Cải thiện tình hình, khả năng thanh toán & nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty XNK & hợp tác quốc tế - Coalimex

Mục lục lời nói đầu Trong nền kinh tế hiện đại với tư liệu sản xuất rất phát triển và trình độ phân công lao động ngày càng cao thì xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên phổ biến với mỗi quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Thông qua hoạt động thương mại quốc tế, các mối liên hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở phát huy tiềm năng và thế mạnh của mỗi quốc gia. Chính thương mại quốc tế là sợi dây nối kết nền

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cải thiện tình hình, khả năng thanh toán & nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty XNK & hợp tác quốc tế - Coalimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế của các nước, tạo hiệu quả chung cho quá trình phát triển. Vì vậy hoạt động xuất nhập khẩu giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của các nước trong đó có Việt Nam. ở nước ta, từ sau đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) với chính sách mở cửa nền kinh tế thì các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu ngày một đa dạng. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung, Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế Coalimex nói riêng không thể không tìm kiếm những giải pháp thích hợp hoàn thiện và tăng cường hoạt động kinh doanh của mình bởi vì xuất nhập khẩu là một hoạt động phức tạp sôi động và có tính cạnh tranh cao trên trường quốc tế. Đặc biệt các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần phải chú trọng đến việc quản lý hoạt động thanh toán của mình vì trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu người mua và người bán có sự khác biệt về điều kiện địa lý, luật pháp kinh doanh, tập quán buôn bán cũng như là đồng tiền sử dụng… thì hoạt động thanh toán càng trở nên phức tạp. Song song với điều đó thì công tác quản lý tài sản lưu động cũng gặp rất nhiều khó khăn và thường là kém hiệu quả. Chính từ nhận thức trên của bản thân em và từ thực tiễn hoạt động của Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế Coalimex em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình, khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex ”. Với hy vọng sử dụng những kiến thức đã học kết hợp với tình hình thực tế tại công ty để đóng góp một số ý kiến, giải pháp cho hoạt động thanh toán và quản lý tài sản lưu động của Công ty trong thời gian tới. Kết cấu luận văn của em gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán và quản lý tài sản lưu động. Chương II: Thực trạng khả năng thanh toán và tình hình quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế -Coalimex. Chương III: Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình và khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế -Coalimex Để có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này em rất cám ơn Thạc sỹ Lê Hương Lan đã tận tình chỉ bảo cho em đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các cô các chú, các anh chị tại phòng Kinh tế kế hoạch -Tài chính và trong toàn Công ty đã giúp đỡ em rất nhiều để hoàn thành luận văn này. Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán và quản lý tài sản lưu động I. Hoạt động thanh toán trong doanh nghiệp 1.Khái niệm và vai trò của hoạt động thanh toán đối với doanh nghiệp. Thanh toán là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới các quan hệ trong nền kinh tế, thương mại và các mối quan hệ khác giữa chủ thể này với chủ thể khác trong nền kinh tế. Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ đều nhằm mục tiêu chung là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có một lượng tài sản nhất định. Nếu như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ được đánh giá tại một thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao đổi - chỉ có thể được xác định trong một thời kỳ nhất định. Trong quá trình vận động - các nhân tố được kết hợp với nhau để tạo ra hàng loạt các dịch vụ có ích, phục vụ cho tiêu dùng hoặc để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy trong một thời kỳ nhất định các doanh nghiệp đã chuyển hoá các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra để trao đổi (bán). Sản xuất -chuyển hoá Đầu vào Đầu ra Tài chính Tài chính Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ, có một loại tài sản đặc biệt là tiền. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện thông qua trung gian tiền. Do đó, tương ứng với dòng vật chất đi vào là dòng tiền hay dòng tài chính đi ra, đồng thời làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp các yếu tố đầu vào. Và ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra là dòng tiền hay dòng tài chính đi vào. Lúc này nghĩa vụ thanh toán cũng phát sinh giữa người mua với doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình này, việc đầu tư, mua sắm tài sản của doanh nghiệp phải đảm bảo thu nhập do đầu tư đem lại lớn hơn chi phí đầu tư. Điều đó có nghĩa là các giá trị dòng tiền do tài sản tạo ra phải lớn hơn chi phí của các tài sản đó. Vậy là một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải cùng lúc đạt được hai mục tiêu: Lợi nhuận Duy trì khả năng thanh toán Trong hai mục tiêu này thì mục tiêu số một là tối ưu hoá lợi nhuận. Mục tiêu duy trì khả năng thanh toán thực chất cũng là để hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Trong hoạt động của mình, doanh nghiệp có duy trì được hoạt động kinh doanh, giảm thiểu được rủi ro thì mới có thể thu hút được lợi nhuận. Vì vậy, việc doanh nghiệp có duy trì được khả năng thanh toán hay không là rất quan trọng. Hơn nữa, trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật. Do vậy, ngoài doanh nghiệp sẽ có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng, các chủ nợ, các nhà đầu tư. Không ai lại muốn cho vay hay đầu tư vào một doanh nghiệp mà tình hình tài chính yếu kém. Để biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hay không cần phải xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp như thế nào. Nếu tình hình tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng vốn. Điều đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động về vốn, bảo đảm quá trình kinh doanh thuận lợi. Ngược lại, tình hình tài chính kho khăn, doanh nghiệp nợ nần dây dưa kéo dài, mất tính chủ động trong kinh doanh và đôi khi dẫn đến tình trạng phá sản. Nhiều doanh nghiệp đạt được lợi nhuận rất cao nhưng vẫn bị phá sản, nguyên nhân là do họ có một bảng cân đối tài sản không vững chắc: tình hình tài sản và nguồn vốn nếu xét riêng rẽ rất tốt nhưng họ bỏ qua mối quan hệ hữu cơ giữa tài sản và nguồn vốn. Tài sản lưu động tuy lớn nhưng không có khả năng trang trải các khoản nợ ngắn hạn và các khoản nợ đến hạn chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng nguồn vốn. Như vậy, hoạt động thanh toán ảnh hưởng đến sự sống còn của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn, từ đó thu được lợi nhuận một cách an toàn. Các doanh nghiệp bị phá sản hầu hết là do không trả được các khoản nợ đến hạn chứ không phải trực tiếp do lợi nhuận thấp. Do đó trong ba nội dung cơ bản của quản lý tài chính đối với doanh nghiệp: Quyết định đầu tư Huy động vốn (nguồn tài trợ dài hạn) Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn thì quản lý hoạt động thanh toán đóng vai trò hết sức quan trọng trong nội dung thứ ba kể trên. Ngoài việc xác định mục tiêu cho đầu tư dài hạn và tìm nguồn tài trợ cho đầu tư đó, doanh nghiệp phải chú trọng đến các quyết định tài chính ngắn hạn có liên quan chặt chẽ tới công tác quản lý tài sản lưu động và nợ ngắn hạn để không chỉ nâng cao khả năng sinh lợi mà còn bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 2. Phương pháp, trình tự và nội dung phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 2.1.Các phương pháp phân tích khả năng thanh toán Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp là một nội dung của phân tích tài chính doanh nghiệp, nó cho ta một nền tảng vô cùng quan trọng để đưa ra những đánh giá, nhận xét về thực trạng khả năng thanh toán và đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém, phát huy những ưu điểm để nâng cao khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Vì là một nội dung của phân tích tài chính doanh nghiệp nên nó có các phương pháp tương tự như phân tích tài chính doanh nghiệp nói chung song vì khả năng thanh toán có những đặc thù riêng của nó và ta cũng xem xét nó ở một góc độ khác không quá ràng buộc với những nội dung khác của phân tích tài chính doanh nghiệp nên nhìn chung ta áp dụng những những phương pháp sau: ơPhương pháp phân tích tỷ lệ Trong phân tích khả năng thanh toán ta áp dụng phương pháp này rất phổ biến, đây là phương pháp dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính, trong phân tích tình hình và khả năng thanh toán thì đây chính là mối quan hệ giữa các chỉ tiêu nợ (chủ yếu là nợ ngắn hạn) và tài sản lưu động. Sự biến đổi của các đại lượng tài chính sẽ dẫn đến sự biến đổi của các tỷ lệ này một cách tương ứng. Về nguyên tắc phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu. ưPhương pháp so sánh Đây là phương pháp đơn giản nhất song lại có hiệu quả rất cao, so sánh giúp ta thấy rõ sự tăng giảm, đạt hay không đạt yêu cầu, tốt hay xấu của tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong các năm, các kỳ. Thường thì gốc so sánh được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, chỉ số bình quân của ngành, của doanh nghiệp dẫn đầu và trong phân tích về tình hình và khả năng thanh toán ta hay lấy giá trị so sánh là các số tương đối hay các tỷ lệ ta đã nói ở trên. Như vậy có thể nói khi phân