Các giải pháp hạ giá thành (giá thành sản phẩm) để nâng cao lợi nhuận tại xí nghiệp cơ điện - Vật tư

Lời nói đầu Nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng đang bước sang một thời kỳ mới với nhiều biến động và thách thức. Sự cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ diễn ra ngày càng mạnh mẽ và gay gắt. Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là làm tăng giá trị tài sản tối đa cho chủ sở hữu, hay là cố gắng làm tăng giá trị lợi nhuận cho doanh nghiệp của mình. Nếu doanh nghiệp nào không đủ sức cạnh tranh trên thị trường thì sẽ mất khả năng tồn tại và bị tiêu diệt. Xí nghiệp Cơ

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp hạ giá thành (giá thành sản phẩm) để nâng cao lợi nhuận tại xí nghiệp cơ điện - Vật tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điện - Vật tư thuộc Công ty điện lực I là một xí nghiệp mới thành lập năm 2000 trên cơ sở sáp nhập từ xí nghiệp điện Yên Phụ và xí nghiệp cung ứng vật tư. Đây là một đơn vị trẻ, lại xây dựng phát triển trong giai đoạn khó khăn chung của nền kinh tế. Vì vậy, công tác thực hiện kế hoạch giá thành và hạ giá thành sản phẩm để nâng cao lợi nhuận là mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt của xí nghiệp. Là đơn vị sản xuất, cung cấp một số sản phẩm thiết bị ngành điện và dịch vụ xây lắp điện trong khi ngành điện lực nước ta đang phát triển mạnh và có nhu cầu vật tư lớn. Vì vậy, thị trường tiêu thụ các sản phẩm này còn rất lớn. Tuy nhiên, sản phẩm của xí nghiệp Cơ điện - Vật tư phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của các đơn vị khác trong nước cũng như ngoài nước không chỉ về chất lượng mà cả về giá cả. Liên quan đến giá cả thì vấn đề hạ giá thành để tăng lợi nhuận là vấn đề bức xúc tại xí nghiệp. Chính vì vậy, sau quá trình thực tập tại xí nghiệp, em đã thực hiện nghiên cứu luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Các giải pháp hạ giá thành sản phẩm để nâng cao lợi nhuận tại xí nghiệp Cơ điện - Vật tư”. Luận văn gồm ba chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận và giá thành sản phẩm. Chương II: Thực trạng giá thành sản phẩm và lợi nhuận của xí nghiệp Cơ điện - Vật tư. Chương III: Các giải pháp hạ giá thành sản phẩm để tăng lợi nhuận tại xí nghiệp Cơ điện - Vật tư. Với luận văn này, em hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc giải quyết vấn đề hạ giá thành sản phẩm của xí nghiệp, tăng thêm lợi nhuận để xí nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả. Hà nội, ngày 6 tháng 5 năm 2003 Sinh viên Nguyễn Thị Minh Hậu Mục lục Lời mở đầu 3 Chương I: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận và giá thành sản phẩm I. Lợi nhuận của doanh nghiệp 9 1. Khái niệm 9 2. Tỷ suất lợi nhuận 10 3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận 11 4. Phân loại lợi nhuận 12 II. Giá thành sản phẩm 12 1. Khái niệm và vai trò của chỉ tiêu giá thành sản phẩm 12 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm 13 2.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 13 2.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp 15 3. Phân loại giá thành sản phẩm 16 3.1. Phân theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành 17 3.2. Phân theo phạm vi phát sinh chi phí 17 4. ý nghĩa của việc hạ giá thành để tăng lợi nhuận 19 4.1. Đối với doanh nghiệp 19 4.2. Đối với xã hội 20 III. Quan hệ giữa giá thành và lợi nhuận của doanh nghiệp 20 1. Giá thành sản phẩm là yếu tố cơ bản quyết định chi phí kinh doanh của doanh nghiệp 20 2. Giảm giá thành để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp 21 2.1. Giảm giá thành là xu hướng cơ bản để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp 21 2.2. Các biện pháp giảm giá thành sản phẩm 22 2.2.1. Giảm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 23 2.2.2. Giảm chi phí nhân công trực tiếp 24 2.2.3. Giảm chi phí sản xuất chung 25 2.2.4. Giảm chi phí tiêu thụ sản phẩm 26 2.2.5. Đầu tư dây chuyền công nghệ mới 27 2.2.6. Nâng cao chất lượng lao động 28 2.2.7. Nghiên cứu áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới 28 Chương II: Thực trạng giá thành sản phẩm và lợi nhuận tại xí nghiệp Cơ điện - Vật tư I. Đặc điểm chung về xí nghiệp Cơ điện - Vật tư 31 1. Lịch sử hình thành và phát triển 31 2. Đặc điểm về tổ chức quản lý và phân công lao động 33 3. Sản phẩm chính của xí nghiệp 35 II. Thực trạng giá thành sản phẩm và lợi nhuận của xí nghiệp Cơ điện - Vật tư 37 1. Đối tượng, phương pháp, kỳ tính giá thành sản phẩm áp dụng tại xí nghiệp Cơ điện - Vật tư 37 1.1. Đối tượng tính giá thành sản phẩm 38 1.2. Phương pháp tính giá thành sản phẩm của xí nghiệp 38 1.3. Kỳ tính giá thành sản phẩm của xí nghiệp 40 2. Việc thực hiện kế hoạch giá thành 40 2.1. Dự kiến kế hoạch 43 2.2. Kết quả giá thành kỳ thực tế (2002) 45 2.3. So sánh kỳ thực tế với kỳ kế hoạch 45 3. Các biện pháp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành của doanh nghiệp 48 3.1. Sản phẩm hòm bảo vệ 2 công tơ 48 3.2. Sản phẩm cáp AP50 56 4. Thực trạng lợi nhuận tại xí nghiệp Cơ điện - Vật tư 61 5. Nhận xét tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và lợi nhuận của xí nghiệp Cơ điện - Vật tư 63 5.1. Kết quả đạt được 63 5.2. Hạn chế và nguyên nhân 64 Chương III: Các giải pháp hạ giá thành để tăng lợi nhuận tại xí nghiệp Cơ điện - Vật tư I. Phương hướng, mục tiêu của xí nghiệp trong giai đoạn 2003 – 2010 66 1. Mục tiêu tổng quát 66 2. Mục tiêu cụ thể 66 II. Các giải pháp hạ giá thành sản phẩm để tăng lợi nhuận tại xí nghiệp Cơ điện - Vật tư 67 1. Củng cố hoạt động cung ứng nguyên vật liệu 67 2. Xây dựng định mức lao động 68 3. Điều chỉnh cách tính chi phí sản xuất chung và chi phí quản lý xí nghiệp 70 4. Giảm chi phí gián tiếp 71 5. Đầu tư máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất mới 72 6. Đào tạo đội ngũ công nhân bắt kịp với công nghệ mới 72 7. áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến 72 III. Một số kiến nghị 73 1. Đối với nhà nước 73 2. Đối với Công ty điện lực I 74 Kết luận 76 Tài liệu tham khảo 78 Chương I: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận và giá thành sản phẩm I. lợi nhuận của doanh nghiệp 1. Khái niệm Trong các doanh nghiệp, tồn tại dưới mọi hình thức sở hữu khác nhau mục tiêu cuối cùng của họ là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Để đạt được mục tiêu đó thì tối đa hoá lợi nhuận giữ một vai trò quan trọng. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp, là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp. *Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập đó từ các hoạt động đó của doanh nghiệp đưa lại. Khái niệm lợi nhuận trên bao hàm hai nghĩa là lợi nhuận lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. -Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. +Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh là khoản tiền chênh lệch giữa tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và chi phí hoạt động kinh doanh. +Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động tài chính là chênh lệch giữa doanh thu hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính. +Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động bất thường là chênh lệch giữa doanh thu hoạt động bất thường và chi phí hoạt động bất thường. Lợi nhuận trước thuế từ các hoạt động là tổng số lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. Lợi nhuận trước thuế là cơ sở để tính thuế thu nhập doanh nghiệp. -Lợi nhuận sau thuế (thu nhập sau thuế) của doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế là chênh lệch giữa lợi nhuận trước lợi nhuận trước thuế của và thuế thu nhâp doanh nghiệp. Thuế TNDN = Lợi nhuận trước thuế x Thuế suất thuế TNDN Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế – Thuế TNDN 2. Tỉ suất lợi nhuận Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không phụ thuộc rất lớn vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Nhưng nếu chỉ xét chỉ tiêu lợi nhuận để đánh giá khách quan hoạt động của doanh nghiệp là chưa đủ. Bởi vì hiệu quả kinh tế tăng thì bao gồm lợi nhuận tăng, nhưng lợi nhuận tăng thì chưa chắc đã có hiệu quả kinh tế. Ví dụ để tăng lợi nhuận gấp 2 mà tăng chi phí vốn lên gấp 10 lần là không hiệu quả. Do vậy, việc đánh giá chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp người ta phải kết hợp chỉ tiêu lợi nhuận với các chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận như tỷ suất lợi nhuận/ doanh thu, tỷ suất lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận/ tài sản, tỷ suất lợi nhuận/ giá thành… Một số chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận + Tỷ suất này nói lên trình độ sử dụng tài sản vật tư, tiền tệ của doanh nghiệp. Thông qua đó kích thích doanh nghiệp tìm những khả năng tiềm tàng, quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả cao. Nó cho biết một đồng vốn sẽ mang lại mấy đồng lợi nhuận. + Tỷ suất lợi nhuận giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ. Qua đây cho biết hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất, tiêu thụ một đơn vị sản phẩm. + Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng là một chỉ số tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ suất này nếu thấp hơn tỷ suất chung của toàn ngành cho thấy hoặc doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hơn hoặc giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao so với các ngành khác. 3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận *Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng. Nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố thuộc khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. Các nhân tố chủ quan và khách quan ràng buộc nhau và không tách rời. Ví dụ giá bán sản phẩm là nhân tố chủ quan, doanh nghiệp quyết định trên cơ sở chi phí bỏ ra và lợi nhuận mong muốn. Nhưng nếu trên thị trường giá bán thấp buộc doanh nghiệp phải hạ giá cá biệt của mình và ngược lại. *Lợi nhuận phụ thuộc điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện giao thông, vận chuyển hàng, thị trường tiêu thụ sản phẩm, thời điểm tiêu thụ khác nhau làm cho lợi nhuận giữa các doanh nghiệp cũng không giống nhau. *Ngoài ra, lợi nhuận phụ thuộc quy mô của doanh nghiệp. Quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận sẽ khác nhau. Nhưng tỷ suất lợi nhuận không phụ thuộc vào quy mô mà phụ thuộc vào công tác quản lý. Vì vậy, bên cạnh việc tăng lợi nhuận, doanh nghiệp luôn phải chú ý đến việc tăng tỷ suất lợi nhuận. Điều này nhắc nhở doanh nghiệp nên chọn đạt mức lợi nhuận mà các khả năng của mình có thể đạt tới, thích hợp với các điều kiện của doanh nghiệp như vốn, thời gian và khả năng thực hiện sản xuất kinh doanh. Đứng về phía chủ quan của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể tăng lợi nhuận thông qua việc hạ giá thành sản phẩm. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh, hạ giá thành sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. 4. Phân loại lợi nhuận Lợi nhuận đạt được của mối doanh nghiệp có thể được nhìn nhận từ hai góc độ khác nhau. Đó là từ nhà kế toán và nhà tài chính. Lợi nhuận kế toán là chênh lệch giữa thu nhập và chi phí bỏ ra để đạt được thu nhập mà không tính đến chi phí cơ hội. Lợi nhuận tài chính là chênh lệch giữa thu nhập và chi phí có tính đến chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là chi phí có thể bị mất đi nếu dùng dự án này thay cho dự án kia. Để xem xét, phân tích hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, lợi nhuận tài chính đưa lại kết quả khác quan và buộc phải tính đến. II. Giá thành sản phẩm 1. Khái niệm và vai trò của chỉ tiêu giá thành sản phẩm Nghiên cứu chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chưa cho biết lượng chi phí cần thiết để hoàn thành sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm hoặc một đơn vị sản phẩm nhất định. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, khi quyết định lựa chọn phương án kinh doanh một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải tính đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hoặc một khối lượng sản phẩm đó. Do vậy phải xác định giá thành sản phẩm. Việc nhận thức sản phẩm có nhiều góc độ: Xét trên góc độ giá trị, giá thành sản phẩm là một bộ phận của giá trị sản phẩm được biểu hiện bằng tiền bao gồm: giá trị vật tư, tư liệu sản xuất đã tiêu hao và giá trị lao động cần thiết sáng tạo ra trong quá trình sản xuất sản phẩm. Trong hạch toán, giá thành sản phẩm là những chi phí được tính vào giá thành sản phẩm sau khi đã kết thúc được quá trình công nghệ - kỹ thuật sản xuất sản phẩm theo quy trình. *Vậy, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất hoặc để sản xuất và tiêu thụ một khối lượng hay một đơn vị sản phẩm nhất định. Giá thành sản phẩm là phạm trù kinh tế chủ quan, chúng ta có thể tác động vào giá thành sản phẩm thông qua xây dựng giá thành để hạ thấp giá thành sản phẩm. 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm 2.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp *Thị trường - giá cả Trong nền sản xuất hàng hoá, mọi doanh nghiệp không thể cô lập, không liên hệ gì với thị trường. Vì vậy, tất cả hoạt động của doanh nghiệp đều chịu tác động của thị trường - giá cả. Hơn thế nữa, giá thành sản phẩm luôn chịu tác động trước nhất của thị trường - giá cả. Khi giá cả trên thị trường biến động sẽ làm cho giá thành sản phẩm biến động theo. Giả sử khi giá thành nguyên liệu, nhiên liệu… tăng lên, các chi phí về những yếu tố này sẽ trực tiếp tăng lên và làm tăng giá thành sản phẩm. Hoặc khi giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng làm cho tiền lương thực tế giảm, nó làm ảnh hưởng tới năng suất lao động và gián tiếp gây ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm. Nếu doanh nghiệp muốn đảm bảo mức tiền lương thực tế của người lao động thì phải tăng chi phí tiền lương, dẫn đến tăng giá thành sản phẩm. Thị trường cũng ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm thông qua sự phân bố các yếu tố đầu vào và mức độ cạnh tranh giữa các yếu tố này. Mọi doanh nghiệp khi hoạt động đều cần mua các yếu tố đầu vào. Nếu sự phân bổ và mức độ cạnh tranh ổn định, giúp cho việc sản xuất kinh doanh được liên tục và việc hạch toán giá thành sản phẩm cũng ổn định. Tóm lại, nhân tố thị trường - giá cả ảnh hưởng lớn tới giá thành sản phẩm thông qua quy luật cung - cầu và quy luật cạnh tranh. *Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành Mỗi ngành có một đặc điểm kinh tế - kỹ thuật riêng chi phối tới việc xác định các yếu tố trong giá thành sản phẩm cũng như quy mô của từng yếu tố đó. Đặc điểm này sẽ làm cho chi phí của từng khoản mục trong giá thành sản phẩm thay đổi khác nhau dẫn tới quy mô và cơ cấu giá thành sản phẩm trong từng ngành khác nhau. Chẳng hạn như trong các doanh nghiệp công nghiệp, chi phí cho nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn, chi phí nhiên liệu, động lực thường chiếm tỷ trọng nhỏ. Nhưng đối với các doanh nghiệp giao thông vận tải thì ngược lại. Xem xét nhân tố này giúp cho việc định hướng các giải pháp hạ giá thành sản phẩm trong từng ngành. *Sự can thiệp của nhà nước Sự can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Nó tác động tới mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp. Sự tác động của nhà nước tới giá thành sản phẩm được thể hiện trên các mặt sau: Nhà nước xây dựng lên một hệ thống các quy định tính giá thành sản phẩm. Các quy định này được cụ thể tới từng loại doanh nghiệp. Nó chỉ ra các loại chi phí được tính vào giá thành sản phẩm hoặc một tỷ lệ phí nhất định nào đó tính vào giá thành sản phẩm. Ngoài ra, nhà nước còn có quy định đối với những sản phẩm nhất định thì tiêu chuẩn định mức các yếu tố đầu vào là bao nhiêu. Những điều này có ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành sản phẩm. Chính sách thuế của nhà nước cũng ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Bởi vì thuế sẽ đánh vào các yếu tố đầu vào làm tăng chi phí dẫn tới tăng giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, nếu nhà nước thực hiện chính sách trợ giá, khuyến khích các doanh nghiệp thì có thể dẫn tới việc giảm giá thành sản phẩm. Như vậy, trong cơ chế thị trường, nhà nước có vai trò quan trọng trong việc xác định mức giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp. Tuy nhiên sự tác động này vẫn luôn đảm bảo cho doanh nghiệp được chủ động trong hoạt động cũng như quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của mình. 2.