Các giải pháp chủ yếu tăng cường huy động vốn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ ở Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc

Lời mở đầu Nền kinh tế Việt Nam đang có sự chuyển mình mãnh mẽ, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì nền kinh tế nói chung, các doanh nghiệp nói riêng đã và đang gặp phải những trở lực trong quá trình phát triển, trong đó hiện tượng thiếu vốn cho đầu tư phát triển là một trong những vấn đề nổi cộm. Đồng chí Đỗ Mười đã từng nói : “Cái mà chúng ta cần hiện nay là vốn, và vốn. Nếu không có vốn, tấ

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp chủ yếu tăng cường huy động vốn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ ở Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t cả những dự định của chúng ta chỉ là nguyện vọng mà thôi”. Đối với Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc - là doanh nghiệp mới thành lập, cũng đang phải giải quyết rất nhiều vấn đề khó khăn mà nổi bật là tạo vốn cho đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ, Công ty nhận thức chỉ có máy móc thiết bị hiện đại mới tạo ra vũ khí sắc bén chiến thắng trong cạnh tranh. Nếu Công ty có thể tạo ra một chính sách huy động và sử dụng vốn thích ứng, có hiệu quả thì nó sẽ là một trong những động lực cơ bản để phát triển trong tương lai Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc, Em đã có điều kiện nghiên cứu tình hình thực tế về công tác huy động vốn tại Công ty và xin mạnh dạn dưa ra một số ý kiến về : “ Các giải pháp chủ yếu tăng cường huy động vốn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ ở Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc”. Kết cấu của luận văn gồm 3 chương : Chương 1: Lý luận chung về tầm quan trọng của việc đổi mới thiết bị, công nghệ đối với sự phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương 2: Thực trạng về thiết bị công nghệ và công tác huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị tại công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc. Chương 3 : Một số giải pháp huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị công nghệ ở Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc. Do điều kiện trình độ và thời gian hạn chế nên chắc chắn bài luận văn này không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong được sự chỉ bảo chân thành của các Thầy – Cô giáo để bản luận văn này được hoàn thiện hơn. Để hoàn thành đề tài này, Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của Thạc sỹ Nguyễn Văn Khoa và các thầy cô giáo trong bộ môn Tài chính doanh nghiệp cùng sự giúp đỡ quý báu của các Anh, Chị phòng tài chính – kế toán Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ Miền Bắc. Hà Nội , ngày 4 tháng 5 năm 2005 Sinh viên Đoàn Thị Thành Vinh Chương 1 Lý luận chung về tầm quan trọng Của việc đổi mới thiết bị , công nghệ đối với sự phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Tài sản cố định và vốn cố định của doanh nghiệp Nền kinh tế thị trường có sự can thiệp của Nhà nước ở Việt Nam đã trải qua hơn 15 năm hình thành, củng cố, từng bước hoàn thiện. Song song với quá trình đó là sự xuất hiện và tác động ngày càng sâu sắc của hệ thống các quy luật kinh tế đặc trưng cho nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận trở thành mục tiêu rất cụ thể, rất thiết thực và mang tính sống còn đối với doanh nghiệp . Tài sản cố định Đối với các doanh nghiệp để tiến hành sản xuất, tạo ra sản phẩm cần có ba yếu tố là : tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Các tư liệu lao động (như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải...) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, biến đổi nó theo mục đích của mình. Bộ phận tư liệu quan trọng nhất trong các tư liệu lao động sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là các TSCĐ. “TSCĐ là những tư liệu lao động chủ yếu, có giá trị lớn, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và giá trị của nó được chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra”. Đặc điểm TSCĐ là: - Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất với vai trò là các công cụ lao động chủ yếu. - Khi tham gia vào quá trình sản xuất thì nó giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu. - Trong quá trình sử dụng giá trị của chúng chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Tiêu chuẩn nhận biết một tư liệu lao động được coi là một TSCĐ: - Theo tiêu chuẩn cơ bản quốc tế: Một tư liệu lao động được coi là một TSCĐ phải đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn cơ bản: + Một là, phải có thời gian sử dụng tối thiểu, thường từ một năm trở lên. + Hai là, phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức quy định. Tiêu chuẩn này được squy định riêng ở từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mức giá cả của từng thời kỳ. Hai tiêu chuẩn này được quy định tuỳ theo điều kiện kinh doanh, yêu cầu và trình độ quản lý từng thời kỳ nhất định. Những tư liệu lao động không đủ các tiêu chuẩn quy định được coi là công cụ lao động nhỏ, được mua sắm bằng nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp. - Theo quyết định 206/2003/QĐ-BTC về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ : Một tư liệu lao động được coi là tài sản cố định nếu thoả mãn đồng thời cả bốn tiêu chuẩn đưới đây : + Một là, chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó; + Hai là, nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy; + Ba là, có thời gian sử dụng từ một năm trở lên; + Bốn là, có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên. Tuy nhiên, trong thực tế việc xem xét tiêu chuẩn và nhận biết TSCĐ của doanh nghiệp là phức tạp hơn như : việc phân biệt giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động là TSCĐ của doanh nghiệp trong một số trường hợp không chỉ đơn thuần dựa vào đặc tính hiện vật mà còn phải dựa vào tính chất và công dụng của chúng trong quá trình SXKD, một số tư liệu nếu xem xét riêng lẻ từng bộ phận thì không đủ các tiêu chuẩn trên song lại được tập hợp sử dụng đồng bộ như một hệ thống thì cả hệ thống đó được coi như một TSCĐ. Mặt khác, trong điều kiện phát triển và mở rộng các quan hệ hàng hoá tiền tệ, sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng như nét đặc thù trong hoạt động đầu tư của một số ngành nên một số khoản chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra có liên quan đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp, nếu đồng thời thoả mãn các điều kiện cơ bản trên và không hình thành các TSCĐ hữu hình thì được coi là các TSCĐ vô hình của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp TSCĐ có nhiều loại khác nhau, mỗi loại lại có công dụng kinh tế, tính chất kỹ thuật và được sử dụng trong những điều kiện khác nhau. Để thuận tiện cho công tác quản lý TSCĐ của doanh nghiệp cần tiến hành phân loại một cách khoa học, thông thường có các phương pháp phân loại TSCĐ sau : - Phương pháp thứ nhất : Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện.Theo cách phân loại này TSCĐ của doanh nghiệp được phân thành hai loại : + TSCĐ hữu hình : Là những TSCĐ có hình thái vật chất. + TSCĐ vô hình : Là những TSCĐ không có hình thái vật chất. - Phương pháp thứ hai : Phân loại theo mục đích sử dụng. Theo cách phân loại này TSCĐ của doanh nghiệp được phân làm những loại sau : + TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh : Là những TSCĐ dùng trong hoạt động kinh doanh cơ bản và hoạt động kinh doanh phụ của doanh nghiệp. + TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi sự nghiệp, an ninh, quốc phòng: Là những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi sự nghiệp, các hoạt động đảm bảo an ninh quốc phòng của doanh nghiệp. + Các TSCĐ bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ nhà nước : là những TSCĐ doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cho nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Phương pháp thứ ba : Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế. Theo cách phân loại này TSCĐ của doanh nghiệp được phân làm những loại sau : + Nhà cửa, vật kiến trúc : Là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho… + Máy móc, thiết bị : Là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh như máy móc thiết bị động lực, máy móc công tác… + Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn : Là các loại phương tiện vận tải như phương tiện đường sắt…và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện … + Thiết bị, dụng cụ quản lý : Là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính … + Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm : vườn chè, đàn bò… + Các loại TSCĐ khác. - Phương pháp thứ tư : Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng. Theo cách phân loại này TSCĐ của doanh nghiệp được phân làm những loại sau : + TSCĐ đang sử dụng : Đó là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc phúc lợi sự nghiệp, an ninh … + TSCĐ chưa cần dùng : Đó là các hoạt động cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng hiện tại doanh nghiệp chưa sử dụng, đang cất trữ. + TSCĐ không cần dùng : Đó là các TSCĐ không cần thiết hay không phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh, cần thanh lý nhượng bán để thu hồi lại vốn đầu tư . Trên đây là bốn phương pháp phân loại TSCĐ chủ yếu trong doanh nghiệp, ngoài ra tuỳ theo đặc điểm tổ chức quản lý mà ở từng doanh nghiệp còn tiến hành phân loại TSCĐ theo các tiêu thức khác nhau như phân loại TSCĐ theo nguồn hình thành, theo bộ phận sử dụng, … Mỗi cách phân loại trên đây cho phép đánh giá, xem xét kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Đó là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng các quyết định đầu tư, điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho phù hợp với tình hình thực tế đồng thời nó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng TSCĐ và tính khấu haoTSCĐ cho chính xác, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Vốn cố định Khái niệm VCĐ là: “VCĐ là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng TSCĐ hữu hình và vô hình”. VCĐ quyết định quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của TSCĐ lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Đặc điểm VCĐ là: - Một là, VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, điều này do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ sản xuất quyết định. - Hai là, VCĐ được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận VCĐ được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ. - Ba là, sau nhiều chu kỳ sản xuất VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại dần giảm xuống cho đến khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất ra thì VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Trong các doanh nghiệp VCĐ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng, bởi nó là một bộ phận của vốn đầu tư nói riêng và vốn sản xuất kinh doanh nói chung. Việc xác định quy mô VCĐ, mức trang bị TSCĐ hợp lý là cần thiết song điều quan trọng nhất là phải có biện pháp quản lý sử dụng tốt VCĐ, tránh thất thoát vốn đảm bảo năng lực sản xuất và hiệu quả hoạt động của TSCĐ. Trong công tác quản lý VCĐ, một yêu cầu được đặt ra đối với các doanh nghiệp là phải bảo toàn VCĐ. Bảo toàn vốn có thể hiểu là việc giữ nguyên vẹn sức mua của đồng vốn ban đầu và không ngừng làm cho nó phát triển lên để sau khi kết thúc một vòng tuần hoàn vốn, với số vốn thu hồi được doanh nghiệp ít nhất cũng có thể mua được một khối lượng TSCĐ có quy mô và tính năng kỹ thuật như cũ với thời giá hiện tại. Tại các doanh nghiệp, việc bảo toàn vốn cố định phải xem xét trên cả hai mặt: hiện vật và giá trị. Bảo toàn VCĐ về mặt hiện vật không phải chỉ là giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ mà quan trọng hơn nữa là duy trì thường xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó. Bảo toàn VCĐ về mặt giá trị là phải duy trì sức mua của VCĐ ở thời điểm hiện tại so với thời điểm bỏ vốn đầu tư ban đầu bất kể sự biến động của giá cả, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Việc bảo toàn vốn cụ thể như thế nào còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của bản thân TSCĐ tại doanh nghiệp . Như vậy, có thể thấy rõ bảo toàn VCĐ và TSCĐ là một căn cứ quan trọng trong việc tạo vốn để đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ. Đây là nguồn chủ yếu để tiến hành tái sản xuất giản đơn và mở rộng TSCĐ. 1.1.3 Hao mòn TSCĐ Trong quá trình sử dụng, TSCĐ bị hao mòn do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau, hao mòn TSCĐ được chia làm hai loại : Hao mòn hữu hình TSCĐ : Là sự hao mòn về vật chất, về giá trị sử dụng và giá trị của TSCĐ trong quá trình sử dụng.Về mặt vật chất, đó là sự hao mòn có thể nhận thấy được từ sự thay đổi trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết TSCĐ dưới sự tác động của ma sát, tải trọng, …..Về giá trị sử dụng, đó là sự giảm sút về chất lượng, tính năng kỹ thuật ban đầu trong quá trình sử dụng và cuối cùng không còn sử dụng được nữa. Muốn khôi phục lại giá trị sử dụng của nó phải tiến hành sửa chữa, thay thế. Về mặt giá trị, đó là sự giảm dần giá trị của TSCĐ cùng với quá trình chuyển dịch dần từng phần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm sản xuất. Đối với TSCĐ vô hình, hao mòn hữu hình chỉ thể hiện ở sự hao mòn về mặt giá trị. Nguyên nhân và mức độ HMHH trước hết phụ thuộc vào các nhân tố trong quá trình sử dụng TSCĐ như thời gian và cường độ sử dụng, việc chấp hành các quy phạm kỹ thuật trong sử dụng và bảo dưỡng TSCĐ. Tiếp đến là các nhân tố về môi trường tự nhiên và môi trường sử dụng TSCĐ. Ngoài ra HMHH cũng còn chịu phụ thuộc vào chất lượng chế tạo TSCĐ. Việc nhận thức rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến mức HMHH TSCĐ sẽ giúp các doanh nghiệp có biện pháp cần thiết, hữu hiệu để hạn chế nó. Hao mòn vô hình TSCĐ: là sự giảm sút về giá trị trao đổi của TSCĐ do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Người ta thường chia hao mòn vô hình thành các loại sau: - Hao mòn vô hình loại 1: TSCĐ bị giảm giá trị trao đổi do đã có những TSCĐ như cũ song giá mua lại rẻ hơn. Do đó trên thị trường các TSCĐ cũ bị mất đi một phần giá trị của mình. - Hao mòn vô hình loại 2: TSCĐ bị giảm giá trị trao đổi do đã có những TSCĐ mới tuy mua với giá trị như cũ nhưng lại hoàn thiện hơn. Do đó trên thị trường các TSCĐ cũ bị mất đi một phần giá trị của mình. - Hao mòn vô hình loại 3: TSCĐ bị mất giá hoàn toàn do chấm dứt chu kỳ sống của sản phẩm tất yếu dẫn đến những TSCĐ sử dụng để sản xuất những sản phẩm này cũng bị lạc hậu và mất tác dụng. Nguyên nhân cơ bản của HMVH là sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Do đó biện pháp có hiệu quả nhất để khắc phục hao mòn vô hình là doanh nghiệp phải coi trọng đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật. Điều này có ý nghĩa rất quyết định trong việc tạo ra các lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường . Trong quá trình sử dụng và bảo quản, TSCĐ chịu hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, một bộ phận tương ứng với phần giá trị hao mòn ấy được chuyển dịch dần vào giá thành sản phẩm gọi là khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được trích lại và tích luỹ thành quỹ khấu hao TSCĐ. Lập kế hoặch khấu hao TSCĐ hàng năm là một nội dung quan trọng để quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụngVCĐ của doanh nghiệp, có thể thấy được nhu cầu tăng, giảm VCĐ trong năm kế hoạch, khả năng nguồn tài chính để đáp ứng những nhu cầu