Các xu hướng trong phong trào yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Ngọc Sáng CÁC XU HƯỚNG TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC Ở NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. VÕ XUÂN ĐÀN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn. Từ khi lập quốc, do không ngừng đấu tranh với thiên nhiên và giặc ngoại xâm, cộng đồng d

pdf116 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1839 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Các xu hướng trong phong trào yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân tộc Việt Nam sớm có ý thức đoàn kết bảo vệ chủ quyền và xây dựng đất nước mình, lòng yêu nước Việt Nam cũng bắt nguồn từ đó. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, truyền thống ấy không ngừng được hun đúc và ngày càng phát triển. Các thế hệ dân tộc Việt Nam, nối tiếp nhau không những bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia mà còn ngày càng xây dựng đất nước phát triển đi lên. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ấy, lòng yêu nước thực sự là động lực để nhân dân ta có thể thực hiện được những chiến công hiển hách làm rạng ngời những trang sử vẻ vang của dân tộc, và bản thân lòng yêu nước, tự nó, cũng trở thành niềm tự hào không gì so sánh được của tất cả những ai mang trong mình dòng máu Việt Nam. Tuy vậy, lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam không phải là một khái niệm thuần nhất. Lòng yêu nước chịu sự chi phối trực tiếp từ những hoàn cảnh kinh tế xã hội cụ thể, không những thế nó còn thay đổi cùng với quá trình vận động và phát triển của lịch sử dân tộc. Vì vậy lòng yêu nước trong lịch sử của dân tộc Việt Nam tuy tồn tại hầu như xuyên suốt trong quá trình tồn tại và phát triển của dân tộc qua các thời kỳ, thế nhưng biểu hiện của nó thì lại không hề khô khan, bất biến mà vô cùng sinh động và phong phú. Do những đặc thù của hoàn cảnh kinh tế xã hội nước ta ở các thời điểm khác nhau và đặc điểm riêng của các địa phương cụ thể, mà lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam cũng có những biểu hiện đặc trưng trong từng giai đoạn lịch sử, đồng thời còn mang đậm dấu ấn vùng miền. Biểu hiện của lòng yêu nước trong khoảng thời gian đấu tranh chống thực dân Pháp ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX là một trong những minh chứng tiêu biểu nhất cho điều đó. Vùng đất Nam Bộ là một vùng đất mới được cư dân người Việt khai phá từ khoảng thế kỷ XVI - XVII. Do những điều kiện lịch sử cụ thể, thành phần cư dân nơi đây được cấu thành từ nhiều bộ phận có nguồn gốc khác nhau. Hơn thế nữa, Nam Bộ, do vị trí địa lý đặc biệt của nó, cũng là nơi hội tụ của rất nhiều luồng văn hóa từ những vùng khác nhau trên thế giới. Trong lịch sử nơi đây đã từng chịu ảnh hưởng của các trung tâm văn hóa lớn của thế giới như Ấn Độ, Trung Quốc, ảnh hưởng của văn hóa các quốc gia xung quanh như Thái Lan, Campuchia và các nước Đông Nam Á khác. Ngoài ra, từ thế kỷ XVIII, với vai trò là một trung tâm thương mại, thương thuyền của hàng loạt các quốc gia khác nhau trên thế giới đến đây buôn bán và đồng thời thông qua đó những luồng văn hóa trên thế giới có những điều kiện thuận lợi để du nhập vào Nam Bộ. Và nếu như các vùng khác của Đông Dương, sau khi bị thực dân Pháp tấn công xâm lược, chỉ là xứ bảo hộ của Pháp thì vùng Nam bộ có một lịch sử riêng. Năm 1972, nơi đây chính thức trở thành thuộc địa của Pháp. Trở thành thuộc địa của Pháp, bản sắc văn hóa của vùng Nam bộ, vì thế, lại có những đặc điểm riêng, không giống với các vùng miền khác trên lãnh thổ Việt Nam. Tất cả những điều đó đã tạo cho vùng Nam Bộ một bản sắc văn hóa đa dạng mà lại rất đặc thù. Từ những điều kiện cụ thể trên, lòng yêu nước ở Nam Bộ Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX có những đặc điểm riêng không thể nhầm lẫn. Sự đa dạng về bản sắc văn hóa dẫn đến việc ở Nam Bộ xuất hiện hàng loạt các xu hướng yêu nước khác nhau. Mỗi xu hướng yêu nước có một mục tiêu và phương pháp đấu tranh riêng. Trong một chừng mực nào đó, các phong trào yêu nước có những sự liên hệ và hỗ trợ nhau để hướng tới mục đích chung: Đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập dân tộc. Sự phối hợp ấy thực sự đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để làm nên sức mạnh của phong trào đấu tranh của nhân dân Nam Bộ. Nhưng mặc dù có nhiều điểm tương đồng, các xu hướng yêu nước ấy vẫn có những khác biệt rất cơ bản, và chính vì vậy, giữa các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX luôn có sự đấu tranh với nhau, khi êm ả, lúc quyết liệt. Trong quá trình ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đứng ở vị trí trung tâm, đóng vai trò đoàn kết và thống nhất các xu hướng yêu nước khác để hướng tất cả vào sự nghiệp chung. Và vì vậy những thành quả trong các phong trào đấu tranh cách mạng ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX không phải là sự thể hiện sức mạnh của bản thân Đảng Cộng sản, mà là sự thể hiện sức mạnh tổng hợp của tất cả các phong trào yêu nước, được hội tụ vào những mục tiêu cách mạng mà Đảng đề ra. Điều đó tạo nên sự sinh động và đặc thù của lịch sử Nam Bộ nói riêng. Nghiên cứu về những lòng yêu nước của một vùng đất xuất hiện nhiều xu hướng yêu nước khác nhau và lịch sử chứa đầy những biến động thăng trầm như vùng Nam Bộ là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Nhưng tất nhiên những vấn đề khó khăn luôn là một sức cuốn hút mãnh liệt đối với những người nghiên cứu khoa học. Đó cũng là lý do tôi lựa chọn đề tài CÁC XU HƯỚNG TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC Ở NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX làm đề tài luận văn tốt nghiệp chương trình cao học niên khóa 2007 - 2010 của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài không gì khác hơn là góp phần khái quát lại những xu hướng yêu nước xuất hiện ở vùng đất Nam Bộ trong nửa đầu thế kỷ XX, với những mối liên hệ, hỗ trợ và cả đấu tranh giữa chúng. Để từ đó có thể góp phần vào việc nhận thức toàn diện hơn về lịch sử vùng đất Nam Bộ nói riêng cũng như toàn bộ lịch sử Việt Nam nói chung. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Lịch sử vùng Nam Bộ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một bức tranh sinh động và rộng lớn với những vận động và biến đổi trên rất nhiều các phương diện, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội nơi đây. Ngay bản thân cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp để giành lại độc lập chủ quyền, xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân Nam Bộ, vốn chỉ là một bộ phận của lịch sử vùng Nam Bộ, đã là một một hệ thống phức tạp các mặt trận đối đầu không khoan nhượng. Đề tài không thể và cũng không có ý định nghiên cứu một cách tường tận tất cả các phương diện trong giai đoạn lịch sử đầy biến động này của vùng Nam Bộ, mà chỉ tập trung vào một đối tượng nghiên cứu nhỏ, đó là vấn đề xem xét, tìm hiểu sự xuất hiện và phát triển, sự liên hệ cũng như đấu tranh của các xu hướng yêu nước ở vùng đất Nam Bộ trong khoảng thời gian đó dưới vai trò lãnh đạo trung tâm của Đảng và những đóng góp của các xu hướng này đối với tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ là một vấn đề nhỏ trong lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, lại chỉ gói gọn trong vùng Nam bộ, nhưng không vì vậy mà phạm vi nghiên cứu của đề tài bị thu hẹp, mà ngược lại, phạm vi nghiên cứu của đề tài là hết sức rộng lớn, đa dạng và phong phú. Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp ở Nam bộ chỉ là một bộ phận trong toàn bộ cuộc đấu tranh trường kỳ và vĩ đại của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng tất nhiên cuộc đấu tranh của nhân dân Nam Bộ cũng mang một tầm quan trọng đặc biệt và có sự phối hợp và liên quan trực tiếp đến các vùng miền khác trên phạm vi cả nước. Mặt khác, do các xu hướng yêu nước luôn có cơ sở xuất phát từ những điều kiện kinh tế xã hội thực tế cụ thể. Vì vậy, đối với vấn đề nghiên cứu vấn đề các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, thực chất, phạm vi nghiên cứu của đề tài là tổng thể lịch sử Việt Nam giai đoạn này trên tất cả các phương diện. Và không chỉ có thế, kẻ thù và cũng là đối tượng chủ yếu của các cuộc đấu tranh của nhân dân Nam Bộ, hay rộng hơn là của dân tộc Việt Nam trong suốt mấy chục năm trời gian khổ đầu thế kỷ XX là thực dân Pháp. Nhưng thực tế lịch sử không hoàn toàn đơn giản như vậy, kẻ thù xâm lược ở Nam Bộ Việt Nam còn quy tụ rất nhiều các lực lượng khác: Quân đội Nhật, quân đội Anh và đế quốc Mỹ. Vì vậy, nghiên cứu đề tài các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX nhất thiết phải được mở rộng ra các đối tượng này. Hay nói cách khác là phạm vi nghiên cứu được tiếp tục mở rộng ra bối cảnh cụ thể của tình hình thế giới trong giai đoạn đó. Về mặt thời gian cũng tương tự như vậy, tuy đề tài chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX nhưng trong quá trình nghiên cứu nhất thiết vẫn phải mở rộng nghiên cứu các khoảng thời gian trước và sau giai đoạn đó để có thể thấy được sự tiếp nối và kế thừa của lịch sử cũng như khuynh hướng phát triển của các xu hướng yêu nước ấy. Cần nhấn mạnh rằng, đối tượng nghiên cứu của đề tài nhỏ bé nhưng phạm vi nghiên cứu lại rộng lớn không phải là một sự mâu thuẫn, mà sẽ là một sự bổ sung hoàn hảo cho nhau. Tính chất rộng lớn của phạm vi nghiên cứu sẽ tạo tiền đề thuận lợi để có thể đào sâu nghiên cứu vào đối tượng nghiên cứu chính, nhằm thực hiện một cách tốt nhất những nhiệm vụ mà mục đích nghiên cứu đã đề ra. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề nghiên cứu về các phong trào đấu tranh yêu nước ở vùng đất Nam Bộ không phải là một đề tài nghiên cứu mới, vấn đề này từ trước tới nay đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến khá nhiều, gồm các nhà nghiên cứu về lịch sử Việt Nam và các nhà nghiên cứu lịch sử Đảng, cả các nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài. Tùy vào mục đích của từng công trình nghiên cứu cụ thể mà các công trình nghiên cứu về các phong trào yêu nước ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX cũng có những cách tiếp cận vấn đề từ các góc độ khác nhau, trực tiếp cũng như gián tiếp. Mặc dù vậy, do các yếu tố chủ quan cũng như khách quan, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này vẫn có một số hạn chế. Một công trình chuyên sâu và đầy đủ về vấn đề này cho đến nay vẫn chưa được xuất bản. Đối với các công trình trình bày chung về tiến trình lịch sử Việt Nam, như Đại Cương Lịch sử Việt Nam, tập 2 và 3, Nxb Giáo Dục, Hà Nội của các tác giả Lê Mậu Hãn chủ biên, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, xuất bản năm 2003; Đại cương lịch sử Việt Nam, toàn tập: từ thời nguyên thủy đến năm 2000 của Trương Hữu Quýnh và những người khác, Nxb Giáo dục, Hà Nội, xuất bản năm 2003; Lịch sử Việt Nam (Đầu thế kỷ XX - 1918) của Nguyễn Văn Kiêm, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, xuất bản năm 1976; Lịch sử Việt Nam của Huỳnh Công Bá, Nxb. Thuận Hóa, Huế, xuất bản năm 2008… đều trình bày những nét lớn về tiến trình lịch sử của cả nước nói chung và vùng Nam Bộ nói riêng nửa đầu thế kỷ XX. Các công trình này dều đề cập đến các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ, với quá trình ra đời và phát triển cơ bản của chúng, nhưng bởi đây là những công trình mang tính chất đại cương, các tác giả không thể trình bày vấn đề một cách chi tiết và chuyên sâu. Tương tự như vậy là các công trình nghiên cứu về các phong trào yêu nước ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Có thể kể đến các công trình như: Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX - Một cách tiếp cận của Đỗ Thanh Bình, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, xuất bản năm 