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp *Sự tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ Chúng ta đang trong một nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Những thành tựu của khoa học công nghệ ngày càng tiến bộ và được áp dụng rộng rãi. Khoa học, công nghệ và những ứng dụng của nó có tác động mạnh mẽ tới sự tồn tại của sản phẩm và đặc biệt có ảnh hưởng mạnh tới giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Hai doanh nghiệp cùng sản xuất một sản phẩm với hai công nghệ khác nhau sẽ có chi phí khác nhau. Công nghệ tiên tiến hơn thì quy trình sản xuất được khép kín, liên tục, ít gián đoạn và giảm chi phí cho thời gian chờ đợi. Vì vậy, công nghệ tốt làm giảm chi phí và tăng năng suất lao động. Việc áp dụng, đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp do đó là cần thiết và diễn ra mạnh mẽ. Nó có tác dụng lớn trong việc hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu dùng công nghệ cũ, làm giảm hiệu quả kinh tế, đẩy giá thành sản phẩm lên cao. Tuy nhiên, trong từng doanh nghiệp cụ thể, với những đặc điểm kinh tế, kỹ thuật riêng mà việc lựa chọn công nghệ không giống nhau. Bởi áp dụng khoa học công nghệ phải đồng bộ với các yếu tố lao động, quản lý kinh doanh và quản lý tài chính. *Tổ chức lao động khoa học và chiến lược sử dụng lao động Để tạo ra một sản phẩm, ngoài máy móc, thiết bị thì người lao động chiếm một vị trí quan trọng. Tổ chức lao động và sử dụng lao động trong doanh nghiệp có ảnh hưởng tới kết quả giá thành sản phẩm . Tổ chức lao động khoa học là việc phân công lao động vào từng khâu của dây chuyền sản xuất phải phù hợp với trình độ lao động, yêu cầu của dây chuyền. Khoa học ở đây còn thể hiện trong việc sắp xếp tối đa để tăng năng suất lao động, đồng thời có chế độ thời gian nghỉ ngơi đủ để tái sản xuất sức lao động. Chiến lược sử dụng lao động dựa vào việc sản xuất sản phẩm gì, công nghệ nào nhằm có kế hoạch đào tạo phát triển trình độ hoặc tập huấn cho lao động. Nhờ vậy, lao động được nâng cao chuyên môn, có công việc ổn định. Họ yên tâm làm việc và có ý thức trách nhiệm trong công việc. Tổ chức lao động khoa học và chiến lược sử dụng lao động tác động trực tiếp tới kết quả kinh tế nói chung và giá thành sản phẩm nói riêng. *Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính Dưới góc độ giá thành sản phẩm, công việc tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính sẽ giúp các bộ phận trong doanh nghiệp phối hợp chặt chẽ với nhau. Tổ chức làm cho mọi hoạt động khoa học, giảm chi phí vô ích về vật chất, thời gian và con người. Quản lý phối hợp với tổ chức để xem thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh có theo kế hoạch không. Nó có chức năng theo dõi và giám sát công việc. Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính quyết định đến sự ổn định giá thành sản phẩm cũng như mức giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. 3. Phân loại giá thành sản phẩm Việc phân loại giá thành sản phẩm dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau. Với từng tiêu thức xác định được các loại giá thành sản phẩm riêng. 3.1. Phân theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành Theo tiêu thức này , chỉ tiêu giá thành được chia ra thành giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế. *Giá thành kế hoạch là giá thành được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. *Giá thành định mức cũng là giá thành được xác định trước kỳ sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức được xác định trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng). Vì vậy giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành. *Giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm. Nó dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt hay hụt định mức chi phí trong kỳ kế hoạch. Từ đó điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp. 3.2. Phân theo phạm vi phát sinh chi phí Theo chỉ tiêu này, giá thành sản phẩm được chia ra thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ. *Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất. Nó gồm các khoản mục chi phí trực tiếp: - Chi phí vật tư trực tiếp gồm các chi phí về nguyên liệu, vật liệu và động lực tiêu dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. - Chi phí nhân công trực tiếp gồm các khoản trả cho người lao động trực tiếp sản xuất như: tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn và công nhân trực tiếp. - Chi phí sản xuất chung gồm các khoản chi phí chung phát sinh ở các phân xưởng, bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp như: tiền lương, phụ cấp trả cho nhân viên phân xưởng; chi phí vật liệu, công cụ, dụng cụ xuất dùng cho phân xưởng; khấu hao tài sản cố định; chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền ngoài các chi phí kể trên. *Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Giá thành toàn bộ sản phẩm = Giá thành sản xuất sản phẩm + Chi phí quản lý doanh nghiệp + Chi phí bán hàng Giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm: - Giá thành sản xuất của sản phẩm , dịch vụ đã tiêu thụ. - Chi phí bán hàng gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ như: tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên bán hàng, tiếp thị, đóng gói, vận chuyển, bảo quản…; khấu hao tài sản cố định; chi phí vật liệu, bao bì, dụng cụ, đồ dùng, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác bằng tiền như chi phí bảo hành sản phẩm, chi phí quảng cáo… - Chi phí quản lý doanh nghiệp gồm các chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan đến hoạt động của toàn doanh nghiệp như: tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban; chi phí vật liệu, đồ dùng cho văn phòng, khấu hao tài sản cố định dùng chung cho doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và các chi phí khác bằng tiền chung cho toàn doanh nghiệp như: lãi vay vốn kinh doanh, lãi vay vốn đầu tư của những tài sản cố định đã đưa vào sử dụng, dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, phí kiểm toán, chi phí tiếp tân, công tác phí, tiền nộp quỹ quản lý Tổng công ty và các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động theo chế độ hiện hành… Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh (lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên, nó có những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ. 