đó. Vì thế, đây là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xem xét, lựa chọn các quyết định đầu tư đổi mới TSCĐ trong tương lai. Quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất giản đơn TSCĐ nên được gọi là quỹ khấu hao cơ bản. Song thực tế, trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật phát triển, quỹ khấu hao cơ bản có khả năng tái sản xuất mở rộng TSCĐ, trong quá trình TSCĐ chưa hoàn thành vòng tuần hoàn, doanh nghiệp có thể sử dụng quỹ khấu hao một cách linh hoạt như một nguồn tài chính bổ sung cho các yêu cầu kinh doanh đảm bảo nguyên tắc hoàn quỹ. Như vậy, có thể coi quỹ khấu hao là một nguồn lực tài chính quan trọng để tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Về nguyên tắc, việc tính khấu hao TSCĐ phải phù hợp với mức độ hao mòn của TSCĐ và đảm bảo thu hồi đầy đủ giá trị vốn đầu tư ban đầu. Điều nay không chỉ đảm bảo tính chính xác của giá thành sản phẩm, hạn chế ảnh hưởng của HMHH mà còn góp phần bảo đảm được VCĐ. Biện pháp quan trọng để doanh nghiệp tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao vào giá thành sản phẩm là phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp . Sự cần thiết phải đổi mới thiết bị, công nghệ và các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ tại doanh nghiệp . Đầu tư đổi mới thiết bị là đòi hỏi khách quan tại các doanh nghiệp Một thực tế không thể phủ nhận được là đổi mới TSCĐ có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Khoa học, công nghệ không chỉ quyết định đến tốc độ phát triển của một nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của từng tế bào trong nền kinh tế đó. Đối với doanh nghiệp, đổi mới thiết bị và công nghệ có nghĩa là hình thức đầu tư cho chiều sâu để tạo ra một năng lực sản xuất mới. Cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế và xu thế phát triển của thế giới đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ là vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Xu thế hội nhập nền kinh tế với khu vực và thế giới hiện nay đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là Việt Nam đang chuẩn bị tiến trình hội nhập WTO vào năm 2006, điều này vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức đối với các doanh nghiệp. Nói riêng đối với mỗi doanh nghiệp trong nước thì công cuộc CNH – HĐH đất nước là động lực mạnh mẽ thúc đẩy đầu tư đổi mới hiện đại hoá thiết bị và công nghệ của đơn vị mình. Ngoài điều kiện thuận lợi thì việc đổi mới TSCĐ là phù hợp khách quan. TSCĐ trong quá trình hoạt động chịu sự hao mòn và giá trị giảm dần, nếu tiếp tục sử dụng máy móc, thiết bị và công nghệ cũ nát thì doanh nghiệp phải chịu thêm khoản chi phí sữa chữa bảo dưỡng. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh, đó là động lực để phát triển nền kinh tế. Một trong các giải pháp quan trọng để chiếm lợi thế trong cạnh tranh của các doanh nghiệp là đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ, với máy móc dây chuyền công nghệ mới doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được nguyên vật liệu, hạ thấp được chi phí sản xuất như chi phí về năng lượng, giảm được các khoản chi phí sửa chữa bảo dưỡng máy móc, thiết bị. Doanh nghiệp có thể giảm bớt chi phí tiền lương do máy móc, thiết bị hiện đại giảm bớt lao động thủ công … Chính vì vậy, giá thành sản phẩm sản xuất sẽ giảm đáng kể trong khi chất lượng sản phẩm không đổi thậm chí tăng lên. Đây là điều vô cùng có ý nghĩa quan trọng đối với cạnh tranh của doanh nghiệp bởi giá bán sản phẩm có thể hạ xuống, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hấp dẫn từ đó làm cơ sở cho việc tăng lợi nhuận. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì nhu cầu người tiêu dùng càng cao doanh nghiệp không chỉ sản xuất nhiều về số lượng, tốt về chất lượng mà sản phẩm phải có mẫu mã đẹp, tiện dụng, hợp thị hiếu. Đổi mới thiết bị, dây chuyền công nghệ là giải pháp cần thực hiện để cho doanh nghiệp thực hiện được phương châm là “ Bán cái thị trường cần”. Bên cạnh đó, việc đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ còn có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề tổ chức quản lý doanh nghiệp bởi nó có thể giảm nhẹ biên chế, giải phóng lao động thủ công nặng nhọc, đảm bảo an toàn cho người lao động, bảo vệ môi trường. Điều đó thể hiện được xu hướng phát triển đi lên trong lĩnh vực tổ chức sản xuất và quản lý con người . Như vậy, ai cũng thấy được tầm quan trọng của việc đổi mới thiết bị và công nghệ đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Điều đó phụ thuộc rất lớn vào giá thành sản phẩm có hạ được hay không? Sản phẩm có tiêu thụ được hay không? Lợi nhuận doanh nghiệp có đạt được như kế hoặch định ra hay không? Bên cạnh đó bảo vệ quyền lợi của người lao động cũng như người tiêu dùng là điều quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, tuy nhiên đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ có tính hai mặt, đó là một quyết định đầu tư dài hạn, đòi hỏi phải sử dụng một lượng vốn lớn, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời gian dài. Do đó, hiệu quả vốn đầu tư phụ thuộc vào dự toán đúng đắn vốn đầu tư, vấn đề cốt lõi của việc đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ là hiệu quả kinh tế, là dành được thế cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận. Muốn vậy, việc đổi mới cần phải đồng bộ tránh sự khập khiễng làm giảm hiệu quả đổi mới phải kịp thời nếu không sẽ chịu quy luật đào thải của thị trường. Như vậy, đổi mới máy móc thiết bị là cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế cạnh tranh. Nhưng đổi mới như thế nào cho hiệu quả, đạt được mục đích thì phải xét tới những yêu cầu cơ bản đối với máy móc thiết bị công nghệ khi tiến hành quá trình đầu tư đổi mới tại các doanh nghiệp. Các yêu cầu cơ bản đối với maý móc thiết bị công nghệ khi tiến hành quá trình đầu tư đổi mới tại các doanh nghiệp hiện nay. Đổi mới máy móc thiết bị là cần thiết đối với các doanh nghiệp song việc đổi mới hoàn toàn không đơn giản, nó phải đảm bảo bằng một loạt các yêu cầu sau : - Đổi mới phải bắt kịp tiến bộ khoa học công nghệ : Mục đích của việc đổi mới máy móc thiết bị công nghệ trong doanh nghiệp là thay thế, khắc phục những tồn tại hạn chế của công nghệ cũ bằng những công nghệ mới tiên tiến hơn, ưu việt hơn, có khả năng tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Chính vì thế, khi thực hiện hoạt động đầu tư đổi mới doanh nghiệp cần tiến hành điều tra, nghiên cứu kỹ tính năng kỹ thuật cũng như mức độ tối tân của công nghệ sắp đầu tư. Việc điều tra, nghiên cứu này sẽ giúp doanh nghiệp tránh việc đầu tư vào những công nghệ lạc hậu, làm giảm sút hiệu quả của hoạt động đầu tư . - Đổi mới phải đồng bộ, có trọng điểm : Tính đồng bộ trong đổi mới là rất quan trọng bởi một sản phẩm tạo ra nếu muốn được thị trường chấp nhận thì cần phải đáp ứng nhiều mặt như chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã,…nếu đổi mới một cách “khập khiễng”chẳng hạn như sản phẩm vẫn giữ nguyên kiểu dáng, mẫu mã, chỉ thay đổi chất lượng, chất liệu cấu thành sản phẩm thì rất khó cho người tiêu dùng nhận ra được những ưu điểm mới của sản phẩm này, do đó sẽ làm giảm hiệu quả của công tác đổi mới tài sản .Tuy nhiên, đổi mới đồng bộ đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn lớn, đây là một trở ngại lớn đối với nhiều doanh ngiệp, nếu thiếu vốn để đầu tư thì doanh nghiệp nên thực hiện giải pháp tình thế là đổi mới có trọng điểm, tính trọng điểm của đầu tư thể hiện ở chỗ: chỉ đổi mới đối với những công nghệ chủ chốt mang tính sống còn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp thiếu vốn lại đầu tư một cách dàn trải chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại trong đầu tư . - Đổi mới phải đón trước được yêu cầu và thị hiếu của thị trường : Những đòi hỏi của thị trường về một loại sản phẩm nào đó có thể thay đổi rất nhanh. Nếu doanh nghiệp không điều tra, nghiên cứu kỹ trước khi thực hiện hoạt động đầu tư đổi mới chắc chắn sẽ làm giảm sút hiệu quả của hoạt động đầu tư thậm chí công tác đổi mới sẽ hoàn toàn vô nghĩa . Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp Việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị là đòi hỏi khách quan nhưng nếu xét trên giác độ quản lý tài chính thì hoạt động đầu tư này chính là các quyết định đầu tư dài hạn, đầu tư không chỉ cho hiện tại mà phải đón đầu được những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong tương lai và cần có một nguồn vốn lớn. Vì vậy, để đi đến một quyết định đầu tư đòi hỏi doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lượng hàng loạt các vấn đề, những yếu tố chi phối trực tiếp đến quyết định đầu tư doanh nghiệp : Thứ nhất : Chính sách kinh tế của nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế Nhà nước là người hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế. Thông qua chính sách kinh tế, pháp luật kinh tế và các biện pháp kinh tế…Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng dẫn các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp đi theo quỹ đạo của kế hoặch vĩ mô. Chính sách kinh tế của Nhà nước đối với các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong địng hướng đầu tư phát triển kinh doanh, với các đòn bẫy kinh tế, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh vào những ngành nghề, lĩnh vực có lợi cho quốc tế dân sinh. Bởi thế, để đi đến quyết định đầu tư, trước tiên các doanh nghiệp phải xem xét đến chính sách của Nhà nước như chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thuế… Thứ hai : Thị trường và sự cạnh tranh Một dự án đầu tư chỉ có thể được chấp nhận khi nó có khả năng tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh, có khả năng sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng được đòi hỏi ngày càng phong phú và khắt khe của thị trường. Vì vậy, khi đưa ra một quyết định đầu tư không thể thiếu được sự phân tích kỹ tình hình hiện tại của bản thân doanh nghiệp cũng như dự đoán diễn biến tình hình của thị trường trong tương lai . Thứ ba : Lãi tiền vay và thuế trong kinh doanh Đây là yếu tố ảnh hưởng tới chi phí đầu tư của doanh nghiệp, với việc trả lãi tiền vay đầu tư, doanh nghiệp phải tăng thêm một khoản chi phí cho mỗi đồng vốn đầu tư, vì vậy không thể không tính đến yếu tố lãi suất tiền vay trong quyết định đầu tư. Bên cạnh đó, đối với doanh nghiệp thuế trong kinh doanh thấp hay cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận ròng của doanh nghiệp. Vì vậy, thuế trong kinh doanh là yếu tố kích thích hay hạn chế sự đầu tư. Thứ tư : Sự tiến bộ của khoa học công nghệp Khoa học và công nghệ luôn luôn thay đổi, nó có thể là thời cơ cũng có thể là nguy cơ đe doạ đối với tất cả các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trước khi thực hiện dự án đầu tư cần phải tính đến những tiến bộ trong tương lai của khoa học công nghệ đối với những thiết bị mà mình sẽ đầu tư, từ đó có thể xác định chính xác trọng tâm cũng như cách thức đầu tư đổi mới trang thiết bị. Nếu thiết bị máy móc luôn tiến bộ, ít nhất ngang bằng với công nghệ của các doanh nghiệp cùng ngành trong nước cũng như trong khu vực thì doanh nghiệp mới có khả năng sản xuất ra những sản phẩm có lợi thế trên thị trường, có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại . Thứ năm : Tính hiệu quả của dự án Hoạt động đầu tư dài hạn luôn chứa đựng trong nó rất nhiều rủi ro. Mỗi doanh nghiệp phải xác định được độ tin cậy của dự án đầu tư, phải dự đoán được sự biến động trong tương lai về chi phí đâu tư bỏ ra, thu nhập nhận được từ dự án đầu tư, lãi suất vay vốn, khả năng tiêu thụ sản phẩm, … Vì vậy, phân tích tính khả thi của dự án đầu tư là công việc phải được tiến hành rất kỹ lưỡng, tỷ mỉ, khoa học trước khi thực hiện dự án đầu tư . Thứ sáu : Khả năng tài chính của doanh nghiệp Doanh nghiệp không thể tiến hành các dự án đầu tư nằm ngoài khả năng tài chính của mình. Hoạt động đầu tư đổi mới máy móc thiết bị luôn mang tính hai mặt, một mặt nó đem lại diện mạo mới tạo ra lợi thế cạnh tranh và uy tín cho doanh nghiệp, mặt khác đó là hoạt động đầu tư cho tương lai luôn chứa đựng những rủi ro và mạo hiểm. Một cơ cấu tài chính vững chắc sẽ là điều kiện tiên quyết đến sự tồn tại của doanh nghiệp, chính vì vậy công tác đầu tư đổi mới máy móc thiết bị phải quan tâm tới tình hình tài chính tại thời điểm đầu tư, trong quá trình đầu tư, hiệu quả của hoạt động đầu tư. Có như vậy, Doanh nghiệp mới tránh được những cú sốc về tài chính do hậu quả của hoạt động đầu tư sai lầm gây ra . Nhu cầu về vốn cho hoạt động đầu tư là rất lớn, nó phát sinh liên tục, tình trạng chung tại các doanh nghiệp hiện nay là nguồn vốn tự có rất hạn hẹp và thường không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng. Vì vậy, để có đủ vốn thực hiện hoạt động đầu tư thì doanh nghiệp phải huy động thêm nhiều hình thức khác nhau khi huy động các nguồn vốn doanh nghiệp . Vai trò của tài chính doanh nghiệp đối với việc tạo vốn để đổi mới thiết bị và công nghệ Tài chính doanh nghiệp là một khâu trong hệ thống tài chính trong nền kinh tế, là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Quản trị tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn và đưa ra quyết định tài chính, tổ chức thực hiện những quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt động tài chính của doanh nghiệp, đó là tối đa hoá lợi nhuận, không ngừng làm tăng giá trị và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Như vậy, quản trị tài chính doanh nghiệp có vai trò to lớn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trước khi xét đến vai trò của tài chính doanh nghiệp trong tạo vốn và đổi mới thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp chúng ta khẳng định một điều : Nhà nước trao quyền làm chủ cho doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng vốn cho nên doanh nghiệp phải chủ động trong vấn đề tạo vốn để thoả mãn bất cứ nhu cầu vốn của mình. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong huy động đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho đổi mới thiết bị và công nghệ, thể hiện ở chỗ xác định đúng đắn nhu cầu vốn cho đổi mới và tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp huy động vốn bên trong và bên ngoài. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy sinh nhiều hình thức mới cho phép các doanh nghiệp huy động các nguồn vốn từ bên ngoài. Do vậy, vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng hơn trong việc chủ động lựa chọn hình thức và phương pháp huy động vốn đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động nhịp nhàng và liên tục với chi phí huy động vốn ở mức thấp nhất. Hiệu quả của việc huy động vốn phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn, tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng vào việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của dự án từ đó góp phần chọn ra dự án đầu tư tối ưu. Việc huy động vốn kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng để doanh nghiệp có thể chớp được cơ hội kinh doanh, tăng được khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần trên thương trường. Mặt khác, việc huy động số vốn tối đa hiện có vào đầu tư đổi mới có thể giảm bớt và tránh được thiệt hại do ứ đọng vốn gây ra, đồng thời giảm bớt được nhu cầu vay vốn, từ đó giảm được khoản tiền trả lãi vay. Một vai trò không kém phần quan trọng của tài chính doanh nghiệp là giám sát, kiểm tra chặt chẽ tình hình vận động của vốn huy động, thông qua tình hình tài chính và thực hiện các chỉ tiêu tài chính, người lãnh đạo và các nhà quản lý doanh nghiệp có