2006; Sự chuyển biến của phong trào yêu nước và cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX của Đinh Trần Dương, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2006; Phong trào Duy Tân của Nguyễn Văn Xuân, Nxb Đà Nẵng, xuất bản năm 1995… Do các công trình này trình bày về các phong trào yêu nước trên phạm vi cả nước nên không thể trình bày một cách đầy đủ về phong trào yêu nước ở Nam Bộ nói riêng. Các công trình nghiên cứu về các tổ chức tôn giáo và chính trị ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX như Đạo Cao Đài và chính trị, Luận văn tốt nghiệp, Học viện Quốc gia hành chánh, Sài Gòn của Phan Kỳ Chưởng niên khóa năm 1973, Bộ đội Bình Xuyên, Nxb. Lao động, Hà Nội của các tác giả Hồ Sơn Đài, Đỗ Tầm Chương, Hồ Khang xuất bản năm 2005; Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo, Nxb. Hương Sen, Sài Gòn của Nguyễn Văn Hầu, xuất bản năm 1968 … và các công trình nghiên cứu về các phong trào yêu nước xuất hiện ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX như Phong trào Đông Du ở Miền Nam, của tập thể tác giả tham gia hội thảo “Phong trào Đông Du ở Miền Nam”, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, TP.HCM, xuất bản năm 2007; Phong trào Duy Tân ở Bắc, Trung, Nam; Miền Nam đầu thế kỷ XX - Thiên Địa hội và cuộc minh tân, của Sơn Nam, Nxb Trẻ, TP.HCM, xuất bản năm 2003; Nam Kỳ khởi nghĩa do Lưu Phương Thanh chủ biên, Nxb. TP.HCM, xuất bản năm 1990; Hội kín Nguyễn An Ninh, Nxb Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn, xuất bản năm 1961… Tất cả đều là các công trình đi sâu nghiên cứu về những tổ chức và phong trào yêu nước chủ yếu ở vùng Nam Bộ trong nửa đầu thế kỷ XX, nhưng bản thân mỗi công trình chỉ đào sâu vào một tổ chức, một phong trào nhất định nên chưa bao quát được toàn bộ vấn đề nghiên cứu tổng quan về các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ trong khoảng thời gian này, đặc biệt là sự ảnh hưởng cũng như vai trò của Đảng đối với các phong trào yêu nước theo các xu hướng khác nhau ở Nam Bộ. Các công trình nói về những cá nhân có ảnh hưởng lớn đến sự xuất hiện và phát triển của các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ cũng gián tiếp đề cập đến mảng đề tài này. Ví dụ như các công trình: Bảy Viễn - thủ lĩnh Bình Xuyên, tuyển tập của tác giả Nguyên Hùng Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội xuất bản năm 2004; Phan Bội Châu niên biểu, Nxb. Văn Nghệ, TP.HCM, xuất bản năm 2001; Cao Triều Phát, nghĩa khí Nam Bộ của Phan Văn Hoàng, Nxb Trẻ, TPHCM, xuất bản năm 2001; Phan Châu Trinh - Thân thế và sự nghiệp, của Huỳnh Lý, Nxb Trẻ, TP.HCM, xuất bản năm 2002; Nguyễn An Ninh - Dấu ấn để lại của Lê Minh Quốc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, xuất bản năm 2007… Bởi trong một chừng mực nào đó, đây là các cá nhân đại diện và tác động sâu sắc đến các xu thế yêu nước khác nhau xuất hiện ở vùng Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, vì đối tượng nghiên cứu của các công trình này chỉ là các cá nhân cụ thể, nên không thể đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về các phong trào yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Các công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng nói chung và lịch sử Đảng các địa phương ở Nam Bộ như Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2000) của các tác giả Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Thị Phương Hồng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2005; Lịch sử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh, của Phạm Văn Thắng, Cao Tự Thanh và những người khác, Nxb Tổng hợp TP.HCM, xuất bản năm 20007; Lịch sử Đảng bộ tỉnh Minh Hải 1930 - 1975 của tác giả Huỳnh Lứa và những người khác, Nxb. Mũi Cà Mau, xuất bản năm 1995… lại chủ yếu đề cập đến sự phát triển của Đảng, với sự lãnh cụ thể bằng các chủ trương, sách lược trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà ít quan tâm đến các phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác, đặc biệt là những đóng góp của các phong trào này cho phong trào cách mạng nói chung ở Nam Bộ. Đặc biệt gần gũi với đề tài này là công trình nghiên cứu của giáo sư Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, gồm 3 tập ( tập 1: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, tập 2: Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, tập 3: Thành công của chủ nghĩa Mác Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb TP. HCM, xuất bản năm 1993. Đây là công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu về mảng đề tài tư tưởng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, và tất nhiên có đề cập đến vùng Nam Bộ. Nhưng vì công trình này tập trung nghiên cứu về sự phát triển của tư tưởng trên phạm vi cả nước, nên việc đề cập đến những xu hướng yêu nước ở Nam Bộ còn có những hạn chế nhất định, bởi đây chỉ là một bộ phận nhỏ trong đối tượng nghiên cứu của công trình. Tóm lại tất cả các công trình trên tuy hầu như đã khái quát được sự ra đời và phát triển của các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, do các lý do chủ quan và khách quan, các công trình trên chưa thật sự đào sâu nghiên cứu về vấn đề các xu hướng yêu nước ở vùng Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, đặc biệt là trong vấn đề phân tích vai trò của Đảng đối với các xu hướng yêu nước theo các xu hướng khác nhau, vốn xuất hiện rất nhiều ở Nam Bộ giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Thực tế cho thấy mỗi công trình chỉ phản ánh một khía cạnh nhỏ của toàn bộ mảng đề tài này. Do đó, thực hiện đề tài này, hi vọng đề tài có thể kế thừa một cách tốt nhất những thành quả của các công trình nghiên cứu đi trước để có thể khái quát lại một cách toàn diện và hệ thống hơn về toàn bộ vấn đề này. 4. Nguồn tư liệu Nghiên cứu về lòng yêu nước là một mảng đề tài chủ đạo đối với các nhà nghiên cứu lịch sử. Đặc biệt, đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước cũng là một trong những đặc điểm nổi bật nhất, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình lịch sử dựng nước củacủa dân tộc. Nguồn tư liệu có thể phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này, vì thế, vô cùng phong phú và đa dạng. Hơn thế nữa giai đoạn lịch sử nửa đầu thế kỷ XX của Việt Nam, từ trước tới nay là một lĩnh vực mà các nhà sử học, trong nước và cả nước ngoài đã dày công nghiên cứu. Nguồn tư liệu đầu tiên không thể không nhắc đến đó là các công trình đại cương nghiên cứu về lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Có thể kể đến một số công trình: Đại cương lịch sử Việt Nam, toàn tập: từ thời nguyên thủy đến năm 2000, Nxb. Giáo dục Hà Nội của Trương Hữu Quýnh và những người khác, xuất bản năm 2003; Lịch sử Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Huế của Huỳnh Công Bá, xuất bản năm 2008; Đại Cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội của tập thể tác giả Lê Mậu Hãn chủ biên, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, xuất bản năm 2003… Một nguồn tư liệu khác là các công trình nghiên cứu về cuộc đấu tranh chống Pháp ở Nam Bộ, công trình này phần nào cũng trình bày một cách khái quát giống như các công trình đại cương nói trên, nhưng chi tiết hơn rất nhiều bởi đây là các công trình chuyên sâu nghiên cứu về cuộc kháng chiến ở Nam Bộ: Nam Bộ và Nam Phần Trung Bộ trong hai năm đầu kháng chiến (1945 - 1946), Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội của Nguyễn Việt biên soạn xuất bản năm 1957; Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ (1945 - 1954), Nxb. TP.HCM của Hồ Sơn Đài, xuất bản năm 1996; Miền Đông Nam Bộ kháng chiến 1945 - 1975, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội do Trần Viết Tá chủ biên, xuất bản năm 1990; Miền Đông Nam Bộ lịch sử và phát triển của Nguyễn Hanh, Nxb TPHCM, xuất bản năm 1984… Tiếp theo là những công trình nghiên cứu về các đảng phái và tổ chức chính trị ở Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, đơn cử như các công trình Bảy Viễn - thủ lĩnh Bình Xuyên, tuyển tập, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội của tác giả Nguyên Hùng, xuất bản năm 2004; Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo, Nxb. Hương Sen, Sài Gòn của tác giả Nguyễn Văn Hầu, xuất bản năm1968; Bộ đội Bình Xuyên, Nxb. Lao động, Hà Nội của tập thể tác giả Hồ Sơn Đài, Đỗ Tầm Chương, Hồ Khang, xuất bản năm 2005; Đạo Cao Đài và chính trị, Luận văn tốt nghiệp, Học viện Quốc gia hành chánh, Sài Gòn của Phan Kỳ Chưởng, niên khóa 1970 - 1973… Các công trình nghiên cứu về các phong trào đấu tranh yêu nước của các tầng lớp nhân dân Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp cũng là một nguồn tư liệu quý giá, có thể đem lại một cái nhìn toàn diện về cuộc đấu tranh của nhân dân Nam Bộ. Có thể kể đến các công trình như: Phụ nữ Nam Bộ thành đồng, Nxb. Phụ Nữ, TP.HCM của Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, xuất bản năm 1989; Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Nxb.Đại học quốc gia, TP.HCM của Hồ Sơn Diệp, xuất bản năm 2003… Các công trình nghiên cứu lịch sử Đảng nói chung và lịch sử Đảng Bộ các địa phương ở Nam Bộ cũng là một nguồn tư liệu cực kỳ quan trọng, nó giúp ta có một cái nhìn toàn diện hơn về những chủ trương đối với vấn đề nghiên cứu các xu hướng yêu nước và các phong trào đấu tranh ở Nam bộ trong giai đoạn này. Có thể kể đến các công trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện công nghệ bưu chính viễn thông, Hà Nội, của Trần Thị Minh Tuyết, Nguyễn Thị Hồng Vân, xuất bản năm 2007, Lịch sử Đảng bộ Miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội của Lâm Hiếu Trung chủ biên, xuất bản năm 2003; Lịch sử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng hợp TP.HCM của Phạm Văn Thắng, Cao Tự Thanh và những người khác, xuất bản năm 2007; Lịch sử Đảng bộ tỉnh Minh Hải 1930 - 1975, Nxb. Mũi Cà Mau của Huỳnh Lứa và những người khác, xuất bản năm 1995… Một nguồn tư liệu hết sức quan trọng khác là các tác phẩm thuộc thể loại hồi ký. Đây là những hồi ức của những con người đã từng trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, là những nhân chứng lịch sử. Có thể kể đến một số tác phẩm sau: Công nhân Nam Bộ trong khói lửa, Nxb. Lao Động, Hà Nội của Vũ Ngọc Nguyên, xuất bản năm 1959; Nam bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi ký kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội của nhiều tác giả, xuất bản năm 1999… Tuy nhiên, các câu chuyện của họ trong hồi ký mặc dù sinh động và hấp dẫn nhưng rất có thể không đảm bảo được sự chính xác. Một phần vì có sự thêm thắt, một phần vì trí nhớ của các nhân chứng đó không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối. Vì vậy, đối với các ông trình loại này cần phải có sự thẩm định và đối chiếu với các công trình nghiên cứu khoa học khác. Cũng gần giống như thể loại Hồi ký, các tiểu thuyết tư liệu về vùng Nam Bộ trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược cũng có tính chất tương tự. Bất cứ một tiểu thuyết nào cũng không thể tránh khỏi các tình tiết hư cấu. Đối với loại tiểu thuyết tư liệu, mặc dù tác giả đã cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất điều đó nhưng cố nhiên vẫn không thể nào loại bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, nếu biết cách khai thác thì các tư liệu loại này cũng là một nguồn tư liệu hết sức quý giá, vấn đề chỉ là việc thẩm định và lựa chọn các sự kiện một cách chính xác nhất. Các công trình loại này gồm có: Sư thúc Hòa Hảo, tiểu thuyết tư liệu, Nxb. Tổng hợp Hậu Giang, xuất bản năm 1990 và Người Bình Xuyên, tiểu thuyết tư liệu, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, xuất bản năm 1988 của tác giả Nguyên Hùng. Các công trình nghiên cứu về lịch sử và văn hóa của vùng Nam Bộ cũng có tác dụng không nhỏ trong việc phục vụ bổ trợ cho công tác nghiên cứu đề tài. Ví dụ như các công trình Văn hóa và cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội của tập thể tác giả Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, xuất bản năm 1990; Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb. TP.HCM của các tác giả Huỳnh Lứa chủ biên, Lê Quang Minh, Lê Văn Nam, Nguyễn Nghị, Đỗ Hữu Nghiêm, xuất bản năm 1987; Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội do các tác giả Vũ Minh Giang chủ biên, Nguyễn Quang Ngọc, Lê Trung Dũng, Cao Thanh Tân, Nguyễn Sỹ Tuấn, xuất bản năm 2006… Cuối cùng, đề tài cũng sử dụng một số tư liệu từ sách điện tử và internet. Đây là một nguồn tài liệu vô cùng phong phú và đa dạng nhưng tính khoa học lại không cao. Vì vậy trong quá trình khai thác nguồn tài liệu này rất cần có sự thận trọng, nhất thiết phải có sự so sánh, đối chiếu với các nguồn tài liệu khác để thẩm tra. Có như vậy mới đảm bảo tính chính xác và khoa học cho đề tài. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong đề tài này, tôi có sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp lịch sử và phương pháp logic, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp so sánh và một số phương pháp khác. Bản thân lịch sử vùng Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX là một chỉnh thể bao gồm tổng hòa của các hệ thống quan hệ. Cuộc đấu tranh của nhân dân ở Nam Bộ chống Pháp ở Nam Bộ thực chất chỉ là một bộ phận của toàn bộ hệ thống đó. Hơn thế nữa lịch sử vùng Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX cũng không nằm riêng rẽ độc lập mà chịu sự chi phối trực tiếp của bối cảnh thế giới trong giai đoạn ấy. Do đó, phương pháp nghiên cứu của đề tài nhất thiết cũng phải tiến hành trên quan điểm của phương pháp tiếp cận hệ thống. Đó là đặt quá trình xuất hiện, phát triển của các xu hướng đấu tranh yêu nước của nhân dân Nam Bộ với tư cách là một bộ phận trong hệ thống bối cảnh của cuộc lịch sử Nam Bộ nói riêng và toàn bộ cả nước nói chung, hay rộng hơn là trong hoàn cảnh cụ thể của thế giới giai đoạn đầu thế kỷ XX với những mối liên hệ, tác động qua lại của các yếu tố, của các lĩnh vực khác nhau. Phương pháp lịch sử thể hiện ở chỗ đặt bản thân vấn đề nghiên cứu các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ trong bối cảnh lịch sử cụ thể của giai đoạn đầu thế kỷ XX, trong mối tương quan lực lượng và tình thế cụ thể giữa nhân dân ta và thực dân Pháp xâm lược. Bất cứ việc nhìn nhận hoặc đánh giá một vấn đề nào cũng không thể không căn cứ vào bối cảnh lịch sử cụ thể cũng như đặc điểm riêng của điều kiện tự nhiên - xã hội và con người Nam Bộ. Đồng thời, phương pháp lịch sử còn thể hiện ở chỗ diễn biến của các sự kiện trong đề tài đều được trình bày theo trình tự thời gian. Phương pháp lịch sử không được sử dụng riêng rẽ mà cần thiết phải đi kèm với phương pháp logic. Nghiên cứu lịch sử không phải chỉ là dựng lại quá khứ, khôi phục lại những sự kiện đã xảy ra mà còn phải tìm cho ra bản chất và quy luật của tiến trình phát triển của lịch sử. Phương pháp logic chính là công cụ đóng vai trò giải thích các biến cố, liên kết các sự kiện, rút ra những quy luật trong quá trình nghiên cứu. Đặc biệt trong vấn đề nhìn nhận và đánh giá tầm quan trọng của các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, phương pháp logic sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc làm rõ sự tác động qua lại giữa các xu hướng yêu nước, sự chi phối của các điều kiện thực tế lịch sử cụ thể. Đồng thời qua đó phương pháp logic cũng là công cụ để rút ra những bài học lịch sử cụ thể để vận dụng vào hoàn cảnh xây dựng đất nước hiện nay, định hướng cho sự phát triển của dân tộc trong bối cảnh mới. Cần nhấn mạnh rằng, phải có sự phối hợp sử dụng đồng thời cả hai phương pháp trên mới có thể phát huy được hiệu quả nghiên cứu cao nhất. Bởi chúng có sự bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Sử dụng phương pháp này mà không sử dụng phương pháp kia hoặc sử dụng cả hai phương pháp mà không có sự phối hợp với nhau thì cũng đều khó đi đến chân lý khách quan. Sự phối hợp hai phương pháp trên đều dựa trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng. Lịch sử luôn luôn vận động và phát triển, nhưng sự vận động và phát triển đó không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà tuân theo quy luật, các biến cố lịch sử đều có nguồn gốc sâu xa từ những cơ sở kinh tế xã hội của bản thân xã hội đó. Nhiệm vụ của người nghiên cứu lịch sử là phải tìm ra được bản chất của lịch sử cũng như phát hiện ra cái nguyên nhân, cái quy luật chi phối tiến trình vận động của lịch sử. Và để có thể giải thích được các biến cố lịch sử một cách khoa học và chính xác nhất, nhất thiết phải quán triệt phương pháp duy vật biện chứng. Vấn đề nghiên cứu các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX cũng không phải là ngoại lệ. Riêng đối với đề tài này, phương pháp so sánh có vai trò đặc biệt quan trọng. Phương pháp so sánh không chỉ là công cụ để thấy được sự phát triển của các phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Nam Bộ trước và sau khi có sự lãnh đạo của Đảng, mà còn để thấy được những nét tương đồng và dị biệt của các xu hướng yêu nước xuất hiện ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, cũng như tìm ra những nét đặc thù của các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ với các địa phương khác trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương phác khác như phương pháp liên ngành (khai thác một số tài liệu văn học, địa lý…), phương pháp liệt kê (để tìm hiểu một cách có hệ thống tất cả các xu hướng yêu nước xuất hiện ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX) và một số các phương pháp khác. Chỉ có sự vận dụng một cách nhuần nhuyễn và thích hợp toàn bộ các phương pháp trên mới có một cái nhìn thực sự khách quan và đúng đắn khi xem xét, đánh giá một hiện tượng hay một cá nhân trong lịch sử. 6. Đóng góp của luận văn Nghiên cứu về các xu hướng yêu nước xuất hiện ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX trong cách mạng Việt Nam không phải là một đề tài mới. Các công trình đi trước gần như đã bao quát được mảng đề tài này. Tuy nhiên, dựa vào kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, đề tài hi vọng có thể phát triển những thành quả đó để có thể có những đóng góp mới cho ngành khoa học lịch sử nói chung và cả cho công tác giảng dạy trong các trường phổ thông hiện nay. Trước hết, đối với công tác nghiên cứu khoa học. Mặc dù mảng đề tài về các xu hướng yêu nước xuất hiện ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX chỉ là một bộ phận rất nhỏ của lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, nhưng thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề này, tôi hi vọng đề tài sẽ góp phần đưa ra một cách tiếp cận giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ XX của Việt Nam theo một hướng mới, để thông qua đó có thể bổ sung thêm những tri thức quan trọng và cần thiết, nhằm lấp dần những khoảng trống trong nhận thức về giai đoạn lịch sử của vùng Nam Bộ nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung trong giai đoạn đầu thế kỷ XX. Những tri thức mà đề tài này đề cập chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ để có thể nhận thức về một giai đoạn lịch sử hào hùng và vĩ đại của dân tộc Việt Nam một cách bao quát nhất, khoa học nhất. Đồng thời, từ những nhận thức đúng đắn đó, chúng ta mới có thể rút ra những bài học có giá trị thực tiễn đối với hoàn cảnh cụ thể hiện nay thông qua những bài học từ quá khứ. Thứ hai, đối với công tác giảng dạy. Giai đoạn lịch sử nửa đầu thế kỷ XX là một nội dung hết sức quan trọng trong chương trình giảng dạy lịch sử ở bậc phổ thông trung học. Việc có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về các xu hướng yêu nước, tuy chỉ gói gọn trong vùng Nam Bộ, nhưng cũng sẽ là một điều kiện hết sức thuận lợi để người giáo viên phổ thông có thêm tư liệu và những kiến thức cần thiết phục vụ cho công tác giảng dạy, góp phần làm cho việc giảng dạy trở nên sinh động và toàn diện hơn. Và cuối cùng thông qua đó, có thể giáo dục cho thế hệ tương lai của đất nước niềm tự hào dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn để ra sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc thiêng liêng của dân tộc mình. Những đóng góp của luận văn như trên có thể vẫn còn những hạn chế nhất định. Điều đó làm cho đề tài rất cần có những ý kiến đóng góp phản biện của những người cùng làm công tác nghiên cứu lịch sử. Đồng thời cũng đòi hỏi người thực hiện đề tài phải nỗ lực để tiếp tục hoàn thiện vấn đề này hơn nữa trong tương lai. 7. Bố cục luận văn Luận văn gồm có 162 trang, gồm: Phần mở đầu Phần nội dung: Có ba chương Chương một: Các xu hướng yêu nước ở N._.am Bộ từ đầu thế kỷ XX đến trước khi thành lập Xứ ủy Nam Kỳ Chương hai: Phong trào yêu nước ở Nam Bộ sau khi có sự lãnh đạo của Đảng đến Cách mạng tháng Tám (1930 - 1945) Chương ba: Đặc điểm và khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa yêu nước ở Nam Bộ KẾT LUẬN PHỤ LỤC Tài liệu tham khảo B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG MỘT CÁC XU HƯỚNG YÊU NƯỚC Ở NAM BỘ TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN TRƯỚC KHI THÀNH LẬP XỨ ỦY NAM KỲ 1.1 Một số nét khái quát về vùng Nam Bộ 1.1.1 Vấn đề tên gọi Nam Bộ và Nam Kỳ trong lịch sử Việt Nam Trong lịch sử của các vùng miền lãnh thổ trên đất nước Việt Nam, có lẽ hiếm có địa phương nào lại có một hoàn cảnh đặc biệt như vùng Nam Bộ. Đặc biệt ở cả những biến động thăng trầm của lịch sử và cả vấn đề tên gọi. Có thể nói, vùng đất Nam Bộ từ khi in dấu chân con người đến nay đã trải qua không ít lần thay đổi tên gọi. Mỗi tên gọi đều ứng với một giai đoạn lịch sử nhất định và có lẽ những tên gọi ấy phần nào cũng gợi lên trong tiềm thức mỗi người dân Nam Bộ những hoài niệm và tự hào về một thời đại đã qua của thế hệ cha ông nơi mảnh đất này. Riêng đối với các nhà nghiên cứu lịch sử, thì việc nắm bắt một cách rõ ràng những tên gọi của vùng đất Nam Bộ qua các thời kỳ phát triển lại càng quan trọng hơn nữa, bởi điều đó đảm bảo cho tính khoa học của công tác nghiên cứu. Thể hiện sự chính xác của các công trình khoa học lịch sử. Và không chỉ có vậy, trong một chừng mực nào đó, việc xác định và phân biệt rõ ràng các tên gọi của Nam Bộ trong các giai đoạn khác nhau còn thể hiện tính đảng, tức lập trường chính trị của người nghiên cứu, do bởi có những thời kỳ, những tên gọi của Nam Bộ có liên quan mật thiết đến yếu tố chính trị của những lực lượng tranh chấp trên vùng đất vốn đầy biến động này. Vì những lý do trên, có thể nói, đối với việc nghiên cứu về những xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, vấn đề tên gọi của vùng Nam Bộ trong giai đoạn ấy cũng là một vấn đề cần phải chú ý và cần phải làm rõ. Từ khi được sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam, vùng đất Nam Bộ đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau. Vào năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Gia Định. Tên gọi Gia Định khi ấy là cái tên được dùng để chỉ chung vùng lãnh thổ ở phía cực nam đất nước. Tất nhiên vùng lãnh thổ ấy chưa phải là toàn bộ vùng Nam Bộ, mà nhỏ bé hơn khá nhiều. Cùng với quá trình mở rộng lãnh thổ, tên gọi Gia Định mới dần dần được sử dụng để chỉ vùng đất tương ứng với Nam Bộ ngày nay. Đến năm 1802 vua Gia Long đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định; năm 1808 lại đổi tên trấn Gia Định ra thành Gia Định gồm năm trấn là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên. Năm 1832 vua Minh Mạng đổi tên thành Gia Định ra thành Phiên An, năm trấn trước kia được chia lại thành sáu tỉnh (Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Năm 1835, tỉnh Phiên An đổi tên là tỉnh Gia