4. ý nghĩa của việc hạ giá thành để tăng lợi nhuận Thực chất của việc hạ giá thành sản phẩm là việc tiết kiệm chi phí lao động sống và lao động vật hoá cho một đơn vị hay một khối lượng sản phẩm đầu ra. Nó có ý nghĩa to lớn đối với doanh nghiệp và xã hội. 4.1. Đối với doanh nghiệp *Thứ nhất, hạ giá thành sản phẩm giúp sản phẩm của doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, đẩy nhanh việc tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, môi trường hoạt động kinh doanh là mở thì sản phẩm rất phong phú và đa dạng. Để kích thích sự tiêu dùng, sản phẩm đó không chỉ có chất lượng, mẫu mã tốt mà giá thành phải dễ chấp nhận. Nếu giá bán của doanh nghiệp thấp thì tiêu thụ nhanh, tránh được việc tồn đọng hàng hoá. Nhờ vậy, doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh, giảm chi phí sử dụng vốn, tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. *Thứ hai, hạ giá thành sản phẩm sẽ trực tiếp làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi giá thành sản phẩm cá biệt của doanh nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp khác mà giá bán hàng hoá đó trên thị trường đã xác định thì doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận cá biệt cao hơn. *Thứ ba, hạ giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Vì giá thành sản phẩm giảm thì chi phí sản xuất giảm. Cũng với lượng chi phí ban đầu, nay doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất lớn hơn. Tiếp đến, giảm giá thành sản phẩm đồng nghĩa với lợi nhuận tăng, từ phần lợi nhuận mới này, doanh nghiệp có thể trích ra để đầu tư, mở rộng tái sản xuất. Vậy, hạ giá thành sản phẩm đã góp phần lớn trong việc mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp. 4.2. Đối với xã hội Trong điều kiện xã hội hiện nay, mọi nguồn lực đều có hạn. Nhiệm vụ nghiên cứu và hạ giá thành sản phẩm là tất yếu. *Giá thành sản phẩm hạ giúp cho con người có cơ hội dùng sản phẩm với giá thấp hơn, thoả mãn nhiều nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ hơn. Nhờ vậy, mức sống của con người được nâng cao. *Giá thành sản phẩm hạ làm tăng lợi nhuận. Lợi nhuận tăng thì tích luỹ cho nền kinh tế tăng. Bên cạnh đó, lợi nhuận tăng khiến cho các khoản thu ngân sách nhà nước tăng thông qua thuế và lợi tức. Nên nền kinh tế có điều kiện phát triển chiều rộng và chiều sâu. Nhìn tổng quát, hạ giá thành sản phẩm góp phần lớn vào thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. III. Quan hệ giữa giá thành và lợi nhuận của doanh nghiệp 1. Giá thành sản phẩm là yếu tố cơ bản quyết định chi phí kinh doanh của doanh nghiệp Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp ngoài giá thành sản phẩm còn có các loại chi phí khác như chi phí hợp lý hợp lệ trong thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong đó, chi phí hình thành nên giá thành sản phẩm chiếm tỷ trọng chủ yếu, cơ bản. Giá thành sản phẩm gồm những chi phí hoàn thành việc sản xuất hoặc tiêu thụ một đơn vị sản phẩm. Đó là sự tổng hợp từ khâu chuẩn bị sản xuất đến hết khâu tiêu thụ sản phẩm. Mà những chi phí này trực tiếp tạo ra thành quả, sản phẩm của doanh nghiệp. Sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất để thoả mãn nhu cầu của khách hàng, thị trường. Vì vậy, sản phẩm có vai trò quan trọng nên giá thành sản phẩm là yếu tố chi phí cơ bản của doanh nghiệp. Nó quyết định quy mô, tính hiệu quả của chi phí kinh doanh bỏ ra. Nếu chi phí này được chuyển tối đa vào giá thành sản phẩm thì sẽ tạo ra hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí hợp lý hợp lệ trong thuế thu nhập của doanh nghiệp cũng có vai trò quan trọng giúp doanh nghiệp giảm thuế thu nhập, tăng lợi nhuận sau thuế. Nhưng chi phí hợp lý hợp lệ chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong chi phí kinh doanh. Bởi những chi phí này được quy định rất chặt chẽ. Cụ thể như không được tính vào chi phí: các khoản trích trước vào chi phí mà thực tế không chi; các khoản chi không có chứng từ hoặc chứng từ không hợp pháp; các khoản tiền phạt, các khoản chi không liên quan đến doanh thu tính thuế thu nhập và thu nhập chịu thuế; các khoản chi do các nguồn vốn khác đài thọ. Do vậy, ảnh hưởng, tác động của giá thành tới chi phí kinh doanh là mạnh hơn. Giá thành sản phẩm cao thì chi phí kinh doanh lớn, giá thành sản phẩm thấp thì chi phí kinh doanh nhỏ. 2. Giảm giá thành để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp 2.1. Giảm giá thành là xu hướng cơ bản để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp Như đã biết, lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu, quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp. Nhằm đạt lợi nhuận cao nhất, doanh nghiệp luôn tìm mọi hướng khác nhau nhưng đều phải xét đến khả năng có thể của đơn vị mình. Lợi nhuận phụ thuộc vào hai yếu tố lớn là doanh thu và chi phí. Để tăng lợi nhuận thì có thể thực hiện tăng doanh thu và giảm chi phí. Nếu thực hiện tăng doanh thu, sẽ phải mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tăng sản lượng sản xuất và tiêu thụ. Đây là hướng đi có đòi hỏi các yêu cầu kèm theo có tính khách quan cao. Trước hết là yêu cầu về chất lượng sản phẩm, giá cả và thị trường tiêu thụ có nhu cầu rộng lớn, ít đối thủ cạnh tranh. Trong khi doanh nghiệp không thể điều chỉnh được thị trường mà chỉ có thể thay đổi để phù hợp với nó. Do đó, tăng doanh thu đòi hỏi vốn đầu tư lớn và thời gian dài để khởi động và đạt mức mong muốn. Đầu tư vào công nghệ sản xuất, nghiên cứu tăng chất lượng sản phẩm, thắng trong cạnh tranh mà không xét tới yếu tố giảm giá thành sản phẩm. Như vậy, sản phẩm phải có tính chất cao cấp, rất ổn định mà đối với mọi doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ phải mất thời gian tương đối dài để khẳng định vị trí sản phẩm của đơn vị mình. Nếu không, khi doanh nghiệp thực hiện giảm giá thành sản phẩm để tăng lợi nhuận, thể hiện sự đầu tư chiều sâu của mình. Đây là hướng phù hợp cho mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nó tạo tính cạnh tranh mạnh mẽ, làm lợi cho người tiêu dùng, xã hội. Có thể khẳng định giảm giá thành (giảm chi phí) là xu hướng cơ bản bởi nhiều lý do. Thứ nhất, chi phí và lợi nhuận quan hệ tỷ lệ nghịch, chi phí giảm thì lợi nhuận tăng và ngược lại. Thứ hai, yếu tố giá bán trên thị trường là xác định bởi quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Sự chênh lệch giá bán của những sản phẩm giống nhau, chất lượng tương đương là không đáng kể. Giá bán được tính theo công thức: Giá bán chào hàng tối đa = Giá thành sản phẩm + Tỷ lệ lợi nhuận mong đợi Vì vậy, có thể coi giá chào hàng là phạm trù kinh tế khách quan. Để tăng lợi nhuận thì buộc doanh nghiệp phải hạ giá thành sản phẩm. Thứ ba, xu hướng này càng trở lên cơ bản hơn vì nguồn lực lao động sống và lao động vật hoá là có hạn. Việc giảm chi phí là tất yếu, nếu không sẽ dẫn đến cạn kiệt nguồn lực, không đủ khả năng kéo dài duy trì sản xuất phục vụ nhu cầu con người. Từ những phân tích trên, để tăng lợi nhuận thì hạ giá thành sản phẩm là xu hướng cơ bản. Đây là hướng mà doanh nghiệp luôn mong muốn ngay cả khi đang thực hiện tăng doanh thu của đơn vị mình. 2.2. Các biện pháp giảm giá thành sản phẩm Để hạ giá thành sản phẩm người ta có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Tuy nhiên khái quát lại có thể chia thành hai cách là: giảm giá chi phí sản xuất kinh doanh tuyệt đối và giảm chi phí sản xuất kinh doanh tương đối. Giảm chi phí tuyệt đối được hiểu theo nghĩa với những nguồn lực hiện có, doanh nghiệp cần hết sức tiết kiệm, hạn chế tối đa những hao phí nhằm giảm chi phí tạo ra sản phẩm. Các khoản chi phí giảm kéo theo giá thành sản phẩm giảm. Giảm chi phí tương đối là sự thay đổi các nguồn lực hiện có. Doanh nghiệp tìm cách để tăng năng suất lao động với nguồn lực mới. Những nguồn lực đó là dây chuyền, công nghệ mới, đào tạo nâng cao trình độ lao động, nghiên cứu nguyên vật liệu thay thế để giảm giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm phụ thuộc vào chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm. Vậy, doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh để xác