thể đánh giá khái quát và kiểm soát được sự vận động cũng như tình hình sử dụng vốn. Đồng thời phát hiện những tồn tại vướng mắc trong kinh doanh, từ._. đó có thể đưa ra những quyết định điều chỉnh các hoạt động phù hợp với thực tế. Trong quá trình hoạt động, nhu cầu về đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ được đặt ra như yêu cầu cấp bách trước sức ép của thị trường. Tài chính doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc lường trước vốn tự có và đưa ra các giải pháp hữu hiệu để huy động vốn bên ngoài, để phù hợp với việc huy động quản lý sử dụng vốn có hiệu quả, chúng ta có thể chia toàn bộ số vốn mà doanh nghiệp hiện có thành nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài : Nguồn vốn bên trong : Đây là tất cả nguồn vốn có thể huy động được từ nội bộ doanh nghiệp, bao gồm nguồn quỹ khấu hao cơ bản (KHCB), lợi nhuận để lại để tái đầu tư và một số quỹ khác. Nguồn vốn thứ nhất : Quỹ khấu hao cơ bản Như phần trên đã đề cập, trong quá trình tham gia vào quá trình sản xuất, TSCĐ bị hao mòn dần dưới hai hình thức là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình (chủ yếu là do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật), giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Phần giá trị hao mòn này được thu hồi khi sản phẩm được tiêu thụ và tạo thành nguồn vốn khấu hao cho doanh nghiệp. Trước đây, số tiền KHCB để lại cho doanh nghiệp rất nhỏ bởi vì doanh nghiệp không được sử dụng tiền khấu hao cơ bản tài sản cố định có nguồn gốc từ NSNN. Tuy nhiên đến năm 1994, Nhà nước chủ trương để lại 100% tiền KHCB cho doanh nghiệp điều này đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào thiết bị , công nghệ. Tiền vốn khấu hao được trích lập hàng tháng và luỹ kế lại, khi chưa có nhu cầu tái sản xuất TSCĐ thì doanh nghiệp có thể sử dụng linh hoạt số vốn này để sinh lời nhằm duy trì và phát triển sức mua của đồng vốn nhưng phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả, bảo toàn và phát triển vốn. Làm tốt công tác khấu hao, bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn khấu hao sẽ tạo ra một nguồn vốn có quy mô lớn, tính chất ổn định, lâu dài mà doanh nghiệp không phải trả chi phí sử dụng vốn, vẫn đảm bảo yêu cầu đầu tư tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng năng lực sản xuất khi TSCĐ kết thúc vòng đời. Nguồn vốn thứ hai : Lợi nhuận để lại để tái đầu tư Lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí đã bỏ ra một thời kỳ nhất định, số lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp là phần còn lại sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản phạt vi phạm hợp đồng. Phần lớn lợi nhuận để lại này được sử dụng để bù đắp, bảo toàn vốn và trích lập các quỹ như : quỹ khen thưởng và phúc lợi, quỹ dự phòng và quỹ đầu tư phát triển … Trong đó, quỹ đầu tư phát triển là quỹ được trích lập hàng năm từ lợi nhuận của doanh nghiệp để sửa chữa, bổ sung, nâng cấp, đổi mới thay thế máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, trang trải các chi phí nghiên cứu phát triển các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Mục đích của quỹ đầu tư phát triển là nâng cao năng lực sản xuất cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, với một tỷ lệ lớn (đối với các doanh nghiệp Nhà nước tối thiểu là 50% lợi nhuận sau thuế và sau khi trừ một số khoản khác) và được tích luỹ lại qua các năm tạo thành một nguồn vốn lớn để đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ. Nguồn vốn thứ ba : Nguồn khác Nguồn vốn do thanh lý những loại máy móc thiết bị và công nghệ đã lạc hậu hoặc hết thời gian khấu hao khi tiến hành đầu tư đổi mới TSCĐ, nó vừa giúp giải phóng mặt bằng và giảm các chi phí bảo quản sửa chữa không cần thiết đồng thời tạo ra được một khoản tiền vốn để đổi mới. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể đổi mới TSCĐ bằng việc sử dụng quỹ dữ trữ dự phòng tài chính hoặc từ khoản chênh lệch do đánh giá lại TSCĐ, do kiểm kê phát hiện thừa … Như vậy, huy động tối đa nguồn vốn bên trong của doanh nghiệp là xu hướng trong việc tạo vốn đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ, tuy nhiên do trình độ quản lý cũng như nhu cầu đổi mới mở rộng năng lực mà nguồn vốn bên trong không thể đáp ứng hết nhu cầu ấy. Chính vì vậy, một nguồn vốn không thể thiếu được trong huy động vốn là nguồn vốn bên ngoài. Nguồn vốn bên ngoài : Đây là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động được phục vụ đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ . Thứ nhất : Vay dài hạn ngân hàng Vay dài hạn ngân hàng là một phương pháp phổ biến trong huy động vốn, vay ngân hàng doanh nghiệp phải trả lãi đúng hạn và phải hoàn trả vốn gốc sau một thời gian nhất định, lãi suất có thể thay đổi do ngân hàng quy định. Nhà nước cho phép doanh nghiệp có quyền cầm cố thế chấp tài sản để vay vốn, tuy nhiên hiện nay ngân hàng đang chủ trương cho vay không cần đảm bảo nếu xét thấy dự án đầu tư mang tính khả thi. Ngân hàng cùng doanh nghiệp đưa ra các giải pháp quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, đây là một trong những thuận lợi không thể bỏ qua của mỗi doanh nghiệp . Thứ hai : Vay dài hạn cán bộ CNV So với vay ngân hàng, vay từ CB-CNV có hạn chế về số lượng vốn vay không lớn, mất thời gian huy động vốn song có thể vay được trong một thời gian tương đối dài. Nguồn vốn này được tập trung từ sổ tiết kiệm của người lao động không phải là nhỏ trong các doanh nghiệp sản xuất có nhiều lao động. Việc vay vốn từ cán bộ công nhân viên sẽ tạo điều kiện khuyến khích người lao động gắn bó hơn với Công ty, cùng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên thực hiện chính sách lãi suất tăng thêm trong trường hợp hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn so với dự định để khuyến khích người lao động. Thứ ba : Phát hành cổ phiếu, trái phiếu Đây là hình thức huy động khá thuận lợi ở những quốc gia có thị trường vốn phát triển, ở Nước ta thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động cũng là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp cần vốn đầu tư. Phát hành cổ phiếu sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu nhưng quyền kiểm soát doanh nghiệp sẽ bị chia sẻ, việc sử dụng trái phiếu để tài trợ dài hạn cho nhu cầu đầu tư sẽ làm tăng hệ số nợ nhưng việc sử dụng nó linh hoạt hơn bởi doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động đầu tư mà không phải tuân thủ một loạt quy chế tín dụng . Thứ tư : Cổ phần hoá doanh nghiệp Đây là hình thức huy động vốn áp dụng cho doanh nghiệp nhà nước cụ thể là chuyển thành Công ty cổ phần, đây là chủ trương rất đúng đắn nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp hiện đang làm ăn trì trệ hoặc chưa thật hiệu quả bởi sau khi cổ phần hoá, doanh nghiệp trở thành Công ty cổ phần và có thể huy động vốn dễ dàng hơn thông qua thị trường chứng khoán. Và hình thức này hiện đang được tiến hành rất nhiều ở các doanh nghiệp nhà nước. Thứ năm : Vốn liên doanh, liên kết Cạnh tranh gay gắt buộc các doanh nghiệp thay vì tìm cách loại bỏ nhau thì liên doanh, liên kết sáp nhập lại để cùng nhau phát triển là một xu thế mới mẻ và có nhiều triển vọng. Thực tế đã chứng minh liên doanh liên kết là một hình thức có nhiều ưu điểm, khi tiến hành liên doanh liên kết doanh nghiệp có thể huy động một lượng vốn chủ sở hữu để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển, lại còn phân tán bớt rủi ro. Liên doanh liên kết vừa tạo điều kiện tăng nguồn lực tài chính vừa nâng cao được trình độ quản lý và sử dụng thiết bị công nghệ, tận dụng ưu thế hiện có của các bên liên doanh …Doanh nghiệp có thể liên doanh với các đối tác trong nước và ngoài nước, xu hướng hiện nay là liên doanh với các đối tác nước ngaòi . Bên Việt Nam góp vốn bằng đất đai nhà