc điểm là tính khẩn cấp, do vậy việc áp dụng biện pháp bắt này đã phát huy được tác dụng rất lớn trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nó giúp cho công tác này đáp ứng được tính kịp thời và hiệu quả được nâng cao hơn. Tuy nhiên, để không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội và đảm bảo được các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì khi ra quyết định bắt khẩn cấp những người có thẩm quyền cần phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bắt khẩn cấp. Chỉ áp dụng biện pháp này khi nó thực sự cần thiết để hạn chế việc lạm dụng bắt khẩn cấp, hạn chế tình trạng bắt oan, bắt bừa. Đặc điểm của việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp Những trường hợp bắt khẩn cấp Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là trường hợp bắt người qua xác minh ban đầu đã có tài liệu cho rằng họ bị nghi thực hiện tội phạm và họ đang có hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra khám phá tội phạm, xét thấy cấp bách cần phải bắt ngay để kịp thời ngăn chặn. Rõ ràng việc áp dụng trường hợp bắt này thể hiện tính chất đặc biệt cấp bách của việc ngăn chặn tội phạm. Nếu không ngăn chặn ngay thì người thực hiện hành vi phạm tội sẽ gây thiệt hại cho Nhà nước, cho xã hội, cho các công dân khác hoặc gây khó khăn cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm. Tuy vậy, như đã nói ở các phần trên, việc bắt người trong đó có trường hợp bắt khẩn cấp là một trong những biện pháp cưỡng chế tố tụng nghiêm khắc. Nếu bắt không đúng pháp luật thì sẽ có rất nhiều ảnh hưởng xấu. Do vậy, để đảm bảo tính chính xác tại Điều 81 BLTTHS 2003 quy định việc bắt khẩn cấp chỉ được tiến hành khi có một trong các căn cứ sau đây: Trường hợp thứ nhất: Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo dõi hoặc kiểm tra, xác minh các nguồn tin biết người đó đang bí mật tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nên cần phải bắt ngay trước khi tội phạm được thực hiện. Việc bắt người trong trường hợp này cần có hai điều kiện. Một là, có căn cứ khẳng định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm. Những căn cứ này, có thể do cơ quan có thẩm quyền trực tiếp xác định qua việc theo dõi đối tượng hoặc qua việc kiểm tra, xác minh các nguồn tin do quần chúng cung cấp, đã khẳng định người đó đang tìm kiếm công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác đề thực hiện tội phạm (như: bàn mưu, tính kế, hoạch định thời gian, địa điểm thực hiện tội phạm). Những hành vi nói trên, mặc dù chưa trực tiếp xâm hại đến lợi ích của Nhà nước và công dân nhưng đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị đe dọa, cần thiết phải được bảo vệ kịp thời. Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó. Vậy người chuẩn bị thực hiện tội phạm là người có hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra được thuận lợi, dễ dàng hơn. Trong thực tế, hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm thể hiện ở một số dạng sau: tìm kiếm, sửa soạn công cụ phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Trong các dạng chuẩn bị nêu trên thì hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội là phổ biến nhất, vì nói chung đó là điều kiện cần thiết cho quá trình thực hiện tội phạm. Hai là, tội phạm đang chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hiện nay, theo quy định của BLHS 1999 đã phân loại tội phạm thành bốn nhóm tội phạm khác nhau: Tội phạm ít nghiêm trọng; tội phạm nghiêm trọng; Tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tại khoản 3 Điều 8 BLHS 1999 quy định: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình [8]. Mặt khác, việc chuẩn bị thực hiện tội phạm vẫn còn một khoảng cách nhất định với việc thực hiện tội phạm nên không nhất thiết đều phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Mà theo quy định tại Điều 17 BLHS 1999 thì chỉ người nào chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, muốn bắt khẩn cấp một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm thì tội phạm họ đang chuẩn bị thực hiện phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, theo quy định của điều luật thì không cho phép bắt khẩn cấp đối với những người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng. Thực tế hiện nay, một số trường hợp việc xác định tội phạm mà một người đang chuẩn bị thực hiện có phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hay không lại là không đơn giản. Trong BLHS, có những tội phạm luôn luôn là tội ít nghiêm trọng (ví dụ: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng - Điều 106 BLHS 1999, hay tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ - Điều 130 BLHS 1999...), hay có những tội phạm luôn luôn là tội nghiêm trọng (ví dụ: Tội loạn luân - Điều 150 BLHS 1999) hoặc cũng có những tội mà chỉ có thể luôn là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (ví dụ: Tội phản bội Tổ quốc - Điều 78 BLHS 1999). Khi có căn cứ cho rằng một người đang chuẩn bị phạm một trong những tội phạm này, thì việc xác định đó có phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hay không để quyết định có áp dụng hay không áp dụng BPNC bắt khẩn cấp thì lại quá đơn giản. Nhưng trong BLHS 1999, có những tội danh mà cấu thành cơ bản của tội đó là tội ít nghiêm trọng, nhưng còn trong các cấu thành tăng nặng của tội đó thì lại là tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, thậm chí còn là cả tội đặc biệt nghiêm trọng và một trong các tình tiết định khung tăng nặng của tội đó là căn cứ vào hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Cho nên, trong những trường hợp này, khi quá trình thực hiện tội phạm mới chỉ ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, chưa gây ra hậu quả và người thực hiện tội phạm chưa thực hiện các hành vi được quy định ở các tình tiết định khung tăng nặng khác thì không thể xác định được người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm gì (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng) để từ đó mà tiến hành bắt khẩn cấp đối với họ hay không. Ví dụ như trong tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS 1999) thì nếu như một người chuẩn bị phạm tội trong trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS 1999 thì tội họ chuẩn bị phạm là tội ít nghiêm trọng. Còn nếu chuẩn bị phạm tội trong trường hợp quy định tại khoản 2 thì tội họ chuẩn bị phạm là tội nghiêm trọng. Nếu chuẩn bị phạm tội trong những trường hợp quy định tại khoản 3 thì tội họ định phạm lại là tội rất nghiêm trọng. Thậm chí nếu người đó chuẩn bị thực hiện tội phạm thuộc vào một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 thì tội mà họ định phạm lại là tội đặc biệt nghiêm trọng. Cụ thể hơn, nếu người phạm tội chưa thực hiện các hành vi quy định tại điểm a khoản 3 và điểm a khoản 4 Điều 138 BLHS (chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng hoặc chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên) thì khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị trộm cắp tài sản, chúng ta không thể biết tội mà họ đang chuẩn bị thực hiện có phải là tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không. Trong trường hợp này để xác định đúng tội họ định vi phạm trước hết chúng ta cũng cần phải xác định được nhân thân của người đó (tốt, xấu, tiền án, tiền sự...) và cũng cần phải xác định cả tới đối tượng mà tội phạm tác động. Một người chuẩn bị trộm cắp tài sản trong ngân hàng, nhà để các hiện vật lịch sử sẽ hoàn toàn khác với việc chuẩn bị trộm cắp một nhà người dân bình thường. Thực sự đây là vấn đề rất khó xác định. Do đó khi không thể xác định được như vậy thì theo ý kiến cá nhân tôi chỉ nên căn cứ vào cấu thành cơ bản của tội này (tội trộm cắp tài sản) để xác định đó là tội ít nghiêm trọng theo nguyên tắc áp dụng có lợi cho người phạm tội. Do vậy, không nên áp dụng bắt khẩn cấp đối với họ. Cho nên, khi bắt người trong trường hợp khẩn cấp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS chúng ta cần phải chú ý tới vấn đề này. Đây cũng là một vấn đề mà trong lý luận cũng như thực tiễn áp dụng hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, cần phải có những quy định cụ thể về vấn đề này trong các văn bản hướng dẫn thực hiện BLTTHS. Trước đây tại Điều 2 Sắc lệnh 002-SL ngày 18/6/1957 và Điều 3 Sắc luật 02-SL ngày 15/3/1976 có quy định sáu trường hợp có thể áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp. Tuy nhiên, việc quy định đó là rất chung chung, dễ dẫn đến sự vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân. Ví dụ như việc quy định một trường hợp được phép bắt khẩn cấp đó là: "Hành vi chuẩn bị làm việc phạm pháp". Từ "phạm pháp" ở đây sẽ dẫn tới cách hiểu là có thể áp dụng bắt khẩn cấp đối với cả người có hành động chuẩn bị phạm pháp hình sự và cả đối với người chuẩn bị phạm pháp hành chính. Do vậy sẽ dẫn đến việc bắt khẩn cấp tràn lan, tùy tiện mà không bị coi là vi phạm pháp luật để bị xử lý. Dẫn đến hiện tượng bắt cả những đối tượng không cần thiết, vi phạm quyền dân chủ của công dân. Từ khi BLTTHS được ban hành, đã thay cụm từ "chuẩn bị làm việc phạm pháp" bằng cụm từ "chuẩn bị thực hiện tội phạm nghiêm trọng" và cuối cùng là cụm từ "chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" việc thay thế này vừa đảm bảo chính xác, vừa cụ thể, phù hợp với phạm vi bắt khẩn cấp được thu hẹp, đảm bảo biện pháp này chỉ được sử dụng khi cần thiết, không áp dụng tràn lan. Trường hợp thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Trong trường hợp này, tội phạm đã xảy ra, nhưng người thực hiện tội phạm không bị bắt ngay lúc đó. Sau một thời gian, người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Nếu Cơ quan điều tra xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn thì ra lệnh bắt khẩn cấp. Việc bắt khẩn cấp trong trường hợp này cần phải có hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất: Có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm có thể là người bị hại hoặc là một người khác đã chính mắt trông thấy và xác nhận với cơ quan có thẩm quyền đúng là người đã thực hiện tội phạm. Việc xác nhận phải mang tính chất khẳng định một cách chắc chắn, chứ không thể "hình như" hoặc "nhìn giống" người đã thực hiện tội phạm. Điều luật cũng không quy định là "... người bị hại hoặc người làm chứng..." là vì theo quy định của pháp luật thì người làm chứng là bất cứ người nào biết được những tình tiết khách quan của vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến để khai báo về những việc cần xác minh trong vụ án. Như vậy, để được coi là người làm chứng thì phải có hai điều kiện là biết được những tình tiết liên quan đến vụ án và một điều kiện nữa là phải được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến... mà