định mức chi phí , các nguyên nhân khiến chi phí cao và các biện pháp giảm chi phí. 2.2._..1. Giảm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Các khoản chi phí nguyên vật liệu thông thường là các khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm. Nếu tiết kiệm các khoản chi này sẽ có tác dụng lớn trong việc hạ giá thành sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phụ thuộc chủ yếu vào hai nhân tố là mức tiêu hao và giá nguyên vật liệu. Vậy muốn giảm tuyệt đối chi phí này nghĩa là phải giảm tuyệt đối mức tiêu hao cũng như giá nguyên vật liệu mua vào. Thứ nhất, mức tiêu hao cần được quản lý chặt chẽ. Doanh nghiệp căn cứ vào định mức tiêu hao vật tư do các cấp có thẩm quyền ban hành và tình hình cụ thể của mình để xây dựng riêng hệ thống định mức tiêu hao vật tư. Để giảm mức tiêu hao, doanh nghiệp phải tiết kiệm trong quá trình sử dụng nguyên vật liệu. Doanh nghiệp không được phép giảm định mức tạo sản phẩm kém chất lượng. Bù lại, doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch quản lý qua từng khâu luân chuyển của nguyên vật liệu. Đó là các khâu thu mua, sắp xếp, vận chuyển, bốc dỡ, cất giữ khoa học và thuận tiện, đảm bảo các điều kiện thông số kỹ thuật, tránh hư hỏng, mất mát. Trong quá trình sản xuất, nâng cao trình độ, trách nhiệm của người lao động nhằm tận dụng tối đa nguyên vật liệu, giảm thiểu lãng phí. Ngoài ra, giá trị nguyên vật liệu thu hồi để bán hoặc tái chế cũng cần được quản lý, nó sẽ làm giảm mức tiêu hao nguyên vật liệu thực tế. Thứ hai, giá nguyên vật liệu có quyết định lớn trong việc giảm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Giá nguyên vật liệu gồm nhiều loại như giá nguyên vật liệu mua ngoài, giá nguyên vật liệu tự chế, giá nguyên vật liệu thuê ngoài gia công, giá nguyên vật liệu tồn kho. Để giảm giá nguyên vật liệu, doanh nghiệp cần tìm các nguồn hàng ổn định, tạo niềm tin và gây nên mối quan hệ truyền thống đối với nhà cung cấp. Như vậy, doanh nghiệp sẽ được ưu tiên về giá. Ngoài ra, đối với những nguyên vật liệu có biến động không ổn định, theo mùa vụ thì doanh nghiệp cần có dự báo cung cầu thị trường để có kế hoạch dự trữ hợp lý, tránh tổn thất do biến động giá cả vật tư. Vậy, để giảm tuyệt đối chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, doanh nghiệp phải tìm cách giảm mức tiêu hao và giá nguyên vật liệu. 2.2.2. Giảm chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nhân công là khoản đáng kể trong giá thành sản phẩm. Giảm chi phí nhân công tuyệt đối được hiểu là việc sử dụng hiệu quả lao động và trả lương thoả đáng. Hay chính là việc thực hiện trả thù lao cho người lao động theo chất lượng và số lượng mà họ đóng góp. Chi phí nhân công trực tiếp phụ thuộc vào số lượng và năng suất lao động. Việc tăng số lượng lao động dẫn tới việc tăng chi phí là tất yếu. Vậy doanh nghiệp cần phải nghiên cứu việc tăng năng suất lao động. Mục tiêu là đảm bảo cho tốc độ tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương. Doanh nghiệp tiến hành qua các biện pháp sau: Thứ nhất, cải tiến các hình thức phân công và hiệp tác lao động bên trong doanh nghiệp, giữa các bộ phận với nhau. Việc này sẽ có liên quan đến các vấn đề sắp xếp công việc hợp lý và có hiệu quả nhất, có tính đến khả năng của mỗi người lao động, và các công việc giữa những người tham gia sản xuất. Việc phối hợp một cách hợp lý nhất giữa các khâu là làm sao phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của từng người lao động được tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ hai, tổ chức một cách hợp lý việc phục vụ nơi làm việc . Mục đích của phương pháp này là bảo đảm các điều kiện cho người lao động có thể hoàn thành một cách bình thường các chức năng của mình. Liên quan đến phương hướng này là các vấn đề bảo đảm một cách kịp thời cho công nhân đủ nguyên liệu, vật tư, công cụ…, thiết kế mặt bằng và chiếu sáng hợp lý nơi làm việc. Thứ ba, nghiên cứu và phổ biến các biện pháp và phương pháp lao động tiên tiến. Điều thực tế trong các doanh nghiệp, các công nhân cùng làm một công việc như nhau, sử dụng các thiết bị, công việc như nhau nhưng họ lại tạo ra khối lượng sản phẩm khác nhau. Nguyên nhân là do sự chênh lệch về trình độ tay nghề. Trong trường hợp này phải nhờ đến việc phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến như là một phương hướng quan trọng để tăng năng suất lao động. Thứ tư, tạo cho người lao động những điều kiện thuận lợi nhất để làm việc và nghỉ ngơi. Điều này liên quan đến các vấn đề cải tiến những điều kiện vệ sinh lao động nơi làm việc, giảm tiếng ồn trong sản xuất xuống mức bình thường… Nó biểu hiện một ảnh hưởng rất lớn đên năng suất lao động và tâm trạng người lao động. Ngoài ra, để giảm chi phí nhân công thì doanh nghiệp cần xây dựng định mức lao động. Thông qua định mức này, doanh nghiệp có chế độ thưởng phạt hợp lý giúp tăng năng suất lao động và giảm chi phí nhân công trực tiếp. 2.2.3. Giảm chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung gồm các khoản chi phí còn lại ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp phát sinh ở các phân xưởng, bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp. Để giảm chi phí sản xuất chung, doanh nghiệp phải tập trung vào giảm các chi phí sau: Thứ nhất, giảm chi phí quản lý. Trong chi phí quản lý có tiền lương của cán bộ quản lý. Nếu tiền lương cán bộ quản lý mà chiếm một tỷ trọng cao trong giá thành sản phẩm sẽ tạo nên sự bất hợp lý. Nó sẽ làm giảm động lực làm việc của các bộ phận khác trong doanh nghiệp. Thứ hai, tối thiểu các chi phí trang thiết bị phục vụ quản lý, chi phí hội họp, tránh lãng phí, rườm rà. Thứ ba, doanh nghiệp chú ý trong việc khấu hao tài sản cố định. Sự khấu hao tài sản cố định là cần thiết để thu hồi vốn, tái đầu tư tài sản cố định. Doanh nghiệp cần xác định mức khấu hao và phương pháp khấu hao hợp lý. Tóm lại, biện pháp cơ bản để giảm chi phí sản xuất chung là tăng số lượng sản phẩm sản xuất, phát huy tính hiệu quả của quy mô, làm giảm chi phí cố định trong giá thành đơn vị sản phẩm. Ngoài ra, doanh nghiệp cần tổ chức đội ngũ cán bộ quản lý một cách khoa học, gọn nhẹ, đảm bảo hiệu quả cao để giảm tuyệt đối chi phí sản xuất chung. 2.2.4. Giảm chi phí tiêu thụ sản phẩm Trong giá thành sản phẩm, ngoài chi phí sản xuất còn có chi phí tiêu thụ sản phẩm. Nó bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Về nguyên tắc, toàn bộ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp được kết chuyển cho toàn bộ sản phẩm tiêu thụ trong năm để xác định kết quả kinh doanh. Tuy nhiên, trường hợp đặc biệt, đối với những doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài, trong năm không có sản phẩm tiêu thụ hoặc doanh thu không tương ứng với chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp thì những chi phí này phát sinh trong năm được phân bổ cho sản phẩm dở dang và sản phẩm tồn kho theo tỷ lệ chi phí sản xuất dở dang và giá thành sản phẩm tồn trong kho trên mọi chi phí kinh doanh thực tế phát sinh trong kỳ. Để giảm hai chi phí này ta cũng thực hiện các biện pháp cơ bản như giảm chi phí sản xuất. Vậy để giảm giá thành sản phẩm thì hướng thứ nhất là giảm trực tiếp các chi phí kinh doanh. Nhưng hướng thứ hai cũng không kém phần quan trọng là giảm tương đối giá thành sản phẩm . 