Các giải pháp nâng cao vai trò của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam

mục lục Phần Mở đầu 6 Chương I: Trung gian tài chính và vai trò trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 11 1.1. Khái niệm - phân loại trung gian tài chính 11 1.1.1. Khái niệm trung gian tài chính 11 1.1.2. Phân loại 11 1.2. Chức năng của trung gian tài chính 13 1.3. Vai trò của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 13 1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới vai trò của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 16 1.4.1. ảnh hưởng của môi trường kinh tế vĩ mô 1

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1854 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp nâng cao vai trò của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 1.4.2. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển thị trường tiền tệ 17 1.4.3. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển của thị trường chứng khoán 17 1.4.4. Chịu ảnh hưởng bởi các chính sách về thuế, phí, lệ phí 18 1.4.5. Chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật 19 1.5. Các hoạt động của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 20 1.5.1. Sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào quá trình thành lập công ty chứng khoán 20 1.5.2. Tham gia của các ngân hàng vào dịch vụ lưu lý chứng khoán 20 1.5.3 Tham gia của các ngân hàng đóng vai trò ngân hàng chỉ định thanh toán, ngân hàng giám sát 21 1.5.4. Tham gia của các trung gian tài chính vào bảo lãnh phát hành, đại lý phân phối chứng khoán trên Trung tâm giao dịch chứng khoán 22 1.5.5. Tham gia dịch vụ kiểm toán các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán 22 1.5.6. Tham gia của các trung gian tài chính vào việc thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm 24 Chương II: Thực trạng tham gia và vai trò của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 26 2.1 Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam 2.1 Tổng quan hệ thống trung gian tài chính Việt Nam 26 2.1.1. Các Ngân hàng thương mại 26 2.1.2. Công ty tài chính 27 2.1.3. Công ty cho thuê tài chính 29 2.1.4. Công ty bảo hiểm 30 2.1.5. Công ty kiểm toán 31 2.1.6. Quỹ đầu tư 32 2.2. Hoạt động của các trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán Việt Nam 33 2.2.1. Sự tham gia của các trung gian tài chính vào quá trình thành lập công ty chứng khoán 33 2.2.2. Tham gia của các ngân hàng vào dịch vụ lưu ký chứng khoán 34 2.2.3. Tham gia của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển vào Ngân hàng chỉ định than toán 35 2.2.4. Tham gia của các trung gian tài chính vào đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ trên Sở giao dịch chứng khoán 36 2.2.5. Tham gia dịch vụ kiểm toán các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán 37 2.3. Đánh giá vai trò điều tiết cung cầu của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam 38 2.4. Sự tác động của trung gian tài chính đến sự phát triển kinh tế Việt Nam 41 Chương III: Các giải pháp nâng cao vai trò của trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán 47 3.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 47 3.2. Giải pháp nâng cao vai trò trung gian tài chính 48 3.2.1. Các giải pháp vĩ mô 48 3.2.1.1. Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định 48 3.2.1.2. Tạo lập thị trường tiền tệ hoạt động lành mạnh, ổn định tỷ giá hối đoái và kiểm soát được lạm phát 50 3.2.1.3. Khuyến khích phát triển thị trường thông qua các công cụ tài chính, thuế, phí và lệ phí ưu đãi đối với tổ chức tham gia thị trường chứng khoán 51 3.2.1.4. Hoàn thiện môi trường pháp lý thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán 52 3.2.2. Các giải pháp cụ thể 54 3.2.2.1. Đẩy mạnh việc thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ thông qua việc thành lập công ty con trực thuộc 54 3.2.2.2. Tăng khả năng tham gia của các định chế quỹ đầu tư hiện có thông qua tái cấu trúc các mô hình quỹ đầu tư 55 3.2.2.3. Đẩy mạnh việc tham gia bảo lãnh và đấu thầu phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường chứng khoán 56 3.2.2.4. Đẩy mạnh tham gia vào dịch vụ ngân hàng lưu ký, giám sát 56 3.2.2.5. Tham gia của các định chế ngân hàng tài chính vào việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt Nam 58 3.2.2.6. Đẩy mạnh việc tham gia của các tổ chức kiểm toán vào cung ứng dịch vụ kế toán - kiểm toán và tư vấn tài chính đối với công ty niêm yết và công ty chứng khoán 62 Phần kết luận 64 I. Phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: Để thực hiện đường lối công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế bền vững và chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển. Vì vậy việc xây dựng thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã trở thành nhu cầu bức xúc và cấp thiết nhằm huy động các nguồn vốn trung, dài hạn ở trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển kinh tế thông qua chứng khoán nợ và chứng khoán vốn. Thêm vào đó, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán sẽ tạo môi trường ngày càng công khai và lành mạnh hơn. Ngày 10/7/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán cùng với Quyết định thành lập hai Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tại Hà Nội và tp.Hồ Chí Minh. Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với thị trường chứng khoán thế giới, Trung tâm giao dịch Chứng khoán tp.HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyết định số 599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng khoán tp.HCM. Ngày 08/08/2007, Sở giao dịch chứng khoán tp.HCM đã chính thức được khai trương. Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Tháng 6/2009, thị trường giao dịch chứng khoán công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCoM) bắt đầu đi vào hoạt động. Việc giao dịch tập trung nhằm tăng tính minh bạch và công khai, góp phần hạn chế việc làm giá và giả mạo chứng từ. Thị trường chứng khoán phát triển đã thu hút và phân bổ các nguồn vốn trung, dài hạn đến nơi sử dụng có hiệu quả, góp phần cùng với hệ thống ngân hàng tạo nên một hệ thống cung ứng vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Thị trường chứng khoán phát triển kéo theo sự phát triển của các tổ chức tài chính trung gian. Các công ty chứng khoán, công ty tài chính, quản lý quỹ, quỹ đầu tư, công ty kiểm toán, bảo hiểm ra đời hàng loạt phục vụ cho nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên đây vẫn chỉ là sự khởi đầu, hoạt động mang tính chất thăm dò, vì vậy trong quá trình triển khai các trung gian này vẫn còn gặp phải nhiều hạn chế, hoạt động không hiệu quả, chưa khẳng định được vị thế của mình. Nhưng không vì thế mà phủ nhận sự điều tiết cung cầu chứng khoán thông qua hoạt động của các trung gian tài chính trong thời gian qua đã góp phần đưa thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển lên một bước tiến mới so với thị trường chứng khoán quốc tế. Xuất phát từ yêu cầu trên, đề tài: “Các giải pháp nâng cao vai trò của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam” là đề tài nghiên cứu nhằm góp phần vào việc khẳng định vị thế của các trung gian tài chính trong cơ cấu, điều tiết thị trường chứng khoán và đánh giá vai trò, khả năng tham gia của các tổ chức ngân hàng-tài chính trong giai đoạn vừa qua, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức này vào thị trường chứng khoán Việt Nam. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích: - Nghiên cứu một số mô hình các trung gian trên thị trường chứng khoán quốc tế. - Đánh giá vai trò của các trung gian tài chính trong quá trình phát triển thị trường chứng khoán. - Các nhân tố ảnh hưởng tới sự tham gia của các trung gian tài chính. - Các hoạt động của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán. - Đánh giá thực trạng của các trung gian tài chính Việt Nam và hiện trạng tham gia của các định chế này vào thị trường chứng khoán. - Đánh giá vai trò điều hòa cung cầu chứng khoán thông qua hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian. - Kiến nghị một số giải pháp tham gia. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài này tập trung nghiên cứu các hoạt động chính, các kết quả đạt được, sự tham gia của trung gian tài chính từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động. Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, nên phạm vi nghiên cứu chỉ đề cập đến một số trung gian tài chính hoạt động mang tính chất trung gian trên thị trường chứng khoán, trong đó khía cạnh nghiên cứu tập trung đi sâu vào các ngân hàng thương mại và một số trung gian tài chính khác tham gia dưới hình thức cung ứng các dịch vụ tài chính và điều tiết thị trường (môi giới, tư vấn, định mức tín nhiệm, bảo lãnh phát hành, kế toán, kiểm toán. v.v..) 4. Các phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp duy vật biện chứng - Phương pháp duy vật lịch sử - Phương pháp tổng hợp - Phương pháp thống kê - Phương pháp so sánh và phân tích kinh tế 5. Kết cấu của đề tài: Tên đề tài “Các giải pháp nâng cao vai trò của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam”. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Đề tài gồm ba chương. - Chương I: Trung gian tài chính và vai trò của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán. 1.1. Khái niệm - phân loại trung gian tài chính. 1.1.1. Khái niệm trung gian tài chính. 1.1.2. Phân loại. 1.2. Chức năng trung gian tài chính. 1.3. Vai trò của các trung gian tài chính. 1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới vai trò của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán. 1.4.1. ảnh hưởng của môi trường kinh tế vĩ mô. 1.4.2. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển thị trường tiền tệ. 1.4.3. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển của thị trường chứng khoán. 1.4.4. Chịu ảnh hưởng bởi các chính sách về thuế, phí, lệ phí. 1.4.5. Chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật. - Chương II: Thực trạng tham gia và vai trò của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 2.1. Tổng quan hệ thống trung gian tài chính Việt Nam. 2.2. Hoạt động và vai trò của trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 2.3. Đánh giá vai trò của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 2.4. Sự tác động của trung gian tài chính đến nền kinh tế - Chương III: Giải pháp nâng cao vai trò trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán. 3.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam và vai trò trung gian tài chính. 3.2. Giải pháp nâng cao vai trò trung gian tài chính. 3.2.1. Giải pháp vĩ mô 3.2.2. Giải pháp cụ thể chương i: trung gian tài chính và vai trò trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 1.1 - Khái niệm - phân loại trung gian tài chính. 1.1.1. Khái niệm trung gian tài chính. Trung gian tài chính là những tổ chức làm cầu nối giữa những người cần vốn và những người cung cấp vốn trên thị trường. Trung gian tài chính, dù thuộc loại hình nào đi nữa, đều có chung một đặc điểm là phát hành các công cụ tài chính để thu hút vốn. Mức chênh lệch mà người trung gian nhận được giữa lãi suất cho vay (hay lợi tức đầu tư) với lãi suất huy động vốn chính là chi phí trung gian hay hoa hồng trung gian. Khi những người có vốn ký thác số vốn của mình vào các trung gian tài chính khoản đầu tư của họ là đầu tư gián tiếp; còn khi trung gian tài chính đầu tư số vốn này, khoản đầu tư đó là đầu tư trực tiếp. 1.1.2. Phân loại. Các tổ chức trung gian tài chính gồm ba nhóm chính: - Các tổ chức nhận tiền gửi (ngân hàng) - Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng - Các trung gian đầu tư. a/ Các tổ chức nhận tiền gửi: Đây là các tổ chức tài chính trung gian lớn nhất trên thị trường tài chính xét theo phạm vi hoạt động và khả năng về vốn. Các tổ chức này huy động vốn bằng cách mở tài khoản séc và tài khoản tiết kiệm cho khách hàng, đồng thời sử dụng số vốn huy động được để cho vay theo nhiều hình thức khác nhau hoặc đầu tư vào chứng khoán. Thu nhập của các tổ chức này đến từ hai nguồn: thu nhập từ các khoản cho vay và mua chứng khoán; và thu nhập từ các khoản phí. Các tổ chức hận tiền gửi bao gồm các ngân hàng thương mại, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm và các liên hiệp tín dụng. b/ Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng như công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí là các trung gian tài chính huy động vốn dựa trên cơ sở hợp đồng theo định kỳ. Các tổ chức này có thể dự đoán tương đối chính xác khoản tiền họ sẽ thanh toán trong những năm tới nên không phải lo lắng về việc thiếu vốn như các tổ chức nhận tiền gửi. Do đó, các tổ chức này có thể đầu tư các loại chứng khoán dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu công ty, các khoản cho vay cầm cố. Công ty bảo hiểm Công ty bảo hiểm là những trung gian tài chính đảm bảo nhận việc thực hiện một khoản thanh toán mỗi khi có một sự kiện xảy ra, với một khoản đóng góp trước đó của người muốn thụ hưởng quyền lợi này. Công ty bảo hiểm huy động vốn từ các khoản đóng góp của những người tham gia hợp đồng bảo hiểm và sử dụng phần lớn số tiền huy động được để mua trái phiếu. Các công ty bảo hiểm cũng có thể đầu tư vào cổ phiếu song số lượng rất hạn chế vì họ lo ngại rủi ro cao của cổ phiếu. Thu nhập của công ty bảo hiểm chủ yếu là các khoản phí, ngoài ra còn có các khoản lợi tức đầu tư từ các công cụ tài chính. Quỹ hưu trí Quỹ hưu trí được thiết lập để thanh toán những khoản lợi ích của những người lao động khi họ về hưu. Thành lập ra những quỹ này là các doanh nghiệp tư nhân; các cơ quan nhà nước hoặc địa phương; các nghiệp đoàn lao động nhân danh thành viên của mình, và cuối cùng là các cá nhân có nhu cầu. Đặc điểm của quỹ này là nó liên quan đến việc đầu tư vào một tài sản rất kém tính thanh khoản, đó là hợp đồng về tiền hưu trí. Tài sản này không được đem sử dụng, dù chỉ là để thế chấp cho một khoản vay cho đến khi về hưu. Tuy nhiên, lợi thế của các quỹ này là các khoản đóng góp của các ông chủ, và một khối lượng nhất định đóng góp của người lao động, cũng như thu nhập từ tài sản của quỹ, được phép đóng thuế chậm. Về thực chất, quỹ hưu trí là một hình thức trả công của ông chủ mà người làm công không bị đánh thuế cho đến khi rút số tiền này. Nó có tác dụng khuyến khích những người làm công ở lại với doanh nghiệp. c/ Các trung gian đầu tư Các trung gian đầu tư bao gồm các công ty tài chính, quỹ tương hỗ và quỹ tương hỗ thị trường tài chính. Công ty tài chính Công ty tài chính huy động vốn bằng cách bán các thương phiếu hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Sau đó, công ty sử dụng số vốn này cho người tiêu dùng vay để mua sắm nhà cửa, trang thiết bị xa hơi... Một số công ty tài chính được một công ty mẹ thành lập để bán tài sản của công ty mình. Chẳng hạn, công ty tín dụng Ford có thể cho khách hàng vay để mua ôtô Ford. Quỹ tương hỗ Đây là một loại hình trung gian tài chính, huy động vốn bằng cách bán chứng chỉ quỹ cho các cá nhân và dùng vốn đó để đầu tư vào danh mục cổ phiếu và trái phiếu đã được da dạng hóa. Các quỹ tương hỗ thường được quản lý bởi một công ty quản lý quỹ. Một công ty quản lý quỹ có thể quản lý nhiều quỹ khác nhau để đa dạng hóa đầu tư do mỗi quỹ thường chỉ tập trung đầu tư vào một số loại chứng khoán nhất định. Quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ Thể chế tài chính tương đối mới này mang các đặc trưng của quỹ tương hỗ nhưng được phép mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng. Giống như hầu hết các quỹ tương hỗ, tổ chức này được phép bán cổ phiếu để huy động vốn đồng thời sử dụng số vốn này để mua các công cụ an toàn và có tính thanh khoản cao trên thị trường tiền tệ. Lãi suất của các tài sản này sẽ được thanh toán định kỳ cho cổ đông. Trên đây là một số loại hình trung gian tài chính phổ biến. Mặc dù phương thức hoạt động cụ thể của tổ chức này là khác nhau song chúng thể hiện rất rõ vai trò trung gian tài chính được đề cập dưới đây. 1.2. Chức năng của trung gian tài chính. 