tích tình hình và khả năng thanh toán ta vận dụng cả hai phương pháp trên theo thứ tự lần lượt: phương pháp tỷ lệ rồi đến phương pháp so sánh. 2.2.Trình tự và nội dung phân tích tình hình và khả năng thanh toán Sau khi thu thập đủ các thông tin cần thiết ta tiến hành xác định các chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán như: tỷ lệ thanh toán hiện hành, tỷ lệ thanh toán tức thời, tỷ lệ thanh toán nhanh… Tiếp đó ta tiến hành phân tích chi tiết nhu cầu và khả năng thanh toán nhằm đánh giá chính xác tình hình thanh toán của doanh nghiệp trước mắt và triển vọng trong thời gian tới đây chính là bước lập bảng phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán và dựa vào đó đưa ra những nhận xét, kiến nghị nhất định. 3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của một doanh nghiệp như đã trình bày ở phần 1 liên quan tới cả hai bên bảng cân đối tài chính của doanh nghiệp đó, cụ thể là tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn. Mối quan hệ này được biểu hiện qua các chỉ tiêu sau: 3.1.Vốn lưu động thường xuyên Vốn lưu động thường xuyên = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn Công thức 1 Vốn lưu động thường xuyên là chỉ tiêu dùng để đánh gía điều kiện cân bằng tài chính của doanh nghiệp. Vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là khả năng thanh toán của doanh nghiệp khả quan, tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn. Ngược lại, vốn lưu động thường xuyên < 0 nghĩa là tài sản lưu động không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng. Doanh nghiệp phải dùng một phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Trong trường hợp như vậy giải pháp của doanh nghiệp là giảm các khoản nợ ngắn hạn hay tăng đầu tư vào tài sản lưu động hoặc cả hai (trong mối quan hệ tương đối của các tài sản và nguồn vốn trong doanh nghiệp thì điều này cũng có nghĩa là tăng cường huy động vốn dài hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn). 3.2. Tỷ lệ thanh toán hiện hành Tỷ lệ thanh Tài sản lưu động = toán hiện hành Nợ ngắn hạn Công thức 2 Tỷ lệ thanh toán hiện hành là thước đo khả năng chi trả của một doanh nghiệp từ số tài sản sẵn có của mình. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng thanh toán cáng tốt và thường phải >1. Theo nguyên tắc chung là 2: 1, tuy nhiên con số này thay đổi theo ngành nghề kinh doanh và theo từng công ty. Tỷ lệ này càng nhỏ bao nhiêu thì doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán bấy nhiêu; khi tỷ lệ này gần bằng không thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và có nguy cơ phá sản. 3.3.Tỷ lệ thanh toán nhanh Tỷ lệ thanh Tiền và các chứng khoán thanh khoản cao+ Phải thu = toán nhanh Nợ ngắn hạn Công thức 3 Tỷ lệ thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ. Do vậy, chỉ có tiền, các chứng khoán thanh khoản (CKTK) cao và các khoản phải thu được tính đến với giả định rằng số hàng tồn kho không phải lúc nào cũng chuyển thành tiền được, do hư hỏng, lạc hậu hoặc do bản chất của mặt hàng đó. Thông thường tỷ lệ này nếu > 1 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp là lành mạnh. Ngược lại, nếu tỷ lệ này < 1 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn. Doanh nghiệp sẽ bán gấp sản phẩm, hàng hoá để thanh toán các khoản nợ đến hạn. 3.4. Tỷ lệ thanh toán tức thời Tỷ lệ thanh toán tức thời thông thường nếu > 0,5 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp là khá tốt và ngược lại nếu < 0,5 thì doanh nghiệp khó khăn trong khâu thanh toán. Tỷ lệ thanh Tiền và CKTK cao = toán tức thời Nợ ngắn hạn Công thức 4 Tuy nhiên, tỷ lệ này nếu quá cao lại là điều không tốt vì điều đó có nghĩa là vòng quay của tiền quá chậm, hiệu quả sử dụng vốn như vậy là không cao. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán 4.1.Các nhân tố khách quan 4.1.1Cơ chế chính sách của Nhà nước. Đây là những yếu tố mà doanh nghiệp buộc phải nắm rõ và tuân thủ vô điều kiện vì yếu tố này thể hiện ý chí của Nhà nước. Những quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ảnh hưởng chặt chẽ đến mọi hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có khả năng thanh toán. Ví dụ theo Nghị định của Chính phủ số 63/1998/NĐ-CP ngày 18/08/1998 về quản lý ngoại hối, với mục đích thanh toán tiền nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, các doanh nghiệp được phép mở và duy trì tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng được phép sử dụng ngoại tệ trên tài khoản. Đồng thời theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 173/1998/QĐ-TTg ngày 12/9/1998 về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức, các doanh nghiệp phải bán ngay tối thiểu 80% số ngoại tệ thu được từ các nguồn thu vãng lai cho các ngân hàng được phép trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày ngoại tệ được chuyển hoặc nộp vào tài khoản ngoại tệ doạnh nghiệp mở tại ngân hàng. Ngoài ra, các chính sách ưu tiên, khuyến khích hay hạn chế phát triển đối với ngành nghề kinh doanh cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động thanh toán của doanh nghiệp. 4.1.2.Sự biến động của tỷ giá hối đoái Đối với mọi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì tỷ giá hối đoái là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ. Nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động của tỷ giá, do đó khả năng thanh toán cũng bị ảnh hưởng. Chẳng hạn ngày 21/12/2000, doanh nghiệp cần thanh toán một lô hàng trị giá 10000 USD, nếu tỷ giá tại thời điểm đó là 14000VND/USD thì giá trị lô hàng sẽ ứng với 140000000VND, nhưng nếu tỷ giá tại thời điểm đó là 145000VND/ USD thì giá trị lô hàng sẽ là 145000000 VND, tức là chênh lệch so với giả thiết trước là 5000000 VND. Rõ ràng, tỷ giá biến động đã có tác động rất lớn đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 4.1.3. Sự phát triển của thị trường tài chính Kinh tế hàng hoá và thị trường luôn là những khái niệm gắn bó với nhau. Những hàng hoá thông thường được mua bán trên thị trường hàng hoá thông thường, còn những hàng hoá đặc biệt, tài sản tài chính, lại được mua bán trên thị trường đặc biệt - thị trường tài chính. Do chu kỳ về thu nhập, chi tiêu và đầu tư khác nhau nên ở mỗi thời đểm nhất định trong nền kinh tế, về phương diện tài chính, luôn tồn tại hai nhóm người: nhóm người đi vay và nhóm người cho vay. Thị trường tài chính là thị trường trong đó vốn được chuyển từ người hiện có vốn dư thừa (người cho vay) sang những người thiếu vốn (người đi vay). Thị trường này thực hiện chức năng kinh tế cơ bản bằng cách truyền dẫn vốn từ người tiết kiệm sang những nhà đầu tư. Đối với doanh nghiệp, thị trường tài chính không chỉ là nơi để họ huy động vốn với các kỳ hạn khác nhau mà còn là nơi giúp họ nâng cao khả năng thanh toán, đáp ứng được các nhu cầu thanh toán ngắn hạn. Giả sử một doanh nghiệp có nhu cầu tiền cấp bách, thông qua thị trường tài chính, họ có thể bán các chứng khoán mà mình nắm giữ để đáp ứng nhu cầu tiền trước mắt. 4.1.4.Nhân tố thị trường cạnh tranh Là một chủ thể kinh tế, khả năng thanh toán của doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ với nhân tố thị trường. Thị trường chính là môi trường hoạt động của doanh nghiệp. Trong môi trường này, các doanh nghiệp phải tự đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp khác để chiếm lĩnh thị trường. Một doanh nghiệp chếm lĩnh được thị trường sẽ dễ dàng trì hoãn được các khoản nợ đến hạn, đồng thời có khả năng dễ dàng trì hoãn được các khoản nợ đến hạn, đồng thời có khả năng chuyển hàng tồn kho thành tiền một cách nhanh chóng, do đó đáp ứng được nhu cầu thanh toán một cách nhanh nhất. 4.2. Nhân tố chủ quan 4.2.1 Cơ cấu tài sản và cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp Cơ cấu tài chính là tỷ trọng giữa các nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tổng các khoản nợ ngắn hạn lớn hơn tài sản lưu động của mình thì tình hình tài chính của doanh nghiệp đó là thiếu lành mạnh, khả năng thanh toán quá yếu kém. Trong các nguồn tài trợ của doanh nghiệp, nợ ngắn hạn là nguồn tài trợ có chi phí tương đối nhỏ song nó lại yêu cầu doanh nghiệp phải theo dõi một cách chặt chẽ, sát sao bởi vì nó gây áp lực nên hoạt động thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng doanh nghiệp có thể trì hoãn các khoản là rất thấp hoặc nếu có trì hoãn được thì chi phí cũng sẽ rất cao. Thông thường các doanh nghiệp cố gắng duy trì mức nợ ngắn hạn bằng 50% tổng tài sản lưu động. Tuy nhiên, việc duy trì tỷ trọng nợ ngắn hạn trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, khả năng huy động các nguồn vốn dài hạn, khả năng huy động các nguồn vốn dài hạn, khả năng linh hoạt về tài chính của doanh nghiệp. 4.2.2.Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp Doanh nghiệp sử dụng vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện bảo toàn và phát triển vốn, tránh được lãng phí vốn, đồng thời tạo được uy tín với bạn hàng. Việc doanh nghiêp tiết kiệm được nhiều vốn lưu động sẽ giúp doanh nghiệp một cách gián tiếp nâng cao khả năng thanh toán. Vì vậy, trong quản lý vốn lưu động, doanh nghiệp cần xác định được lượng vốn lưu động cần thiết trong kỳ kinh doanh, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu nhằm ngăn chặn hiện tượng chiếm dụng vốn, tránh ứ đọng vốn, thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn và thường xuyên tiến hành phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động nhằm có các biện pháp điều chỉnh kịp thời, bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 4.2.3.Quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp. Một doanh nghiệp có quan hệ tốt với khách hàng và nhà cung cấp thì có rất nhiều điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có thể tận dụng nguồn vốn bằng cách mua bán hàng hoá chịu lẫn nhau. Đây là hình thức tín dụng nhà cung cấp hay tín dụng thương mại. Hình thức tín dụng này xuất hiện do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, gây ra hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có hàng hoá muốn bán nhưng không có nhu cầu ngay về tiền mặt trong khi đó có một số nhà doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền. Trong điều kiện như vậy, doanh nghiệp với tư cách là người bán có thể bán chịu hàng hoá của mình cho người mua, mà thực chất là cho vay dưới dạng hàng hoá, dịch vụ và sẽ thu lại giá trị cho vay cùng với lợi tức bằng tiền. Ngược lại, với tư cách là người mua, doanh nghiệp có thể mua chịu hàng hoá. Nguồn này trong bảng cân đối của doanh ngiệp dưới dạng khoản phải trả người bán và phải thu người mua. Một doanh nghiệp có mối quan hệ tốt với nhà cung cấp không chỉ tận dụng được các khoản tín dụng thương mại với các điều kiện ưu đãi mà còn có khả năng trì hoãn các khoản nợ phải trả với chi phí thấp hơn, giúp giảm bớt áp lực lên hoạt động thanh toán. Thêm vào đó, một doanh nghiệp có uy tín với người mua sẽ khiến cho khách hàng tín nhiệm tin tưởng, do đó sẽ có ý thức thanh toán cho doanh nghiệp một cách đúng hạn nghiêm chỉnh hơn. Doanh ngiệp giảm được ít nhiều nguy cơ bị chiếm dụng vốn, hàng hoá tiêu thụ được dễ dàng hơn, nâng cao được khả năng thanh toán. Trong hoạt động thanh toán của mình, doanh nghiệp phải nắm rõ được các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của mình để có thể hạn chế được các tác động tiêu cực, cũng như tận dụng được những ưu thế mà chúng tạo ra. II. Các vấn đề cơ bản về quản lý tài sản lưu động 1.Khái niệm tài sản lưu động Như ta đã biết, tư liệu lao động và đối tượng lao động là hai mặt của phạm trù tư liệu sản xuất. Nếu như phần lớn tư liệu lao động là tài sản cố định thì tài sản lưu động chính là đối tượng lao động và phần còn lại của tư liệu lao động. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động thường chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và trong chu kỳ ấy chúng chuyển hoá toàn bộ giá trị của mình vào sản phẩm. Do đó đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tượng lao động khác. Phần lớn các đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể của sản phẩm như bông thành sợi, cát thành thuỷ tinh… một số khác bị mất đi như các loại nhiên liệu. Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần có các đối tượng lao động, lượng tiền ứng ra để thoả mãn nhu cầu về đối tượng lao động gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp chính vì thế ta có thể nói vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn (thời hạn sử dụng dưới một năm) và luân chuyển thường xuyên trong quá trình sản xuất. Như ta đã nói ở trên đối tượng lao động có những đặc điểm khác hẳn với tư liệu lao động nên kéo theo đó mà tài sản lưu động mang những đặc tính hoàn toàn khác với tài sản cố định là hầu như chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và luân chuyển duy nhất một lần. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp thì tài sản lưu động chủ yếu được thể hiện ở các khoản mục như tiền mặt,các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của chúng. Quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Quản lý tài sản lưu động có ảnh hưởng trực tiếp tới hai mục tiêu vô cùng quan trọng của doanh nghiệp là lợi nhuận và khả năng thanh toán cần thấy rằng sự bất lực của một số công ty trong việc hoạch đinh và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản doanh nghiệp. Song do các đặc tính của tài sản lưu động củng như do sự đa dạng của nó mà việc quản lý tài sản lưu động trở nên rất phức tạp đòi hỏi rất nhiều cố gắng của doanh nghiệp. 2. vai trò của tài sản lưu động đối với doanh nghiệp. Như ta đã biết trong bất cứ doanh nghiệp nào tài sản lưu động cũng là một phần không thể thiếu trong cơ cấu tài sản của mình. Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài tài sản cố định như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng.... doanh nghiệp còn phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hoá nguyên nhiên vật liệu... phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy, tài sản lưu động là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động hay nói cách khác tài sản lưu động là điều kiện tiên quyết cho quá trình sản xuất kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào. Ngoài ra, tài sản lưu động còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục. Do đặc điểm của đối tượng lao động là giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào sản phẩm nên trong chu kỳ sản xuất sau lại phải thường xuyên mua sắm dự trữ vật tư hàng hoá để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất. Lượng tài sản lưu động có hợp lý đồng bộ thì mới không làm gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy tài sản lưu động còn là điều kiện vật chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản lưu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của vật tư cũng tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ sản xuất tiêu thụ của doanh nghiệp. Nhu cầu lượng vật tư dự trữ ở các khâu nhiều hay ít phản ánh nhu cầu vốn lưu động nhiều hay ít. Tài sản lưu động luân chuyển nhanh hay chậm phản ánh số vật tư tiết kiệm hay lãng phí, thời gian nằm ở các khâu có hợp lý hay không hợp lý và mức độ luân chuyển vốn lưu động đã đạt yêu cầu hay chưa. Bởi vậy thông qua sự vận động của tài sản lưu động có thể đánh giá được tình hình dự trữ tiêu thụ sản phẩm, tình hình sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp, trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn toàn tựa chủ trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp thì cần phải có thêm một lượng vật tư hàng hoá nguyên nhiên vật liệu... để dự trữ và đưa vào sản xuất. Vốn lưu động bằng tiền còn giúp cho doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ngoài ra tài sản lưu động còn đóng một vai trò là giúp doanh nghiệp một cách đắc lực trong việc thanh toán và duy trì khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn giúp cho doanh nghiệp tránh khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán và chặn đứng nguy cơ phá sản doanh nghiệp. Vì vậy có thể nói tài sản lưu động góp phần vô cùng quan trọng giúp doanh nghiệp hoạt động bình thường và đứng vững. Ta có thể khẳng định rằng tài sản lưu động động là không thể thay thế được trong bất cứ loại hình doanh nghiệp nào thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào. Do đó quản lý tài sản lưu động là việc không thể thiếu trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động cũng như góp phần đẩy mạnh sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3. Cơ cấu của tài sản lưu động Tài sản lưu động của doanh nghiệp được chia thành các loại sau: 3.1.Tiền Tiền của doanh nghiệp là tài sản tồn tại trực tiếp dưới dạng giá trị bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, và các khoản tiền đang chuyển. Việc duy trì một lượng tiền mặt hợp lý có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bởi vì: Tiền đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày, thường là thanh toán cho khách hàng và thu tiền từ khách hàng. Bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp. Đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp xuất hiện những biến động không lường trước được của luồng tiền vào và ra Hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng Việc doanh nghiệp lưu giữ nhiều tiền có lợi thế sau: Chủ động trong kinh doanh do có thể chủ động trong thanh toán chi trả Khi mua hàng công ty có thể được hưởng chiết khấu do thanh toán ngay Duy trì tốt các chỉ số thanh toán giúp doanh nghiệp tạo uy tín tốt với khách hàng và ngân hàng nên dễ dàng mua được hàng hoá với các điều kiện thuận lợi và được hưởng những ưu đãi trong việc đi vay Dự trữ được lượng vật tư, hàng hoá lớn nếu giá cả hợp lý Song việc giữ nhiều tiền cũng có những bất lợi đó là: Tiền dễ bị mất giá Khả năng sinh lời là không đáng kể Do đó việc giữ đủ tiền cho sản xuất kinh doanh là rất quan trọng nó sẽ giúp doanh nghiệp phát huy các lợi thế trên và tối thiểu hoá các bất lợi. 3.2.Đầu tư ngắn hạn Đây là các chứng khoán có giá trị hoặc góp vốn liên doanh bằng tiền, hiện vật có thể thu hồi kịp thời trong một chu kỳ kinh doanh hoặc trong thời gian không quá một năm (như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng…) và các loại đầu tư khác không quá một năm. Trong đầu tư ngắn hạn, việc đầu tư vào các chứng khoán có tính lỏng cao là hết sức quan trọng. Các chứng khoán này giữ vai trò như một “bước đệm” cho tiền mặt. Vì nếu số dư tiền mặt lớn, doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán đó nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng thành tiền một cách dễ dàng ít tốn kém. Trong quản lý tài chính, các chứng khoán có tính lỏng cao được sử dụng để duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn. 3.3.Phải thu Các khoản phải thu bao gồm: Phải thu từ khách hàng: là khoản tiền mà doanh nghiệp cho người mua nợ dưới dạng hàng hoá, dịch vụ. Nhờ có khoản phải thu khách hàng mà doanh nghiệp có điều kiện tăng cao được số lượng hàng hoá tiêu thụ, từ đó nâng cao doanh thu có điều kiện mở rộng thị trường, tăng cường được quan hệ với người mua. Phải thu nội bộ (giữa các đơn vị chính và đơn vị phụ thuộc) Thế chấp (tài sản mang đi khi cầm cố khi đi vay vốn), ký cược (tiền đặt cược khi đi thuê tài sản), ký quỹ (tiền hoặc tài sản gửi để làm tin). 