2.2.5. Đầu tư dây chuyền công nghệ mới Dây chuyền, công nghệ sản xuất không chỉ quyết định số lượng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ mà còn có vai trò quan trọng trong việc tiết kiệm các nguồn lực. Mục tiêu lựa chọn công nghệ là tìm ra một phương thức tốt nhất để đảm bảo tính hiệu quả của quá trình chuyển hoá các yếu tố đầu vào thành đầu ra mong muốn nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đảm bảo chất lượng sản phẩm cũng như chi phí hợp lý trong những điều kiện cụ thể về nguồn lực và năng lực quản trị tương ứng tại doanh nghiệp. Vì vậy, quyết định về công nghệ có ảnh hưởng lâu dài và mang tính chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp đang trong tình trạng công nghệ cũ, lạc hậu, đầu tư công nghệ mới có ý nghĩa cho việc cạnh trnah tồn tại của doanh nghiệp, giảm giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận. Để lựa chọn công nghệ hiệu quả, doanh nghiệp cần tuỳ thuộc vào đặc điểm mặt hàng và quy mô sản xuất mà lựa chọn: công nghệ gián đoạn, công nghệ sản xuất liên tục hay công nghệ sản xuất lặp lại (công nghệ sản xuất theo lô sản phẩm ). - Công nghệ gián đoạn được sử dụng khi doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng có sản lượng thấp và sản phẩm có biến động lớn hay nhu cầu của khách hàng thay đổi nhiều đối với các sản phẩm (dịch vụ) của doanh nghiệp. - Công nghệ sản xuất liên tục là quy trình công nghệ được sử dụng khi doanh nghiệp sản xuất với khối lượng sản phẩm lớn, sản phẩm ít biến đổi, tính ổn định trong cầu của sản phẩm cao. Loại công nghệ này đòi hỏi sự cân đối năng lực của các bộ phận, các công đoạn trong dây chuyền sản xuất để hoạt động nhịp nhàng, thông suốt. - Công nghệ sản xuất theo lô sản phẩm là công nghệ trung gian của hai loại trên. Nó phù hợp với doanh nghiệp có mức độ biến đổi sản phẩm vừa phải, sản lượng mỗi loại sản phẩm ở mức trung bình. Ngoài loại hình công nghệ, doanh nghiệp cũng cần phải lựa chọn công suất công nghệ phù hợp. Đó là công nghệ tận dụng tối ưu các đặc điểm của doanh nghiệp về nhân công, vật liệu, thời gian (những điều kiện quan trọng trong việc hạ giá thành sản phẩm). 2.2.6. Nâng cao chất lượng lao động Lao động giữ vai trò điều khiển dây chuyền, máy móc, thực hiện sản xuất ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Chất lượng lao động thể hiện trình độ sản xuất của doanh nghiệp và sự phát triển của doanh nghiệp. Để hạ giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần phải tăng năng suất lao động, giảm chi phí lương và các khoản thu nhập tính trên đơn vị sản phẩm. Muốn vậy, người lao động cần được đào tạo nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn. Người lao động lành nghề, làm chủ máy móc sẽ vận hành nó tối đa công suất hiệu quả. Lao động trí óc tăng và cường độ lao động chân tay giảm. Sản phẩm sản xuất ra với số lượng lớn hơn nên chi phí lương trên đơn vị sản phẩm sẽ giảm. Việc đầu tư vào người lao động thật sự là vấn đề quan trọng cho toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp nói chung và trong hạ giá thành sản phẩm nói riêng. 2.2.7. Nghiên cứu áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật mới Trong thời đại ngày nay, khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển. Những thành tựu của nó đã tạo ra những tiến bộ lớn trong nền kinh tế, xã hội của con người. Đối với lĩnh vực sản xuất, khoa học - kỹ thuật ngoài nâng cao chất lượng sản phẩm còn góp phần lớn trong việc giảm giá thành sản phẩm. Nó thể hiện thông qua việc nâng cao năng suất lao động, thay thế nguyên vật liệu mới rẻ hơn… Bởi vậy, trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải phát huy phong trào nghiên cứu sáng tạo trong công nhân viên. Doanh nghiệp cần thường xuyên tổ chức hội thảo khoa học, tổ chức các cuộc nghiên cứu nhằm hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận. Các kết quả đó sẽ phù hợp với chính doanh nghiệp, có chi phí rẻ và hiệu quả cao. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng luôn xem xét các thông tin từ bên ngoài về những thành tựu nghiên cứu mới để có thể thì áp dụng vào đơn vị của mình. Việc áp dụng khoa học - kỹ thuật đẩy nhanh hiệu quả sản xuất. Nó giúp cho doanh nghiệp có đầu vào tăng nhưng tăng chậm hơn đầu ra. Trên đây là các giải pháp chủ yếu để hạ giá thành sản phẩm. Để đánh giá kết quả hạ thông qua hai chỉ tiêu là mức hạ và tỷ lệ hạ: *Mức hạ giá thành sản phẩm được xác định theo công thức sau: *Tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm được xác định: Trong đó: là mức giảm giá thành sản phẩm kỳ so sánh là tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm tính theo đơn vị phần trăm là số lượng sản phẩm kỳ so sánh, kỳ gốc là giá thành sản phẩm kỳ so sánh và kỳ gốc là loại sản phẩm so sánh được Mức hạ giá thành và tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm áp dụng đối với các sản phẩm so sánh được. Trong doanh nghiệp, bao gồm hai loại sản phẩm là so sánh được và không so sánh được. Sản phẩm so sánh được là sản phẩm đã sản xuất qua nhiều năm, chu trình sản xuất ổn định, đã có số liệu ở từng khâu trong giá thành sản phẩm để tiện so sánh với các năm sau. Còn sản phẩm không so sánh được là loại sản phẩm mới sản xuất năm đầu hoặc đang trong quá trình sản xuất thử nghiệm, chưa ổn định nên chưa có số liệu để so sánh. Khi xem xét việc hạ giá thành sản phẩm trong kỳ cần phải xem xét cả hai chỉ tiêu trên cả về chỉ tiêu toàn bộ lẫn chỉ tiêu cá biệt. Chỉ tiêu toàn bộ là đánh giá tổng quát tình hình hạ giá thành sản phẩm của các sản phẩm trong doanh nghiệp. Cụ thể đối với mức hạ tính cho toàn bộ các sản phẩm gọi là mức hạ giá thành sản phẩm toàn bộ. Đối với tỷ lệ hạ tính cho toàn bộ sản phẩm gọi là tỷ lệ hạ bình quân giá thành sản phẩm. Chỉ tiêu cá biệt được đánh giá riêng, cụ thể cho từng loại sản phẩm của doanh nghiệp. Đối với mức hạ giá thành tính cho một loại sản phẩm thứ i nào đó gọi là mức hạ giá thành cá biệt của sản phẩm thứ i. Còn tỷ lệ hạ của sản phẩm i gọi là tỷ lệ hạ cá biệt của sản phẩm i. Như vậy, việc xem xét tình hình hạ giá thành sản phẩm của một doanh nghiệp, ta phải nghiên cứu về cả chỉ tiêu mức hạ và tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm của toàn bộ sản phẩm và của cụ thể từng loại sản phẩm. Như vậy sẽ cho cái nhìn chung cũng như chi tiết thực trạng giá thành sản phẩm. Qua đó, những đánh giá được đưa ra và tìm được những giải pháp thích hợp cho việc điều chỉnh giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng giá thành sản phẩm và lợi nhuận tại xí nghiệp Cơ điện - Vật tư I. Đặc điểm chung về xí nghiệp Cơ điện - Vật tư 1. Lịch sử hình thành và phát triển Xí nghiệp Cơ điện - Vật tư là một doanh nghiệp quốc doanh trực thuộc Công ty điện lực I. Xí nghiệp được thành lập theo quyết định 31 EVN / TCCB - LĐ ngày 27/1 2000 của Hội đồng Quản trị - Tổng Công ty Điện lực Việt Nam. Trụ sở giao dịch chính của Xí nghiệp đặt tại 11 Cửa Bắc quận Ba Đình - Hà Nội. ` Tiền thân của Xí nghiệp Cơ điện - Vật tư là nhà máy điện Yên Phụ. Nhà máy bắt đầu được tư nâng công suất phát điện lên lưới quốc gia. Ngay từ ngày đầu đi vào hoạt động, nhà máy đã khẳng định được vị trí của mình. Bằng nỗ lực của bản thân ban lãnh đạo và toàn thể công nhân, nhà máy đã khắc phục dần những khó khăn, luôn hoàn thành nhiệm vụ cơ quan chủ quản cấp trên giao. Do yêu cầu đổi mới cơ chế tổ chức quản lý sản xuất của Nhà nước, năm 1986, Bộ Điện - Than (nay là Bộ Năng Lượng) cho ngừng phát điện ở một số nhà máy có thiết bị lạc hậu, thiết kế không phù hợp. Nhà máy điện Yên Phụ nằm trong tình trạng trên. Năm 1989, nhà máy chính thức ngừng phát điện và chuyển sang lĩnh vực hoạt động mới. Nhà máy điện Yên Phụ đổi tên thành nhà máy sửa chữa Cơ điện thuộc sự quản lý của Công ty Điện lực I - Tổng công ty điện lực Việt Nam. Việc chuyển tên gọi từ Nhà máy điện Yên Phụ sang Nhà máy sửa chữa Cơ điện không chỉ đơn thuần là sự thay đổi về hình thức của một pháp nhân kinh tế mà còn là sự thay đổi về bản chất hoạt động kinh doanh của pháp nhân đó. Lúc này, nhà máy chuyển hướng kinh doanh sang các lĩnh vực như: + Sửa chữa thiết bị cơ điện: Đại tu sửa chữa các máy biến thế đến 220 KV; đại tu sửa chữa và lắp đặt máy phát điện diesel; thiết bị lò máy; động cơ điện. + Gia