1.3. Vai trò của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán. Các trung gian tài chính là một phần của hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính bao gồm một mạng lưới các thị trường tài chính, tiền tệ, các định chế, các doanh nghiệp, công chúng và nhà nước tham gia trong hệ thống đó và điều tiết hoạt động của nó. Cầu nối tài chính giữa người cho vay và người sử dụng vốn. Chức năng nền tảng của các trung gian tài chính là chuyển những khoản tiền từ người cho vay đến người đi vay. Những tổ chức, cá nhân có các khoản thu nhập dư thừa có thể cho các cá nhân, tổ chức khác trong hệ thống tài chính vay. Các cá nhân, tổ chức và chính phủ thiếu hụt vốn cho các khoản chi phí và đầu tư phát triển có thể vay, huy động vốn thông qua hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính và các trung gian tài chính là kênh chuyển các khoản vốn của cá nhân, tổ chức dư thừa vốn sang các cá nhân tổ chức thiếu vốn. Trong các nền kinh tế định hướng thị trường ngày nay thì hầu hết tiền tiết kiệm của các cá nhân lưu chuyển thông qua hệ thống tài chính đến người sử dụng vốn chính là các doanh nghiệp và chính phủ. Thông qua các trung gian tài chính, người cho vay và người sử dụng vốn đều được thoả mãn các yêu cầu về tài chính bên cạnh đó người cho vay được đảm bảo an toàn đối với khoản tiền của họ và người đi vay có thể nhận được khoản tiền họ cần một cách nhanh chóng cho các nhu cầu sử dụng vốn của họ. Người cho vay muốn thông qua các trung gian tài chính vì họ giảm thiểu đối với các rủi ro không được thanh toán, tính thanh khoản cao, nhà đầu tư có số tiền dư thừa nhỏ cũng có thể tham gia và sự thuận tiện được cung cấp dịch vụ bởi một trung gian tài chính tại địa phương. Giảm thiểu rủi ro trên cơ sở đa dạng hoá đầu tư. Các trung gian tài chính còn tham gia vào việc tập trung rủi ro và lợi dụng quy mô hoạt động của họ. Khi đầu tư vào các khoản cho vay và các tài sản khác có mang tính đa dạng về rủi ro và lợi nhuận thì sự đa dạng đó sẽ nâng cao tính an toàn của nguồn vốn do nhà đầu tư cung cấp. Hầu hết các nhà đầu tư nhỏ không thể nào phân tán đúng mức việc sử dụng các khoản tiền vào nhiều loại đầu tư khác nhau. Tuy nhiên, một trung gian tài chính có thể tập hợp các khoản tiền phân tán của nhiều nhà đầu tư nhỏ và phân bổ một cách có hiệu quả vào nhiều danh mục khác nhau, do đó giảm thiểu rủi ro cho tất cả mọi nhà đầu tư. Các trung gian tài chính thông thường sử dụng nguồn vốn huy động nhằm cho vay và đầu tư chứng khoán. Khi nhận thấy nhu cầu về tín dụng mạnh thì họ có thể đầu tư ít vào chứng khoán, và sẽ bán số chứng khoán đã đầu tư trước đó để tạo vốn cho vay mới. Còn khi mức cầu tín dụng thấp đi, các định chế tài chính sẽ tăng mức đầu tư vào chứng khoán nhằm tăng thu nhập, tránh thuế, phân tán rủi ro, và tính thanh khoản của chứng khoán đầu tư. Giảm thiểu chi phí hợp đồng và chi phí xử lý thông tin. Khi các trung gian tài chính phát triển về quy mô thì phí hoạt động theo đơn vị có thể thấp hơn và có thể giảm phí dịch vụ ngân hàng, tài chính cung cấp cho công chúng. Nhà đầu tư thường không có thời gian và nghiệp vụ để nắm bắt những thay đổi của thị trường và cũng không thể tiếp cận thông tin liên quan về các điều kiện của thị trường và cơ hội đầu tư. Các trung gian tài chính sử dụng năng lực của mình để thu thập và xử lý thông tin từ thị trường tài chính thay cho nhà đầu tư. Nhằm thu nhập thông tin đầy đủ về người đi vay, các trung gian tài chính phải tiêu tốn đáng kể về thời gian, vốn và nghiệp vụ- những nguồn lực mà những nhà đầu tư nhỏ và ngay cả một số nhà đầu tư lớn không có được. Ngày nay, các trung gian tài chính không những chỉ thực hiện chức năng quan trọng là thu thập thông tin về người đi vay và xác định độ tín nhiệm, mà còn giám sát điều kiện và việc chấp hành của người đi vay để đảm bảo rằng họ tuân thủ các điều khoản của hợp đồng tín dụng và tiếp tục giữ vững uy tín. Bên cạnh đó, thông tin về người đi vay được trao đổi giữa các trung gian tài chính, do đó người đi vay có thể tìm kiếm thêm vốn đầu tư từ các trung gian tài chính khác trên thị trường. Cung cấp một cơ chế thanh toán. Trong hệ thống tài chính ngân hàng của một quốc gia, các trung gian tài chính thông qua một trung tâm bù trừ trung ương cung cấp dịch vụ thanh toán cho toàn xã hội. Hệ thống bù trừ giữa các ngân hàng giải quyết các giao dịch trong một giai đoạn xác định và chỉ thanh toán các khoản tiền ròng cần thiết để quyết toán các khoản thu chi giữa các ngân hàng. Cơ chế thanh toán mà hệ thống tài chính ngân hàng cung cấp cho xã hội cho phép giảm bớt chi phí, đảm bảo an toàn cho việc thực hiện các giao dịch. Thông qua mạng lưới rộng khắp của mình, hệ thống tài chính ngân hàng cho phép việc thực hiện thanh toán một cách nhanh nhất trên phạm vi toàn thế giới. 1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới vai trò của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán. 1.4.1. ảnh hưởng của môi trường kinh tế vĩ mô. Một nền kinh tế phát triển ổn định: kinh nghiệm các nước cho thấy môi trường kinh tế vĩ mô có tác động vô cùng quan trọng tới sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán từ đó tác động mạnh mẽ tới sự tham gia của các trung gian vào sự phát triển của thị trường chứng khoán. Sự ổn định về chính trị và tăng trưởng kinh tế là yếu tố rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó cũng phải chú ý đến vấn đề tập quán, thói làm ăn nhỏ manh mún của phần lớn công chúng qua đó mà có những tác động định hướng, tạo sự hiểu biết mới, hình thức đầu tư mới để công chúng quen dần và coi đó là một hình thức đầu tư có thể thực hiện được với bất cứ ai có vốn, có ý muốn đầu tư. Không những thế còn phải duy trì tốc độ tăng trưởng, lạm phát được kiểm soát, giá trị đồng nội tệ và mức lãi suất được bình ổn mới tạo được sự tin tưởng của các nhà đầu tư và của người dân khi đầu tư vào chứng khoán. Ngược lại khi nền kinh tế có những biểu hiện sa sút, mất ổn định sẽ ảnh hưởng rất mạnh đến khả năng sinh lời của việc đầu tư chứng khoán, các nhà đầu tư sẽ dừng hoạt động đầu tư vào chứng khoán và như vậy số lượng đầu tư giảm làm cho thị trường chứng khoán hoạt động kém hiệu quả và có thể đi đến phá sản. Thực tế đã chứng minh rằng nhân tố đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ của các thị trường mới nổi trong những thập kỷ qua, ở phần lớn là các nước đang phát triển có sự kết hợp linh hoạt giữa định hướng phát triển nền kinh tế thị trường với vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước trong hoạt động của thị trường chứng khoán. Các chính sách kinh tế vĩ mô cơ bản tác động tới tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, thông qua đó tác động tới tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô (kiểm soát lạm phát và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế), tạo công ăn việc làm. Sự phát triển của một nền kinh tế sẽ tác động trực tiếp đến sự phát triển các dịch vụ cung ứng trên thị trường chứng khoán cả về số lượng và chất lượng. 1.4.2. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển thị trường tiền tệ. Thị trường tiền tệ là thị trường của các công cụ nợ ngắn hạn thường dưới một năm. Thị trường tiền tệ tạo tính thanh khoản cho các công cụ nợ giao dịch trên thị trường và đáp ứng nhu cầu huy động vốn ngắn hạn để chi tiêu trong khi chưa cân đối được ngân quỹ của Chính phủ và các tổ chức kinh doanh. Chính phủ phát hành tín phiếu Kho bạc bù đắp những thiếu hụt tạm thời của ngân sách và cung cấp tài chính cho các khoản chi tiêu trong chương trình kế hoạch; các công ty và ngân hàng thương mại phát hành giấy tờ thương mại để có nguồn tài chính tận dụng các cơ hội thu lợi nhuận. Thị trường tiền tệ luôn song song tồn tại với thị trường vốn cụ thể là thị trường chứng khoán. Hai thị trường này có mối quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau, tạo ra một cơ chế tài chính hoàn thiện hơn đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho các tổ chức phát hành. Đồng thời việc song hành hai thị trường tạo ra một thị trường tài chính ổn định và hoàn thiện cho quốc gia, có ý nghĩa không chỉ đối với Chính phủ mà còn cả với các tổ chức tài chính cũng như các tổ chức kinh doanh. Thị trường tiền tệ cung cấp cơ hội huy động vốn ngắn hạn trong khi thị trường chứng khoán lại tạo cơ hội huy động vốn dài hạn cho các tổ chức phát hành, mở ra một cơ chế hoàn chỉnh cho mọi tổ chức khi tham gia vào thị trường. Chính mối quan hệ chặt chẽ giữa hai thị trường nên sự phát triển của thị trường tiền tệ cũng có ý nghĩa hoàn thiện thị trường chứng khoán. 1.4.3. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển của thị trường chứng khoán. Như một quy luật có tính phổ biến ở nhiều nước trên thế giới ở đâu có thị trường chứng khoán phát triển thì ở đó hệ thống các tổ chức trung gian tài chính phát triển, ngược lại ở đâu có cạnh tranh các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính sôi động thì ở đó giao dịch trên thị trường chứng khoán cũng sôi động. Thị trường chứng khoán phát triển làm cho môi trường đầu tư phát triển và các trung gian tài chính có nhiều cơ hội đầu tư hơn. Sự tham gia của trung gian vào thị trường chứng khoán như: tham gia là tổ chức lưu ký, bảo lãnh phát hành, đại lý phân phối chứng khoán, Ngân hàng chỉ định thanh toán… sự tham gia đó đem lại cho các định chế này những khoản phí và lệ phí thu về nhất định, thị trường càng phát triển thì khoản này thu được càng lớn. Bên cạnh đó sự phát triển của thị trường chứng khoán làm cho các công cụ huy động vốn của các tổ chức này như trái phiếu, cổ phiếu giấy chứng nhận tiền gửi… có môi trường giao dịch từ đó tạo khả năng thanh khoản cao cho các công cụ này và đảm bảo cho các tổ chức này có khả năng huy động vốn nhanh và rẻ hơn. Với một thị trường phát triển sôi động và ổn định sẽ thúc đẩy các trung gian tham gia tích cực hơn bởi lợi ích của việc tham gia thị trường chứng khoán đem lại là rất lớn, nó sẽ khẳng định vị thế và uy tín đối với thị trường từ đó có thể đem lại được lợi nhuận lớn nhất cho mình. 1.4.4. Chịu ảnh hưởng bởi các chính sách vế thuế, phí, lệ phí. Trong việc thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô, thuế được Chính phủ sử dụng như một công cụ quan trọng tác động lên toàn bộ quá trình phát triển của nền kinh tế. Thông qua chính sách thuế Chính phủ thực hiện chính sách ưu đãi khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển của các ngành nghề lĩnh vực theo từng vùng lãnh thổ trong nền kinh tế quốc dân. Về phí đây là khoản tiền mà các chủ thể tham gia thị trường phải đóng góp cho Nhà nước. Ví dụ: phí thành viên, phí lưu ký… Lệ phí đây là khoản tiền mà tổ chức phải nộp cho Nhà nước để nhận được các giấy phép cần thiết cho hoạt động của mình. Chính sách thuế, phí và lệ phí có tác dụng lớn trong việc khuyến khích các trung gian tài chính tham gia, nếu có một chính sách thuế hợp lý sẽ thúc đẩy các tổ chức trung gian tham gia tích cực hơn bởi khi đó lợi ích mang lại sẽ nhiều hơn. Đặc biệt ở các thị trường chứng khoán mới nổi chính sách này có tác dụng rất lớn. Về thuế các công ty chứng khoán là một trong những đối tượng được hưởng ưu đãi thuế nhiều nhất. Như ở Việt Nam các công ty được miễn thuế giá trị gia tăng, đối với các hoạt động kinh doanh chứng khoán được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm đầu tiên và 50% trong 2 năm tiếp theo. Để có thể thu hút được các trung gian tham gia vừa với tư cách nhà cung ứng các dịch vụ vừa với tư cách nhà đầu tư cần có một chính sách thuế rõ ràng và thống nhất để các tổ chức này có chính sách hợp lý và yên tâm khi tham gia, chính sách thuế, phí, lệ phí phù hợp với sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ là đòn bẩy tích cực, là động lực thúc đẩy các trung gian tài chính tham gia. 1.4.5. Chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp lý sẽ là công cụ không thể thiếu để duy trì cho thị trường chứng khoán hoạt động nhịp nhàng, lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng phát triển. Muốn có một thị trường chứng khoán ổn định phải có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh. Tính ổn định của thị trường chứng khoán nói lên sự thành công của thị trường. Hệ thống pháp luật quyết định tới việc tham gia của các trung gian tài chính vào các loại hình dịch vụ nào. Hệ thống pháp luật thống nhất và đồng bộ sẽ tạo môi trường ổn định, các chủ thể tham gia có sự phân định rõ ràng về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn sẽ giảm bớt sự chồng chéo về thủ tục hành chính, các chủ thể tham gia sẽ không bị chi phối bởi nhiều quy định, nhiều loại luật và quy định. Không phải bất kỳ tổ chức nào muốn tham gia thị trường là có thể tham gia được. Nó phải đảm bảo những quy định bắt buộc của cơ quan quản lý. Hệ thống pháp luật của mỗi nước sẽ quy định việc tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường. 1.5. Các hoạt động của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán. 1.5.1 Sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào quá trình thành lập công ty chứng khoán. Ngân hàng thương mại là đối tượng có rất nhiều thuận lợi trong việc tham gia thành lập công ty chứng khoán trong giai đoạn hiện nay. Với thế mạnh đặc biệt về tiềm lực tài chính, hầu hết các ngân hàng đều không gặp khó khăn đối với việc đáp ứng các yêu cầu về vốn pháp định trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mặt khác, hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp và nền tảng khách hàng sẵn có cũng là một ưu thế vô cùng quan trọng cho các ngân hàng trong việc triển khai và mở rộng phạm vi hoạt động của các công ty chứng khoán sau này. Việc chuẩn bị điều kiện nhân sự cũng được sự hỗ trợ hết sức thuận lợi từ phía ngân hàng mẹ, phần lớn nhân sự của các công ty chứng khoán hiện nay là các cán bộ có kinh nghiệm điều chuyển từ ngân hàng sang, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Bản thân các ngân hàng – vốn là những tổ chức tín dụng có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, cũng sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc triển khai và mở rộng phạm vi kinh doanh sang một lĩnh vực tài chính mới với nhiều nội dung hoạt động tương đồng. Các ngân hàng có thể thành lập theo mô hình đa năng toàn phần hay chuyên doanh. Tuy nhiên, việc tham gia của các ngân hàng thương mại vào thành lập công ty chứng khoán tham gia thị trường chứng khoán cũng có bước đi và lộ trình khác nhau tuỳ theo điều kiện mỗi nước. 1.5.2 Tham gia của các ngân hàng vào dịch vụ lưu ký chứng khoán. Thành viên lưu ký là một tổ chức được phép cung cấp các dịch vụ về lưu ký chứng khoán cho khách hàng, thay mặt khách hàng nắm giữ chứng khoán ký gửi, đảm bảo mọi quyền lợi phát sinh đối với chứng khoán và tái lưu ký các chứng khoán ký gửi của khách hàng vào trung tâm lưu ký. Thành viên lưu ký chủ yếu là các công ty chứng khoán, ngân hàng lưu ký thương mại được cấp giấy phép hoạt động. Khách hàng của các thành viên lưu ký không chỉ là các tổ chức cá nhân đầu tư trong nước, mà còn là các tổ chức, cá nhân đầu tư nước ngoài sinh sống và làm việc tại nước sở tại, các nhà đầu tư quốc tế tham gia vào thị trường chứng khoán nước sở tại lưu giữ bảo quản chứng khoán cho mình, tái lưu ký này vào Trung tâm lưu