3.4.Hàng hoá tồn kho (dự trữ) Khoản mục này bao gồm vật tư, hàng hoá, thành phẩm, giá trị sản phẩm dở dang. Việc dự trữ mặc dù có chi phí nhưng nó cũng mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, chẳng hạn như doanh nghiệp dự trữ một lượng lớn thành phẩm thì sẽ không bị mất cơ hội khi thị trường trở nên khan hiếm loại hàng hoá này. Nếu doanh nghiệp dự trữ một lượng nhỏ thành phẩm thì chẳng những bị lơ cơ hội khi hàng hoá khan hiếm và giá cả lên cao mà còn khó có khả năng thực hiện được hợp đồng giao hàng một cách chính xác. Tương tự như vậy, ta có thể thấy rằng nếu doanh nghiệp dự trữ nguyên vật liệu quá ít thì có thể dẫn tới tình trạng ngừng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu. 3.5.Tài sản lưu động khác Tạm ứng (cho công nhân viên chức) và chi phí trả trước (chi phí đã phát sinh nhưng có tác dụng tới kết quả nhiều kỳ hoạch toán, được tính vào chi phí của nhiều kỳ. Ngoài ra, tài sản lưu động còn bao gồm các khoản chi phí sự nghiệp dở dang hoặc đã kết thúc nhưng đang chờ quyết toán. Chi phí sự nghiệp là những khoản chi phí của doanh nghiệp cho những công việc, những hoạt động được trang trải bằng nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp, cấp trên cấp phát. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp thì tài sản lưu động chủ yếu được thể hiện ở các bộ phận là tiền mặt, các chứng khoán có tính lỏng cao, phải thu và hàng tồn kho. Quản lý các tài sản lưu động có ảnh hưởng hết sức quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. 4. các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp. ý ng._.hĩa của việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp không nằm ngoài hai mục đích là nhằm xác định sự thay đổi của tài sản lưu động chịu ảnh hưởng của những nhân tố nào và quan trọng hơn là dự đoán sự biến động của các nhân tố này có ảnh hưởng như thế nào tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động. Trên thực tế có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động có thể khái quát một số nhân tố cơ bản sau đây: 4.1.Nhóm nhân tố khách quan Đây là nhóm nhân tố nằm ngoài khả năng kiểm soát của doanh nghiệp và vì không thể tác động vào những nhân tố này được nên doanh nghiệp cần phải tận dụng triệt để những thuận lợi và từ điều chỉnh để thích ứng với những khó khăn do các nhân tố này mang lại. Thuộc nhóm nhân tố này gồm: ] Nhu cầu tiêu dùng. ở đây ta đề cập đến nhu cầu tiêu dùng của thị trường đối với sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Yếu tố này luôn ảnh hưởng quyết định đến quy mô và cơ cấu hàng hoá của một doanh nghiệp sản xuất ra. Để đáp ứng được sự thay đổi của nhu cầu thị trường, doanh nghiệp phải tăng hay giảm lượng vật tư nguyên vật liệu cũng như hay thậm chí phải thay đổi cơ cấu hàng hoá, chuyển đổi quy trình sản xuất, tổ chức lại mạng lưới phân phối, cung cấp thêm các dịch vụ kèm theo, thay thế sản phẩm cũ bằng sản phẩm mới... từ đó dẫn tới những thay đổi lớn lao trong cơ cấu và quy mô tài sản lưu động đòi hỏi công tác quản lý tài sản lưu động cũng phải có những thay đổi tương ứng, kịp thời và phù hợp. ] Thị trường các nhân tố đầu vào Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất đều phải có các yếu tố đầu vào và nếu như tài sản cố định là một nhân tố đầu vào được doanh nghiệp mua hay thuê ngay từ khi mới thành lập và sử dụng trong thời gian dài thì các nhân tố đầu vào thuộc nhóm tài sản lưu động đòi hỏi doanh nghiệp phải mua sắm thường xuyên liên tục. Do đó, sự biến động trên thị trường nhân tố đầu vào thuộc nhóm tài sản lưu động như: thị trường nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ.. có ảnh hưởng rất lớn tới việc quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp, bất kỳ một sự thay đổi nào dù lớn hay nhỏ về phía nhà cung cấp cũng như giá cả, chất lượng của thị trường này cũng đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải có những biện pháp ứng phó kịp thời nhằm quản lý tài sản lưu động có hiệu quả hơn phù hợp với tình hình mới. ] Cơ sở hạ tầng xã hội Việc bố trí cơ sở sản xuất kinh doanh tại những đầu mối giao thông quan trọng thuận tiện sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích trong việc vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu thụ sản phẩm... từ đó việc quản lý tài sản lưu động cũng có nhiều thuận lợi hơn. ] Môi trường Kinh tế -Chính trị- Xã hội Những chính sách của Nhà nước về quản lý tài chính doanh nghiệp, thuế... có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế. Tương tự như vậy môi trường Chính trị - Xã hội cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và công tác quản lý tài sản lưu động nói riêng. 4.2.Nhân tố chủ quan Đây là những nhân tố thuộc doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát, điều chỉnh được. Cụ thể gồm: ] Đặc điểm ngành sản xuất kinh doanh Đặc điểm của ngành sản xuất kinh doanh có liên quan đến chu kỳ kinh doanh, mỗi ngành khác nhau thì sản phẩm, hàng hoá sản xuất ra cũng có những đặc tính khác nhau, do đó chu kỳ kinh doanh của sản phẩm, hàng hoá đó cũng khác nhau. Điều này ảnh hưởng tới toàn bộ quyết định có liên quan đến việc sử dụng tài sản lưu động như: dự trữ nguyên vật liệu nào, trong bao lâu, duy trì lượng tiền mặt là bao nhiêu vận dụng chính sách tín dụng thương mại như thế nào...? Nếu chu kỳ kinh doanh càng dài thì thời gian thu hồi vốn càng lâu, vòng quay của vốn lưu động chậm và kết quả là hiệu quả quản lý tài sản lưu động sẽ thấp và ngược lại. ] Trình độ của cán bộ công nhân viên chức. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động của tất cả các doanh nghiệp. Rõ ràng là trình độ cán bộ công nhân viên càng cao thì sẽ càng có những quyết định đúng đắn trong việc quản lý tài sản lưu động, giúp doanh nghiệp tiết kiệm được vốn và đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. ] Cơ sở vật chất của doanh nghiệp. Ta không thể phủ nhận là cơ sở vật chất là một yếu tố không kém phần quan trọng trong việc thay đổi hình thái vật chất của tài sản lưu động, chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào sản phẩm, hàng hoá. ở đây ta đề cập đến dây chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị... nếu những yếu tố này hiện đại tiên tiến sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển hoá giá trị của tài sản lưu động vào sản phẩm điều này đồng nghĩa với việc rút ngắn thời gian dự trữ nguyên vật liệu, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động và ngược lại. Ngoài các nhân tố kể trên còn có rất nhiều các nhân tố khác cũng có ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp như: cạnh tranh, quan hệ với khách hàng, chính sách tài chính doanh nghiệp, chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp... 5. Các nội dung quản lý tài sản lưu động 5.1.Quản lý tiền Tiền được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả nợ… Bản thân tiền là loại tài sản ít sinh lời, do vậy trong hoạt động quản lý tiền, việc tối thiểu hoá lượng tiền là mục tiêu quan trọng nhất. Trong việc quản lý tiền, các doanh nghiệp thường sử dụng chứng khoán có tính lỏng cao để duy trì tiền ở mức mong muốn. Do đó việc quản lý tiền liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao. Các loại chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một bước đệm cho tiền mặt do khả năng chuyển đổi dễ dàng thành tiền của chúng. Dựa vào mối tương quan và mô hình quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng có hiệu quả nhất - EOQ (Economic Odering Quantity) ta có một cách nhìn tổng quát trong quản lý tiền mặt như sau: Giả sử rằng doanh nghiệp có một lượng tiền và phải dùng nó để trả cho các hoá đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền này hết, doanh nghiệp phải bán các chứng khoán có khả nằng thanh khoản cao để lại có lượng tiền như ban đầu. Chi phí lưu giữ tiền ở đây chính là chi phí cơ hội trong trường hợp quản lý dự trữ và chính là lãi suất doanh nghiệp bị mất đi do giữ tiền. Chi phí đặt hàng là chi phí cho việc bán chứng khoán. Gọi: i là lãi suất doanh nghiệp mất đi do việc giữ tiền. M là lượng tiền dự trữ của doanh nghiệp. Chi phí cơ hội sẽ là: Chi phí cơ hội M = i của việc giữ tiền 2 Công thức 6 Và nếu gọi: Mn là tổng mức tiền giải ngân mỗi năm Cb là chi phí cho một lần bán chứng khoán thanh khoản Như vậy, tổng chi phí cho việc bán chứng khoán thanh khoản sẽ là: Tổng chi phí cho việc bán Mn = Cb chứng khoán thanh khoản M Công thức 7 Vậy tổng chi phí dự trữ tiền sẽ là: M Mn TC = i + Cb 2 M Công thức 8 Lấy vi phân theo M ta có TC nhỏ nhất khi M bằng: Công thức 9 Trong đó M* là lượng tiền dự trữ tối ưu. Ta thấy rằng, lãi suất càng cao thì doanh nghiệp càng giữ ít tiền, đồng thời chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao thì doanh nghiệp càng giữ nhiều tiền. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, lượng tiền vào và ra thường không đều đặn nên mức dự trữ tiền dự kiến dao động trong một khoảng.Tức là lượng tiền dự trữ sẽ biến thiên từ cận thấp đến cận cao nhất. Nếu lượng tiền dưới giới hạn dưới thì doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có lượng tiền ở mức dự kiến, ngược lại tại giới hạn trên doanh nghiệp sử dụng số tiền vượt quá mức giới hạn cần mua chứng khoán để đưa lượng tiền về mức dự kiến. Khoảng dao động tiền dự kiến phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau: Mức giao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hay nhỏ. Sự giao động này được thể hiện ở phương sai của thu chi ngân quỹ. Phương sai của thu chi ngân quỹ là tổng các bình phương (độ chênh lệch) của thu chi ngân quỹ thực tế và thu chi bình quân. Phương sai càng lớn thì thu chi ngân quỹ thực tế càng có xu hướng khác biệt nhiều so với thu chi bình quân. Khi đó doanh nghiệp cũng sẽ quy định khoảng dao động tiền cao. Chi phí cố định của việc mua bán chứng khoán. Khi chi phí này lớn người mua muốn giữ tiền nhiều hơn và khi đó khoảng dao động tiền sẽ lớn. Lãi suất càng cao, doanh nghiệp sẽ càng giữ lại ít tiền và do vậy khoảng dao động tiền sẽ giảm xuống. Khoảng dao động tiền được xác định bằng các công thức sau: Công thức 10 Trong đó: d: khoảng cách của giới hạn trên và giới hạn dưới của lượng tiền dự trữ Cb:chi phí của mỗi lần giao dịch mua bán chứng khoán Vb:phương sai của thu chi ngân quỹ i: lãi suất Mức tiền theo thiết kế được xác định như sau: Mức tiền Mức tiền mặt Khoảng dao động TM = + theo thiết kế giới hạn dưới 3 Công thức 11 5.2.Quản lý các khoản phải thu Trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là tất yếu. Do vậy doanh nghiệp nào cũng xây dựng một chính sách tín dụng thương mại phù hợp bởi nó có thể giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường, mở rộng hoạt động nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro cho hoạt động của doanh nghiệp qua các yếu tố sau đây: Tác động của doanh thu: nhờ bán chịu mà doanh nghiệp có thể làm tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ, đồng thời có thể bán với giá cao hơn làm tăng doanh thu bán hàng. Tác động của chi phí: tín dụng thương mại làm giảm chi phí tồn kho của hàng hoá. Tuy nhiên tín dụng thương mại làm tăng chi phí có liên quan đến khoản phải thu như chi phí đòi nợ, đồng thời làm tăng chi phí trả cho nguồn tài trợ ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ. Xác suất không trả tiền của người mua: khi đó thu nhập của doanh nghiệp bị giảm sút. Với các tác động nêu trên, doanh nghiệp phải tiến hành phân tích tín dụng thương mại, trước hết là phân tích khả năng tín dụng của khách hàng. Công việc này bắt đầu bằng việc doanh nghiệp xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng hợp lý đạt tới sự cân bằng giữa thu nhập và rủi ro. Sau đó, doanh nghiệp tiến hành xác minh phẩm chất tín dụng của khách hàng tiềm năng, dựa trên thông tin tín dụng bao gồm Báo cáo tài chính (Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Bảng kế hoạch ngân quỹ…), báo cáo tín dụng về tình hình thanh toán của khách hàng đối với các doanh nghiệp khác, các ngân hàng, lịch sử thanh toán của khách hàng đối với các doanh nghiệp khác… Nếu khả năng tín dụng của khách hàng phù hợp với những tiêu chuẩn tối thiểu mà doanh nghiệp đưa ra thì tín dụng thương mại có thể được cấp. Sau khi phân tích khả năng tín dụng của khách hàng, doanh nghiệp sẽ tiến hành đánh giá tín dụng. Việc phân tích này dựa vào việc phân tích NPV của luồng tiền. Giả sử một khách hàng muốn mua một sản phẩm theo phương thức bán chịu với giá một đơn vị sản phẩm là P’. Nếu doanh nghiệp từ chối việc bán chịu thì khách hàng sẽ không mua. Nếu doanh nghiệp đồng ý bán chịu trong một thời hạn nào đó thì khách hàng có thể sẽ không trả tiền. Xác suất không trả tiền là p. Doanh lợi đòi hỏi về các khoản phải thu đối với thời hạn bán chịu là R, chi phí các khoản phải thu là V. Nếu doanh nghiệp không bán chịu cho khách hàng thì tiền thu tăng thêm vào ngân quỹ là 0. Nếu doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng thì doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí biến đổi là V và để thu được (1-p) P‘ vào ngân quỹ khi hết hạn cấp tín dụng. Giá trị hiện tại ròng của việc cấp tín dụng thương mại là: (1-p) P‘ NPV = - V + 1+R Công thức 12 Nếu NPV > 0 thì doanh nghiệp nên cấp tín dụng cho khách hàng. Sau khi đã quyết định cấp tín dụng thương mại cho khách hàng, doanh nghiệp theo dõi các khoản phải thu để có thể thay đổi chính sách tín dụng thương mại kịp thời. Thông thường, doanh nghiệp dựa vào các chỉ tiêu, phương pháp và mô hình sau: Kỳ thu tiền bình quân đươc xác định bằng thương số của các khoản phải thu chia cho doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. Khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán và lợi nhuận không tăng thì có ngiã là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng trong khâu thanh toán. Khi đó nhà quản lý phải có biện pháp can thiệp kịp thời. Sắp xếp “tuổi” của các khoản phải thu.Theo phương pháp này, nhà quản lý sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời gian. Xác định số dư tài khoản phải thu. Theo phương pháp này, các khoản phải thu sẽ hoàn toàn không chịu ảnh hưởng bởi yếu tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán, giúp doanh nghiệp theo dõi được nợ tồn đọng của khách hàng đối với doanh nghiệp. 5.3. Quản lý dự trữ Vốn lưu động là giá trị của tài sản lưu động. Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ là những bước đệm cần thiết. Hàng hoá tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần có nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành được bìng thường. Do vậy, nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ tốn kém, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá nhỏ sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng loạt các hậu quả tiếp theo. Doanh nghiệp khi tiến hành dự trữ hàng hoá thì bản thân doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra những chi phí nhất định nhưng tựu trung lại có hai loại: ơ Chi phí cơ hội: Là chi phí liên quan đến việc tồn trữ hàng hoá gồm có chi phí hoạt động và chi phí tài chính. Nếu gọi lượng hàng hoá cung ứng mỗi lần là Q thì dự trữ trung bình là Q/2. C1 là chi phí lưu kho thì tổng chi phí lưu kho sẽ là C1Q/2. ư Chi phí đặt hàng: Chi phí này bao gồm chi phí quản lý giao dịch và vận chuyển hàng hoá. Chi phí đặt hàng thường không ổn định phụ thuộc vào số lượng hàng hoá được mua. Nếu gọi D là toàn bộ lượng hàng hoá cần sử dụng trong một đơn vị thời gian (năm, quý, tháng) thì số lượng cần cung ứng hàng hoá sẽ là D/Q. Gọi C2 là chi phí mỗi lần đặt hàng thì tổng chi phí đặt hàng sẽ là C2D/Q. Gọi TC là tổng chi phí tồn trữ hàng hoá ta sẽ có: Q D TC = C1 + C2 2 Q Công thức 13 Lấy vi phân TC theo Q ta có TC nhỏ nhất khi: Công thức 14 Với Q* là mức dự trữ tối ưu. Qua đây ta thấy, doanh nghiệp cần xác định cho mình mức dự trữ tối ưu mà ở đó chi phí đặt hàng cân bằng với chi phí cơ hội. Ngoài ra, trong quản lý dự trữ, doanh nghiệp cần xác định điểm đặt hàng lại sao cho hợp lý. Bởi vì nếu đặt hàng quá sớm sẽ làm tăng lượng nguyên liệu tồn kho, còn nếu đặt hàng muộn sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Thời điểm đặt hàng lại mới là thời điểm mà nguyên liệu tồn kho bằng số nguyên liệu sử dụng mỗi ngày nhân với độ dài của thời gian giao hàng. Mặt khác, do nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số định mà chúng biến động không ngừng nên để đảm bảo cho sự ổn định của sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải duy trì một lượng dự trữ an toàn, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp. Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hoá dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng. 5.4.Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động: ơ Nhóm chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển của vốn lưu động Hệ số luân chuyển vốn lưu động: (vòng quay vốn lưu động) cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ kinh doanh hay số lần vốn lưu động được chuyển thành doanh số. Hệ số luân chuyển càng lớn càng tốt. Hệ số luân Doanh thu thuần chuyển vốn = lưu động Vốn lưu động bình quân Công thức 15 Thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động thể hiện số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì hệ số luân chuyển vốn lưu động càng cao. Thời gian một 360 vòng luân chuyển = vốn lưu động Hệ số luân chuyển vốn lưu động Công thức16 Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần mấy đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Hệ số đảm Vốn lưu động bình quân nhiệm vốn = lưu động Doanh thu thuần Công thức17 ưChỉ tiêu về khả năng sinh lợi của vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết 100 đồng vốn lưu động tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khả năng sinh lợi vốn lưu động càng cao thì hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng lớn. Khả năng Lợi nhuận Sinh lợi vốn = * 100% lưu động Tài sản lưu động Công thức 18 đCác chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý của từng tài sản lưu động: ] Vòng quay hàng tồn kho Vòng quay Doanh thu thuần = hàng tồn kho Giá trị hàng tồn kho Công thức 19 Vòng quay hàng tồn kho là số lần dự trữ được chuyển thành doanh thu thuần trong một thời hạn nhất định (thường là một năm). Nếu mức quay vòng vốn càng cao thì công ty lưu giữ càng ít số hàng tồn kho để tạo ra một lượng doanh số nhất định. Số hàng tồn kho càng ít thì số vốn ứ đọng càng ít và như vậy, nhìn chung, mức quay vòng tồn kho càng cao càng tốt. ] Vòng quay các khoản phải thu Vòng quay Khoản phải thu các khoản = phải thu Mức bán hàng trong năm/360 Công thức 20 Vòng quay các khoản phải thu cho biết mức hợp lý của khoản phải thu và hiệu quả thu hồi nợ. Nếu khoản phải thuđược thu hồi nhanh chóng thì số vòng luân chuyển các khoản phải thu sẽ cao và công ty ít bị chiếm dụng vốn, tuy nhiên nếu quá cao sẽ ảnh hưởng đến khối lượng hàng hoá tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ. ¯Chu kỳ vận động của tiền mặt: Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của quá trình quản lý vốn lưu động. Chu kỳ vận động của tiền mặt là thời gian từ khi thanh toán khoản mục nguyên liệu đến khi thu được tiền từ những khoản phải thu do việc bán sản phẩm cuối cùng. Có thể hình dung trình tự vận động như sau: Công ty mua nguyên vật liệu để sản xuất, phần lớn những khoản mua này chưa phải trả ngay, tạo nên những khoản phải trả. Do vậy việc mua trong trường hợp này không ảnh hưởng ngay đến luồng tiền. Lao động được sử dụng để chuyển nguyên vật liệu thành sản phẩm cuối cùng và thông thường tiền lương không được trả ngay vào lúc công việc được thực hiện, từ đó hình thành các khoản lương phải trả (phải trả khác) Hàng hoá thành phẩm được bán, nhưng là bán chịu, do đó tạo nên khoản