Định. Như vậy tên Lục Tỉnh đã có từ năm 1832. Hai năm sau, tức năm 1834, Lục Tỉnh được gọi chung là Nam Kỳ, theo nghĩa Kỳ là một cõi đất. Nam Kỳ là cõi đất phương Nam. Tên gọi Nam Kỳ Lục Tỉnh từ ấy thực sự đã trở thành một tên gọi gắn liền với lịch sử dân tộc Việt Nam trong một giai đoạn dài sau đó. Khác với Việt Nam, thực dân Pháp sử dụng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng Nam Bộ, phân biệt với Bắc Kỳ là Tonkin, Trung Kỳ là Annam. Người Anh, Mỹ cũng gọi Nam Kỳ là Cochinchina. Giới học giả trong và ngoài nước từng đưa ra nhiều cách lý giải khác nhau về xuất xứ tên gọi Cochinchine, nhưng vẫn chưa ngã ngũ. Sau khi chiếm xong ba tỉnh miền Đông gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa (1862) và ba tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (1867), thực dân Pháp xóa bỏ cách phân chia địa giới hành chánh cũ của triều Nguyễn. Năm 1899, Lục Tỉnh của Nam Kỳ bị phân lại thành hai mươi mốt tỉnh. Chia lại đất Nam Kỳ, có lẽ thực dân Pháp muốn xóa nhòa hai chữ Lục Tỉnh trong lòng người Việt, cũng là cách cắt đứt lòng lưu luyến với truyền thống yêu nước của người dân Nam Bộ, một thủ đoạn tâm lý bên cạnh các cuộc đàn áp những phong trào yêu nước kháng chiến. Song mặc dù vậy, cái tên Nam Kỳ vẫn được duy trì cho đến tận năm 1945. Sau cuộc đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9/3/1945, quân đội Nhật đã tuyên bố trao lại quyền độc lập cho Việt Nam. Song song với quá trình thanh lập chính phủ, vua Bảo Đại cũng cho phân vùng lãnh thổ Việt Nam thành ba khu vực hành chính, và đặt các chức quan Khâm sai thay mặt nhà vua để cai quản từng vùng. Nam Bộ là khu vực tương ứng với Nam Kỳ cũ, theo nghĩa Bộ là một phần. Nam Bộ là một phần đất nước ở phía Nam. Tên gọi Nam Bộ được chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lựa chọn và được sử dụng lâu dài cho đến tận ngày nay, thay cho tên gọi Nam Kỳ. Nam Bộ là một trong ba xứ, hai xứ kia là Bắc Bộ và Trung Bộ. Như vậy, với tư cách là một người nghiên cứu đương đại tìm hiểu về quá khứ. Trong bản thân đề tài này chỉ sử dụng thuật ngữ Nam Bộ làm tên gọi thống nhất. Tuy nhiên, trong các tài liệu trích dẫn hoặc trong một số trường hợp đặc biệt cụ thể, đề tài có thể vẫn sử dụng tên gọi Nam Kỳ, được dùng để chỉ chung một đối tượng lịch sử. Tất cả đều không ngoài mục đích đảm bảo tính khoa học và tính đảng cho đề tài nghiên cứu. 1.1.2 Đặc điểm tự nhiên - xã hội của vùng Nam Bộ Vùng đất Nam Bộ Việt Nam là một vùng đồng bằng rộng lớn ở hạ lưu sông Mêkông, phía đông giáp biển Đông, phía đông bắc giáp với cao nguyên Trường Sơn, phía tây giáp vịnh Thái Lan, phía bắc nối liền với đồng bằng của Campuchia. Đất đai nơi đây rất màu mỡ do được phù sa của các hệ thống sông Mêkông, sông Đồng Nai và các hệ sông nhỏ khác bồi đắp. Địa hình nhìn chung khá bằng phẳng nhưng rất phức tạp. “Miền đông bắc có nền đất tương đối cao hơn các nơi khác của đồng bằng, nhưng đổ về phía biển, mặt đất thấp, sông ngòi và kinh rạch quanh co chằng chịt, nhiều chỗ đồng lầy nước đọng, nơi sinh trưởng của từng ngập mặn, của cây bần, cây đước… địa thế rất hiểm trở”. [59, tr 17] Khí hậu của vùng Nam Bộ là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Cây cối quanh năm xanh tốt, hệ động thực vật rất đa dạng và phong phú. Hệ thống sông ngòi nơi đây chằng chịt, thuận lợi cho giao thông đi lại cũng như phát triển các ngành kinh tế thủy sản. Tuy nhiên, hàng năm nước các con sông dâng lên gây ra tình trạng ngập úng. Vì vậy vùng này rất nhiều vùng trũng ngập nước, tạo ra trở ngại lớn cho cư dân sinh sống ở đây. Do những đặc điểm của điều kiện địa hình, Nam Bộ được chia thành hai vùng thiên nhiên khá rõ rệt: Vùng đất tương đối cao ở phía đông bắc thường được gọi là miền Đông Nam Bộ, diện tích khoảng 27.920 km2 và vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long thấp phẳng ở phía tây nam diện tích khoảng 39.590 km2. Do mỗi vùng có những điều kiện tự nhiên rất khác biệt, dẫn đến nền tảng kinh tế và xã hội của hai vùng cũng có sự khác biệt căn bản. Sự khác biệt ấy, đến đầu thế kỷ XX, lại trở thành tiền đề cho những sắc thái rất khác nhau của các phong trào yêu nước ở đây. Thực tế lịch sử cho thấy, vùng Nam Bộ là một trong những địa điểm đầu tiên có mặt con người sinh sống và khai phá. Hơn thế nữa, văn minh của các cư dân nơi đây là một trong những nền văn minh vào loại sớm nhất không chỉ của Việt Nam mà còn ở cả khu vực Đông Nam Á. Các di chỉ khảo cổ được khai quật cho thấy vùng Nam Bộ đã có con người sinh sống ngay từ thời đại đá cũ. “Vào những năm 1968 - 1971, nhà địa chất học người Pháp E. Saurin đã công bố những phát hiện đồ đá cũ của ông tại hai địa điểm Hàng Gòn 6 và Dầu Giây 2. Tiếp cho đến nay, nhất là từ năm 1975 đến nay, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện thêm, được biết đến 14 địa điểm có công cụ thuộc thời đại đá cũ…”. [67, tr 10] Đến khi cư dân Nam Bộ bước vào ngưỡng cửa văn minh, việc lập quốc diễn ra vào khoảng đầu công nguyên. Sau đó giai đoạn từ đầu công nguyên đến thế kỷ VII, vùng Nam Bộ là địa bàn chủ yếu của vương quốc Phù Nam, quốc gia của những người Môn cổ. Vương quốc Phù Nam nhanh chóng phát triển trở thành một nước hùng mạnh và tấn công chinh phục các nước xung quanh, trở thành một cường quốc cổ đại Đông Nam Á. “Vào lúc cực thịnh, Phù Nam chiếm nhiều nước nhỏ xung quanh làm chư hầu, lãnh thổ bao gồm diện tích ngày nay của Campuchia, vùng Hạ Lào, nam Thái Lan, nam Miến Điện, bắc bán đảo Mã Lai, nam Trung Bộ và Nam Bộ của Việt Nam…”. [107, tr 42] Các quốc gia lân cận Phù Nam ở Đông Nam Á đều phải thần phục quốc gia này. Tuy nhiên đến thế kỷ VI, do những biến động của lịch sử, Phù Nam dần dần suy yếu, đó chính là lúc các thuộc quốc của Phù Nam nổi lên tách khỏi sự lệ thuộc, thậm chí quay lại tấn công Phù Nam. Trong đó có quốc gia của người Khơ me ở vùng bình nguyên Cò Rạt, quanh lưu vực sông Sê mun và trung lưu sông Mê công, đang trong giai đoạn phát triển lớn mạnh. Tộc người Khơ me vốn thần phục Phù Nam từ thế kỷ III. Sau đó nhân lúc Phù Nam gặp khủng hoảng suy thoái, người Khơ me từ bỏ việc thần phục Phù Nam, thậm chí còn tiến hành cuộc nam tiến chinh phục lại Phù Nam. Cuối cùng đến khoảng giữa thế kỷ VII, Phù Nam bị tiêu diệt. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVII, vùng Nam Bộ thuộc quyền quản lý của vương quốc Chân Lạp. Đến khoảng thế kỷ XVII - XIX, vùng Nam Bộ được chuyển vào tay những người Việt di cư. Cho đến thế kỷ XVII, trên vùng đất Nam Bộ Việt Nam ngày nay, các cư dân Khơ me và các dân tộc ít người khác đã sống lẻ tẻ, rải rác trên các giồng đất cao, các vùng đồi núi, với số lượng dân cư ít ỏi, trình độ kỹ thuật thấp kém. Về cơ bản, vùng đất Nam Bộ thời điểm đó phần lớn vẫn còn là một vùng đất hoang vu chưa được khai phá, mặc dù nơi đây từ lâu đã tồn tại nhiều lớp cư dân khác nhau từng sinh sống. Bước vào thế kỷ XVII, những biến động của lịch sử trên đất nước Đại Việt cũng kéo theo những thay đổi lớn lao ở vùng đất Nam Bộ. Những tranh chấp quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến họ Trịnh và họ Nguyễn dẫn tới cục diện chia cắt đất nước thành hai miền riêng biệt: Đàng Trong thuộc quyền kiểm soát của chúa Nguyễn và Đàng Ngoài thuộc quyền kiểm soát của vua Lê chúa Trịnh. Cuộc chiến tranh Đàng Trong - Đàng Ngoài nổ ra quyết liệt và kết quả là đất nước Đại Việt bị chia cắt kéo dài suốt gần hai thế kỷ. Chiến tranh đã làm xáo trộn cuộc sống của người dân, là nguyên nhân trực tiếp cũng như gián tiếp cho những cuộc di cư ồ ạt của người Việt về phía nam, trong đó một trong những điểm đến quan trọng nhất chính là vùng Nam Bộ. Cùng với quá trình di cư của người Việt, vùng Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII còn tiếp nhận thêm một bộ phận cư dân lớn người Chăm vốn là những cư dân còn lại của vương quốc Champa vừa sụp đổ. Bên cạnh đó dòng lưu dân vào vùng đất Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII còn phải kể đến người Hoa. Bộ phận người Hoa này chủ yếu là quan quân nhà Minh và gia quyến của họ, vốn không chịu thần phục nhà Mãn Thanh vừa được lập nên ở Trung Quốc. Các lớp cư dân người Việt, người Hoa và người Chăm đua nhau kéo vào vùng Nam Bộ để tìm một cuộc sống mới. Vùng đất Nam Bộ bắt đầu được khai phá trên quy mô rộng lớn. Các thành quả khai phá của các cư dân mới đến đã thực sự làm thay đổi bộ mặt của vùng đất Nam Bộ. Và cuối cùng từ những phong trào di cư tự phát, chính quyền chúa Nguyễn và sau này là vương triều Nguyễn đã thực hiện tiếp các hoạt động chính trị để sát nhập thành công vùng đất Nam Bộ vào lãnh thổ của mình. Tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp đưa lịch sử của vùng Nam Bộ bước sang một trang mới. Sau khi không thành công trong việc tấn công ở Đà Nẵng năm 1858. Thực dân Pháp quay xuống tấn công Nam Bộ, thực hiện chủ trương đánh lâu dài. Bằng các thủ đoạn quân sự và chính trị, thực dân Pháp đã thành công trong việc thôn tính Nam Bộ. Đến nửa cuối thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn ký hai bản hiệp ước Nhâm Tuất (1862) và Giáp Tuất (1874), cắt vùng Nam Bộ cho Pháp. Như vậy, từ thời điểm ấy trên danh nghĩa vùng đất Nam Kỳ coi như trở thành một bộ phận của lãnh thổ nước Pháp, không giống như Trung Kỳ và Bắc Kỳ chỉ là xứ bảo hộ. Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn không còn chút quyền hạn nào trên khu vực này. Chính quyền trung ương Nam Kỳ do người Pháp nắm giữ, nhưng hệ thống chính quyền từ cấp tổng trở xuống thì được tuyển lựa từ người bản xứ. Việc tuyển lựa từ cuối năm 1918 được cải cách theo hướng dân chủ hóa, nhưng thật ra, điều đó chỉ có lợi cho một bộ phận tầng lớp trên của xã hội, được Pháp sử dụng như một thứ tay sai để củng cố bộ máy cai trị thực dân ở đây. Lợi dụng những yếu tố thuận lợi của điều kiện tự nhiên Nam Bộ, các chính sách, mục tiêu, biện pháp của thực dân Pháp trong việc khai thác vùng Nam Bộ có những sắc thái rất riêng biệt. Vùng Đông Nam Bộ chủ yếu phát triển các đồn điền, nhất là đồn điền cao su. “Loại cây công nghiệp duy nhất trong số các cây công nghiệp và cũng là loại canh tác duy nhất trong số các loại canh tác được người Pháp du nhập vào vùng đất Nam Kỳ dưới thời thuộc Pháp phát triển được và có một tầm mức tương đối quan trọng, đó là cây cao su” [59, tr 205]. Những đồn điền cao su mọc lên nhiều, nhưng hầu như nằm hoàn toàn trong tay người Pháp, bởi nó đòi hỏi một số vốn khổng lồ và chậm đem lại lợi nhuận. Các loại cây công nghiệp khác như đay, cà phê, tiêu cũng có được trồng ở một số nơi nhưng không chiếm vị thế quan trọng trong cơ cấu kinh tế như cây cao su. Còn miền Tây Nam Bộ lại trở thành một vựa lúa khổng lồ. Diện tích canh tác lúa chiếm ưu thế tuyệt đối trong vốn đất canh tác. Năm 1913, diện tích trồng lúa ở đây là 1.426.485 ha, năm 1921 là 1.758.383 ha, năm 1930 là 2.112.500 ha. Hơn hẳn diện tích canh tác lúa vùng Đông Nam bộ, vốn chỉ trên dưới 300.000 ha. Do ảnh hưởng từ chính sách khai thác của Pháp, vùng Nam Bộ xuất hiện những tầng lớp mới: Đại địa chủ, tư sản, trí thức tây học, tiểu tư sản… Một bộ phận trong số đó dựa vào quyền lực của thực dân Pháp, câu kết với kẻ thù, phản bội quyền lợi của quốc gia dân tộc; nhưng bộ phận còn lại, vẫn có phần nào tinh thần yêu nước, và trong những điều kiện cụ thể, họ cũng có tham gia với một chừng mực nào đó các phong trào yêu nước, đặc biệt nếu phong trào ấy có đề cập đến lợi ích của họ. Giai cấp công nhân, xuất hiện khá sớm ở Nam Bộ, nhưng do những đặc thù của điều kiện kinh tế xã hội nên có những đặc điểm rất đặc trưng. Giai cấp công nhân ở Nam Bộ ra đời sớm, số lượng phát triển khá nhanh, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Cùng với sự du nhập những luồng tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là chủ nghĩa Mác Lênin, giai cấp công nhân Nam Bộ dần hình thành và trở thành ngọn cờ đầu trong các phong trào yêu nước. Do điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử cụ thể nói trên, cư dân và nền kinh tế xã hội Nam Bộ đã xuất hiện những nét đặc thù. Từ đó phong trào yêu nước ở Nam Bộ trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX cũng có xu hướng phát triển riêng, không giống với các địa phương khác trên đất nước Việt Nam. Nhân dân Nam Bộ đứng lên chống Pháp ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Cuối thế kỷ XIX, các phong trào khởi nghĩa vũ trang chống Pháp từ Nam chí Bắc về cơ bản đều đã thất bại, trong đó bao gồm cả các phong trào ở Nam Bộ. Nhưng dân tộc Việt Nam vốn có một tinh thần đấu tranh bất khuất, càng bị đè nén bao nhiêu càng quyết liệt vùng lên quật khởi bấy nhiêu. Sự thất bại tạm thời của các phong trào yêu nước ấy không thể dập tắt được ý chí quật cường đó. Đến đầu thế kỷ XX, những người yêu nước Việt Nam nói chung và người dân Nam Bộ nói riêng vẫn cố gắng tìm ra một con đường đi mới giải phóng cho dân tộc thoát khỏi xích xiềng nô lệ. Trước những biến động lớn lao của tình hình trong nước và thế giới trong hoàn cảnh mới, các xu hướng trong phong trào đấu tranh yêu nước ở Nam Bộ không ngừng nở rộ, điểm thêm những nét vẽ sinh động cho bức tranh lịch sử bi tráng nhưng cũng thật đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. 