ký chứng khoán. Tại những nước đó, mối quan hệ uỷ thác này được thực hiện trên cơ sở các hợp đồng pháp lý. Do thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ lại đối với các tổ chức lưu ký toàn cầu, các thành viên lưu ký nước sở tại còn được gọi là các tổ chức lưu ký phụ. Các tổ chức._. được phép trở thành thành viên lưu ký là các tổ chức đáp ứng được các điều kiện về mức vốn, điều kiện về uy tín, điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, khả năng quản lý chứng khoán cho khách hàng, thực hiện việc đóng góp, thực hiện việc báo cáo và chịu sự quản lý, giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và của các tổ chức điều hành hệ thống. Mỗi nước sẽ có các qui định cụ thể đối với các tổ chức đủ điều kiện trở thành thành viên lưu ký. 1.5.3. Tham gia của các ngân hàng đóng vai trò ngân hàng chỉ định thanh toán, ngân hàng giám sát. Ngân hàng chỉ định thanh toán là ngân hàng thương mại lớn, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ định để mở tài khoản thanh toán cho trung tâm giao dịch và thành viên lưu ký để phục vụ cho việc thanh toán các giao dịch. Việc thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán được thực hiện bằng hình thức chuyển khoản của thành viên lưu ký và trung tâm giao dịch mở tại ngân hàng chỉ định thanh toán. Thanh toán bù trừ là khâu cuối cùng để hoàn tất các giao dịch chứng khoán sự tham gia của ngân hàng chỉ định thanh toán góp phần thúc đẩy quá trình thanh toán bù trừ nhanh và chính xác. Ngân hàng giám sát: để cho một quỹ đầu tư hoạt động có hiệu quả đặc biệt là quỹ đầu tư chứng khoán cùng với công ty quản lý quỹ. Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát công ty quản lý quỹ nhằm bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư. 1.5.4. Tham gia của các trung gian tài chính vào bảo lãnh phát hành, đại lý phân phối chứng khoán trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Bảo lãnh phát hành là một trong những lĩnh vực hoạt động của các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại các công ty tài chính trên cơ sở việc thoả thuận mua bán chứng khoán để bán lại hoặc bán chứng khoán thay mặt người phát hành hay chủ sở hữu, các hình thức bảo lãnh: bảo lãnh với cam kết chắc chắn, bảo lãnh theo phương thức dự phòng, bảo lãnh với cố gắng cao nhất, bảo lãnh tối thiểu – tối đa. Bảo lãnh phát hành giúp các tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu phát hành. Tổ chức bảo lãnh chính có thể lập các tổ hợp bảo lãnh để giảm thiểu rủi ro và có thể xác định được các đối tượng tham gia đầu tư vào tổ chức phát hành. Đại lý phân phối là các công ty mà tổ chức bảo lãnh chính dành chứng khoán cho họ để họ phân phối. Tổ chức bảo lãnh mua chứng khoán trực tiếp từ tổ chức phát hành còn đại lý phân phối mua chứng khoán từ tổ chức bảo lãnh chính hoặc tổ chức bảo lãnh thành viên và bán lại các chứng khoán đó. Đại lý phân phối không đóng vai trò của tổ chức bảo lãnh vì vậy không chịu các rủi ro nếu đợt phát hành không thành công. 1.5.5. Tham gia dịch vụ kiểm toán các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán. Như đã biết, nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán là tính công khai minh bạch nên kiểm toán trở thành một yêu cầu không thể thiếu đối với hoạt động thị trường chứng khoán. Đặc biệt là tổ chức niêm yết, nơi phát hành ra các chứng khoán giao dịch trên thị trường. Việc ra quyết định mua, hoặc bán chứng khoán nào đó, do nhà đầu tư quyết định trên cơ sở phân tích các báo cáo kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp. Với tư cách là một tổ chức độc lập, các tổ chức kiểm toán tiến hành kiểm tra và xác nhận tính đúng đắn, hợp lý của các báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán, từ đó đảm bảo các báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán được công bố công khai ra công chúng là trung thực, hợp lý và minh bạch, góp phần bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán được hình thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Chính vì lẽ đó trong lĩnh vực chứng khoán, việc qui định các báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán phải được xác nhận bởi một tổ chức kiểm toán độc lập đã trở thành thông lệ quốc tế. Vai trò của kiểm toán được thể hiện rõ nét thông qua tính chuyên nghiệp và quyền đưa ra các đánh giá về “chất lượng” của các báo cáo tài chính. Với tư cách là tổ chức độc lập, các tổ chức kiểm toán tiến hành kiểm tra và xác nhận tính đúng đắn, hợp lý và hợp pháp của các báo cáo tài chính, từ đó đảm bảo các báo cáo tài chính công bố ra công chúng là trung thực và minh bạch. Chính vì lẽ đó, qui định kiểm toán bắt buộc đối với các báo cáo tài chính của tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán đã trở thành thông lệ quốc tế. Mức độ công khai hoá của thị trường càng cao, vai trò của tổ chức kiểm toán độc lập càng được đề cao và là một yếu tố không thể thiếu trong cấu trúc thị trường. Kiểm toán là một yếu tố không thể thiếu giúp củng cố niềm tin đối với các hoạt động trên thị trường chứng khoán. Các tổ chức kiểm toán còn phải đáp ứng được các yêu cầu theo quy định của từng nước như về vốn pháp định, số lượng kiểm toán viên tối thiểu trong công ty và số lượng khách hàng hàng năm v.v.. 1.5.6. Tham gia của các trung gian tài chính vào việc thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm. Các công ty định mức tín nhiệm đóng vai trò nổi bật trong thị trường chứng khoán mới nổi cũng như thị trường chứng khoán phát triển. Do nhu cầu cấp thiết để phát triển một thị trường trái phiếu và thị trường tiền tệ nhiều biến động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn trong tương lai, vai trò của các tổ chức định mức tín nhiệm ngày càng có vai trò hết sức quan trọng. Thông thường, các công ty định mức tín nhiệm thành công hơn khi sự tự do hoá thị trường tài chính gây áp lực đến thị trường và quyết định của tư nhân đóng vai trò lớn trong việc tham gia vào thị trường chứng khoán. Việc tiêu chuẩn hoá các thông tin tài chính về các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ tạo điều kiện cho việc so sánh của các nhà phát hành và thống nhất hơn trong việc đánh giá các công ty có mức độ rủi ro như nhau. Việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm cần phải đầu tư lớn về tài chính và có hiểu biết nhất định về kỹ thuật, do đó rất cần có nhà bảo trợ và trợ giúp kỹ thuật quốc tế. Một công ty định mức tín nhiệm phụ thuộc vào sự chính xác và tin cậy của các thông tin mình có về các nhà phát hành chứng khoán. Có rất nhiều mô hình của công ty định mức tín nhiệm trong đó mô hình thành lập tổ chức tín nhiệm dưới dạng một công ty cổ phần trong đó các cổ đông chính sẽ là Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, các trung gian tài chính lớn và có uy tín như Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại, tổng công ty bảo hiểm, các công ty tài chính và công ty chứng khoán là mô hình hoạt động có hiệu quả cao bởi vì sự tham gia của các trung gian tài chính có uy tín và kinh nghiệm trong cơ cấu sở hữu của tổ chức định mức tín nhiệm là một đảm bảo rất quan trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực có chuyên môn nghề nghiệp cao trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tiết kiệm được chi phí đào tạo cơ bản. Nhân viên của các công ty này phần lớn đều là những người có trình độ cao trong các lĩnh vực tài chính - ngân hàng, trong đó nhiều người là các chuyên gia cao cấp về định mức tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp từ các ngân hàng lớn chuyển sang, bởi vì bản thân các ngân hàng, các tổ chức tài chính cũng có những bộ phận chuyên nghiên cứu và xác định mức độ tín nhiệm của các doanh nghiệp để thực hiện các khoản cho vay và tài trợ dự án. Chương II: Thực trạng tham gia Và vai trò của các trung gian tài chính . trên thị trường chứng khoán việt nam 2.