trên thực tế thì tại nơi xảy ra tội phạm có rất nhiều người có mặt (thông thường) mà không phải ai cũng có thể trở thành người làm chứng cả. Do đó, BLTTHS đã quy định "có người bị hại hoặc người có mặt..." là rất chính xác. Có như vậy mới đảm bảo được tính xác thực và giá trị của lời tố giác tội phạm. Trước đây trong các văn bản pháp luật về TTHS thì chỉ cần có điều kiện này là đã được phép ra lệnh bắt khẩn cấp, dẫn đến tình trạng bắt tràn lan, do đó không phát huy được ưu điểm của biện pháp bắt người, gây tốn kém về tiền của và sức người một cách không cần thiết. Để hạn chế nhược điểm trên, BLTTHS đã quy định thêm một điều kiện nữa là "... chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm...". Điều kiện thứ hai: Cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Để ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp Cơ quan điều tra ngoài căn cứ nêu ở phần trên thì còn phải xem xét đến vấn đề có cần bắt để ngăn chặn ngay việc người đó trốn hay không. Nếu có căn cứ để cho rằng người đó không có khả năng trốn thì không cần bắt khẩn cấp. Căn cứ để cho rằng cần bắt ngay để ngăn chặn việc người đó trốn có thể dựa vào những căn cứ sau: + Căn cứ thực tế: Người phạm tội có hành động bỏ trốn hoặc thực tế đã trốn. + Căn cứ thuộc về khả năng: Đó là việc người phạm tội không thực sự có hành vi trốn nhưng nếu không bắt thì người đó sẽ trốn (cụ thể là: người đó không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có nơi cư trú nhưng ở quá xa; là đối tượng phản cách mạng, lưu manh, côn đồ hung hãn hoặc chưa xác định được nhân thân của người đó). Trường hợp thứ ba: Khi có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ tài liệu, chứng cứ để xác định người thực hiện tội phạm. Nhưng qua việc phát hiện dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần thiết ngăn chặn việc người này bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì bắt khẩn cấp. Việc bắt người trong trường hợp này cần có hai điều kiện: Một là, khi thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. Qua những hoạt động như khám chỗ ở, địa điểm, khám người, xem xét dấu vết trên thân thể, kiểm tra, kiểm soát hành chính... cơ quan có thẩm quyền tìm thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở, địa điểm của người bị nghi thực hiện tội phạm. Các dấu vết đó có thể là những vật dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết của tội phạm, các vật khác có giá trị chứng minh tội phạm, cũng như các vết đâm chém, đánh, cào cấu hoặc vết cắn... xuất hiện trên thân thể của người bị nghi thực hiện tội phạm. Cần chú ý rằng, những dấu vết trên thân thể người bị nghi thực hiện tội phạm trước hoặc sau khi tội phạm xảy ra (vết chàm, bớt, sẹo, nốt ruồi, hạt cơm...) thì không được coi là dấu vết của tội phạm. Những dấu vết của tội phạm được tìm thấy là những vật chứng, cũng như dấu vết của tội phạm trên thân thể hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. Việc tìm thấy dấu vết của một tội phạm được coi là một điều kiện để bắt khẩn cấp. Hai là, khi cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Những căn cứ cho rằng người bị nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn tương tự như các căn cứ cho rằng người phạm tội trong trường hợp thứ hai bỏ trốn. Tuy nhiên, nếu xác định người bị nghi thực hiện tội phạm không bỏ trốn nhưng lại có căn cứ cho rằng người đó tiêu hủy chứng cứ như: đang xóa dấu vết tội phạm, đang cất giấu công cụ phương tiện phạm tội, đang tẩu tán tài sản vừa lấy được. Thì những hành vi đó vẫn được coi là điều kiện để bắt khẩn cấp. Trường hợp bắt khẩn cấp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 81 BLTTHS chính là việc kết hợp các trường hợp bắt khẩn cấp thứ 3, 4 và 5 trong các Sắc luật 002-SL ngày 18/6/1957 và Sắc luật 02-SL ngày 15/3/1976 trước đây. Việc quy định như vậy, đã giúp hạn chế được tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp với điều kiện đơn giản để thay thế cho việc điều tra, xác minh. Trước đây, khi BLTTHS chưa được ban hành thì các văn bản pháp luật về ._.uyền áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, giúp cho họ có nhận thức đúng các quy định về bắt, giữ, giam, từ đó làm cơ sở cho việc thực hiện các hoạt động TTHS tiếp theo. 3.3.3. Giải pháp về tăng cường công tác chỉ đạo và kiểm sát, kiểm tra việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan, một vấn đề quan trọng đặt ra trước mắt cũng như về lâu dài là tăng cường biện pháp để nâng cao trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trong vấn đề áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam. Để nâng cao trách nhiệm của họ, đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao trình độ pháp lý cho những người tiến hành tố tụng, mặt khác tăng cường công tác kiểm tra của Thủ trưởng các đơn vị, của cơ quan quản lý cấp trên đối với cán bộ thuộc quyền và với cán bộ cấp dưới. Một lĩnh vực giám sát quan trọng là cần tăng cường công tác kiểm sát của VKSND đối với việc bắt, tạm giữ và tạm giam. Mặc dù pháp luật có quy định VKSND có quyền thường kỳ hoặc bất thường trực tiếp kiểm sát nhà tạm giữ, trại tạm giam... nhưng các VKS cần có kế hoạch thường kỳ áp dụng quyền hạn này, hơn nữa cần tạo lập quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa VKS với cơ quan có thẩm quyền bắt, tạm giữ, tạm giam để bảo đảm mỗi