phải thu và từ đó việc bán hàng không tạo nên luồng tiền vào ngay lập tức. Tại một thời điểm nào đó trong quá trình vận động nói trên doanh nghiệp phải thanh toán những khoản phải trả và nếu những khoản thanh toán này được thực hiện trứơc khi thu được những khoản phải thu thì sẽ tạo ra những luồng tiền ra ròng. Luồng tiền ra này phải được tài trợ bằng một biện pháp nào đó. Chu kỳ vận động của tiền mặt khi doanh nghiệp thu được những khoản phải thu. Khi đó công ty sẽ trả hết nợ được sử dụng để tài trợ cho việc sản xuất và chu kỳ được lặp lại. Từ sự xem xét trình tự vận động của vốn lưu động ta có thể rút ra những công thức cơ bản sau: Chu kỳ vận Thời gian vận Thời gian thu Thời gian chậm động của =động của + hồi khoản - trả của khoản tiền mặt nguyên vật liệu phải thu phải trả Công thức 22 Trong đó: Thời gian vận Hàng tồn kho động của = nguyên vật liệu Mức bán mỗi ngày Công thức 23 Thời gian vận động của nguyên vật liệu là độ dài thời gian trung bình để chuyển nguyên vật liệu thành sản phẩm cuối cùng và thơì gian để bán những sản phẩm đó. Hàng tồn kho bao gồm nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho. Thời gian thu Khoản phải thu hồi những khoản = phải thu Mức bán hàng trong năm/360 Công thức 24 Thời gian thu hồi những khoản phải thu là độ dài thời gian trung bình để chuyển những khoản phải thu của công ty thành tiền mặt. Thời gian chậm Khoản phải trả trả những = khoản phải trả Giá vốn hàng bán trong năm /360 Công thức 25 Thời gian chậm trả những khoản phải trả là độ dài thời gian trung bình từ khi mua nguyên vật liệu và lao động đến khi thanh toán những khoản đó. Công thức (15) có thể được viết theo một cách khác: Thời gian Thời gian trì Thời gian Trì hoãn do - hoãn do thanh = trì hoãn thu tiền chậm toán chậm ròng Công thức 26 Mục tiêu của công ty là rút ngắn chu kỳ vận động của tiền mặt càng nhiều càng tốt mà không có hại cho sản xuất. Khi đó lợi nhuận sẽ tăng lên và chu kỳ càng dài thì nhu cầu tài trợ từ bên ngoài càng lớn và mỗi nguồn tài trợ đều mang một chi phí nên lợi nhuận sẽ giảm. Từ các công thức trên ta thấy chu kỳ vận động của tiền mặt có thể được giảm bằng các biện pháp giảm các chu kỳ vận động của các thành phần của nó như sau: Giảm bớt thời gian vận động nguyên vật liệu thông qua sản xuất và bán hàng nhanh hơn. Giảm thời gian thu hồi những khoản phải thu bằng việc tăng tốc độ thu. Kéo dài thời gian chậm trả những khoản phải trả bằng việc trì hoãn thanh toán. Những hoạt động trên được tiến hành trong một chừng mực mà chúng không làm tăng chi phí hoặc làm giảm bán hàng. Chương 2: Thực trạng khả năng thanh toán và tình hình quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế -Coalimex. I.Giới thiệu chung về công ty Coalimex 1.Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Ban đầu công ty có tên là Công ty Xuất khẩu than và cung ứng vật tư được thành lập ngày 01- 01-1982 theo quyết định số 65 của Bộ mỏ và than chuyển công ty vật tư thành công ty xuất nhập khẩu và cung ứng vật tư, trực thuộc Bộ mỏ và than về sau trực thuộc Bộ năng lượng. Nhiệm vụ chính của công ty trong thời gian này là xuất khẩu than và cung ứng các trang thiết bị, vật tư kỹ thuật, thuốc nổ công nghiệp phục vụ cho quá trình khai thác và sản xuất của ngành than. Tháng 1/1995, sau khi Tổng công ty than Việt Nam được thành lập, công ty được chuyển về và chính thức trở thành thành viên của Tổng công ty than Việt Nam, quy mô của công ty lúc này bị thu nhỏ lại chỉ còn trụ sở chính ở Hà Nội và hai chi nhánh ở Quảng Ninh và thành phố Hồ Chí Minh, 3 xí nghiệp trực thuộc công ty trước đây là xí nghiệp hoá chất mỏ, xí nghiệp vật tư vận tải Hải Phòng và xí nghiệp thu mua vật tư thiết bị được tách ra thành lập đơn vị riêng. Lúc này công việc của công ty trong ngành than bị thu hẹp hơn.Toàn bộ thị trường lớn xuất khẩu than chuyển lên Tổng công ty than thực hiện, công ty chỉ được phép giao dịch khai thác những khách hàng nhỏ lẻ ở thị trường mới. Trước năm 1995, công ty gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý và kinh doanh của mình nhưng từ năm 1995 trở đi công ty đã xây dựng ban hành, thực hiện các hiệu quả kinh tế sau: Giao khoán kế hoạch doanh thu, chi phí đơn giá tiền lương cho các đơn vị kinh doanh. Quy chế trả lương (khuyến khích cá nhân có nhiều đóng góp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty). Quy định thi đua khen thưởng hàng năm. Nhờ những quy định và quy chế trên đã khuyến khích động viên được cán bộ công nhân viên hăng say lao động,yên tâm đưa hết sức lực và trí tuệ vào làm việc cho công ty.Vì vậy hàng năm tăng doanh thu, tăng lãi gộp, nộp ngân sách Nhà nước đầy đủ, tăng dần thu nhập cho cán bộ công nhân viên. Ngày 25/12/1996 theo quyết định 3910 QĐ/TCCB của Bộ trưởng Bộ công nghiệp, công ty chính thức đổi tên thành Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế như ngày nay. Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế là doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán độc lập đơn vị thành viên của Tổng công ty than Việt Nam - Bộ công nghiệp. Công ty có trụ sở chính tại: 47 Phố Quang Trung - Quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội. Tên giao dịch quốc tế: COALIMEX, EXPORT IMPORT AND INTERNATIONAL CooPERATION COMPANY Tên viết tắt là: COALIMEX Các đơn vị trực thuộc: 1chi nhánh ở tỉnh Quảng Ninh 1chi nhánh ở Thành phố Hồ Chí Minh 1xưởng sản xuất đá ăn sạch HCM Các chi nhánh các đơn vị trực thuộc, hạch toán phụ thuộc, các đơn vị này gắn bó với nhau một cách chặt chẽ về mặt lợi ích kinh tế, dịch vụ, thông tin cung ứng, tiêu thụ… nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của toàn công ty, hoàn thành tốt nhiệm vụ của Tổng công ty giao và nhu cầu vật tư nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp.Với số vốn đăng ký kinh doanh khi trở thành đơn vị thành viên của Tổng công ty than Việt Nam ngày 25/12/1996 là 15.085.189.483 VND trong đó vốn cố định là: 6.054.935.972 VND vốn lưu động là: 9.030.253.511 VND. Từ năm 1996 đến nay, công ty luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ và hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu được Tổng công ty than Việt Nam giao. Ngoài ra công ty còn hoạt động kinh doanh có hiệu quả, chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình công ty không những bảo toàn vốn mà còn phát triển vốn đồng thời cũng chú trọng nâng cao trình độ quản lý, kinh doanh của cán bộ công nhân viên của công ty. 2.Chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm kinh doanh của công ty 2.1.Các chức năng, nhiệm vụ cơ bản của công ty Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ kinh doanh mà công ty có các nhiệm vụ khác nhau, trong điều kiện hiện nay thì công ty có những chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau: Nhận nhập khẩu uỷ thác và kinh doanh vật tư thiết bị phụ tùng, xe máy, phương tiện vận tải, kim khí, nguyên vật liệu, hoá chất cho sản xuất công nghiệp, hàng tiêu dùng. Hợp tác lao động quốc tế: tìm kiếm việc làm và đưa người Việt Nam đi lao động và đào tạo ở nước ngoài. Kinh doanh sản xuất nước đá ăn sạch tại thành phố Hồ Chí Minh 2.2. Đặc điểm, tình hình kinh doanh của công ty. Công ty Coalimex là doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán độc lập và là đơn vị thành viên của Tổng công ty than Việt Nam. Chính vì vậy, mà hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty là xuất nhập khẩu phục vụ cho ngành than Việt Nam. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty là xuất khẩu than và nhập khẩu các loại vật tư thiết bị phục vụ ngành than. Xuất phát từ đặc điểm hoạt động kinh doanh như vậy, công ty Coalimex đã tổ chức hoạt động kinh doanh như sau: Ngoài hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ngoài ngành than theo đúng nhu cầu của thị trường, xuất khẩu lao động quốc tế, sản xuất kinh doanh một xưởng sản xuất nước đá ăn sạch tại thành phố Hồ Chí Minh. Song hoạt động chủ yếu của công ty vẫn là xuất khẩu than, nhập khẩu uỷ thác và kinh doanh các loại vật tư, thiết bị phục vụ quá trình khai thác và chế biến than. Hàng năm lượng than công ty xuất khẩu ra thị trường thế giới đạt tới 500.000 tấn trị giá 15.000.000 USD. Loại than mà công ty thường xuất khẩu là ANTRACITE. Đây là loại than Việt Nam có chất lượng cao, độ tro thấp và hàm lượng lưu huỳnh thấp. Than ANTRACITE được công ty xuất khẩu phần lớn sang các nước Tây Âu, Thái Lan, Hàn Quốc,Trung Quốc, Bungary và châu Mỹ la tinh… Nhập khẩu vật tư thiết bị phục vụ ngành than dưới sự chỉ đạo của Tổng công ty than Việt Nam theo cơ chế đấu thầu. Đồng thời công ty còn tìm kiếm các đối tác ngoài ngành khác để nhập khẩu các loại hàng hoá ngoài ngành phục vụ cho nhu cầu của thị trường. ơCông tác xuất khẩu than Với những nỗ lực phi thường trong việc tìm kiếm và đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên mọi miền thế giới,và bằng truyền thống và kinh nghiệm làm công tác xuất khẩu than lâu năm,nguyên tắc luôn giữ chữ tín với khách hàng trong và ngoài nước công ty đã tòm thêm được khách hàng mới,duy trì thị trường và khách hàng cũ nên hàng năm công ty đều hoàn thành vượt mức kế hoạch của Tổng công ty giao (có năm đạt 200% so với kế hoạch). Công ty đã thực hiện nhiều đổi mới trong các mặt quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nhờ đó mà than Việt Nam đã được toàn thế giới biết đến là sản phẩm đứng đầu thế giới về chất lượng nhiệt năng cao, lưu huỳnh thấp… Lượng than xuất khẩu của Coalimex ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng cao (khoảng 1/4) trong kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty than Việt Nam. ư Công tác nhập khẩu vật tư thiết bị Công ty thường tham gia đấu thầu với nhiều đơn vị xuất nhập khẩu khác trong và ngoài ngành than, cơ chế đấu thầu