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán việt nam 2.1.1. Quy mô thị trường chứng khoán Ngày 10/7/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán cùng với Quyết định thành lập hai Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tại Hà Nội và tp.Hồ Chí Minh. Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với thị trường chứng khoán thế giới, Trung tâm giao dịch Chứng khoán tp.HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyết định số 599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng khoán tp.HCM. Ngày 08/08/2007, Sở giao dịch chứng khoán tp.HCM đã chính thức được khai trương. Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Tháng 6/2009, thị trường giao dịch chứng khoán công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCoM) bắt đầu đi vào hoạt động. Việc giao dịch tập trung nhằm tăng tính minh bạch và công khai, góp phần hạn chế việc làm giá và giả mạo chứng từ. Qua hơn mười năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng trưởng vượt bậc về quy mô giao dịch, về số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường, về cơ cấu hàng hóa... Sau cuộc khủng hoảng năm 2009, kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng vẫn còn nhiều khó khăn, chưa ai có thể đưa ra chính xác rằng: lúc nào thì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu sẽ kết thúc và kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng trở lại như cũ. Tại Việt Nam đà suy giảm nhìn chung đã chững lại và bắt đầu có sự phát triển. 18/25 chỉ tiêu đặt ra cho năm 2009 đã đạt và vượt; GDP của 11 tháng trên 5%; tăng trưởng tín dụng 36%, lạm phát vẫn trong giới hạn kiểm soát, bội chi ngân sách khoảng 6,9%, an sinh xã hội được đảm bảo. Thị trường chứng khoán Việt Nam mặc dù trồi sụt thất thường, nhưng vẫn có tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Năm 2009 là một năm tăng trưởng bất ngờ và ấn tượng. Mặc dù về những tháng cuối năm thị trường chứng khoán Việt Nam đã có điều chỉnh giảm do tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ của Chính phủ nhưng nhìn chung với một chu kỳ tăng điểm kéo dài hơn 8 tháng trong những tháng giữa năm thì cả năm 2009 thị trường chứng khoán Việt Nam có một năm tăng trưởng rất ấn tượng. Nếu tính từ ngày 01/01/2009 đến 31/12/2009 thì VN-Index đã tăng thêm 171,96 điểm từ 312,49 điểm lên đến 494,77 điểm tương đương với mức tăng là 58%. Nếu tính từ đáy thấp nhất trong năm khi VN-Index ở mốc 234,66 điểm vào ngày 24/02/2009 và đỉnh cao nhất là 633,21 điểm vào ngày 23/10/2009 thì VN-Index đã tăng 2,69 lần. Tương tự ở sàn HNX mức tăng trưởng trong năm 2009 của HNX-Index là 60,9%; và nếu so từ đáy thấp nhất 78,06 điểm lên đỉnh cao nhất trong năm 218,38 điểm thì HNX-Index đã tăng 2,79 lần. Điều đặc biệt của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2009 là giai đoạn thị trường hồi phục từ đáy 234,66 điểm chủ yếu được dẫn dắt nhờ khối nhà đầu tư cá nhân. Sau đó nhà đầu tư tổ chức mới bắt đầu tham gia thị trường. Thị trường hình thành 2 đợt sóng tăng lớn là từ đầu tháng 3 đến đầu tháng 6 và từ đầu tháng 8 đến cuối tháng 10. Sóng giảm là từ đầu năm đến cuối tháng 2, trong tháng 7 và từ cuối tháng 10 đến giữa tháng 12. So với các kênh đầu tư khác như vàng, USD, bất động sản, tiết kiệm, có thể nói kênh đầu tư chứng khoán rất hấp dẫn và có thể nói đem lại lợi nhuận lớn nhất ở Việt Nam trong năm 2009 Quy mô thị trường chứng khoán năm 2009 đã tăng vượt bậc trong năm 2009 Theo Bộ tài chính mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đầu tháng 12 vào khoảng 669 nghìn tỷ đồng (39 tỷ USD), tương đương 55% GDP của năm 2008. So với cuối năm 2008 (225 nghìn tỷ đồng), mức vốn hóa đã tăng gần gấp 3 lần. Tính đến đầu tháng 12 toàn bộ thị trường đã có 730.000 tài khoản chứng khoán đã được mở, tăng thêm 180.000 tài khoản so với thời điểm cuối năm 2008. Số lượng tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài là 13.442 tài khoản trong đó của tổ chức là 1.129 tài khoản. Tính trong cả năm 2009, giá trị giao dịch toàn thị trường trên HOSE là 423.299 tỷ đồng so với 10.432 triệu cổ phiếu được chuyển giao tính trung bình một cổ phần được giao dịch ở mức 40.577 đồng, trong khi năm 2008 mức giá này là 41.832 đồng. Tương tự trên sàn HNX tổng giá trị giao dịch là 197.524 tỷ với 5.765 triệu đơn vị được chuyển giao tương đương với mức giá trung bình 34.263 đồng so với năm 2008 là 37.310 đồng (xem bảng thống kê bên dưới). Với giá trị giao dịch đạt 423.299 tỷ đồng trong 251 phiên giao dịch trong năm thì tính trung bình giao dịch mỗi phiên tại HOSE đạt 1.686 tỷ đồng, trong khi con số này của năm 2008 là 502 tỷ đồng. Tại sàn HNX giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên là 787 tỷ đồng trong khi năm 2008 là 230 tỷ đồng. Bảng 2.1: Quy mô giao dịch chứng khoán 4 năm gần đây. 2006 2007 2008 2009 HOSE Khối lượng cổ phiếu (triệu) 538,5 1.817 2.978 10.432 Giá trị tỷ VND 35.742 217.835 124.576 423.299 Giá TB 1 cổ phiếu (VNĐ) 66.370 119.900 41.832 40.577 HNX Khối lượng cổ phiếu (triệu) 95,6 612 1.531 5.765 Giá trị tỷ VND 3.917 63.442 57.122 197.524 Giá TB 1 cổ phiếu (VNĐ) 40.970 103.630 37.310 34.263 Toàn thị trường Khối lượng cổ phiếu (triệu) 634.1 2.426 4.509 16.197 Giá trị tỷ VND 39.389 281.258 181.698 620.823 Giá TB 1 cổ phiếu (VNĐ) 62.118 115.935 40.296 38.329 Nguồn: Tổng kết từ số liệu của Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. 2.1.2. Đặc điểm, thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam Sau 10 năm thị trường vận hành, sự liên thông với thị trường chứng khoán thế giới rất lớn, song các sản phẩm dịch vụ của thị trường chứng khoán Việt Nam còn khá đơn giản so với thị trường chứng khoán khu vực và thế giới. Điều này đòi hỏi cơ quan quản lý cần sớm chuẩn bị cho sự ra đời và phát triển của chứng khoán phái sinh, đây là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của thị trường chứng khoán. Thực tế thị trường đang đòi hỏi sớm có các quy định hướng dẫn các nghiệp vụ chứng khoán trọng yếu như giao dịch ký quỹ, giao dịch bán khống có quản lý (cơ chế vay, cho vay chứng khoán), giao dịch mua - bán bắt buộc, các quy định hướng dẫn tổ chức thực hiện và giao dịch chứng khoán phái sinh như quyền chọn, hợp đồng tương lai. Trên thị trường chứng khoán, công cụ phái sinh này giúp nhà đầu tư tránh được tình trạng thua lỗ quá nặng khi thị trường đi xuống sâu và ngược lại, nhà đầu tư có thể đạt mức lợi nhuận cao khi thị trường đi lên. Với các sản phẩm này, nhà đầu tư có thể linh hoạt và năng động hơn trong việc lựa chọn các công cụ để tham gia thị trường. Chẳng hạn trong thời gian vừa qua, khi thị trường trồi sụt thất thường, nếu các nghiệp vụ này được áp dụng thì có thể các nhà đầu tư có được những quyết định hợp lý hơn, bám sát theo những biến động của thị trường chứng khoán. Không thể phủ nhận, chứng khoán phái sinh là các công cụ phái sinh rất phổ biến ở những thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, để hạn chế được những mặt thiếu tích cực của chúng khoán phái sinh cũng như giúp công cụ mới ra đời được triển khai hiệu quả, thì có 4 yếu tố cần phải được đáp ứng, đó là: kiến thức nhà đầu tư, quy mô thị trường, cơ sở pháp luật và hệ thống, năng lực giám sát của cơ quan quản lý. Với đặc thù thị trường mới nổi, hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam là số lượng nhà đầu tư chứng khoán tăng nhanh, song đa số là nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ, hoạt động đầu tư theo phong trào rất lớn. Nhà đầu tư quá nhạy cảm và đôi khi có phản ứng thái quá, điều này một phần xuất phát từ thị trường bị chi phối bởi đủ loại tin đồn. Khi những tin đồn lan rộng, thị trường lập tức phản ứng bằng một tuần giao dịch biến động mạnh, thể hiện tâm lý bất ổn, nghi ngại của nhà đầu tư. Theo đánh giá, chỉ trong một thời gian ngắn, thị trường chứng khoán Việt Nam là thị trường có tốc độ tăng trưởng rất mạnh, nhưng cũng là một thị trường có sự trượt dốc mạnh nhất nhì thế giới. Vì vậy, để khắc phục điểm yếu này, thị trường chứng khoán Việt Nam cần quan tâm đến hai vấn đề là nhà đầu tư và tình hình công bố thông tin trên thị trường. Chất lượng của nghiệp vụ tư vấn, phân tích của các thành viên thị trường (chủ yếu là các công ty chứng khoán) vẫn còn thấp. Trong khi đó, chất lượng của nghiệp vụ này ở khía cạnh nào đó thể hiện tính chuyên nghiệp và trình độ phát triển của thị trường. 