khi có việc bắt, tạm giữ, tạm giam thì đều có hoạt động kiểm sát. Đối với những trường hợp vi phạm, cần xác định rõ trách nhiệm của những người có liên quan để xử lý nghiêm minh, nhằm nâng cao trách nhiệm của những người có liên quan. Một số kiến nghị Thứ nhất: Đề nghị VKSND tối cao cùng với Bộ Công an phối hợp xây dựng Quy chế về quan hệ phối hợp giữa cơ quan Công an và VKS trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam và kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam trong đó qui định quan hệ phối hợp là trách nhiệm của hai bên. Trên cơ sở quy định của BLTTHS, mỗi khi có trường hợp bắt quả tang hoặc khẩn cấp, cơ quan Công an phải thông báo ngay cho VKSND biết và hai bên phải phối hợp để xem xét, phân loại đối tượng, làm cơ sở cho VKS quyết định có phê chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt khẩn cấp cũng như phê chuẩn việc gia hạn tạm giữ. Mỗi VKSND cần bố trí ít nhất một cán bộ chuyên trách công tác kiểm sát việc bắt, giữ, giam, hàng ngày thường xuyên quan hệ với cơ quan Công an để nắm vững những trường hợp bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam. Mọi thông tin về bắt và tạm giữ, tạm giam cần được thông báo kịp thời trong ngày cho lãnh đạo cơ quan Công an và VKS để xem xét và xử lý những vấn đề phát sinh. Thứ hai: Hàng năm, các ngành Tòa án, Kiểm sát và Công an cần phối hợp với nhau tập huấn cho cán bộ của mình những quy định của pháp luật có liên quan đến việc bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm giúp cho cán bộ của các cơ quan này nắm vững những quy định của pháp luật, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác bắt, tạm giữ, tạm giam, đồng thời qua tập huấn để rút kinh nghiệm về những trường hợp sai phạm trong công tác bắt, giam, giữ, tìm ra trách nhiệm của mỗi bên để từ đó rút kinh nghiệm cho công tác về sau. Thứ ba: Nhà nước cần xem xét để đầu tư nhằm xây dựng cơ sở vật chất đầy đủ trong vấn đề xây dựng nhà tạm giữ, trại tạm giam, trang bị công cụ vật dụng sinh hoạt cho nhà tạm giữ, trại tạm giam, bảo đảm cơ sở vật chất cho việc tạm giữ, tạm giam đúng quy định của pháp luật, hạn chế những vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam do nguyên nhân thiếu thốn cơ sở vật chất trong việc tạm giam, tạm giữ. 3.3.4. Giải pháp về việc xử lý các trường hợp vi phạm Cần phải nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bằng các hình thức quán triệt rõ ràng, đầy đủ các trách nhiệm của họ cũng như các chế tài mà họ có thể bị áp dụng, nếu họ có những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình. Trách nhiệm dân sự Trong hoạt động tố tụng dân sự của Nhà nước ta cũng như bất kỳ một nước nào trên thế giới, việc các cơ quan tiến hành tố tụng do nhiều nguyên nhân như trình độ, kỹ thuật có thể làm oan người vô tội là khó có thể tránh khỏi. Thực tiễn của công tác điều tra, truy tố, xét xử án hình sự ở nước ta hiện nay cho thấy còn tồn tại tình trạng này. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam người không đúng pháp luật còn xảy ra, số người bị tạm giữ, tạm giam sau đó được thả ra để xử lý hành chính vẫn còn. Không ít người bị khởi tố oan sai phải đình chỉ điều tra vì không có tội, trong đó nhiều vụ đã tạm giữ, tạm giam đối tượng trong một thời gian khá dài. Xét về phương diện quyền lợi hợp pháp của công dân thì người bị xử lý oan sai có quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường cho họ. Quyền này là quyền cơ bản của con người đã được pháp pháp luật ghi nhận. Điều 72 Hiến pháp 1992 khẳng định: "Người bị bắt, bị giam giữ, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và bồi thường danh dự". Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị có hiệu lực ngày 23/3/1976 (nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tham gia ngày 24/9/1992) đã tuyên bố: "Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt, giam cầm bất hợp pháp đều có quyền yêu cầu bồi thường" (khoản 5 Điều 9). Bộ luật dân sự nước ta ban hành năm 1995 cũng có quy định về vấn đề này, "cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án". Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người đã gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền đó có lợi trong khi thi hành nhiệm vụ (Điều 62 Bộ luật dân sự) [16]. Những quy định này không chỉ để bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của công dân khi bị những người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố tụng gây thiệt hại do việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan sai mà còn góp phần ngăn ngừa, hạn chế những việc làm thiếu trách nhiệm của những người này trong khi thi hành nhiệm vụ, gây ảnh hưởng tới uy tín của những người bảo vệ pháp luật và gây thiệt hại đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Ngày 03/5/1997, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 474/CP về việc bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Theo nghị định này, việc bồi thường thiệt hại do những người tiến hành tố tụng được giải quyết theo những nội dung sau: - Cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước hoặc người có thẩm quyền gây ra trong khi thi hành công vụ hoặc khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được quy định tại Điều 623, 624 Bộ luật dân sự. - Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình (Điều 3). - Nguyên tắc xác định thiệt hại, mức bồi thường và mức hoàn trả tiền bồi thường thiệt hại và việc miễn giảm, hoặc trả bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự (khoản 1 Điều 3). - Trường hợp nhiều công chức, viên chức nhà nước hoặc người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng cùng gây thiệt hại cho họ phải liên đới chịu trách nhiệm trên cơ sở lỗi của mỗi người (khoản 2 Điều 5). - Người bị tạm giam oan sai kiện đòi bồi thường trước hết ở chính cơ quan tiến hành tố tụng đã gây thiệt hại cho mình. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau về việc bồi thường thiệt hại, mức bồi thường, thời hạn bồi thường hoặc một trong các bên không thực hiện nghiêm chỉnh thỏa thuận thì các bên có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết (Điều 6). - Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày người bị hại yêu cầu bồi thường thiệt hại, thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải quyết việc bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự +Về trách nhiệm hành chính: Cán bộ, công chức vi phạm các quy định của pháp luật nếu chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau: Khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; hạ ngạch; cách chức; buộc thôi việc. Cán bộ công chức bị kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo, cách chức, hạ bậc lương, hạ ngạch thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị bố trí về vị trí công tác cũ hoặc chuyển làm công tác khác. Cán bộ, công chức bị kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo, cách chức thì bị kéo dài thời gian nâng bậc lương thêm một năm, trong trường hợp bị kỷ luật bằng một trong các hình thức từ khiển trách đến cảnh cáo thì không được bổ nhiệm vào các chức vụ cao hơn trong thời gian ít nhất một năm kể từ ngày có quyết định kỷ luật. Các quyết định về kỷ luật được lưu vào sổ của cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức có thể bị thôi việc trong những tường hợp sau đây: - Công chức phạm tội bị Tòa án phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ, quản chế, cảnh cáo mà tội có liên quan đến hoạt động công vụ. - Công chức đã bị xử lý bằng một trong các hình thức kỷ luật hạ bậc, hạ ngạch, cách chức mà tái phạm. - Công chức tuy có hành vi vi phạm lần đầu nhưng tính chất và mức độ vi phạm nghiêm trọng. Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành nhiệm vụ gây thiệt hại cho người khác thì phải hoàn trả cho cơ quan khoản tiền mà cơ quan đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Việc bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra cho công dân trong khi thi hành công vụ được tiến hành theo hai bước: - Cơ quan bồi thường cho người bị thiệt hại. - Cán bộ, công chức gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà cơ quan đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Cán bộ công chức gây thiệt hại có thể hoàn trả một phần bằng tài sản riêng của mình trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có quyết định hoàn trả hoặc trừ dần vào thu nhập nhưng không quá 10% và không vượt quá 30% tổng thu nhập từ tiền lương và phụ cấp hàng tháng. Trừ trường hợp có nhiều người cùng gây thiệt hại thì họ phải liên đới chịu trách nhiệm trên cơ sở lỗi của mỗi người. + Về trách nhiệm hình sự: Cán bộ, công chức vi phạm pháp luật mà có dấu hiệu của tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. BLHS năm 1999 đã giành một chương (chương XXII) để quy định các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Chương này gồm 17 điều từ Điều 292 đến Điều 314 nhằm bảo đảm cho hoạt động tư pháp được diễn ra đúng pháp luật, tạo điều kiện cho cơ quan tiến hành tố tụng hoạt động được thuận lợi, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Điều 303 quy định tội danh: Tội lợi dụng chức vụ: "Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn không quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của pháp luật thì bị phạt tù từ sáu tháng đến 3 năm tù". BLTTHS 2003 đã quy định bổ sung hai điều luật mới, đó là: Điều 29. Bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan Điều 30. Bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra. Nội dung chính của hai điều luật này là xác định trách nhiệm của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng trong đó có các hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam. Ngày 17/3/2003 ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ban hành Nghị quyết về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH 11). Để thực hiện nghị quyết này ngày 25/3/2004 VKSNDTC, TANDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 01: "Hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 388/ NQ-UBTVQH 11 ngày 17/3/2003 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra". Thực hiện triệt để Nghị quyết và Thông tư nêu trên là góp phần nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các hoạt động tố tụng hình sự nói chung và các hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam nói riêng. Từ sự phân tích trên, luận án đưa ra một kiến nghị sau cùng về giải pháp xử lý kỷ luật: Tất cả các cơ quan, cá nhân vi phạm các quy định trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam đều phải chịu trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân trước pháp luật. Kết luận chương 3 Các quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam trong BLTTHS Việt Nam là cơ sở pháp lý cần thiết cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân. Các quy định về các BPNC nêu trên, trong thời gian qua đã góp phần đắc lực cho quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng cũng đã bộc lộ không ít những vướng mắc, bất cập của các quy định luật và những sai phạm từ phía những người áp dụng. Những khiếm khuyết, tồn tại đó xuất phát bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, có những nguyên nhân chủ quan, có những nguyên nhân khách quan, có những nguyên nhân thuộc về công tác xây dựng pháp luật, có nguyên nhân thuộc về công tác chấp hành pháp luật, có những nguyên nhân xuất phát từ điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất còn thiếu thốn v.v… Để nâng cao hiệu quả của các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam đòi hỏi những nhà làm luật phải không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, các cơ quan và những người khác có thẩm quyền theo luật định cần phải triệt để tuân thủ pháp luật trong quá trình thực thi. Từ những phát hiện trong thực tiễn và nghiên cứu, đòi hỏi các cán bộ nghiên cứu và cán bộ trực tiếp làm công tác bắt, tạm giữ, tạm giam phải có những kiến nghị, đề xuất kịp thời để góp phần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các quy định của BLTTHS nói chung và về các chế định bắt, tạm giữ và tạm giam nói riêng. kết luận Bắt, tạm giữ, tạm giam là những BPNC nghiêm khắc trong hệ thống các BPNC của TTHS Việt Nam. Quy định và áp dụng đúng đắn các BPNC này có tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn tội phạm và là một trong những biện pháp hữu hiệu để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời cũng là biện pháp động viên toàn thể nhân dân tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam có lịch sử hình thành và phát triển cùng với sự ra đời của pháp luật, ngày càng hoàn thiện hơn trong pháp luật TTHS Việt Nam, nó được thực hiện bởi các nguyên tắc, quy định của hệ thống pháp luật XHCN. Việc đi sâu nghiên cứu lý luận, phân tích các quy định về căn cứ, đối tượng áp dụng, thẩm quyền ra lệnh, trình tự thủ tục tiến hành các hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam để từ đó có thể hiểu một cách sâu sắc các quy định của pháp luật về các BPNC này, làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn. Nghiên cứu lý luận phát hiện ra những mâu thuẫn, bất cập trong điều luật để có hướng sửa đổi hoàn thiện pháp luật TTHS nói chung và về các BPNC nói riêng trong đó có BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam là việc làm hết sức cần thiết. Thực tiễn áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ và tạm giam trong những năm qua đã đạt được kết quả to lớn, ngăn chặn được hành vi phạm tội, giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Song bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng các BPNC này trong những năm qua cũng còn bộc lộ không ít những tồn tại, những khiếm khuyết, hạn chế trong quy định và áp dụng cần khắc phục. Sau khi nghiên cứu lý luận và tình hình áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam có thể rút ra các kết luận sau đây: + Để phát hiện chính xác, nhanh chóng, xử lý công minh và kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, pháp luật giao cho người có thẩm quyền do luật định có quyền áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ và tạm giam. Đây là những biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc, chính vì thế, khi xây dựng và áp dụng các BPNC này phải dựa trên những nguyên tắc và quy định nghiêm ngặt của pháp luật. + Các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, phải được quy định trên cơ sở mục đích là bảo đảm cho hoạt động tố tụng được tiến hành thuận lợi nhưng cũng phải đảm bảo quyền tự do, dân chủ của công dân. + Các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam quy định trên cơ sở ngăn chặn những hành vi phạm tội, không cho người phạm tội tiếp tục phạm tội hoặc trốn tránh, động viên toàn thể nhân dân tham gia phòng chống tội phạm. + Các quy định về BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam là cơ sở pháp lý cần thiết, quan trọng cho các cơ quan tiến hành tố tụng và công dân trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Muốn áp dụng đúng đắn các quy định đó trước hết các quy định phải chặt chẽ, đồng bộ và thống nhất. Về phía các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung những quy định mâu thuẫn chồng chéo hoặc không còn phù hợp. + Hiệu quả của các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam dựa trên cơ sở nhằm ngăn chặn được tội phạm, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đáp ứng được đòi hỏi của pháp luật, hiệu quả còn được tính đến chi phí áp dụng... Vì nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho hiệu quả áp dụng các BPNC có lúc, có nơi chưa cao. Do đó, nâng cao hiệu quả áp dụng chúng là một đòi hỏi tất yếu, bao gồm nhiều giải pháp. Từ việc hoàn thiện pháp luật TTHS; nâng cao trình độ pháp lý, trình độ nghiệp vụ cũng như bồi dưỡng rèn luyện phẩm chất cách mạng, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tư pháp; tăng cường sự lãnh đạo của thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng, sự phối hợp kiểm tra giám sát giữa các cơ quan; tăng cường kiểm sát chặt chẽ đối với các trường hợp bắt, đến việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trang bị kỹ thuật phục vụ cho việc bắt, giữ, giam. Tổ chức tuyên truyền phổ biến giáo dục ý thức pháp luật nâng cao dân trí cho nhân dân. Việc nghiên cứu các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật TTHS Việt Nam là một vấn đề lớn, phức tạp. Trong phạm vi của một luận án, tác giả đã cố gắng đưa ra những vấn đề cơ bản nhất nhằm giải quyết những đòi hỏi bức thiết nhất về việc quy định và áp dụng các chế định luật về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam. Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, tác giả hy vọng rằng với những kết quả nghiên cứu được rút ra từ luận án sẽ đóng góp một phần vào việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ và tạm giam góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; đảm bảo thực hiện nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, phấn đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. những công trình đã công bố liên quan đến luận án Nguyễn Văn Điệp (1995), "Bàn về biện pháp tạm giam", Tòa án nhân dân, (11), tr. 22-24. Nguyễn Văn Điệp (2001) "Đánh giá chứng cứ về một vụ án qua việc xét xử tại hai phiên tòa", Đặc san nghề luật, (2), tr. 16-18. Nguyễn Văn Điệp (2002), "Bàn về các biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự", Đặc san nghề luật, (3), tr. 10-13. Nguyễn Văn Điệp (2003), "Hoạt động kiểm sát đối với biện pháp ngăn chặn tạm giữ", Đặc san nghề luật, (6), tr. 30-34. Nguyễn Văn Điệp (2003), "Một số vấn đề về quy định tạm giữ trong Bộ luật tố tụng hình sự", Dân chủ và pháp luật, 8(137), tr. 16-20. Nguyễn Văn Điệp (2004), "Kỹ năng của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự", Sổ tay Luật sư, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. danh mục tài liệu tham khảo Báo Nhân dân (2003), Nghị quyết về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, ngày 09-4. Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh (2003), số 18, ngày 20-3. Phạm Thanh Bình (1997), Một số vấn đề chung quanh việc tạm giữ, tạm giam, Nxb Đồng Nai. Nguyễn Mai Bộ (1997), Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Công an (1999), Chỉ thị 06/1999/CT-BCA (C11) ngày 07-08 Về việc chấm dứt ngay tình trạng bắt oan sai, bức cung, dùng nhục hình trong công tác điều tra và xử lý tội phạm. Bộ Hình sự tố tụng, Tối cao Pháp viện (1973), Nxb Sài Gòn - ấn Quán. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1999 (2000), Nhà in Quân đội, Hà Nội. Bộ luật tố tụng hình sự (2003), Nxb Tư pháp, Hà Nội. Bộ luật tố tụng hình sự (2003), Nxb Tư pháp, Hà Nội. Bộ Nội vụ (1993), Chỉ thị 15/CT-BNV (C16) ngày 18-9 Về một số biện pháp cấp bách nhằm chấn chỉnh công tác bắt, giam giữ, khởi tố, điều tra xử lý tội phạm. Bộ Nội vụ (1994), Chỉ thị 16/CT-BNV ngày 30-11 Về chấn chỉnh việc chấp hành pháp luật trong công tác bắt, giam giữ và tổ chức thi hành án phạt tù. Các Luật Tổ chức nhà nước (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Cảm (2000), "Các đặc điểm của tội phạm và tính quyết định xã hội của chúng", Dân chủ và pháp luật, Hà Nội. Chính phủ (1957), Nghị định số 301-TTg ngày 10-7, Về quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. Chính phủ (1997), Nghị định số 474/CP ngày 03-5, Về việc bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra. Chính phủ (1998), Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 17-11, Quy chế về tạm giữ, tạm giam. Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1960), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, (32), ngày 3-8, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Thông báo số 136/TB-TW ngày 15-01 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53 CT/TW ngày 24-3 của Bộ Chính trị, Về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01 của Bộ Chính trị, Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Phạm Hồng Hải (1995), "Một số nét lịch sử và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt Nam trong 50 năm qua", Nhà nước và pháp luật (3). Phạm Hồng Hải (1999), "Bàn về quyền công tố", Nhà nước và pháp luật, (12). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Văn Hiện (1999), "Vấn đề giới hạn xét xử của Tòa án nhân dân", Tòa án nhân dân (8). Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long), tập IV (1994), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Luật số 103/SL/005 ngày 20-5-1957, Về việc bảo đảm tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, thư tín, đồ vật của nhân dân. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, 1994. Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (1981), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Luật tổ chức Quốc hội, ngày 15-4-1992. Nguyễn Vạn Nguyên (1995), Các biện pháp ngăn chặn và vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Bình Nguyên (1995), "Từ thực tiễn áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam", Kỷ yếu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Nhà pháp luật Việt - Pháp (1997), Tố tụng hình sự và vai trò của Viện công tố trong tố tụng hình sự, (La procedure penale et le role du ministere public dans le processue penal), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Đình Nhã (1995), "Về đổi mới tổ chức Cơ quan điều tra", Kỷ yếu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. "Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Thụy Điển" (1995), Tập san thông tin khoa học pháp lý, (2), tr. 16-17. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự ngày 4-4-1989 (1995), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Đặng Quang Phương (1992), "Tìm hiểu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về rút truy tố", Tòa án nhân dân, (4). Đỗ Ngọc Quang (1997), Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Ngọc Quang (1998), "Một số vấn đề về thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam trong tình hình hiện nay", Thông tin pháp chế, Vụ Pháp chế, Bộ Công an, (1). Lê Kim Quế (1989), Những điều cần biết về điều tra, truy tố và xét xử, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) (1991), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Quyết định số 188/1999/QĐ-TTg ngày 17-9-1999 của Thủ tướng Chính phủ Về thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ. Sắc luật 002/SL ngày 18-6-1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trịnh Văn Thanh (2000), áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực lượng cảnh sát nhân dân, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân. Thông tư liên ngành số 02 ngày 12-01-1989 của TANDTC-VKSNDTC-BNV-BTP Hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 7-01-1995 của TANDTC-VKSNDTC- BNV-BTP Hướng dẫn thi hành một số quy định về truy nã bị can, bị cáo trong giai đoạn truy tố, xét xử. Kiều Đình Thụ (1992), "Một số vấn đề về phân loại tội phạm trong Phần chung của luật hình sự", Tòa án nhân dân, (2). Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Công văn số 86/NCPL ngày 9-5-1989, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Công văn số 481/NCPL ngày 19-11-1992, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Báo cáo công tác tổng kết ngành Tòa án năm 1998 và phương hướng, nhiệm vụ 1999, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo công tác tổng kết ngành Tòa án năm 1999 và phương hướng, nhiệm vụ 2000, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Trả lời của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với các chất vấn của các vị đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X., Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo công tác tổng kết ngành Tòa án năm 2000 và phương hướng, nhiệm vụ 2001, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo công tác tổng kết ngành Tòa án năm 2001 và phương hướng, nhiệm vụ 2002, Hà Nội. Tội phạm học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tổng cục Cảnh sát (2000), Báo cáo tổng kết công tác năm 1999 của lực lượng Cảnh sát nhân dân. Tổng cục Cảnh sát (2000), Báo cáo tổng kết về tình hình công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội từ năm 1990 đến 1999. Phan Đình Trạc (1998), "Công tác bắt, tha, giam giữ và thi hành án phạt tù ở Nghệ An trong những năm vừa qua", Công an nhân dân, (8). Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hành chính, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1995), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1998), Giáo trình Lý luận và phương pháp luận của khoa học điều tra hình sự, Hà Nội. Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông (1986), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. Đào Trí úc (1999), "Vấn đề kiểm soát tội phạm", Nhà nước và pháp luật, (6), tr. 6. ủy ban Khoa học và Xã hội nhân văn (1992), Những vấn đề lý luận về Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và Tội phạm học, Hà Nội. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2001), Báo cáo thẩm tra của ủy ban Pháp luật về dự án sửa đổi, bổ sung một số của Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội. Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Hệ thống tư pháp hình sự của một số nước châu á, Dự án VIE/95/018. Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Bộ luật tố tụng hình sự Canađa 1994, (Bản dịch), Dự án VIE/95/018. Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga, (Phụ trương thông tin khoa học pháp lý năm 2000), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1995), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của Luật tố tụng hình sự, Kỷ yếu đề tài khoa học, Hà Nội. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1997), Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm, Đề tài cấp Bộ, mã số 96-98-091/ĐT, Hà Nội. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Tờ trình về Dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Báo cáo kết quả kiểm tra liên ngành về việc bắt tạm giữ, tạm giam và xử lý tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam trong toàn quốc, ngày 30-9, Hà Nội. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2002, ngày 03-01. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Báo cáo về kết quả ba năm thực hiện chuyên đề bắt tạm giữ, tạm giam và xử lý, ngày 09-01, Phụ lục số liệu bắt tạm giữ, tạm giam (năm 1999 - 2000 - 2001 - 2002). Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1994), Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1999), Tư pháp hình sự so sánh, Hà Nội Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1992), Tìm hiểu về nhà nước pháp quyền. Nguyễn Xuân Yêm (1999), Một số vấn đề quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2726.doc
Tài liệu liên quan