đã bắt buộc công ty phải năng động, thu nhập thông tin nhạy bén từ hai phía người bán và người mua. Muốn vậy phải bám cơ sở sản xuất nhiều hơn, sự hợp tác giữa người nhập và người xuất đa dạng hơn, phong phú hơn và thiết thực hơn. Để tồn tại và phát triển nhiệm vụ nhập khẩu vật tư thiết bị công ty đã tìm ra con đường đi cho mình là: Đẩy mạnh nhập khẩu vật tư thiết bị phục vụ cho ngành than Tranh thủ tìm kiếm khách hàng ngoài ngành than để nhập khẩu vật tư thiết bị theo yêu cầu của họ. Chính nhờ chủ trương đúng đắn như vậy mà giá trị nhập khẩu của công ty ngày càng tăng, tỷ trọng nhập khẩu ngoài ngành tăng lên đáng kể tiến đến bằng và vượt tỷ trọng nhập khẩu trong ngành. Chỉ tính trong 5 năm (1997-2000) công ty đã nhập khẩu được số hàng trị giá 84.380.717 USD trong đó nhập trong ngành là 35.433.306 USD chiếm 42% còn nhập ngoài ngành là 48.947.411USD chiếm 58%. đCông tác xuất khẩu lao động Đây là một nghề rất mới đối với công ty và hiện tại trên thị trường cũng có ít tổ chức hành nghề này nhưng với năng lực và cố gắng của mình công ty quyết tâm thực hiện nghề nghiệp mới này và coi đó là công việc thứ ba của công ty sau xuất khẩu than và nhập khẩu vật tư thiết bị. Kể từ khi bắt tay vào công việc này đến nay chỉ vỏn vẹn 10 năm công ty đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể lập nên một nền tàng vững chắc về kinh nghiệm chuyên môn và có lượng khách hàng lâu dài tín nhiệm là bước đệm cho công ty đi vào một giai đoạn mới với những thành công to lớn hơn trong lĩnh vực mới mẻ này, và tin chắc rằng từ nay trở đi số lượng lao động xuất khẩu của công ty sẽ ngày càng vượt xa con số 640 người đã xuất khẩu từ năm 1992 đến nay. Để tăng doanh thu, công ty còn phát triển kinh doanh đa ngành, kinh doanh khách sạn. Mặt khác còn thực hiện đầu tư mở rộng mô hình sản xuất kinh doanh mới phát huy tiềm năng nội lực. Công ty đã đầu tư xây dựng một xưởng sản xuất nước đá ăn sạch, thiết bị của Thái Lan và đưa vào hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh từ đầu năm 1999. Từ ngày 01/9/1999 công ty đã làm thủ tục chuyển khách sạn Thanh Nhàn thành công ty cổ phần du lịch Thanh Nhàn. 3.Bộ máy quản lý của công ty Công ty Coalimex tổ chức quản lý theo mô hình trực tuyến, từ Giám đốc xuống thẳng các phòng ban mà không cần phải qua một khâu trung gian nào. Bộ máy quản lý trong công ty gọn nhẹ, đảm bảo hoạt động kinh doanh cao nhất với chế độ một thủ trưởng. Đứng đầu công ty là Giám đốc do Hội đồng quản trị của Tổng công ty than Việt Nam bổ nhiệm, miễn._. như ý vừa đáp ứng nhu cầu thanh toán vừa đáp ứng được mục tiêu sinh lợi. ngược lại muốn khắc phục nó đòi hỏi phải có những điều kiện mà thường được xem là không thể. Tuy nhiên chúng ta cũng sẽ thử tìm cách giải quyết vấn đề hóc búa này trong phần sau. Chỉ tiêu chu kỳ vận động của tiền mặt cho ta một đánh giá chung về hiệu quả quản lý tài sản lưu động như ta đã thấy ở trên sự gia tăng của hàng tồn kho và các khoản phải thu vào hai năm 2000 và 2001 đã kéo dài chu kỳ vận động của tiền mặt mặc dù công ty đã có những cố gắng trong việc trì hoãn trả các khoản phải trả. Vấn đề đặt ra ở đây là phải giảm thời gian thu hồi các khoản phải thu bằng cách hạn chế cấp tín dụng thương mại và tăng cường thu hồi các khoản phải thu đồng thời ta phải đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá giảm lượng hàng tồn kho để gia tăng thời gian vận động cuả hàng hoá song song với việc đó ta phải phát huy việc kéo dài thời gian chậm trả những khoảng phải trả như hiện nay, làm được như vậy thì chu kỳ vận động của tiền của công ty sẽ được rút ngắn lại chứng tỏ hiệu quả quản lý tài sản lưu động là đạt yêu cầu. CHƯƠNG 3 một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình và khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế -Coalimex i.cải thiện tình hình và khả năng thanh toán, tăng cường quản lý tài sản lưu động là vấn đề cấp bách tại công ty Coalimex Hiện nay trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, công tác xuất nhập khẩu ngày càng trở nên vô cùng quan trọng được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước chính vì vậy nó ngày càng trở nên sôi động, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào hoạt động trong lĩnh vực này tạo nên sự cạnh tranh vô cùng mạnh mẽ và gay gắt, đặc biệt là trong thời gian này khi Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN, tham gia vào APEC và là quan sát viên cuả WTO. Đây chính là những thuận lợi mà các công ty xuất nhập khẩu nói chung cũng như công ty Coalimex nói riêng cần phải tận dụng, đồng thời cũng là những khó khăn mà họ phải vượt qua. Trong những năm vừa qua công ty đã không ngừng nỗ lực để có thể thích ứng một cách tốt nhất với môi trường hoạt động ngày càng khó khăn. Công ty đã luôn giữ vị trí đứng đầu trong công tác xuất khẩu than và góp phần quan trọng trong việc đưa than Việt Nam đến với thị trường thế giới. Tuy nhiên, doanh thu của công ty mấy năm gần đây có chiều hướng giảm sút không ổn định điều này xuất phát một phần từ những thiếu sót trong công tác quản lý tài sản lưu động và những yếu kém về khả năng thanh toán của công ty như đã được trình bày ở chương hai các thiếu sót đó gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của mình. Dễ thấy rằng cơ cấu tài sản lưu động, cơ cấu tài chính của công ty còn thiếu hợp lý làm ảnh hưởng manh mẽ đến khả năng thanh toán của công ty. Định hướng của công ty trong thời gian tới là tăng cường mở rộng thị trường trong nước và quốc tế, muốn đạt được điều này thì công ty trước hết phải cải thiện công tác quản lý tài chính, trong đó có công tác quản lý khả năng thanh toán, đồng thời cơ cấu lại bộ máy quản lý công ty, quản lý tốt khả năng thanh toán là điều kiện tiền đề cho việc theo đuổi bất cứ một mục tiêu nào của công ty. II.một số giải pháp cải thiện tình hình và khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động của công ty 1.Một số giải pháp nhằm cải thiện khả năng thanh toán của công ty trong thời gian tới. Như ta đã thấy trong phần thực trạng khả năng thanh toán của công ty hiện thời không được lành mạnh và ngày càng có xu hướng yếu đi nhất là khả năng thanh toán nhanh và tức thời thực sự là rất kém do đó vấn đề cần đặt ra trước mắt là làm sao tăng khả năng thanh toán của công ty lên nhanh chóng để tránh rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán vì trước mắt công ty phải đối mặt với nhu cầu thanh toán rất lớn phát sinh từ các khoản nợ ngắn hạn trị giá 104914 triệu VND sắp đến hạn thanh toán. Để giải quyết vấn đề này có các biện pháp tức thời như sau: 1.1.Nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu đồng thời tăng lượng tiền mặt Công ty phải tiến hành ngay các biện pháp thu hồi nợ để thu hồi các khoản phải thu trị giá 61036 triệuVND tránh tình trạng các khoản phải thu chiếm tỷ trọng quá lớn gây ứ đọng vốn như hiện nay. Việc thu hồi nợ cần bắt đầu từ các khoản có giá trị lớn trước sau đó đến các khoản nhỏ sau nhưng cũng cần đặc biệt lưu ý đến các khoản quá hạn hay có thời hạn lâu ngày cần có biện pháp đôn đúc thu hồi nợ thường xuyên tránh trường hợp chây ỳ dây dưa khiến tình hình càng trở nên phức tạp. Thêm vào đó để nâng cao hiệu quả của việc thu hồi nợ công ty nên áp dụng mức lãi phạt nặng hơn nữa tuỳ theo từng thời gian quá hạn của khoản nợ, điều này sẽ khiến khách hàng tích cực hơn trong việc trả nợ cho công ty. Việc thu hồi nợ tiến hành hiệu quả sẽ tăng lượng tiền của công ty lên, lượng tiền tăng thêm này công ty phải dùng một phần hay toàn bộ để gửi ngân hàng hay giữ tại quỹ của công ty nhằm nâng cao khả năng thanh toán tức thời cho công ty làm được điều này công ty sẽ có thể ứng phó tốt hơn với các khoản nợ đến hạn của mình. 1.2.Giảm tỷ trọng nợ ngắn hạn và thay thế bằng nợ dài hạn Qua các Báo cáo tài chính của công ty ta thấy ngân hàng của Coalimex ngày càng tăng và các khoản nợ này hoàn toàn là nợ ngắn hạn, nợ ngân hàng cao chứng tỏ uy tín của công ty trên thị trường lớn tuy nhiên nợ ngân hàng chiếm tới 51,6% trong năm 2001 là tỷ lệ quá cao. Điều này không những làm tăng chi phí nợ vay mà còn tạo một áp lực lớn lên khả năng thanh toán của công ty. Vì vậy, công ty nên chủ động giảm các khoản nợ ngắn hạn tại ngân hàng và thay vào đó bằng các khoản nợ dài hạn. Do là một doanh nghiệp thương mại nên nguồn vốn mà công ty cần sử dụng trong hoạt động kinh doanh chủ yếu là vốn lưu động nên việc vay dài hạn ngân hàng là không thể được vì các ngân hàng không cho phép vay dài hạn đối với vốn lưu động. Tuy nhiên công ty có thể vay vốn dài hạn từ một số nguồn sau: _ Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên Là một công ty khá lớn Coalimex có số lượng cán bộ là 170 người chưa kể một số lượng không nhỏ lao động làm hợp đồng, hơn nữa qua 20 năm hoạt động có hiệu quả nên đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty điều là những người đã gắn bó với công ty trong thời gian dài và thu nhập hiện nay của họ là khá cao so với mức chung, đồng thời họ cũng đã có một lượng tài sản tích luỹ tương đối lớn, do đó huy động vốn từ cán bộ công nhân viên là rất thuận lợi đồng thời đó cũng là biện pháp phát huy nguồn vốn nội lực, giảm thiểu rủi ro tăng sức mạnh tài chính cho công ty và góp phần tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên chức của công ty. Tuy nhiên, đây là biện pháp khá mới mẻ và còn chưa được số đông các lãnh đạo của các công ty nghĩ tới cũng như nó còn quá xa lạ. Ngoài ra với phương thức huy động vốn này thường thì số vốn huy động được không nhiều và dễ gặp các khó khăn khác như vấn đề cơ sở pháp lý và các vấn đề về thời hạn cho vay cách hoàn trả… Song nhìn chung đây là nguồn vốn dài hạn rất có triển vọng công ty nên xem xét cách thức huy động để có thể huy động môt lượng vốn khoảng 300 triệu trong thời