xưởng còn bên nước ngoài góp vốn bằng máy móc thiết bị công nghệ, bằng tiền. Tuy vậy, khó khăn nhất là việc xây dựng giá trị vốn góp của bên đối tác do trình độ hiểu biết về khoa học công nghệ cũng như sự thiếu kinh nghiệm là bất lợi lớn đối với Việt Nam, ngoài ra còn phải chú trọng đến công tác quản lý để liên doanh thực sự đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Thứ sáu: Kêu gọi viện trợ thu hút đầu tư của các tổ chức phi chính phủ, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đầu tư từ quỹ hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), từ các tổ chức bảo vệ môi trường, hoà bình,… Việc mở rộng nên kinh tế đã tạo điều kiện cho các tổ chức quốc tế có điều kiện hiểu biết thêm về đất nước và con người Việt Nam, có điều kiện tìm hiểu tình hình tài chính còn khá eo hẹp của doanh nghiệp Việt Nam, tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài là một hướng đi cần lưu tâm khi các nguồn lực tài chính của các doanh nghiệp trong nước còn hạn hẹp . Thứ bảy : Tạo vốn bằng hình thức mua trả góp Đây là hình thức các doanh nghiệp mua máy móc thiết bị chủ tài sản và trả dần tiền mua, theo hình thức này doanh nghiệp tiến hành thoả thuận và ký hợp đồng với chủ tài sản, thoả thuận này cho phép doanh nghiệp trả một phần giá trị của máy móc thiết bị và phần còn lại thanh toán nhiều kỳ vào những thời điểm ấn định trước, mỗi lần trả một phần máy móc thiết bị cùng tiền lãi. Ưu điểm : Doanh nghiệp có thể nhận được máy móc thiết bị ngay mà không cần thương lượng với ngân hàng hay tổ chức tài chính trung gian nào để vay tiền và cũng không phải cầm cố tài sản, doanh nghiệp được phép khấu hao nhanh đối với máy móc thiết bị đó. Nhược điểm : Chi phí mua máy móc thiết bị này thường cao hơn do doanh nghiệp không được hưởng phần chiết khấu mà người bán thường áp dụng với những tài sản trả tiền ngay ngoài ra còn phải trả tiền lãi, đồng thời nếu doanh nghiệp không thực hiện đúng chế độ thanh toán hợp đồng thì sẽ có nguy cơ mất quyền sở hữu máy móc thiết bị vào thời điểm kết thúc hợp đồng . Thứ tám : Thuê tài chính Thuê tài chính hay còn gọi là thuê mua vốn hoặc thuê mua thuần… là một phương thức tín dụng trung dài hạn. Theo phương pháp này, người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê. Người thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong một thời hạn đã được thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Thông thường trong khoản tiền thuê mà người thuê trả người cho thuê theo quy định bao gồm tiền vốn gốc, tiền lãi tín dụng, phần lợi nhuận hợp lý, phần chi phí quản lý. Vì vậy xem xét trên góc độ người thuê thì thuê tài chính là một hình thức vay trung hoặc dài hạn và trên hình thức người cho thuê thì đây là hình thức tài trợ tín dụng. Trong hợp đồng thuê tài chính, điển hình có mỗi quan hệ với ba bên : người cho thuê, người thuê và người sản xuất hoặc người phân phối thiết bị . Trên đây là một số phương hướng huy động vốn bên trong cũng như bên ngoài, tùy thuộc vào tình hình thực tế doanh nghiệp áp dụng một cách linh hoạt và kết hợp một cách tốt nhất các phương pháp huy động. Điều cần chú ý là trong công tác huy dộng vốn, mặc dù cả hai nguồn vốn đều được coi trọng song nguồn vốn bên trong luôn giữ vai trò quyết định, nguồn vốn bên ngoài bổ sung cho nguồn vốn bên trong nhằm đảm bảo đủ vốn cho hoạt động đầu tư. Việc huy động vốn từ bên ngoài phải cân đối với khả năng tài chính của doanh nghiệp để đảm bảo một sự phát triển bền vững trong tương lai. Như vậy, có thể nói rằng TCDN có một vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới thiết bị, công nghệ ngay từ khi lập phương án đến khi chọn và thực hiện phương án, trong đổi mới phải đặc biệt coi trọng vai trò của tài chính doanh nghiệp. Trên đây là các vấn đề về đầu tư đổi mới thiết bị doanh nghiệp nói chung và phương hướng tạo vốn cho nó, sau đây là thực tế ở Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ Miền Bắc. Chương 2 Thực trạng về thiết bị công nghệ và công tác huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị tại Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ Miền Bắc . 2.1 Khái quát chung về Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty COMICO.JSC Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc là doanh nghiệp thành lập với sự kết hợp giữa nhiều Công ty giàu truyền thống trong và ngoài nước, do vậy Công ty COMICO. JSC đã kế thừa được nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc thi công các công trình xây dựng cơ bản cũng như kế thừa được nhiều kinh nghiệm quản lý tiên tiến . Công ty có : Tên giao dịch quốc tế : Construction and mining in the north joint stock company. Tên viết tắt : COMICO. JSC Trụ sở chính: 994 (306) Đường Hoàng Quốc Việt _ Từ Liêm _ Hà Nội . Số điện thoại : 04-7 543 177 Số Fax : 04-7 543 178 Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh : 0103001183 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty : Ngày 26/6/2002, UBND Thành phố Hà Nội – Sở Kế Hoạch và Đầu Tư quyết định thành lập Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc có trụ sở chính tại 306 đường Hoàng Quốc Việt - Từ Liêm - Hà Nội (nay chuyển đến 994 Đường Hoàng Quốc Việt – Từ Liêm – Hà Nội. Công ty gồm có 3 chi nhánh cụ thể là: 1. Chi nhánh Cao Bằng : kiốt số 1,2 Công ty tổng hợp thương mại Cao Bằng - thị xã Cao Bằng - Tỉnh Cao Bằng . Số điện thoại : 026 859 170 Người đại diện : Nguyễn Văn Nguyên 2. Chi nhánh Hà Giang : Số 390 đường Nguyễn Trãi ,Thị xã Hà giang ,Tỉnh Hà Giang . Số điện thoại : 019 860 900 Người đại diện : Hoàng Minh Tân 3. Chi Nhánh Vũng Tàu : Thôn Ngọc Hà Thị trấn Phú Mỹ _ Huyện Tân Thành _ Tỉnh Bà Rịa _ Vũng Tàu . Người đại diện : Ngô Gia Khánh . Tuy mới thành lập nhưng Công ty đã tham gia nhiều công trình xây dựng công nghiệp, dân dụng, công trình hạ tầng có chất lượng kỹ thuật cao trên phạm vi cả nước, góp phần nhỏ trong quá trình xây dựng công nghiệp hoá hiện đại hoá Đất nước. 2.1.2 Nhiệm vụ của Công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh Bốc xúc đất đá và khai thác mỏ; Xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi, thuỷ điện, cầu, hầm ; Xây lắp công trình điện đến 35 kv; Xây dựng dân dụng, công nghiệp ; Dịch vụ cho thuê máy móc xây dựng ; Đầu tư cơ sở hạ tầng ; Đại lý mua, đại lý bán, ký gửi hàng hoá ; Buôn bán trang thiết bị, vật tư, phụ tùng xây dựng, giao thông và khai thác mỏ ; Dịch vụ sửa chữa trang thiết bị xây dựng giao thông và khai thác mỏ ; Thu mua và chế biến các sản phẩm từ nông sản ; Khai thác, chế biến và buôn bán các loại khoáng sản (trừ một số khoáng sản Nhà nước cấm )./. (Doanh nghiệp chỉ kinh doanh khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật ) Công ty đã tham gia nhiều công trình đáng nhớ như : tham gia thi công thư viện quốc gia – Hà Nội, thi công đường điện nông thôn – 35 KV, thi công mương dẫn dòng trạm bơm Minh Tân - Thái Bình, thi công mở đường tại tỉnh Bắc Giang, thi công mở đường mới tại tỉnh Hà Giang, … 2.1.3 Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty COMICO.JSC 2.1.3.1 Quy trình sản xuất công nghệ của Công ty COMICO.JSC Công ty COMICO. JSC tham gia thi công các công trình giao thông, xây dựng, thuỷ điện, thuỷ lợi cầu hầm trên khắp các tỉnh miền núi phía Bắc và có một số ở các tỉnh thuộc miền Trung, miền Nam. Công ty hoạt động theo các công trình, hạng mục công trình, các dự án cụ thể như sau: Bước 1 : Công tác tiếp cận dự án : Khi có các dự án thì bộ phận kỹ thuật nhận hồ sơ thiết kế sau đó kết hợp bộ phận kế hoạch tính toán phân tích tính khả thi của dự án từ đó báo cáo cụ thể giúp Ban giám đốc trong công tác thương thuyết hợp đồng. Bước 2 : Công tác xây dựng kế hoạch dự án : Sau khi ký hợp đồng bộ phận kế hoạch kết hợp các bộ phận kỹ thuật, tài chính vật tư thiết bị, tổ chức nhân sự để xây dựng tiến