1.2 Các phong trào yêu nước chống Pháp trước khi có sự lãnh đạo của Đảng ở Nam Bộ 1.2.1 Các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp theo xu hướng phong kiến: Phong trào Hội kín Nam Kỳ Bước vào những năm cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã cơ bản bình định xong và thiết lập được bộ máy cai trị thực dân ở vùng Nam Bộ. Từ năm 1874, Nam Kỳ chính thức trở thành thuộc địa của Pháp. Với việc thi hành chính sách trực trị, chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn không còn chút quyền hạn nào trên khu vực này. Nói cách khác, vùng đất Nam Kỳ bị biến thành một phần lãnh thổ của nước Pháp ở Đông Dương. Vùng Nam Kỳ từ đó khi ấy được định nghĩa là “một phần đất thuộc gia sản đất đai của nước Pháp và được cai trị trực tiếp bởi những người đại diện cho nước Pháp”. [59, tr 164] Trong bối cảnh đó, các cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp không còn điều kiện thuận lợi để phát triển nữa. Điều này có thể nhận thấy rõ qua phong trào Cần Vương, một phong trào nổ ra dưới sự lãnh đạo của phái chủ chiến trong triều định Huế, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết. Các cuộc khởi nghĩa Cần Vương nổ ra trên khắp các địa phương miền Bắc và miền Trung nhưng ở Nam Bộ, phong trào gần như im ắng. Đó không phải do người dân Nam Bộ thờ ơ với vận mệnh quốc gia dân tộc, mà thực sự là do chưa có những điều kiện để chống Pháp một cách rầm rộ như những giai đoạn trước. Mặc dù vậy, tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân Nam Bộ vẫn được duy trì một cách bền bỉ. Một hình thức đấu tranh mới xuất hiện dưới hình thức thành lập các hội kín là minh chứng cho điều đó. Theo giáo sư Trần Văn Giàu, “danh từ “hội kín” mãi cho đến vụ án Nguyễn An Ninh năm 1929 thì mới phổ biến trên báo tiếng Việt để dịch chữ “sociétés secrète”của Pháp; chứ hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cái tên của những tổ chức bí mật (…) không phải là “hội kín” mà là “Hội…”. [33, tr 565 - 566] Các hội bí mật mọc lên rất nhiều, hễ có bao nhiêu hội thì có bấy nhiêu tên gọi khác nhau: Duy Tân, Hòa Đồng, Nghĩa Hòa, Nhân Hòa… và đặc biệt là tổ chức Thiên Địa Hội. Thiên Địa hội vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc, theo chân những người Hoa phản Thanh phục Minh du nhập vào Việt Nam. Thiên Địa Hội nhanh chóng được những người Việt Nam yêu nước ủng hộ để phát triển thành phong trào đấu tranh chống Pháp dưới hình thức hội kín ở Nam Bộ trong những năm đầu thế kỉ XX. Những nơi có phong trào hội kín phát triển mạnh là Biên Hoà, Gia Định, Mỹ Tho, Bạc Liêu, Rạch Giá, Bến Tre, Châu Đốc. Mục đích chủ yếu của các hội kín là chống Pháp, quan lại tham ô, khôi phục Việt Nam. Những hội kín ở Nam Kỳ mang màu sắc tôn giáo, nhưng tôn giáo chỉ là phương tiện để tập hợp, cố kết các thành viên lại với nhau, còn mục đích chung vẫn là đấu tranh chống bọn đế quốc cướp nước và bọn phong kiến tay sai bán nước. Tôn giáo và phương thuật (pháp sư, bùa chú, uống máu ăn thề, dùng tiếng lóng, dấu hiệu riêng để liên lạc...) chỉ giữ vai trò trong việc tổ chức hội viên và tuyên truyền cho dân chúng. “Tuy các hội kín chịu nhiều ảnh hưởng của thầy chùa (Phật), thầy pháp (Đạo), nhưng trong hội kín, trong các cuộc trực tiếp hành động khởi nghĩa thì hoàn toàn không có thầy chùa, thầy pháp nào hết. Cộng tất cả các vụ bị bắt năm 1916, chỉ phát hiện thấy hai thầy pháp trong hội kín toàn Nam Kỳ, còn thầy chùa thì chỉ can dự ở cấp lãnh đạo bên trên thôi. Lực lượng hội kín là lực lượng của người dân thường, người thế tục”. [33, tr 569] Nghĩa quân của các hội này có chừng vài trăm người được vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác đã tiến hành đánh phá các trụ sở mộ lính, phá nhà giam, bắt giết bọn quan lại tay sai gian ác. Thực dân Pháp e ngại hội kín, những kẻ cường hào ác bá cũng sợ hãi mà không dám hung hăng. Sức mạnh thực sự của hội kín không phải chỉ nằm ở bản thân số hội viên hội kín, mà trong những trường hợp cụ thể, khi trực tiếp đấu tranh, các hội kín có thể và thực sự đã huy động, lôi kéo được một bộ phận quần chúng, đặc biệt là tầng lớp dân lao khổ. Trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XX đến những năm sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các hội kín Nam Kỳ thực hiện được hàng loạt những hoạt động yêu nước có tiếng vang lớn, trong đó tiêu biểu là việc phát động phong trào đấu tranh chống chính sách động viên của thực dân Pháp và cuộc đột nhập phá Khám Lớn ở Sài Gòn. Trước hết, về phong trào chống chính sách động viên. Từ cuối năm 1915 đầu 1916, trong bối cảnh thực dân Pháp tăng cường hoạt động vơ vét sức người sức của để đổ vào cuộc chiến tranh đế quốc, các hội kín ở Nam Bộ ngày càng hoạt động mạnh mẽ để chống lại chính sách đó. Các cuộc xung đột vũ trang đã lẻ tẻ nổ ra ở một số nơi. Cuối tháng 1/1916, các hội kín ở Trà Vinh tổ chức bạo động, công khai chống chính sách mộ lính của thực dân Pháp. Cũng trong thời gian này, các hội kín ở Biên Hòa cũng vũ trang nổi dậy, nhà ngục Biên Hòa bị phá. Tháng 2/1916, nhóm hội kín của Vương Văn Lê, Nguyễn Văn Thạch, Lê Văn Hà nổi lên ở Tây Ninh, nhóm hội kín Nguyễn Văn Huệ tấn công Ô Cấp - Bà Rịa. Ngoài ra còn có một số cuộc nổi dậy ở những nơi khác. Các cuộc tấn công lan rộng, nhưng lực lượng các hội kín rất yếu, vũ khí chủ yếu chỉ là gậy gộc, súng đạn rất ít, lại tin vào bùa phép nên thực dân Pháp dễ dàng đàn áp. Phong trào cuối cùng đành tạm lắng xuống. Bên cạnh phong trào chống chính sách động viên của thực dân Pháp, cuộc đột nhập phá Khám Lớn Sài Gòn cũng là một trong những hoạt động gây tiếng vang lớn nhất của phong trào hội kín Nam Kỳ. Cuộc đấu tranh này gắn liền với tên tuổi của Phan Xích Long (1893 - 1916). Ông tên thật là Phan Phát Sanh, tên tự là Lạc, con trai của Phan Núi, một viên chức cảnh sát gốc Hoa ở Chợ Lớn. Năm 1912, Nguyễn Hữu Trí và Nguyễn Văn Hiệp, hai nhân sỹ yêu nước tôn Phan Phát Sanh làm lãnh tụ Thiên Địa Hội, nhằm tập hợp lực lượng chống Pháp. Sau đó Phan Phát Sanh đổi tên là Phan Xích Long, tự xưng là Đông cung (con vua Hàm Nghi), tự phong là hoàng đế. Buổi đầu, Phan Xích Long đặt cơ sở đầu tiên ở Cần Vọt (Campuchia). Ở đó, nhờ tiền quyên góp, ông cho cất một ngôi chùa để làm nơi tụ họp, chế tạo lựu đạn, trái phá, in truyền đơn đưa ra tuyên cáo Phản Pháp phục Nam, kêu gọi mọi người chống Pháp... Sau này, ông lập căn cứ ở vùng núi Thất Sơn (Châu Đốc, tỉnh An Giang). Đêm 23 rạng sáng ngày 24/3/1913 Phan Xích Long tổ chức rải truyền đơn và đặt bom tại một số nơi quan trọng ở Sài Gòn. Kế hoạch không thành công vì các trái bom đều không nổ và vì kế hoạch đã bị lộ. Bản thân Phan Xích Long đã bị bắt hai ngày trước đó tại Phan Thiết. Các thành viên hội kín ở vùng Gò Vấp, Hóc Môn đột nhập vào nội thành Sài Gòn, cả thảy đều bị bắt giam. Năm 1913, tòa án Nam Kỳ đã đưa ông ra xét xử, tha bổng 57 người, riêng Phan Xích Long bị lãnh án chung thân khổ sai, bị giam giữ tại Khám Lớn (Sài Gòn). Năm 1916, nhân lúc Pháp bại trận trong Thế chiến thứ nhất, khoảng 300 hội viên của hội kín "Thiên Địa Hội" ở Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Cần Giuộc, Cần Đước v.v..., tìm cách phá ngục cứu ông. Đêm 16/2/1916, đúng 3 giờ sáng, tất cả hội viên do Nguyễn Hữu Trí cầm đầu, đều được uống bùa, cổ mang phù chú, từ sông cầu Ông Lãnh với áo đen, quần trắng, khăn quấn cổ màu trắng, tay cầm giáo mác (không có súng) chia làm ba nhóm đột nhập nội thành Sài Gòn. Gần tới nơi, ba nhóm nhập lại rồi chia ra thành hai hướng tiến đến Khám Lớn và Dinh Thống đốc Nam Kỳ. Do có phòng bị từ trước, quân Pháp đã kịp thời đối phó. Lính Pháp xả đạn vào đám người chỉ có giáo mác và bùa chú. Nghĩa quân tan vỡ, một số bị chết, bị thương và nhiều người bị bắt. Cuộc tấn công nhanh chóng bị đàn áp đẫm máu. Sau đó, tòa kết tội tử hình 38 người tại cánh đồng Tập Trận vào ngày 22/2/1916, trong đó có Phan Xích Long là người cầm đầu. Ngày 16/3/1916, tử hình thêm 13 người nữa, cũng tại địa điểm trên. Như vậy, sau 2 lần bắn và 6 người đã chết trước, tổng cộng là 57 người. Những người chết đều được chôn tại nghĩa địa Đất Thánh Chà ở đường Hiền Vương (nay là đường Võ Thị Sáu). Ngoài Sài Gòn, 13 trên tổng số các tỉnh Nam Bộ đều có các cuộc nổi dậy. Quần chúng đánh chiếm nhiều trụ sở xã, tuần hành. Nhưng cũng giống như Sài Gòn, các cuộc đấu tranh nhanh chóng bị dập tắt mà không chiếm được tỉnh lị nào. Có thể nói phong trào hội kín là một hình thức đấu tranh rất đặc biệt của nhân dân Nam Bộ vào đầu thế kỷ XX. Hội kín là biểu hiện của một xu hướng đấu tranh theo đường lối phong kiến, từ cơ cấu tổ chức đến ý thức hệ. Nhưng trong bối cảnh mà xu hướng đấu tranh cứu nước theo hình thức phong kiến do nhà Nguyễn đứng đầu vốn đã thất bại trước những thách thức của lịch sử, thì dư âm của nó thông qua phong trào hội kín cũng chỉ là sự níu kéo trong vô vọng của những người dân Nam Bộ yêu nước. Lực lượng yếu, chưa đề ra được một con đường đấu tranh đúng đắn. Hơn nữa việc nhuộm màu sắc tôn giáo, sử dụng pháp thuật cho các phong trào đấu tranh cũng là một hạn chế lớn. Phong trào hội kín đã bị đàn áp. Nhưng một điểm hết sức đặc biệt đáng phải ghi nhận là, tuy không thành công nhưng phong trào hội kín không hề thất bại. Bản thân phong trào hội kín vẫn có những đóng góp nhất định vào phong trào đấu tranh của nhân dân Nam Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung. Thứ nhất, bản thân phong trào Hội kín vẫn mang những giá trị tích cực. Hội kín xuất phát từ sự cố kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau của những con người lao khổ. Điều lệ của hội dạy những hội viên phải biết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Đó là sự nối tiếp truyền thống tốt đẹp từ ngàn xưa của dân tộc, vẫn được phát huy trong cảnh tang thương của một đất nước đang rên xiết trong xích xiềng nô lệ. Giá trị tích cực ấy sẽ còn được nối tiếp và phát huy trong những giai đoạn đấu tranh tiếp theo của người dân Nam Bộ. Thứ hai, mặc dù thực lực của bản thân hội kín không mạnh, nhưng thực sự trong một số cuộc đấu tranh cụ thể, hội kín đã thu hút được một số lượng đông đảo các tầng lớp trong xã hội cùng tham gia. Những kinh nghiệm về tập hợp lực lượng, cách thức tổ chức đấu tranh bí mật và bạo động cũng là những bài học quý giá cho những nhà cách mạng ở Nam Bộ trong giai đoạn tiếp theo. Cuối cùng, tuy bị đàn áp nhưng hội kín không hề lụi tắt và tan rã. Sức sống bền bỉ ấy sau đó nhanh chóng đã hòa nhập những tàn dư còn lại của hội kín với những phong trào đấu tranh theo các xu hướng mới, tiến bộ hơn (tư sản, vô sản…). Góp phần nuôi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần quật khởi của nhân dân Nam Bộ. 1.2.2 Phong trào yêu nước theo xu hướng tư sản Sự tồn tại của phong trào đấu tranh theo xu hướng phong kiến dưới hình thức hội kín ở Nam Bộ kéo dài qua gần cả 20 năm đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh mà xu hướng đấu tranh này đã thất bại từ trước đó rất lâu trên phạm vi cả nước là một điểm rất đặc biệt của lịch sử vùng Nam Bộ. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh chung của cả nước và thế giới, các phong trào đấu tranh ở Nam Bộ cũng bắt đầu xuất hiện một xu hướng mới, tiến bộ hơn: Xu hướng tư sản. “Đặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX là khi ở Việt Nam chưa có giai cấp tư sản thì tư tưởng dân chủ đã đến”. [21, tr 62] Ở thời điểm chế độ phong kiến khủng hoảng đối với vấn đề lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong lúc mà một bầu không khí bi quan tràn ngập khắp nơi, khi các cuộc khởi nghĩa chống Pháp đều đã bị kẻ thù dìm trong bể máu, thì những luồng tư tưởng dân chủ mới mẻ qua tân thư, tân văn, sách báo tiến bộ đã ào ạt đổ vào Việt Nam như một luồng gió mát làm dịu đi sự bức bối của đêm hè nóng nực. Những sỹ phu yêu nước Việt Nam nhanh chóng tiếp nhận những quan điểm tiến bộ đó, và bắt đầu xúc tiến một con đường cứu nước mới theo ngọn cờ dân chủ tư sản. Liền sau đó, một phong trào yêu nước theo xu hướng dân chủ tư sản bùng nổ trên phạm vi cả nước, cụ thể là các phong trào Duy Tân và Đông Du. Từ đầu thế kỷ XX, khi các phong trào yêu nước mới theo xu hướng dân chủ tư sản được các sỹ phu yêu nước Việt Nam phát động rầm rộ, vùng Nam Bộ cũng có những hoạt động hưởng ứng tích cực. Hai trụ cột của phong trào Duy Tân: Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đều hết sức chú ý đến vùng Nam Bộ, bởi tiềm lực tài chính, và truyền thống yêu nước của cư dân nơi đây. Thực tế đã cho thấy, “phong trào Đông Du là cuộc vận động cứu nước do Duy Tân Hội phát động dưới sự lãnh đạo của Phan Bội Châu và Cường Để ở những năm đầu thế kỷ XX, phát triển rộng khắp trong cả nước. Riêng Nam Kỳ có bước phát triển sâu rộng nhất, có lãnh đạo, có tổ chức và có những điều kiện khả thi để cho phong trào Đông Du phát triển”. [73, tr 24] Điều kiện để phong trào Đông Du phát triển ở Nam Bộ thực sự thuận lợi hơn rất nhiều so với các địa phương khác trên cả nước, do bởi vùng Nam Bộ, với tư cách là một khu vực trực trị của chính quyền Pháp, đã có một nền kinh tế - văn hóa tiếp cận với nền kinh tế thị trường ở một mức độ sâu rộng và trong thời gian dài. Những luồng ý thức hệ tư sản vì vậy có điều kiện nảy sinh và phát triển một cách mạnh mẽ, mà điều đó lại là một nhân tố quan trọng hàng đầu cho việc xu hướng yêu nước tư sản ra đời và khẳng định vị thế của mình trong phong trào yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX nói chung. Đối với Phan Bội Châu, ngay từ khi thành lập Duy Tân Hội, ông cùng với một số nhà lãnh đạo của Hội đã nghĩ đến việc tranh thủ những thế mạnh của vùng Nam Bộ để tạo tiềm lực cho cuộc đấu tranh chống Pháp. Ngay từ năm 1903, Phan Bội Châu đến Châu Đốc, mục đích để thăm dò khả năng cách mạng ở nơi đây. Đến năm 1907, theo sáng kiến của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, ông soạn bài văn: Ai cáo Nam kỳ phụ lão để vận động các nhân sỹ yêu nước Nam Bộ, trong đó có đoạn: Thương ôi! Lục tỉnh Nam Kỳ Ngàn năm cơ nghiệp còn gì hay không? Mịt mù một giải non sông, Hỡi ai, ai có đau lòng chăng ai? Hưởng ứng lời kêu gọi đó, hàng loạt các sỹ phu Nam Bộ đã hoạt động rất tích cực để ủng hộ phong trào Duy Tân. Có thể kể đến những nhà yêu nước vĩ đại như: Bùi Chi Nhuận, Nguyễn Thần Hiến, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Khương… Trần Chánh Chiếu không chỉ đấu tranh tích cực trên mặt trận tuyên truyền thông qua báo chí, mà còn thành lập công ty Nam Kỳ Minh Tân Công Nghệ, mở các khách sạn như Minh Tân khách sạn ở Mỹ Tho và Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn để vừa tìm kiếm kinh phí vừa tạo cơ sở hoạt động cho phong trào Duy Tân. Ngu._.dân Pháp trong nước Việt Nam nổi lên khắp nơi. Người Pháp đàn áp thẳng tay bằng cách giam giữ tất cả những ai bị tình nghi là chống lại họ. Lúc bấy giờ Cao Đài là một tôn giáo có tổ chức chặt chẽ và phát triển rất nhanh, nên người Pháp rất lấy làm nghi ngại. Sau nhiều lần đe dọa, Pháp vào tận Nội Ô Toà Thánh Tây Ninh bắt Hộ pháp Phạm Công Tắc và một số chức sắc khác đày sang đảo Madagascar. Đến năm 1946, tình hình chính trị thay đổi, người Pháp trả tự do cho Phạm Công Tắc. Kể từ đó, ông trở lại cầm quyền tôn giáo Cao Đài và kiện toàn tất cả các cơ sở tôn giáo này. Đến năm 1955, tướng Nguyễn Thành Phương theo lệnh của Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đem quân về bao vây Hộ Pháp Đường tại Tòa Thánh Tây Ninh. Chiến dịch thanh trừng này có mục đích là loại bỏ những ai không đồng tình với chế độ lúc bấy giờ. Ngày 16 tháng 2 năm 1956, lúc 3 giờ sáng, ông rời sang Campuchia, tiếp tục hành đạo ở đó cho đến khi mất vào năm 1959. 10. HUỲNH PHÚ SỔ (1920 - 1947) Ông sinh ngày 15/1/1920 nhằm ngày 25/11 năm Kỷ Mùi tại làng Hoà Hảo, huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, (nay thuộc huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Ngày 18/5/ Kỷ Mão (4 tháng 7 năm 1939) ông khai đạo Hòa Hảo. Chỉ trong một thời gian ngắn số tín đồ và ảnh hưởng của Huỳnh Phú Sổ càng ngày càng gia tăng và trở thành một phong trào tín ngưỡng mạnh mẽ khiến thực dân Pháp lo ngại, bèn lập tức tiến hành quản chế. Tháng 10/1942 trước tin tức người Pháp sẽ đưa Huỳnh Phú Sổ đi đày ở Ai Lao (Lào), các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và hiến binh Nhật đã giải cứu ông đem về Sài Gòn. Ngày 14/8/1945, Huỳnh Phú Sổ cùng Hồ Văn Ngà, Trần Văn Ấn, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Thạch... thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất. Sau tạm ước ngày 6/3/1946, ông tham gia Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ với chức vụ Ủy viên Đặc biệt. Ngày 21/9/1946, Huỳnh Phú Sổ và một số trí thức khuynh hướng dân tộc, dân chủ thành lập Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng, gọi tắt là Dân Xã đảng. Ngày 27/2/1947, đại diện của Huỳnh Phú Sổ là Nguyễn Bảo Toàn cùng với lãnh tụ các đảng quốc gia khác như: Nguyễn Hải Thần (Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội), Nguyễn Tường Tam (Việt Nam Quốc dân đảng) thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Toàn quốc. Ngày 16/4/1947 Huỳnh Phú Sổ đột ngột mất tích khi đến Tân Phú, Đồng Tháp Mười để hòa giải sự xung đột giữa Việt Minh và Phật Giáo Hòa Hảo. Cái chết của ông đến nay vẫn là một nghi vấn lịch sử chưa được giải đáp. PHỤ LỤC 3: NHỮNG NHÀ CÁCH MẠNG TIÊU BIỂU CHO XU HƯỚNG YÊU NƯỚC VÔ SẢN Ở NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX 1. NGUYỄN AN NINH (1900 - 1943) Ông quê ở Quán Tre, huyện Hóc Môn (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) nhưng ông sinh tại quê mẹ ở xã Long Thượng, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là tỉnh Long An). Năm 1918, ông sang Paris, Pháp, học đại học ngành luật tại Đại học Sorbonne. Hai năm sau, ông đã hoàn thành chương trình học tập và được cấp bằng cử nhân Luật hạng xuất sắc. Trong thời gian ở Paris, Nguyễn An Ninh liên hệ với Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc. Ngày 5 tháng 10 năm 1922, ông về nước. Tháng 12/1923, ông cho ra tờ báo Pháp văn La cloche fêlée (Tiếng chuông rè, có người dịch Tiếng chuông rạn) ở Sài Gòn để công kích chính sách thực dân Pháp, đề cao các nhà cách mạng, làm cho người đọc tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc và truyền bá những tư tưởng tự do. Năm 1926, ông đã sáng lập ra Thanh niên Cao vọng Đảng, một tổ chức yêu nước hoạt động theo nguyên tắc hội kín ở Nam Kỳ. Năm 1939, ông Ninh đi hẳn với những cộng sản trong nhóm Dân Chúng và viết cho báo Dân Chúng, góp phần tổ chức nhiều cuộc biểu tình đòi các quyền tự do dân chủ, ra ứng cử vào Hội đồng Quản hạt (Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ). Ngày 5/10/1939, lần thứ năm ông bị thực dân Pháp bắt giam. Sau đó, ông nhận án 5 năm tù lưu đày Côn Đảo. Trên đảo, ông bị hành hạ, bị đói khát triền miên khiến ông kiệt sức dần. Nguyễn An Ninh mất trong tù vào ngày 14/8/1943, hai năm trước khi Việt Nam giành lại được độc lập, hưởng dương 43 tuổi. 2. NGUYỄN VĂN CỪ (1912 - 1941) Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương (1938 - 1940). Ông sinh trong một gia đình nhà Nho, quê xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1927, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Tháng 6/1929, ông được kết nạp vào chi bộ Đông Dương Cộng sản đảng đầu tiên ở Hà Nội. Năm 1930, được cử làm Bí thư đặc khu Hồng Gai – Uông Bí. Bị Pháp bắt, kết án khổ sai, đày đi Côn Đảo. Năm 1936, ông được trả tự do, về hoạt động bí mật ở Hà Nội. Tháng 9/1937, được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ở hội nghị Hóc Môn (Gia Định). Năm 1938, ông được bầu làm Tổng bí thư khi mới 26 tuổi. Tháng 6/1940, ông bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn cùng với một số đảng viên khác. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (1940), thực dân Pháp ghép ông vào tội đã thảo ra "Nghị quyết thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương", "chủ trương bạo động" và là "người có trách nhiệm tinh thần trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ" và kết án tử hình. Ngày 28/8/1941, bản án được thi hành cùng lúc với một số đảng viên cộng sản khác như Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu... tại trường bắn Hóc Môn. 3. NGUYỄN THỊ MINH KHAI (1910 - 1941) Bà sinh tại xã Vĩnh Yên, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Thuở nhỏ sống cùng mẹ ở xã Đức Tùng, Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1927, bà hoạt động trong phong trào công nhân ở Vinh và tham gia thành lập Đảng Tân Việt, giữ chức Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ. Năm 1930, bà gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách tuyên truyền, huấn luyện đảng viên tại Trường Thi, Bến Thủy. Sau đó, bà sang Hương Cảng làm thư ký cho Nguyễn Ái Quốc ở văn phòng chi nhánh Đông phương bộ của Quốc tế Cộng sản. Năm 1931, bà bị bắt tại Hương Cảng, bị kết án và giam ở đây. Năm 1934, bà ra tù và được Đông phương bộ Quốc tế Cộng sản cử làm đại biểu chính thức đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tại Moskva cùng với Lê Hồng Phong. Sau đó bà thành hôn với Lê Hồng Phong và học tại trường Đại học Phương Đông. Năm 1936, bà được cử về nước truyền đạt chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và được cử vào Xứ ủy Nam kỳ, giữ chức Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, một trong những người lãnh đạo cao trào Cách mạng 1936-1939 ở Sài Gòn. Thời gian này, bà lấy bí danh là Năm Bắc. Năm 1940, bà bị bắt ngay sau phiên họp của xứ ủy Nam kỳ về phổ biến chủ trương khởi nghĩa và bị giam tại Khám lớn (Sài Gòn). Tuy nhiên, bà vẫn liên lạc với bên ngoài và vẫn tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh. Sau khi Khởi nghĩa Nam kỳ thất bại, bà bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị xử bắn tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn ngày 26/8/1941. Trước khi bị xử tử, bà đã khẳng khái lên án tội ác thực dân Pháp và hô to: "Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!", thể hiện tinh thần bất khuất, kiên trung của bà. 4. PHAN ĐĂNG LƯU (1902 - 1941) Ông sinh ngày 5/5/1902, tại xã Tràng Thành (nay là Hoa Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông tốt nghiệp Trường Canh nông và tham gia Hội Phục Việt (sau đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng) làm đến chức uỷ viên Tổng bộ. Năm 1928, Phan