công cơ khí các phụ kiện phục vụ lưới điện, phần sắt trạm, hộp công tơ, phụ kiện đường dây. +Xây lắp các trạm biến áp 220 KV vá đường dây đến 35 KV. Nhà máy sửa chữa cơ điện Yên Phụ là một đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, hạch toán phụ thuộc, có con dấu riêng và được mở tài khoản tại Ngân hàng. Trải qua các bước thăng trầm trong sự phát triển của nền kinh tế và sự thay đổi trong các chính sách của nhà nước, nhà máy không ngừng thay đổi cách nghĩ cách làm, tìm ra hướng đi phù hợp cho mình trong thời kỳ mở cửa. Hiện nay, sản phẩm của nhà máy không chỉ có mặt ở thị trường trong nước mà còn vươn ra được thị trường quốc tế. Bạn hàng nước ngoài chủ yếu của nhà máy là Thái Lan và Hàn Quốc… Doanh thu của hàng xuất khẩu chiếm một tỷ trọng không nhỏ (trung bình 22,6%) trong tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng năm. Năm 2000, năm chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ đánh dấu bước ngoặt lớn nhất của nhà máy sửa chữa cơ điện Yên Phụ. Theo quyết định của hội đồng quản trị - Tổng công ty Điện lực Việt Nam, nhà máy hợp nhất với xí nghiệp cung ứng vật tư thuộc công ty điện lực I thành lập Xí nghiệp Cơ điện - Vật tư. Quy mô sản xuất kinh doanh lúc này đã được mở rộng. Xí nghiệp là một đơn vị hạch toán phụ thuộc trong công ty điện lực I, hoạt động theo sự phân cấp và uỷ quyền của công ty điện lực I. Nhiệm vụ của xí nghiệp được xác định là: Sửa chữa, cải tạo phục hồi và chế tạo máy biến áp lực. Sản xuất, chế tạo các cấu kiện và các thiết bị đo đếm điện cho lưới điện phân phối. Sửa chữa cơ - điện và các thiết bị động lực. Kinh doanh, cung ứng và bảo quản vật tư thiết bị điện. Xây lắp và sửa chưã đường dây và trạm biến áp từ 110 KV trở xuống. Mặc dù mới sáp nhập nhưng toàn thể cán bộ công nhân viên của xí nghiệp được sự quan tâm chỉ đạo của Tổng công ty và Công ty điện lực I đã có những nỗ lực ổn định sản xuất trong giai đoạn 2000 - 2002. Xí nghiệp đang chuẩn bị thực hiện những kế hoạch mở rộng sản xuất, đầu tư phát triển mạnh hơn nữa cho giai đoạn 2003 - 2010 tiếp theo. 2. Đặc điểm về tổ chức quản lý và phân công lao động Giống như các xí nghiệp nhà nước khác, xí nghiệp Cơ điện - Vật tư được cơ cấu tổ chức bao gồm từ giám đốc, các phó giám đốc, các phòng ban hành chính và các phân xưởng sản xuất, đội sửa chữa, kho chứa hàng. Khái quát cơ cấu tổ chức xí nghiệp qua sơ đồ sau: Trong đó: P2: Phòng tổ chức quản trị P3: Phòng kế hoạch P4: Phòng kỹ thuật P5: Phòng tài chính – kế toán P6: Phòng kinh doanh X2: Phân xưởng sửa chữa thiết bị điện X3: Phân xưởng cơ khí 3 X4: Phân xưởng cơ khí 4 X5: Phân xưởng động lực và vận tải Đ1: Đội xây lắp điện 1 Đ2: Đội xây lắp điện 2 K1: Kho điện 1 K3: Kho điện 3 CH: Cửa hàng Đặc điểm của xí nghiệp là đơn vị sản xuất kinh doanh nên hệ thống nhà xưởng, kho và cửa hàng chiếm số lượng lớn về lao động. Hệ thống tổ chức sau khi sáp nhập đã được tinh giảm biên chế, gọn nhẹ hơn so với trước nhiều. Mỗi bộ phận trong xí nghiệp có chức năng và nhiệm vụ riêng, cụ thể như sau: * Ban giám đốc xí nghiệp gồm 4 người: Giám đốc xí nghiệp; Phó giám đốc kỹ thuật phụ trách công tác điều hành sản xuất; Phó giảm đốc kinh doanh phụ trách công tác tiêu thụ sản phẩm; Phó giám đốc hành chính nội bộ phụ trách đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ công nhân viên. Giám đốc là người có quyền lực cao nhất trong xí nghiệp, đại diện theo pháp luật của xí nghiệp, chịu trách nhiệm trước pháp luật và công ty về mọi mặt hoạt động của xí nghiệp Cơ điện - Vật tư. Các phó giám đốc được giám đốc phân công và uỷ nhiệm quản lý một hoặc một số lĩnh vực chuyên môn. * Các phòng ban chức năng. + Phòng tổ chức quản trị: Là phòng chức năng của xí nghiệp chịu trách nhiệm giúp giám đốc quản lý công tác tổ chức bộ máy, quản lý cán bộ công nhân viên; quản lý công tác bồi huấn đào tạo; quản lý công tác thi đua khen thưởng kỷ luật; công tác lao động - tiền lương và Bảo hiểm xã hội; công tác hành chính quản trị, thanh tra, bảo vệ tự vệ, văn thư lưu trữ đánh máy và công tác y tế nhằm đáp ứng yêu cầu của xí nghiệp, công ty và đúng chủ trương của Đảng chính sách của nhà nước. + Phòng kỹ thuật: có chức năng tham mưu cho giám đốc trong việc quản lý kỹ thuật sản xuất, đổi mới công nghệ, quản lý kỹ thuật an toàn bảo hộ lao động; quản lý quy trình sản xuất, giám sát kiểm tra đảm bảo chất lượng sản phẩm, chất lượng thí nghiệm, đo kiểm, nghiệm thu, quản lý sáng kiến kỹ thuật. + Phòng kế hoạch đầu tư: Là phòng chức năng giúp giám đốc quản lý công tác kế hoạch đầu tư, điều độ kế hoạch sản xuất trong xí nghiệp. Lập kế hoạch đầu tư ngắn trung và dài hạn; tham gia giúp giám đốc ký kết hợp đồng kinh tế, chỉ đạo có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản trong xí nghiệp. + Phòng tài chính - kế toán: Là phòng chức năng giúp giám đốc quản lý công tác hành chính và tổ chức hạch toán kế toán của toàn xí nghiệp. Phòng tài chính - kế toán tham gia lập kế hoạch sản xuất kinh doanh đầu tư, lập kế hoạch cân đối tài chính tín dụng của xí nghiệp. Đồng thời thực hiện các biện pháp đảm bảo đầy đủ và ổn định nguồn tài chính cho hoạt động của đơn vị được liên tục. Tổ chức quản lý và sử dụng các nguồn vốn, quỹ hợp lý theo đúng chế độ. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước và với các đơn vị có quan hệ kinh tế, với cán bộ công nhân viên. Cùng với các phòng ban chức năng trong đơn vị tổ chức phân tích tình hình thực hiện kế hoạch đã đặt ra. Từ đó đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả xuất kinh doanh cho xí nghiệp. + Phòng kinh doanh: Tham mưu cho giám đốc trong các lĩnh vực kinh doanh vật tư thiết bị phục vụ cho các đơn vị trong và ngoài nghành; Lập kế hoạch cung ứng vật tư cho từng quý từng năm; Tiêu thụ sản phẩm do xí nghiệp sản xuất ra; Khai thác nguồn nguyên liệu vật tư cho các đơn vị trong xí nghiệp, khai thác vật tư phế liệu tồn đọng trong và ngoài nghành để phục vụ sản xuất; Thực hiện việc bảo quản, cấp phát vật tư thiết bị cho các đơn vị trong nghành, tổ chức tiêu thụ vật tư tồn đọng của xí nghiệp. Nhìn chung, cơ cấu tổ chức quản lý, phân công lao động của xí nghiệp là hợp lý. Đây là điều kiện cho xí nghiệp ngày càng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 3. Sản phẩm chính của xí nghiệp Xí nghiệp Cơ điện - Vật tư là doanh nghiệp nhà nước nằm trong các đơn vị thành viên trực thuộc Công ty điện lực I. Sản phẩm, dịch vụ chủ yếu của xí nghiệp là sửa chữa định kỳ, sửa chữa sự cố và sửa chữa lớn các máy biến áp trên lưới điện; sửa chữa và lắp đặt các thiết bị cơ điện, động lực; xây lắp, sửa chữa đường dây và trạm máy biến áp đến 110 KV; chế tạo, sản xuất một số phụ kiện của lưới điện như: cáp điện hạ thế các loại, hòm bảo vệ công tơ; tiếp nhận, bảo quản và cung ứng thiết bị tập trung của Công ty điện lực I. Tất cả các sản phẩm, dịch vụ trên của xí nghiệp đều có đặc điểm chung về thị trường tiêu thụ là cung ứng chủ yếu cho các điện lực thuộc Công ty điện lực I và một số khách hàng khác có nhu cầu. Do vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp tương đối ổn định và đều đặn. Sau đây, em xin giới thiệu về hai sản phẩm của xí nghiệp là hòm bảo vệ công tơ và cáp điện. *Hòm bảo vệ công tơ của xí nghiệp là sản phẩm được đánh giá có chất lượng cao, nhiều khách hàng và thị trường ổn định. Xí nghiệp sản xuất hai loại hòm: hòm bảo vệ hai công tơ điện một pha và hòm bảo vệ bốn công tơ điện một pha bằng vật liệu compuzit. Sản phẩm này dùng nhiều nguyên liệu ngoại nhập như hạt nhựa polime, vải mành thuỷ tinh,… Ngoài ra còn phải dùng rất nhiều vật liệu phụ khác: chổi sơn băng dính, sáp chống dính, sáp bông đánh bóng và các phụ tùng khác như: bản lề inox, đinh tán, kính trắng, bu lông, bộ móc khoá, giấy ráp,… Công nghệ sản xuất hòm bảo vệ công tơ của xí nghiệp