độ thi công chi tiết, yêu cầu cung cấp máy móc thiết bị, cung cấp nguồn vốn, cơ cấu nhân sự …để từ đó xây dựng một kế hoạch thi công một cách sát thực, đảm bảo tiến độ thi công đúng theo yêu cầu của chủ đầu tư hoặc thầu chính. Bước 3 : Công tác thực hiện dự án : Quá trình thực hiện dự án, bộ phận kế hoạch và kỹ thuật sẽ theo dõi sát sao tiến độ thực hiện từ đó có những báo cáo kịp thời cho Ban giám đốc tiến độ thi công thực tế, khối lượng hoàn thành …để Ban giám đốc có những quyết định đảm bảo cho dự án hoàn thành và đem lại hiệu quả cao . Bước 4 : Công tác thanh quyết toán, thanh lý hợp đồng, chấm dứt dự án : Sau khi dự án hoàn thành, bộ phận kế hoạch kết hợp bộ phận tài chính, công trường làm công tác rà soát lại khối lượng đã thực hiện có xác nhận của chủ đầu tư, khối lượng phát sinh nếu có, lên phương án thương thảo với chủ đầu tư về những thiệt hại do tự nhiên gây ra trong quá trình thi công, kết hợp bộ phận tài chính làm thủ tục thanh quyết toán công trình cùng với chủ đầu tư hoặc thầu chính . Bộ phận kế hoạch kết hợp với công trường làm thủ tục thanh lý hợp đồng, giải quyết những tồn đọng của công trường. Khi nộp bản báo cáo phải kèm theo biên bản giao nhận để từ đó Ban giám đốc có cơ sở đánh giá các chỉ tiêu kinh tế. Đây là đặc điểm quy trình công nghệ của Công ty COMICO. JSC, là căn cứ để có những giải pháp giảm giá thành sản xuất, tăng tính cạnh tranh trên thị trường . 2.1.3.2 Đặc điểm tổ chức quản lý của Công ty COMICO.JSC Hội đồng quản trị là cơ quan có quyền lực cao nhất, có trách nhiệm quản lý toàn diện Công ty. HĐQT bao gồm : Ông Đỗ Quốc Trung Chức vụ : Chủ tịch HĐQT Ông Nguyễn Hữu Trung Chức vụ : Thành viên HĐQT Ông Lê Ngọc Hoà Chức vụ : Thành viên HĐQT Ông Trần Hữu Tình Chức vụ : Thành viên HĐQT Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty COMICO. JSC thể hiện đầy đủ ở bảng 1 trang bên : Ban Giám đốc : bao gồm 01 Giám đốc và 02 Phó giám đốc, chịu trách nhiệm điều hành trực tiếp các hoạt động của Công ty, đại diện cho Công ty trước pháp luật. + Giám đốc : Là người nắm quyền điều hành, người chủ tài khoản, có quyền quyết định toàn bộ vấn đề của Công ty. + Phó giám đốc : Giúp việc cho Giám đốc, theo dõi điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của nhà máy theo phân công của Giám đốc, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được phân công . Các phòng ban : Là các cơ quan chức năng của bộ máy quản lý, được phân công chuyên môn hoá theo chức năng quản trị. + Phònh kế hoạch kỹ thuật : Lập kế hoạch cho các dự án, lập kế hoạch tháng, quý, năm cho Công ty, kế hoạch đào tạo cán bộ. Bên cạnh đó theo dõi đánh giá thực hiện kế hoạch đề ra, lập và quản lý các hồ sơ kế hoạch như : hợp đồng, dự trù, thanh, quyết toán, có các văn bản bàn giao kế hoặch và các mẫu biểu kèm theo. + Phòng vật tư : Có nhiệm vụ tiến hành mua sắm vật tư hàng hoá, chuẩn bị vật tư để đảm bảo tiến độ thi công, chất lượng và giá cả vật tư hàng hoá. + Phòng thiết bị : Theo dõi về số lượng các máy móc thiết bị hoạt động trong toàn Công ty, theo dõi tình trạng kỹ thuật cũng như điều động máy móc thiết bị phục vụ thi công cho các công trình, lập kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa máy móc. Hàng tháng , quý phải báo cáo cho Ban giám đốc về công tác quản lý và sử dụng thiết bị cho toàn Công ty, kiểm tra và hỗ trợ các dự án trong công tác dự phòng vật tư cho thiết bị . + Phòng tài chính – kế toán : Vừa tổ chức hạch toán, vừa có kế hoạch huy động nguồn vốn đảm bảo cho hoạt động SXKD của Công ty đạt hiệu quả cao, thanh toán, kiểm tra và quan sát tình hình thanh toán với ngân hàng, Nhà nước, khách hàng và với công nhân viên trong doanh nghiệp. Ghi chép , phân tích các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, cân đối thu chi , thực hiện báo cáo đúng quy định, tổ chức kiểm kê theo định kỳ và đột xuất theo yêu cầu của SXKD. + Phòng tổ chức – hành chính : làm công tác đối ngoại và làm công tác tổ chức như là nhân sự , văn thư … Các chi nhánh - dự án : có nhiệm vụ thực hiện các dự án thuộc địa bàn quản lý của chi nhánh đó . Mỗi phòng ban có một cán bộ được cử xuống làm việc tại các chi nhánh, dự án và có trách nhiệm báo cáo chi tiết, cụ thể, kịp thời tình hình tại đó. Đầu tuần, định kỳ Ban giám đốc họp đề ra phương hướng hoạt động. Tình hình và kết quả kinh doanh chủ yếu của Công ty trong những năm gần đây : Những thuận lợi và khó khăn : Thuận lợi : Trong những năm qua, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty tương đối khả quan, đó là nhờ có những điều kiện thuận lợi sau : Thứ nhất là : Chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước ta Nhà nước có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mới thành lập phát triển, do đó Công ty cũng được hưởng những ưu đãi về thuế cụ thể : Công ty được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo nghị định số 164/2003/ NĐ-CP ngày 22 tháng 06 năm 2003 và được sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước đối với các dự án thực hiện dưới sự chỉ đạo của Chính phủ. Thứ hai là : Công ty có mối quan hệ mật thiết với các ngân hàng, tạo được uy tín trong kinh doanh nên thuận lợi cho việc vay vốn như : Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc á, ngân hàng cổ phần thương mại Quân Đội … Thứ ba là : Là doanh nghiệp thành lập với sự kết hợp giữa nhiều Công ty giàu truyền thống trong và ngoài nước, do vậy Công ty COMICO đã kế thừa được nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc thi công các công trình xây dựng cơ bản cũng như kế thừa được công nghệ quản lý tiên tiến. Bên cạnh những thuận lợi đó, trong hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty cũng gặp một số khó khăn nhất định ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển cụ thể là : Khó khăn : Thứ nhất là : Là doanh nghiệp mới thành lập nên gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn, tìm kiếm khách hàng do chưa có uy tín trên thương trường. Vì vậy, với lượng vốn của Công ty còn ít so với yêu cầu của các công trình đòi hỏi cơ cấu vốn lớn Công ty phải đối phó với áp lực cạnh tranh của các Công ty xây dựng khác có vốn lớn, trình độ máy móc thiết bị hiện đại hơn. Thứ hai là : Các công trình mà Công ty đảm nhận thường phân tán, trải rộng địa bàn trên khắp cả nước, vì vậy có ảnh hưởng rất lớn đến việc vận chuyển máy móc thiết bị và đặc biệt gây khó khăn trong việc bố trí nguồn lao động. Thứ ba là : Những biến động về chính trị, xã hội : Đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng ảnh không nhỏ tới sự tồn tại của doanh nghiệp, cụ thể là : Không ít các quan chức và chuyên gia công nghiệp cảnh báo rằng, xuất phát từ nhận thức tài nguyên là hữu hạn, trên thị trường thế giới đang diễn ra một “cuộc chiến” về khoáng sản. Với lượng ngoại tệ, nhiều nền kinh tế đã và đang thực hiện chủ trương hạn chế khai thác khoáng sản và nguyên liệu năng lượng trong nước, tăng cường nhập khẩu các loại hàng này từ nước ngoài để đáp ứng nhu cầu trên thị trường nội địa. Đặc biệt, nền kinh tế đang tiếp tục tăng trưởng nhanh ở Trung Quốc cũng đã bắt đầu áp dụng chủ trương này. Về ngắn hạn, “ Cuộc chiến” này tạo nhiều cơ hội cho xuất khẩu các sản phẩm khai khoáng ở Vịêt Nam, song về lâu dài nếu Nước ta không có những chính sách điều chỉnh kịp thời rất dễ dẫn đến tình trạng tài nguyên bị “chảy máu” ồ ạt, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp. Đứng trước thực tế đó, Chính phủ mới ban hành quyết định cấm xuất khẩu quặng thô sang nước ngoài hạn chế khai thác khoáng sản bừa bãi, đây là ngành nghề kinh doanh chủ yếu của Công ty. Khi quyết định này ban hành ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất kinh doanh, một lượng lớn TSCĐ sử dụng kinh doanh lĩnh vực này sẽ ngừng hoạt động. Thư tư là : Trình độ cán bộ công nhân viên chưa đồng đều, do