Đăng Lưu tham gia xuất bản “Quan hải tùng thư” tại Huế; ông giữ chức uỷ viên thường vụ của Tổng bộ Đảng Tân Việt. Ngày 15/12 cùng năm, ông sang Trung Quốc để liên lạc với Tổng bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Tháng 9/1929, ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt tại Hải Phòng và bị kết án tù khổ sai và đày đi Buôn Ma Thuột. Ra tù năm 1936, ông tham gia lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ ở Huế. Trong thời gian này ông đã viết nhiều bài báo, tác phẩm với bút danh Tân Cương, Phi Bằng. Năm 1938, ông được bầu uỷ viên ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Đông dương và uỷ viên thường vụ trung ương. Tháng 11/1939, ông tham dự Hội nghị thứ VI (Hội nghị quyết định nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế). Tháng 7/1940, ông thay mặt trung ương Đảng dự Hội nghị của xứ uỷ Nam Kì, thông qua đề cương chuẩn bị khởi nghĩa. Tháng 11/1940, ông tham dự Hội nghị VII của Ban Chấp hành trung ương Đảng. Tại Hội nghị này, ông được bầu là Ủy viên Thường vụ và được phân công chỉ đạo phong trào ở Nam Kỳ. Sau đó, Trung ương Đảng cử ông vào Nam Kì để thông báo hoãn cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên, ngày 22/11/1940, ông bị bắt khi vừa về đến Sài Gòn do kế hoạch bị bại lộ. Ngày 18/8/1941, ông bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị bắn ở Hóc Môn. 5. LÊ HỒNG PHONG (1902 - 1942) Ông tên thật là Lê Huy Doãn, sinh năm 1902 trong một gia đình nghèo thuộc xóm Đông Cửa, thôn Đông Thông, tổng Thông Lạng, nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Từ nhỏ cuộc sống ông đã bập bênh nhiều khó khăn. Khi trưởng thành, ông đi làm công cho một hãng buôn ở Vinh, rồi làm công nhân nhà máy diêm Bến Thủy và bị đuổi việc vì đã vận động công nhân đấu tranh. Tháng 1 năm 1924, ông cùng Phạm Hồng Thái sang Thái Lan, sau đó đi qua Hồng Kông, Trung Quốc tham gia Tâm Tâm Xã (còn gọi là Tân Việt Thanh niên Đoàn). Ông là một trong 9 hội viên hạt nhân của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1924, ông học Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 2 năm 1926, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cuối năm đó, ông tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố. Từ tháng 10/1926 đến tháng 10/1927, ông sang học trường Lý luận Quân sự tại Leningrad (Liên Xô). Từ tháng 12 năm 1927 đến tháng 11 năm 1928, ông học trường Không quân số 2 ở Borisoglebsk (Liên Xô). Từ tháng 12 năm 1928, ông theo học trường Đại học Lao động Cộng sản phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva (Liên Xô) với bí danh Litvinov. Sau khi tốt nghiệp, ông tham gia Hồng quân Liên Xô với cấp bậc Trung tá. Cuối năm 1931, với tên là Vương Nhật Dân, ông về Trung Quốc hoạt động. Năm 1934 ông thành lập Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng tại Ma Cao, chính ông làm Bí thư. Ngày 14 tháng 6 năm 1934, ông triệu tập Hội nghị Ban Chỉ huy Hải ngoại và đại biểu các đảng bộ trong nước bàn kế hoạch triệu tập Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Tháng 3 năm 1935, tại Đại hội I của Đảng ở Ma Cao, ông được bầu làm Tổng Bí thư. Tháng 7 tháng 1935, ông dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng ra dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ở Moskva. Đại hội công nhận Đảng là Chi bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản và bầu ông làm Ủy viên Ban Chấp hành của Quốc tế Cộng sản. Tháng 1/1936, ông tới Trung Quốc và triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng tại Thượng Hải (tháng 7 năm 1936). Ngày 10/11/1937, với tên là La Anh, ông về nước hoạt động. Tháng 3 năm 1938, ông dự Hội nghị Trung ương họp tại Hóc Môn (Gia Định) quyết định thành lập "Mặt trận Dân chủ Đông Dương". Ngày 22 tháng 6 năm 1939, ông bị quân Pháp bắt lần thứ nhất ở Sài Gòn và bị kết án 6 tháng tù. Ngày 6 tháng 2 năm 1940, ông bị bắt lần thứ hai, bị kết án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo. Ngày 6 tháng 9 năm 1942, ông qua đời trong lúc ở trong tù tại Côn Đảo. Ông lập gia đình với Nguyễn Thị Minh Khai, một nữ đồng chí cùng học tại Đại học Phương Đông. Hai người có chung một người con gái. 6. VÕ VĂN TẦN (1894 - 1941) Ông quê ở xã Đức Hoà, huyện Đức Hoà, tỉnh Chợ Lớn, nay thuộc tỉnh Long An, là anh ruột đồng chí Võ Văn Ngân. Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo. Lớn lên ra thành phố làm nghề kéo xe để kiếm sống. Ông sớm tham gia các cuộc đấu tranh ở địa phương, tham gia hoạt động yêu nước trong tổ chức của Nguyễn An Ninh, Ông chuyển sang tổ chức Đảng Cộng sản năm 1929, đảm trách chức vụ Bí thư Huyện uỷ đầu tiên huyện Đức Hoà (1930), trực tiếp tổ chức cuộc đấu tranh của nông dân ở Đức Hoà ngày 4 tháng 6 năm 1930, bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt. Sau đó ông giữ các chức vụ quan trọng trong Đảng như Bí thư Tỉnh uỷ Chợ Lớn (1931), bí thư Tỉnh ủy Gia Định (1932). Từ 1936, ông tổ chức lãnh đạo phong trào đấu tranh dân chủ ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ; được Đảng đề cử các chức vụ bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1937 - 1940). Ông bị thực dân Pháp bắt vào tháng 7/1940 và sau bị xử bắn tại Hóc Môn ngày 28/8/1941. 7. HÀ HUY TẬP (1906 - 1941) Ông sinh ở làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ là một nhà nho nghèo. Năm 1923, tốt nghiệp hạng ưu trường Quốc học Huế. Từ năm 1923 đến 1926, ông làm giáo viên tiểu học ở thành phố Nha Trang. Giữa năm 1926, ông bị trục xuất khỏi Nha Trang và chuyển về dạy học ở trường tiểu học Cao Xuân Dục (thành phố Vinh). Ông tham gia Hội Phục Việt (sau đổi là Hội Hưng Nam, tiền thân của Tân Việt Cách Mạng Đảng nên bị sa thải. Tháng 3/1927, ông chuyển vào Sài Gòn hoạt động, kiếm sống và dạy học ở An Nam học đường tức trường Nguyễn Xích Hồng, đến tháng 1/1928 ông lại bị sa thải khỏi An Nam học đường. Tháng 12/1928, ông sang Quảng Châu, Trung Quốc bàn việc hợp nhất với tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội rồi hoạt động trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Ngày 19/7/1929, ông sang Liên Xô, học trường Đại học Lao động Cộng sản phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva với bí danh là Cinichkin (Xi-nhi-trơ-kin). Cuối năm 1929, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản toàn liên bang (bôn-sê-vích) (tên gọi lúc đó của Đảng Cộng sản Liên Xô). Năm 1932, ông tốt nghiệp đại học và trở về Việt Nam. Trên đường về ông bị Pháp bắt và bị trục xuất sang Bỉ, sau đó trở về Trung Quốc. Năm 1934, ông tham gia Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông trực tiếp chủ trì Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng tại Ma Cao từ 27/3 đến 31/ 3 năm 1935. Tại Đại hội này, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và có chân trong Ban Thường vụ Trung ương. Tháng 3/1935, ông được cử làm Bí thư Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 7/1936, Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương cử ông về nước để lập lại Trung ương cấp ủy và và giữ chức Tổng Bí thư. Ông trực tiếp chỉ đạo các báo L'Avant garde (Tiền phong) (1937), Dân chúng (1938) của Đảng dưới danh nghĩa "cơ quan lao động và dân chúng" ở Nam Kỳ. Từ 3/ 9 đến 5/9 năm 1937, Hội nghị Trung ương họp ở Bà Điểm, Gia Định, ông báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo của đảng từ sau Đại hội I đến năm 1937. Tháng 3 năm 1938, ông thôi chức Tổng Bí thư, là Ủy viên Thường vụ Trung ương và thành viên Ban Bí thư Trung ương Đảng. Ngày 1 tháng 5 năm 1938, ông bị quân Pháp bắt tại Sài Gòn, sau đó bị quản thúc ở quê. Ngày 30/3/1940 ông bị bắt lại và ngày 25/10 năm đó, ông bị thực dân Pháp xử tuyên án 5 năm tù giam. Ngày 25/3/1941, Pháp đổi thành án tử hình vì "chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (cùng bị kết án tử hình với Hà Huy Tập còn có Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai). Trước tòa ông tuyên bố: "Tôi chẳng có gì phải hối tiếc. Nếu còn sống tôi sẽ tiếp tục hoạt động." Ngày 28 tháng 8 năm 1941, ông bị Pháp xử bắn cùng với một số nhà cách mạng khác tại Sở Rác (nay là bệnh viện Hóc Môn, Sài Gòn). (Có tài liệu nói là ông và các đồng chí bị xử bắn ở Ngã Ba Giồng, Hóc Môn, Gia Định, hiện nay có khu di tích tại đây). 8. NGÔ GIA TỰ (1908 – 1935) Ông sinh tại làng Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1927, ông tham gia lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu, Trung Quốc. Tháng 3 năm 1929, ông tham gia thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, ông được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời của Đảng bộ Nam Kỳ. Đến cuối năm 1930, ông bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn và đày ra Côn Đảo vào tháng 5 năm 1933. Đầu năm 1935 ông tổ chức vượt ngục. Song dự định đó không thành, ông bị mất tích cùng với các bạn tù khác khi vượt biển vào đất liền. 9. TRẦN VĂN GIÀU (1911) Ông sinh ngày 6/9/1911, quê ở xã An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tân An (nay là tỉnh Long An). Năm 1928, sang Pháp du học. Tháng 5/1930, ông tham gia biểu tình trước dinh tổng thống Pháp đòi hủy án tử hình đối với các thủ lĩnh cuộc Khởi nghĩa Yên Bái, do đó bị trục xuất về Việt Nam. Năm 1931, ông theo học tại Trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva, Liên Xô. Tháng 6/1935, bị tòa án Pháp tại Sài Gòn kết án 5 năm tù và bị đày ra Côn Đảo. Tháng 4/1940, ông được tha, nhưng bị bắt lại sau mấy ngày và bị đưa đi an trí ở trại Tà Lài. Năm 1941, ông trở về tiếp tục hoạt động cách mạng. Tháng 10/1943, ông được bầu làm bí thư Xứ ủy Nam Kỳ. Tháng 8/1945, ông tham gia lãnh đạo giành chính quyền ở Sài Gòn và các tỉnh ở Nam Bộ. Tháng 9/1945, ông được cử làm chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Năm 1949, ông được cử làm Tổng giám đốc Nha Thông tin. Năm 1951, sang Bộ Giáo dục, tham gia xây dựng ngành dự bị đại học và sư phạm cao cấp. Năm 1954, ông giữ chức chủ nhiệm Khoa Lịch Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Những năm 1962 - 75, công tác tại Viện Sử học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam). Từ năm 1975 đến nay, ông tiếp tục nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội. PHỤ LỤC: SƠ ĐỒ CÁC XU HƯỚNG YÊU NƯỚC Ở NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Ngọc Anh và những người khác (2005), 75 năm Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2005), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 2. Huỳnh Công Bá (2008), Lịch sử Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 3. Ban nghiên cứu lịch sử công đoàn Việt Nam (1974), Sơ thảo lần thứ nhất Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn Việt Nam (1860 – 1945), NXB Lao Động, Hà Nội. 4. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung Ương (1976), Những sự kiện lịch sử Đảng, tập 1: 1920 - 1945, Nxb. Sự Thật, Hà Nội. 5. Đỗ Thanh Bình (2006), Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX - Một cách tiếp cận, Nxb. Đại học sư phạm Hà Nội. 6. Phan Xuân Biên (2005), Miền Đông Nam bộ con người và văn hóa, Nxb. Đại học quốc gia TP.HCM. 7. Nguyễn Công Bình (2008), Đời sống xã hội ở vùng Nam Bộ, Nxb. Đại học quốc gia TP.HCM. 8. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 9. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Nam bộ, thực trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Bộ phận thường trực ban nghiên cứu tổng kết lịch sử công an nhân dân phía Nam (1993), Công an Nam Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Nxb. Công an nhân dân, TP.HCM. 11. Đặng Đình Ca (1984), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954, tập 1, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 12. Phan Bội Châu (2001), Phan Bội Châu niên biểu, Nxb. Văn Nghệ, TP.HCM. 13. Trường Chinh (2005), Cách mạng tháng Tám, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 14. Trương Văn Chung, Doãn Chính (2005), Bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Phan Kỳ Chưởng (1973), Đạo Cao Đài và chính trị, Luận văn tốt nghiệp, Học viện Quốc gia hành chánh, Sài Gòn. 16. Nguyễn Trọng Cổn (1980), Phong trào công nhân trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, Nxb. Lao Động, Hà Nội. 17. Cục văn thư và lưu trữ cả nước, Trung tâm lưu trữ quốc gia III (2007), Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1954) qua tài liệu lưu trữ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 18. Hồ Sơn Diệp (2003), Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Nxb.Đại học quốc gia, TP.HCM. 19. Lê Anh Dũng (1996), Lịch sử Đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn, 1920 - 1926, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 20. Đoàn Dũng (1973), Ảnh hưởng tôn giáo trong sinh hoạt chính trị miền nam, Luận văn tốt nghiệp, Học viện chính trị quốc gia, Sài Gòn. 21. Đinh Trần Dương (2006), Sự chuyển biến của phong trào yêu nước và cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội. 22. Đinh Trần Dương (2006), Tân Việt Cách mạng Đảng trong cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Hồ Sơn Đài (1996), Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ (1945 - 1954), Nxb. TP.HCM. 24. Hồ Sơn Đài (2008), Cuộc kháng chiến 1945 - 1975 nhìn từ Nam Bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Hồ Sơn Đài, Đỗ Tầm Chương, Hồ Khang (2005), Bộ đội Bình Xuyên, Nxb. Lao động, Hà Nội. 26. (1969), Đồng chí Phạm Ngọc Thạch : nhà trí thức cách mạng, Nxb. Y học và thể dục thể thao, Hà Nội. 27. Vũ Minh Giang (chủ biên), Nguyễn Quang Ngọc, Lê Trung Dũng, Cao Thanh Tân, Nguyễn Sỹ Tuấn (2006), Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 28. Trần Giang chủ biên (2002), Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ: Công trình khoa học cấp nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Võ Nguyên Giáp (2001), Những năm tháng không thể nào quên, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, Hữu Mai thể hiện. 30. Võ Nguyên Giáp (2001), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, Hữu Mai thể hiện. 31. Võ Nguyên Giáp (2001), Đường tới Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, Hữu Mai thể hiện. 32. Võ Nguyên Giáp (2001), Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, Hữu Mai thể hiện. 33. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, tập 1: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb. TP.HCM. 34. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, tập 2: Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb. TP.HCM. 35. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, tập 3: Thành công của chủ nghĩa Mác Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. TP.HCM. 36. Trần Văn Giàu (2007), Tổng tập, tập 2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 37. Trần Văn Giàu (2008), Tổng tập, tập 3, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 38. Hoàng Hà chủ biên (2005), Trận tuyến công khai giữa Sài Gòn, ký sự về báo chí cách mạng công khai và phong trào đấu tranh của báo giới Sài Gòn, Nxb. Trẻ, TP.HCM. 39. Lê Mậu Hãn chủ biên, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư (2003), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội. 40. Nguyễn Hanh (1984), Miền Đông Nam Bộ lịch sử và phát triển, Nxb. TPHCM. 41. Nguyễn Văn Hầu (1968), Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo, Nxb. Hương Sen, Sài Gòn. 42. Thái Nhân Hòa (2005), Xu hướng canh tân - Phong trào Duy tân - Sự nghiệp đổi mới (Từ giữa thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XX), Nxb. Đà Nẵng. 43. Phan Văn Hoàng (2001), Cao Triều Phát, nghĩa khí Nam Bộ, Nxb. Trẻ, TPHCM. 44. (1961), Hội kín Nguyễn An Ninh, Nxb. Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn. 45. Nguyên Hùng (2004), Bảy Viễn - thủ lĩnh Bình Xuyên, tuyển tập, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 46. Nguyên Hùng (1988), Người Bình Xuyên, tiểu thuyết tư liệu, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 47. Nguyên Hùng (1990), Sư thúc Hòa Hảo, tiểu thuyết tư liệu, Nxb. Tổng hợp Hậu Giang. 48. Đỗ Quang Hưng (2003), Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 49. Phạm Dương Mỹ Thu Huyền (2008), Tôn Đức Thắng với phong trào công nhân Sài Gòn đầu thế kỷ XX đến năm 1930, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 50. Vũ Như Khôi, Đào Trọng Bằng chủ biên (2006), Mở đầu toàn quốc kháng chiến, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 51. Đoàn Khuê, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Quan (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52. Nguyễn Văn Kiêm (1976), Lịch sử Việt Nam (Đầu thế kỷ XX - 1918), Quyển 3, tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 53. Mạnh Xuân Kiếm (1971), Vai trò chánh trị của Cao Đài, Luận văn tốt nghiệp Cao học hành chánh, Học viện chính trị quốc gia, Sài Gòn. 54. (2006), Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. Lịch sử quan phủ Ngô Văn Chiêu (1878 - 1932), Người sáng lập Cao Đài Đại Đạo, Nxb. Hòa Chánh, Sài Gòn. 56. Phan Ngọc Liên chủ biên (2005), Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội. 57. Phan Ngọc Liên và những người khác (2006), Biên niên sử các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 1, 2, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội. 58. Huỳnh Lứa chủ biên (1993), Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam (1906 - 1990), Nxb. Trẻ, TP.HCM. 59. Huỳnh Lứa chủ biên, Lê Quang Minh, Lê Văn Nam, Nguyễn Nghị, Đỗ Hữu Nghiêm (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb. TP.HCM. 60. Huỳnh Lứa, Đặng Văn Thắng, Hồ Hữu Nhựt (2004), Nam Bộ Đất và người, Nxb. Trẻ, TPHCM. 61. Huỳnh Lý (2002), Phan Châu Trinh - Thân thế và sự nghiệp, Nxb. Trẻ, TP.HCM. 62. Đinh Xuân Lý (2007), Quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 63. Hồ Chí Minh (1966), Về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 64. Nguyễn Thị Minh (2001), Nguyễn An Ninh - “Tôi chỉ muốn làm cơn gió thổi”, Nxb. Trẻ, TP.HCM. 65. Thành Nam (1982), Phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân cao su miền Đông Nam Bộ, Nxb. Lao Động, Hà Nội. 66. Sơn Nam (2003), Phong trào Duy Tân ở Bắc, Trung, Nam; Miền Nam đầu thế kỷ XX - Thiên Địa hội và cuộc minh tân, Nxb. Trẻ, TP.HCM. 67. Lương Ninh (2005), Vương quốc Phù Nam - Lịch sử và văn hóa, Viện văn hóa và Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 68. Vũ Ngọc Nguyên (1959), Công nhân Nam Bộ trong khói lửa, Nxb. Lao Động, Hà Nội. 69. (2001), Nguyễn An Ninh - Nhà trí thức yêu nước, Nxb. TP.HCM. 70. (1970), Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh - Thân thế và sự nghiệp, Nxb. Cấp Tiến, Sài Gòn. 71. Nhiều tác giả (1999), Nam bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi ký kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 72. Nhiều tác giả (2002), Hỏi đáp về chủ tịch Tôn Đức Thắng và lược sử phong trào công nhân Việt Nam, Nxb. Trẻ, TP.HCM. 73. Nhiều tác giả (2007), Phong trào Đông Du ở Miền Nam, Tạp chí Xưa và Nay, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, TP.HCM. 74. Trịnh Nhu chủ biên (2008), Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập 1:Nguyễn Ái Quốc tìm đường giải phóng dân tộc và các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản, 75. Trịnh Nhu chủ biên (2008), Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập 2: Đảng lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền và thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1930 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 76. Nguyễn Trọng Phúc chủ biên (2006), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2006), Nxb. Lao Động, Hà Nội. 77. Nguyễn Trọng Phúc chủ biên (2006), Các đại hội đại biểu toàn quốc và hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 78. Trần Hải Phụng, Lưu Phương Thanh (1994), Lịch sử Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định kháng chiến (1945 - 1975), Nxb. TP.HCM. 79. Lê Minh Quốc (2007), Nguyễn An Ninh - Dấu ấn để lại, Nxb. Kim Đồng, Hà Nội. 80. Trương Hữu Quýnh và những người khác (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam, toàn tập: từ thời nguyên thủy đến năm 2000, Nxb. Giáo dục Hà Nội. 81. Trần Viết Tá chủ biên (1990), Miền Đông Nam Bộ kháng chiến 1945 - 1975, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 82. Nguyễn Thanh Tâm (2005), Khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa trong cách mạng tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 83. Đồng Tân (1972), Lịch sử Cao Đài - Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Nxb. Cao Hiên, Sài Gòn. 84. Phan Đăng Thanh (2006), Tư tưởng lập hiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 85. Lưu Phương Thanh chủ biên (1990), Nam Kỳ khởi nghĩa, Nxb. TP.HCM. 86. Nguyễn Thành (1991), Mặt trận Việt Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 87. Nguyễn Thành (1985), Cuộc vận động đại hội Đông Dương, Nxb. TP.HCM. 88. Nguyễn Q. Thắng (2006), Phong trào Duy Tân với các khuôn mặt tiêu biểu, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 89. Phạm Văn Thắng, Cao Tự Thanh và những người khác (2007), Lịch sử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng hợp TP.HCM. 90. Chương Thâu (2005), Phan Bội Châu - Nhà yêu nước, nhà văn hóa lớn, Nxb. Trung Tâm văn hóa ngôn ngữ Đông - Tây, Hà Nội. 91. Huỳnh Văn Tiểng, Bùi Đức Tịnh (1995), Thanh niên tiền phong và các phong trào học sinh sinh viên trí thức Sài Gòn 1939 - 1945, Nxb. Trẻ, TP.HCM. 92. Huỳnh Công Tín (2006), Cảm nhận bản sắc văn hóa Nam Bộ, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 93. Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Thị Phương Hồng (2005), Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 94. Lâm Hiếu Trung chủ biên (2003), Lịch sử Đảng bộ Miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 95. Trung tâm nghiên cứu Dân tộc học và tôn giáo (2005), Nam Bộ dân tộc và tôn giáo, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội. 96. Tổng cục chính trị (1998), Một số hiểu biết về tôn giáo – Tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 97. Nguyễn Thị Mộng Tuyền (2003), Phong trào đấu tranh của công nhân cao su Thủ Dầu Một trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Lao Động, Hà Nội. 98. Trần Thị Minh Tuyết, Nguyễn Thị Hồng Vân (2007), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện công nghệ bưu chính viễn thông, Hà Nội, sách điện tử. 99. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 100. Trần Tường Vân, Nguyễn Quang Ân (1997), Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954: Những sự kiện, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 101. Viện Lịch sử Đảng (2008), Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2:Đảng lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền và thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1930 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 102. Viện Lịch sử Đảng (1985), Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, Nxb. Sự Thật, Hà Nội. 103. Nguyễn Việt biên soạn (1957), Nam Bộ và Nam Phần Trung Bộ trong hai năm đầu kháng chiến (1945 - 1946), Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội. 104. (1986), Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp, tập 1: 1945 - 1960, Nxb Sự thật, Hà Nội. 105. Đặng Thanh Xuân (2003), Lịch sử tư tưởng lập hiến nửa đầu thế kỷ XX và sự ra đời của hiến pháp đầu tiên ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ lịch sử, Chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, Viện Khoa học xã hội TP.HCM. 106. Nguyễn Văn Xuân (1995), Phong trào Duy Tân, Nxb. Đà Nẵng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5537.pdf