2.2. tổng quan hệ thống trung gian tài chính việt nam. 2.2.1. Các Ngân hàng thương mại. Từ giữa năm 1987, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới bắt đầu có những đổi mới về tổ chức và hoạt động, mô hình ngân hàng hai cấp dần được hình thành, thay thế cho mô hình ngân hàng một cấp trước kia. Bên cạnh Ngân hàng nhà nước, các loại hình ngân hàng chuyên doanh, ngân hàng cổ phần cũng dần dần xuất hiện. Năm 1990, hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời, góp phần khẳng định thêm mô hình ngân hàng hai cấp với Ngân hàng nhà nước đóng vai trò ngân hàng trung ương, nằm trong cơ cấu Chính phủ; các Ngân hàng thương mại là các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu. Qua hơn mười năm hoạt động, mô hình ngân hàng hai cấp đã dần thích nghi với nền kinh tế thị trường và đã có những đóng góp đáng kể cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động ngân hàng cũng đã bộc lộ những nhược điểm cần khắc phục, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ hai đã thông qua hai luật: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các Tổ chức tín dụng, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Với việc ban hành hai luật này, Ngân hàng nhà nước đã được tăng cường quyền lực và sức mạnh để thực hiện chức năng quản lý nhà nước và đảm nhiệm vai trò ngân hàng của các ngân hàng; các Tổ chức tín dụng cũng có được môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển cả về số lượng và chất lượng cũng như đa dạng hoá về loại hình. Tính đến nay, hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam gồm có: 5 tổ chức tín dụng Nhà nước: Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long và Ngân hàng phát triển Việt Nam; 39 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị; 40 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 5 ngân hàng liên doanh; 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài... Như vậy, hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đã có bước phát triển đột biến cả về nội dung cũng như số lượng, loại hình và khuôn khổ pháp lý cho hoạt động. Ngoài ra, trên lãnh thổ Việt Nam còn có rất nhiều văn phòng đại diện nước ngoài và tổ chức quốc tế, gồm văn phòng đại diện thuộc ngân hàng và công ty tài chính của hơn 21 quốc gia, 3 văn phòng đại diện của các tổ chức tài chính thế giới (Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF, Ngân hàng Thế giới - WB, Ngân hàng phát triển châu á - ADB). Các Ngân hàng thương mại Việt Nam mới được hình thành, trong đó nhóm Ngân hàng thương mại nhà nước chiếm vị trí chủ đạo. Các Ngân hàng thương mại nhà nước trước đây là những ngân hàng chuyên doanh mới được tách khỏi Ngân hàng Nhà nước từ hơn 10 năm nay, chủ yếu vẫn kinh doanh theo từng lĩnh vực, chưa thực sự trở thành những ngân hàng đa năng; Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu long và ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam thực chất là hai ngân hàng chính sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Nhóm các Ngân hàng thương mại cổ phần tuy nhiều về số lượng nhưng phần lớn là các ngân hàng nhỏ, hiệu quả kinh doanh chưa cao lại tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các Ngân hàng thương mại nước ngoài và liên doanh tuy đang có xu hướng tăng nhưng hiện còn hạn chế về số lượng và phạm vi kinh doanh. 2.2.2 Công ty tài chính. Hiện tại có 17 công ty tài chính tại Việt Nam. Đây là mô hình thí điểm thực hiện Luật Doanh nghiệp Nhà nước và Luật Các Tổ chức Tín dụng và bước đầu đã được thành lập trong năm tổng công ty nhà nước, đó là các Tổng Công ty Cao su, Bưu chính-Viễn thông, Dệt-May, Công nghiệp Tàu thuỷ và Dầu khí...; hoạt động theo giấy phép được cấp bởi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; với mục tiêu hỗ trợ vốn cho các công ty con trong tổng công ty bằng cách huy động các nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời trong các đơn vị thành viên và cán bộ, công nhân viên để điều hoà vốn trong tổng công ty; đồng thời là kênh dẫn vốn từ các Ngân hàng thương mại cho các dự án sản xuất kinh doanh của tổng công ty. Các công ty tài chính mặc dù ra đời sau nhưng có lợi thế không nhỏ so với Ngân hàng thương mại hiện nay. Họ không phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà chỉ cần trích lập dự quỹ dự phòng rủi ro và duy trì tỷ lệ đảm bảo an toàn theo quy định; có thể khai thác nguồn vốn ủy thác giá rẻ, đặc biệt là vốn huy động từ phát hành trái phiếu chính phủ cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước; được khuyến khích cho vay nội bộ; cơ chế linh hoạt và khách hàng nhỏ dễ tiếp cận hơn. Bên cạnh đó, họ cũng có thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp nhờ vào uy tín tập đoàn/ tổng công ty, đây có thể là mục tiêu gần nhất của các tập đoàn/ tổng công ty, với các tập đoàn lớn mạnh càng cần có tổ chức tài chính riêng. Tuy nhiên các công ty tài chính cũng gặp phải một số hạn chế trong hoạt động tài chính so với Ngân hàng thương mại. Hạn chế lớn nhất theo quy định pháp lý là không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán (không được mở hệ thống tài khoản cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp), không được huy động tiền gửi dưới 01 năm. Ngoài ra ở nước ta, hệ thống ngân hàng vẫn thường được coi là nhà huy động vốn chuyên nghiệp, có lợi thế thâu tóm những nguồn tiền gửi nhỏ lẻ (tất nhiên là có cả những nguồn tiền lớn), nhiều kỳ hạn linh hoạt để cho vay những món lớn, các doanh nghiệp lớn. Trong khi đó, các công ty tài chính lại đi vay những khoản tiền lớn từ công ty mẹ, từ nguồn ủy thác, từ phát hành trái phiếu, kỳ phiếu... để cho vay và đầu tư rất nhiều những khoản nhỏ lẻ, có lựa chọn, thậm chí là hiểu biết khá rõ về đối tượng cho vay, đầu tư do phần khá lớn là nội bộ. Bản thân các công ty tài chính chiếm vị trí khiêm tốn hơn, nên người tiết kiệm và các nhà đầu tư thường xem mức độ rủi ro của đối tượng này cao hơn các ngân hàng. 2.2.3 Công ty cho thuê tài chính. Kênh huy động vốn ngân hàng luôn được xem là khó tiếp cận đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính vì thế, thời gian gần đây, các doanh nghiệp đã chuyển sang lựa chọn cách vay vốn trực tiếp từ các dịch vụ cho thuê tài chính, điều này được xem là biện pháp tối ưu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại cho rằng, dịch vụ này cũng chưa dễ dàng đáp ứng khi còn vướng một số rào cản nhất định. Thông thường đối với các khoản vốn vay trung và dài hạn, Ngân hàng thương mại luôn đòi hỏi tài sản đảm bảo thế chấp hoặc cầm cố, và chỉ cho vay tối đa 80% tổng chi phí thực hiện dự án. Nhưng với kênh cho thuê tài chính, doanh nghiệp không cần ký quỹ đảm bảo hay tài sản thế chấp mà còn có thể được tài trợ từ 90%, có khi 100% vốn đầu tư. Thậm chí, nếu doanh nghiệp đã đầu tư mua tài sản trước nhưng thiếu vốn lưu động vẫn có thể bán lại cho công ty thuê tài chính, rồi sau đó công ty lại cho doanh nghiệp thuê lại. Việc cho thuê mua tài chính khá linh hoạt. Với mức lãi suất của công ty cho thuê tài chính so với lãi suất cho vay có thể cao hơn, nhưng sự chênh lệch này là chấp nhận được khi doanh nghiệp được quyền chọn lựa máy móc thiết bị phù hợp, và công ty cho thuê tài chính sẽ là đơn vị thu mua lại tài sản đó theo yêu cầu của doanh