đặc tính kỹ thuật SXKD phải tham gia thi công các công trình ở khắp các nơi nên Công ty chủ yếu thuê nhân công tại địa điểm thực hiện dự án, đây là trở ngại lớn trong vấn đề đào tạo cán bộ chuyên sâu, được thể hiện như sau : Bảng2 : Trình độ cán bộ công nhân của Công ty COMICO. JSC Năm Chỉ tiêu 31/12/ 2003 Tỷ trọng (%) 31/12/2004 Tỷ trọng (%) Số kỹ sư, trình độ đại học 22 16,4 58 19.3 Số KTV, trình độ CĐ, TC 19 14,2 42 14 Số công nhân kỹ thuật 82 61,2 180 60 Số lao động phổ thông 11 8,2 20 6.7 Tổng số 134 100 300 100 Thứ năm là : Máy móc thiết bị của Công ty chủ yếu nhập từ nước ngoài như: Thuỷ Điển, Đức, Nga …do đó phụ thuộc vào nước ngoài về vấn đề công nghệ, khả năng nhập các thiết bị cũ là có thể vì trình độ thẩm định của cán bộ nước ta còn hạn chế. Bên cạnh đó, Công ty chưa đủ điều kiện để mua sắm máy móc thiết bị chuyên sâu, tăng tính cạnh tranh, độc quyền công nghệ. Trên đây là những thuận lợi và khó khăn cơ bản của Công ty COMICO. JSC, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả SXKD của Công ty, nhưng với những nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên, Công ty vẫn thu được các kết quả đáng khích lệ. Tình hình tài chính chủ yếu của doanh nghiệp trong những năm gần đây: - Khái quát tình hình tài chính : Qua bảng cân đối kế toán ta thấy, quy mô kinh doanh của Công ty không ngừng được mở rộng, thời điểm 31/12/2003 tổng giá trị tài sản tăng 9.736.943.356 VNĐ so với thời điểm 31/12/2002, tương ứng 160.4%, đây là một bước tiến lớn trong kinh doanh, khẳng định vị thế của Công ty trên thương trường. Tính đến 31/12/2004 tổng vốn kinh doanh là 16.554.745.342 VNĐ so với năm 2003 tăng 4.47%, do Công ty chú trọng công việc thanh toán và chính sách tín dụng đối với khách hàng, từ khâu dự trữ sản xuất đến khâu thi công nên các khoản phải thu, hàng tồn kho giảm đáng kể, là dấu hiệu Công ty đang có xu hướng phát triển và ổn định. Cơ cấu vốn kinh doanh có sự thay đổi đáng kể, cuối năm 2003 vốn cố định chiếm 52.11% tổng vốn, con số này là 65.26% qua một năm hoạt động. Cho thấy Công ty chú trọng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, tăng chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh, đây là quyết sách đúng đắn, là kim chỉ nam hoạt động kinh doanh của Công ty . Mặt khác, trong những năm vừa qua tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty tương đối khả quan, nguồn vốn chủ sở hữu được bổ sung liên tục tăng lên rất nhiều và chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng nguồn vốn, thời điểm đầu năm 2004 là 41.27% và 46.51% vào cuối năm. Năm 2004 Công ty đã huy động chủ yếu vốn vay dài hạn để đầu tư mua sắm thiết bị và công nghệ mới, vay dài hạn tăng lên 2.411.173.088 VNĐ, tại thời điểm 31/12/2004 vay dài hạn của Công ty là 7.221.173.088 VNĐ. Và đến cuối năm 2004, Công ty đã giảm thiểu vay ngắn hạn 63.56% so với đầu năm và chỉ chiếm 9.85% tổng vốn kinh doanh, chứng tỏ Công ty dần dần độc lập về tài chính, giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài. Qua bảng số 4 sẽ cho ta thấy rõ hơn về kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Về kết quả kinh doanh : Công ty đã chú ý tới việc nghiên cứu nhu cầu thị trường, đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, mạnh dạn đầu tư máy móc thiết bị và công nghệ để có thể thi công các công trình có quy mô lớn, …nên doanh thu và lợi nhuận không ngừng tăng lên. Nếu doanh thu thời điểm 31/12/2003 chỉ đạt 6.871.941.440 VNĐ thì đến cuối năm 2004 đã đạt tới 10.875.764.150 VNĐ (tăng 4.003.822.710 VNĐ hay 58.26%). Về lợi nhuận trước thuế thời điểm 31/12/2003 chỉ đạt 975.017.282 VNĐ thì đến cuối 2004 tổng lợi nhuận thực hiện lên tới 1.043.997.130 VNĐ (tăng 68.979.848 VNĐ tương ứng 7.07%). Tốc độ tăng lợi nhuận thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng doanh thu do đặc tính ngành nghề kinh doanh có giá thành cao, chi phí tiền lương và vận chuyển máy móc…tương đối lớn, bên cạnh đó máy móc thiết bị mới cần phải có thời gian “làm quen” nên chưa phát huy hết công suất sản xuất. Trước tình hình đó, Công ty cần nhanh chóng có kế hoạch ổn định sản xuất, khai thác hết công suất, tính năng sử dụng của những tài sản mới được đưa vào đầu tư để đảm bảo chất lượng và thời gian thi công đúng kế hoạch, thực hiện được mục tiêu kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận. Công ty chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước, trong đó thì thuế thu nhập doanh nghiệp là chủ yếu. Nộp ngân sách nhà nước cuối năm 2004 giảm so với đầu năm là 19.686.334 VNĐ (tương ứng với 6.31%), đó là do chính sách thuế của Nhà nước có sự thay đổi cụ thể : Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp áp dụng cho năm 2003 là 32%, còn năm 2004 là 28%. Thu nhập bình quân của người lao động cũng là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng SXKD của Công ty, thu nhập bình quân đầu người một tháng năm 2003 là 1.700.000 VNĐ thì đến năm 2004 con số đó đã là 1.900.000 VNĐ (tăng 200.000 VNĐ tương ứng với 11.76%), cho thấy đời sống cán bộ công nhân viên cũng đần được cải thiện. Thu nhập của cán bộ công nhân viên ngoài tiền lương còn có các khoản tiền thưởng và phụ cấp đối với người có thành tích góp phần tăng trưởng kinh doanh, tham gia các dự án thi công ở các vùng xa xôi … Đây là chính sách khích lệ CB-CNV góp phần vào sự phát triển của Công ty. Nhìn chung, việc thực hiện chiến lược đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ hiện đại tiên tiến đã bước đầu cho những kết quả khả quan, Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc dần dần ổn định và phát triển, tạo việc làm cho CB-CNV, trúng thầu thi công nhiều dự án, đảm bảo chất lượng công trình, SXKD đem lại lợi nhuận ngày càng cao, tạo điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh. Vấn đề đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ và việc huy động vốn tài trợ cho chiến lược kinh doanh dài hạn đó đã được Công ty COMICO. JSC thực hiện như thế nào trong thời gian qua? Để tìm ra giải pháp hữu hiệu ta phải xem xét thực trạng máy móc thiết bị và công nghệ hiện nay của Công ty ra sao? 2.2 Thực trạng về tổ chức quản lý và sử dụng tài sản cố định tại Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc Trong những ngày đầu mới thành lập, Ban lãnh đạo Công ty đã nhận thấy tầm quan trọng của TSCĐ trong hoạt động SXKD nên đã mạnh dạn mua sắm các máy móc thiết bị công nghệ có công suất lớn, hiện đại và không ngừng cải tiến, mở rộng sản xuất kinh doanh cả chiều rộng lẫn chiều sâu, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá Đất nước. Tuy nhiên, do Công ty gặp khó khăn trong vấn đề huy động vốn, tìm kiếm bạn hàng, chưa có kinh nghiệm nhiều trong lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, chưa có uy tín trên thị trường nên máy móc thiết bị và công nghệ hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường. 2.2.1 Phân tích cơ cấu TSCĐ của Công ty COMICO. JSC những năm qua Theo số liệu báo cáo tài chính năm 2004 thì tính đến ngày 31/12/2004, toàn bộ TSCĐ của Công ty như sau : Nguyên giá TSCĐ : 13,361,034,815 VNĐ Giá trị hao mòn luỹ kế : 2,854,967,118 VNĐ Giá trị còn lại là : 10,506,067,697 VNĐ 2.2.1.1 Theo cách phân loại theo công dụng kinh tế TSCĐ của Công ty bao gồm nhiều loại, vì vậy để thuận tiện cho việc quản lý TSCĐ, giúp cho Ban lãnh đạo Công ty có thể xem xét tổng thể về cơ cấu đầu tư, đánh giá kiểm tra tiềm lực sản xuất, tận dụng mọi khả năng hiện có của mình, Công ty đã tiến hành phân loại TSCĐ trong Công ty theo công dụng kinh tế (bảng 5). Nhìn chung, cơ cấu TSCĐ của Công ty cổ phần xây dựng và khai thác mỏ miền Bắc là khá hợp lý, đáp ứng được yêu cầu và tính chất của đơn vị tham gia các công trình xây dựng, khai thác mỏ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34131.doc
Tài liệu liên quan