đã cũ, lạc hậu. Xí nghiệp vẫn sản xuất theo phương pháp cắt phôi đúc còn dẻo, gây độc hại, bụi tới người lao động cũng như môi trường xung quanh. *Cáp điện được sản xuất bao gồm nhiều loại cáp hạ thế, cung cấp chủ yếu cho Công ty điện lực I. Hiện xí nghiệp đang sản xuất các loại cáp nhôm, đồng trần, nhôm đồng bọc nhựa PVC (có thể bọc đơn, bọc đôi, ba hay bốn lõi,…) và bọc qua một lớp nhôm mỏng rồi quấn lại (gọi là cáp Muller). Nguyên vật liệu chính để sản xuất cáp là nhôm, đồng, nhựa PVC. Các nguyên vật liệu phụ như: mực in, dầu kéo, ni lông, sơn, tem, băng nhôm, các chất phụ gia và hoá chất làm sạch,… Sản lượng cáp của xí nghiệp năm 2002 có giá trị sản lượng khoảng 2 tỷ đồng, năm cao nhất có thể đạt 5 tỷ đồng và có thể đạt cao hơn nữa nếu có nguồn công việc. Nguyên nhân như vậy là do xí nghiệp còn sử dụng các thiết bị tư trang tự chế, công nghệ đúc cán, kéo lạc hậu, tổn thất nhiên liệu lớn. Xí nghiệp chưa được trang bị dây chuyền đúc cán nhôm liên tục đảm bảo chất lượng IEC. Tuy nhiên, đây cũng là tình hình chung của hầu hết các cơ sở sản xuất cáp trong nước. Nhìn tổng quát sau hơn hai năm sau khi sáp nhập, xí nghiệp đẫ đi vào ổn định sản xuất kinh doanh. Theo khách quan, hoạt động sản xuất của xí nghiệp phụ thuộc lớn vào nhu cầu của Công ty điện lực I và được công ty tiêu thụ cho đa số sản phẩm. Sắp tới, xí nghiệp sẽ tiến hành cổ phần hoá. Xí nghiệp sẽ phải tự chủ cao hơn nữa trong hoạt động của mình. Sự cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt hơn giữa sản phẩm của xí nghiệp và của các đơn vị sản xuất thiết bị điện khu vực quanh Hà Nội như: công ty cơ điện Trần Phú, công ty Lioa, công ty cáp điện Hải Phòng, công ty sản xuất thiết bị điện thành viên của Tổng công ty điện lực Việt Nam. Trước những khó khăn này, xí nghiệp cần đẩy mạnh nghiên cứu để cạnh tranh, tồn tại và phát triển. Trong đó, hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận là một trong số các mục tiêu quan trọng đó. II. Thực trạng giá thành sản phẩm và lợi nhuận của xí nghiệp Cơ điện - Vật tư Do xí nghiệp sản xuất và cung ứng nhiều loại sản phẩm, dịch vụ nên em chỉ đi vào nghiên cứu sản phẩm hòm bảo vệ công tơ (hai công tơ và bốn công tơ), và cáp nhôm (kí hiệu AP50), cáp đồng hạ áp bọc hai ruột (kí hiệu M2*4). 1. Đối tượng, phương pháp, kỳ tính giá thành sản phẩm áp dụng tại xí nghiệp Cơ điện - Vật tư Để nghiên cứu giá thành sản phẩm, tìm các biện pháp hạ giá thành và tăng lợi nhuận, trước hết ta tìm hiểu đối tượng, phương pháp và kỳ tính giá thành sản phẩm của xí nghiệp. 1.1. Đối tượng tính giá thành sản phẩm Xác định đúng đối tượng là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành sản phẩm. Dựa vào đặc điểm sản xuất hộp bảo vệ công tơ và cáp của mình, xí nghiệp Cơ điện - Vật tư xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm là các sản phẩm đã hoàn thành. Vì chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm làm dở cuối kỳ có rất ít, có thể coi là không có. Sản phẩm sau khi hoàn thành sẽ được xuất xưởng nhập kho hoặc xuất thẳng ra cửa hàng của xí nghiệp. Để phù hợp với đặc điểm này, xí nghiệp xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm là sản phẩm đã hoàn thành (thành phẩm). Đơn vị tính được xác định như sau: sản phẩm hộp bảo vệ hai công tơ và hộp bảo vệ bốn công tơ điện một pha có đơn vị là hộp, cáp điện có đơn vị là kilogam hoặc mét (cụ thể với cáp AP50, cáp M2*4 là mét). Đơn vị giá thành vì thế lần lượt là đồng/hộp và đồng/mét. 1.2. Phương pháp tính giá thành sản phẩm của xí nghiệp Xí nghiệp dùng phương pháp tính giá thành sản phẩm theo khoản mục chi phí. Bởi sản xuất các sản phẩm trên trong chu kỳ ngắn, công nghệ đơn giản nên việc theo dõi khoản mục là dễ dàng. Hơn nữa, xí nghiệp có nhiều mặt hàng khác nhau, nhưng mỗi một mặt hàng lại do một phân xưởng riêng sản xuất. Ví dụ: Phân xưởng X3 chuyên sản xuất hộp bảo vệ công tơ, phân xưởng X4 chuyên sản xuất cáp điện. Vì vậy, để xác định được các khoản chi phí nguyên vật liệu, khấu hao máy móc hay chi phí quản lý rất thuận tiện. Phương tính giá thành sản phẩm theo khoản mục chi phí được áp dụng như sau: Bước 1: Xác định khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp = Định mức sử dụng nguyên vật liệu trực tiếp x Đơn giá của một đơn vị nguyên vật liệu trực tiếp Định mức sử dụng nguyên vật liệu trực tiếp áp dụng theo quy định tiêu chuẩn của Công ty điện lực I nói riêng và của ngành điện nói chung. Định mức này rất ít thay đổi. Chỉ khi có sự đổi mới công nghệ, vật liệu sử dụng thay thế thì nó mới biến đổi theo. Còn đơn giá của nguyên vật liệu được tính theo giá thị trường vào thời điểm mua nguyên vật liệu. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp gồm: +Sản phẩm hộp bảo vệ công tơ: nhựa nước polime (ngoại), vải mành thuỷ tinh, bột đá, chất đóng rắn, màu nước trắng, màu nước đen, ván gỗ ép, axeton, vải dệt kim trắng, chổi quét sơn, băng dính to, sáp đánh bóng, đá cát tròn (ngoại), bản lề, gioăng cao su, đinh tán,… +Sản phẩm cáp điện: dây nhôm, dây đồng, nhựa hạt PVC loại IC40G và SE65G, mực in, dầu kéo, ni lông, sơn, tem, băng nhôm các chất phụ gia, hoá chất làm sạch,… Bước 2: Tiền lương công nhân trực tiếp: Công nhân sản xuất ở phân xưởng X3 (sản xuất hộp bảo vệ công tơ), phân xưởng X4 ( sản xuất cáp điện) được trả theo mức lương quy định của thợ cơ khí nhóm II, bậc 4/7. Bước 3: Chi phí sản xuất chung: Chi phí sản xuất chung được tính theo tỷ lệ phần trăm so với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Tỷ lệ được trích là 6%. Chi phí sản xuất chung = Tổng chi phí trực tiếp x 6% Bước 4: Chi phí quản lý xí nghiệp: Cũng được trích bằng 4,5% so với tổng chi phí sản xuất trực tiếp cộng với chi phí sản xuất chung (hay bằng 4,5% của giá thành sản xuất sản phẩm ) Chi phí quản lý xí nghiệp = Giá thành sản xuất sản phẩm x 4,5% Bước 5: xí nghiệp phân bổ chi phí bán hàng vào giá thành đơn vị sản phẩm. Chi phí bán hàng được quản lý riêng, sau đó được phân bổ vào giá thành từng loại sản phẩm theo định mức. Bước 6: Giá thành sản phẩm được xác định bằng tổng hợp các chi phí trên để ra giá thành toàn bộ sản phẩm. Như vậy, các bước tính giá thành sản phẩm là đầy đủ trình tự theo quy định. Tuy nhiên việc xí nghiệp trích theo tỷ lệ phần trăm đối với chi phí sản xuất chung và chi phí quản lý doanh nghiệp thì đơn giản trong cách tính nhưng chưa phù hợp với khối lượng sản phẩm khác nhau. Bởi theo cách của xí nghiệp thì đây là định phí đối với giá thành đơn vị sản phẩm. Mà thực chất, những chi phí này sẽ được giảm bớt khi doanh nghiệp đã đạt và vượt điểm hoà vốn. Nếu cứ tính như vậy, khi sản lượng lớn thì giá thành sản phẩm sẽ bị nâng cao so với thực tế. 1.3. Kỳ tính giá thành sản phẩm của xí nghiệp Xí nghiệp tính giá thành sản phẩm theo tháng. Sau một tháng hoạt động sản xuất kinh doanh, giá thành được tính một lần. Như vậy vừa thuận tiện trong việc tổng kết, báo cáo đánh giá kết quả, lại vừa phản ánh kịp thời sự biến động các chi phí để tạo ra sản phẩm. 2. Việc thực hiện kế hoạch giá thành Kế hoạch giá thành có ý nghĩa quan trọng, định hướng cho việc sử dụng chiến lược giá thành và cạnh tranh phát triển sản phẩm của xí nghiệp. Kế hoạch được đặt ra thường luôn có định hướng tốt, phản ánh mục tiêu theo đuổi của doanh nghiệp nhằm hạ giá thành để nâng cao lợi nhuận. Tuy nhiên việc thực hiện được kế hoạch đến đâu lại phụ thuộc rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau. Tại xí nghiệp Cơ điện – Vật tư, trong hai năm 2001 và năm 2002, tình hình sản xuất được tập hợp qua bảng số liệu sau: Bảng 1: Đánh giá tổng hợp tình hình thực hiện giá thành sản phẩm năm 2001 và 2002 Tên sản phẩm Sản lượng Giá thành đơn vị (đồng) Hòm bảo vệ 2 công tơ 8 500 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36804.doc
Tài liệu liên quan