nghiệp. Việc sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính mặc dù có chi phí cao hơn việc vay vốn ngân hàng nhưng doanh nghiệp sẽ tạo khả năng dự trữ các nguồn tín dụng cho tương lai đồng thời giải quyết được vấn đề vốn lưu động trước mắt. Hiện nay ở Việt Nam mới có 13 công ty cho thuê tài chính. Quy mô còn khá khiêm tốn, vốn điều lệ trung bình từ khoảng 150 đến 300 tỷ đồng, trong khi các ngân hàng thương mại luôn có vốn điều lệ hàng nghìn tỷ đồng. Hơn nữa nhiều chuyên gia cho rằng, địa vị pháp lý của loại hình này chưa thực sự vững vàng khiến các doanh nghiệp đi thuê gặp không ít rủi ro, và công ty cho thuê chưa thể phát huy được hết thế mạnh của mình. 2.2.4. Công ty bảo hiểm. Bảo hiểm là một lĩnh vực rất quan trọng đối với các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Không chỉ là một biện pháp di chuyển rủi ro, bảo hiểm ngày nay đã trở thành một trong những kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Thực tế hoạt động kinh doanh bảo hiểm thời gian qua đã cho thấy sự lớn mạnh không ngừng của ngành bảo hiểm và nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai. Thị trường bảo hiểm ở nước ta những năm gần đây rất sôi động, đa dạng. Số lượng công ty hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng tăng; các loại hình sở hữu đa dạng ở cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, thuộc cả ba lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự; tính cạnh tranh của các công ty đã và đang từng bước thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Trên thị trường bảo hiểm xuất hiện nhiều sản phẩm mới và khá độc đáo trên cơ sở kết hợp giữa các yếu tố tiết kiệm - đầu tư bảo vệ, được công luận đánh giá cao như sản phẩm bảo hiểm tai nạn cá nhân cho người sử dụng ATM, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm của người chăn nuôi và sản xuất thức ăn gia cầm, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo... Tốc độ tăng doanh thu phí của bảo hiểm Việt Nam ở mức khá cao so với thế giới và khu vực. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã có đủ khả năng phục vụ các ngành kinh tế, các tầng lớp nhân dân với việc tham gia vào nhiều hợp đồng có mức trách nhiệm lớn tới hàng tỷ USD như bảo hiểm trong các lĩnh vực hàng không; dầu khí v.v.. Hoạt động của các công ty đang tạo ra một nguồn vốn lớn cho xã hội. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm còn khá nhiều hạn chế. Việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đang ở tình trạng báo động. Do cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp bảo hiểm đã hạ phí bảo hiểm, tăng phần trợ cấp cho các đại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Công tác giải quyết bồi thường chưa được thực hiện tốt, chưa đảm bảo tối đa quyền lợi của khách hàng khi gặp thiệt hại. Hiện có 50 công ty bảo hiểm, bao gồm 28 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 11 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 1 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 10 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, cùng hơn 120.000 đại lý bảo hiểm, với tổng vốn chủ sở hữu trên 21.000 tỷ đồng. 2.2.5 Công ty kiểm toán. Trải qua gần 20 năm, hoạt động kiểm toán ở Việt Nam đã có bước tiến dài. Năm 1991 chỉ có hai công ty với 15 nhân viên, đến nay đã có gần 160 công ty kiểm toán đang hoạt động, trong đó có 4 công ty 100% vốn nước ngoài, 18 công ty của Việt Nam là thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế. Cùng với việc phát triển nhanh chóng về số lượng, việc tạo lập và hoàn thiện từng bước môi trường pháp lý và hệ thống các nguyên tắc, thông lệ, chuẩn mực về nghiệp vụ kiểm toán cũng được tiến hành song song và đã tạo được các điều kiện thuận lợi ban đầu để hệ thống kiểm toán Việt Nam phát triển, từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cũng như chuẩn bị tham gia hội nhập vào thị trường tài chính khu vực. Tuy nhiên, trên thực tế, ngành kiểm toán Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém, nhất là kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên và năng lực quản lý của các công ty. Nguồn nhân lực của các công ty kiểm toán hiện đang thiếu hụt một cách trầm trọng. Số kiểm toán viên có chứng chỉ hành nghề không nhiều và chứng chỉ quốc tế lại càng ít, chỉ chiếm 1/5 trên tổng số nhân viên làm trong lĩnh vực kiểm toán. Đó cũng là hạn chế để lấy được sự an tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Hạn chế lớn nhất của nguồn nhân lực kiểm toán trong nước thuộc về vấn đề nhận thức và chuẩn mực. Cũng như tất cả các quốc gia khác trên thế giới khi nỗ lực đưa chuẩn mực quốc tế vào áp dụng trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước, Việt Nam chúng ta còn phải nỗ lực rất nhiều để hoàn thiện và thực sự đưa bộ chuẩn mực của Việt Nam vào áp dụng. 2.2.6 Quỹ đầu tư. Sự đa dạng hoá các trung gian tài chính trong bối cảnh chuyển đổi sang kinh tế thị trường đã góp phần ra đời các loại hình quỹ đầu tư tại Việt Nam. Trong đó phải kể đến hệ thống quỹ đầu tư phát triển (mô hình quỹ nhà nước) và quỹ đầu tư nước ngoài hiển diện tại Việt Nam. Quỹ đầu tư phát triển: Các quỹ này là những tổ chức tài chính được thành lập bằng các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, do Uỷ ban nhân dân địa phương trực tiếp quản lý. Chức năng và nhiệm vụ của mỗi quỹ đầu tư có phần khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng địa phương. Đặc điểm hoạt động của quỹ cho phép khả năng huy động vốn rộng rãi trong công chúng, đầu tư vào các dự án lớn, đặc biệt là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, mà lâu nay những dự án loại này vẫn phải chờ ngân sách. Hiện nay, ngoài Quỹ đầu tư Nhà nước còn có khá nhiều loại mô hình quỹ khác hoạt động tại Việt Nam cùng với tên gọi Quỹ. Có quỹ xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận, có quỹ không tự hình thành, tự quản lý và cũng tự xử lý khi có sự việc xảy ra Quỹ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam: Hiện nay có rất nhiều quỹ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam như: Vietnam Fund Ltd, Beta vietnam Fund Ltd, Vietnam Enterprise Fund, Beta Mecong Fund Ltd, Lazard Vietnam Fund Ltd v.v.. Tất cả các quỹ đầu tư hoạt động tại Việt Nam đều là Quỹ đóng. Người đầu tư muốn rút vốn có thể trao đổi với nhau hoặc mua bán tại Sở giao dịch nơi quỹ niêm yết. Cách thức hoàn vốn của các qũy là rất khác nhau, có thể hoàn vốn tại một thời điểm nhất định, hoặc cho phép chiết khấu sau mỗi thời hạn nhất định. Quỹ đầu tư chứng khoán: Theo quy định quỹ này do công ty quản lý quỹ cùng với các tổ chức cá nhân Việt Nam và nước ngoài thành lập. Việc lập quỹ có phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng phải được ủy ban chứng khoán chấp nhận. Tính đến hết năm 2009, ở Việt Nam có 20 quỹ đầu tư chứng khoán với tổng số vốn huy động là gần 13 nghìn tỷ đồng. 2.3 Hoạt động của các trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán Việt Nam 2.3.1. Sự tham gia của các trung gian tài chính vào quá trình thành lập công ty chứng khoán Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, phát triển nền kinh tế Việt Nam theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đã bước đầu được triển khai nghiên cứu và chuẩn bị, trong đó những người đi tiên phong phải kể đến chính là các cơ quan ngân hàng, thể hiện đầu tiên là việc thành lập Ban nghiên cứu thị trường vốn đặt tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đồng thời, Ngân hàng nhà nước cũng đã chỉ đạo các Ngân hàng thương mại xúc tiến việc nghiên cứu các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện về nhân lực và vật lực để có thể tham gia ngay từ đầu khi thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động. Thực hiệ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van - Thanh.doc
Tài liệu liên quan