gian tới. _ Sử dụng nguồn vốn hiện có một cách có hiệu quả Bên cạnh huy động nguồn vốn dài hạn công ty cần sử dụng nguồn vốn hiện có một cách tiết kiệm hiệu quả trong đó quan trọng nhất là sử dụng vốn lưu động một cách tiết kiệm triệt để bởi vì điều này sẽ giúp công ty làm giảm các khoản nợ ngắn hạn. Tuy rằng trong ba năm qua tốc độ luân chuyển vốn lưu động ngày càng tăng song hệ số luân chuyển vốn lưu động lại bé và còn rất thấp so với yêu cầu chung cho nên để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động công ty cần thực hiện các biện pháp đồng bộ nhằm tăng nhanh hơn nữa tốc độ lưu chuyển vốn lưu động có thể tiết kiệm được số vốn lưu động ngày càng lớn. Thực hiện được điều này công ty sẽ giảm được áp lực vay vốn qua đó giảm được các khoản nợ đặc biệt là nợ ngắn hạn. Ngoài ra, công ty cần quan tâm đến vấn đề tiết kiệm các loại chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động như chi phí tiếp khách, chi phí mua hàng, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp… 1.3. Sử dụng các nghiệp vụ thị trường hối đoái nhằm giảm thiểu rủi ro tỷ giá trong hoạt động thanh toán của công ty Hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu công ty Coalimex thực hiện giao dịch với các ngân hàng đều có chuyên môn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, hông kông bank, chinfon bank…do vâỵ để đề phòng rủi ro tỷ giá công ty có thể yêu cầu các ngân hàng này thực hiện một số nghiệp vụ chủ yếu của thị trường hối đoái như nghiệp vụ thị trường giao ngay, nghiệp vụ acbít, nghiệp vụ mua bán kỳ hạn và tương lai các loại ngoại tệ cũng như nghiệp vụ swap. Thực hiện điều này sẽ giúp công ty rất nhiều trong việc đề phòng rủi ro do trạng thái ngoại tệ mở gây ra giúp công ty luôn chủ động được trong thanh toán hàng nhập khẩu. 2.Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động của Công ty đồng thời cải thiện khả năng thanh toán về lâu dài 2.1.Cải thiện bộ máy quản lý Bộ máy quản lý hiện tại của Công ty là sự kết hợp giữa ban Giám đốc và phòng kế hoạch kinh tế - tài chính các kế hoạch đặt ra đã được sự thông qua của hệ thống này sau đó mới được phân bổ đến các bộ phận thực hiện. Tuy nhiên, quy trình lập kế hoạch lại có những khuyết điểm. Cụ thể là sau một năm việc hoạch toán hoạt động kinh doanh được thực hiện từ các phòng kinh doanh các chi nhánh sau đó tổng hợp tại phòng kế hoạch kinh tế - tài chính của Công ty từ đó xây dựng nên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của toàn Công ty. Việc lập kế hoạch hoạt động cho năm tiếp theo cũng dựa trên các chỉ tiêu tài chính và các kế hoạch do chính khối phòng kinh doanh đề ra. Do vậy các yếu tố khách quan dễ bị bỏ qua, sự phân bổ vốn giữa các đơn vị kinh doanh dễ mất đi tính hợp lý. Công ty cần thiết phải lập ra một bộ phận chuyên tổng hợp các phân tích về thị trường, theo dõi các hạng mục công trình hay các dự án đầu tư tương lai liên quan đến doanh nghiệp. Mặt khác, Công ty còn chưa chú trọng đến công tác quản lý tài sản lưu động và quản lý các khoản nợ ngắn hạn của Công ty. Công ty cũng cần nhanh chóng thành lập một bộ phận chuyên trách về tài chính, không gắn thêm nhiệm vụ kế toán để có thể quản lý tốt hơn. Đặc biệt tuy thị trường tài chính Việt Nam chưa hoàn chỉnh Công ty khó có thể thực hiện quản lý tiền bằng cách mua bán các chứng khoán thanh khoản song Công ty cần thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường chứng khoán, bộ phận này sẽ có nhiệm vụ theo dõi sát sao tình hình thị trường giúp Công ty không bị bỡ ngỡ trong việc mua bán các chứng khoán thanh khoản trên thị trường sau này. 2.2.Đổi mới phương pháp quản lý 2.2.1đối với tiền và các chứng khoán thanh khoản cao. Trong hoạt động của mình Công ty cần thiết phải lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để có thể biết các nguồn tiền cũng như sử dụng nguồn tiền của Công ty như thế nào. Từ đó Công ty có thể dự báo nhu cầu tiền trong thời gian tới và xác định được lượng tiền tối thiểu cần phải duy trì đáp ứng được các tình huống diễn ra hàng ngày. Đặc biệt công ty phải nhanh chóng làm quen với các chứng khoán trong cơ cấu tài sản lưu động của mình thể hiện bằng việc bắt đầu đầu tư vào các chứng khoán có giá trị ổn định trên thị trường hiện nay. Tuy có thể nói rằng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay chưa đủ phát triển để các chứng khoán có thể tham gia vào bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp như là một khoản đầu tư ổn định và có lợi tương đối song cũng cần lưu ý ngoại trừ các trái phiếu thì các cổ phiếu của các Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán hiện nay đều có tỷ lệ sinh lời khá lớn tính từ khi chúng được chính thức niêm yết cho tới nay và tỷ lệ này cao hơn rất nhiều so với lãi suất gửi ngân hàng. Dẫu sao đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng là một bước tiến rất khôn ngoan mang tính chất “đi trước đón đầu” giúp doanh nghiệp quen dần và có đủ hiểu biết về thị trường chứng khoán để sau này khi chứng khoán đã thực sự là “bước đệm” cho tiền mặt thì doanh nghiệp thực sự vận dụng và quản lý tài sản này một cách có hiệu quả nhằm nâng cao khả năng thanh toán, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp. 2.2.2.Đối với dự trữ, hàng tồn kho Lượng hàng tồn kho của Công ty trong các năm qua được duy trì một cách ngẫu nhiên trên thực tế Công ty hoàn toàn có thể tính toán một cách chính xác lượng dự trữ hợp lý. Các khách hàng của Công ty hầu hết là khách hàng truyền thống do đó mà Công ty hoàn toàn có thể dự đoán được trước số lượng hàng nhập khẩu mà từng doanh nghiệp có nhu cầu theo quý theo tháng cũng như là số lượng hàng xuất khẩu mà các mỏ than cung cấp. Dựa trên các con số dự đoán Công ty có thể chủ động hơn trong việc tìm nguồn cung cấp và tìm nguồn tiêu thụ, mặt khác có thể tổ chức tốt hơn công tác vận chuyển và tiêu thụ hàng hoá nhằm tăng vòng quay dự trữ và số lượng hàng tồn kho. Chẳng hạn khi mua hàng Công ty có thời gian để tham khảo toàn diện giá cả cũng như điều kiện mua hàng từ nhiều nhà cung cấp khác nhau để lựa chọn được nhà cung cấp nhiều ưu đãi nhất. Nói rõ hơn thì việc quản lý dự trữ, hàng tồn kho phải luôn hướng tới mục tiêu giảm lượng dự trữ tồn kho nhằm tiết kiệm chi phí. Hiện nay, như ta đã biết hàng dự trữ, hàng tồn kho của công ty chủ yếu là bộ phận liên quan đến nhập khẩu. Do đó đòi hỏi ta phải có những giải pháp thực sự có hiệu quả để giải phóng chúng. Xem xét hàng tồn kho của công ty ta nhận thấy chúng chủ yếu tồn tại ở hai dạng là hàng tồn kho và hàng gửi bán. Hiện tại công ty đang phải đối mặt với lượng hàng hoá tồn kho khá lớn một phần trong số đó thuộc loại khó tiêu thụ. Đây là một khó khăn rất lớn cho công ty trong việc đẩy nhanh vòng quay hàng tồn kho. Sau khi đã nhập hàng về kho công ty trực tiếp quản lý chúng, cho nên lúc này biện pháp duy nhất là tìm cách đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng tồn kho. Đó là các biện pháp sau: Thiết lập các kênh tiêu thụ nhằm mở rộng quy mô tiêu thụ như: bán buôn, bán đại lý.. Tiếp tục quá trình Marketing trong khâu tiêu thụ. Đối với hàng gửi bán công ty phải có kế hoạch bố trí công tác, kiểm tra thường xuyên để nắm bắt được tình hình và có biện pháp xử lý kịp thời. Tăng cường công tác tham gia hội chợ triển lãm, hội chợ người tiêu dùng để mở rộng quan hệ với khách hàng, duy trì tốt các mối quan hệ cũ. Đối với hàng tồn kho đã rơi vào tình trạng lỗi thời khả năng tiêu thụ kém công ty nên mạnh dạn chịu tổn thất phần nào để nhanh chóng giải phóng nguồn vốn tồn đọng bằng cách hạ giá. Hơn nữa điều này còn giúp Công ty tránh được những tổn thất khác có thể xảy ra như chi phí lưu kho, bảo quản, tổn thất do chất lượng hàng hoá giảm hoặc do mất mát hao hụt. Tóm lại, đối với hàng hoá tồn kho thì vấn đề được coi trọng không chỉ là công tác quản lý chúng sau khi đã nhập mà quan trọng là lúc đưa ra quyết định nhập: nhập hay không nhập, loại nào, bao nhiêu, từ đâu và khi nào..? 2.2.3.Đối với các khoản phải thu (chính sách tín dụng thương mại) Việc theo dõi các khoản phải thu của Công ty còn quá đơn giản và lỏng lẻo Công ty cần phải lập bảng theo dõi tình hình phải thu đối với từng khách hàng theo từng tháng từng quý, năm. Qua bảng này Công ty lập kế hoạch thu tiền cụ thể nhằm tránh nợ đọng kéo dài từ các khách hàng. Đồng thời Công ty phải thật sự chú trọng đến việc rút ngắn thời gian các khoản phải thu bằng cách tiến hành những phương pháp quản lý mới sau: ] Đối với khoản phải thu khách hàng do bán hàng xuất khẩu. Công ty phải không ngừng nâng cao nghiệp vụ của các kế toán thanh toán tránh để xảy ra sai sót trong thanh toán quốc tế gây thiệt hại lớn ảnh hưởng không chỉ tới hiệu quả sản xuất kinh doanh mà còn tới uy tín của Công ty trên trường quốc tế. Mặc dù trong thời gian qua tình trạng này rất hiếm khi xảy ra ở Công ty song không vì thế mà chủ quan xem nhẹ nó bởi tính nghiêm trọng của nó thật khó mà tưởng tượng được. Công ty có thể sử dụng các hình thức ưu đãi về giá cả, điều kiện vật chất để khuyến khích khách hàng đẩy nhanh quá trình thanh toán. Tổ chức tốt công tác làm thủ tục xuất khẩu vận chuyển, bốc dỡ và giao hàng theo đúng hợp đồng đã ký kết để thuận lợi hơn trong việc yêu cầu thanh toán. Đối với những mặt hàng mang tính độc quyền cao Công ty nên giành lợi thế trong thanh toán. Thường xuyên theo dõi tình hình tài chính của khách hàng thông các Ngân hàng trung gian trong quan hệ thanh toán quốc tế để có được những thông tin đầy đủ hơn giúp cho Công ty có thể điều chỉnh và đưa ra những giải pháp xử lý một cách kịp thời. Tham gia các tổ chức tài phán quốc tế hay trọng tài kinh tế để giải quyết các tranh chấp thương mại khi cần thiết. Thiết lập và duy trì tốt quan hệ với các ngân hàng có uy tín, kinh nghiệm trong thương mại quốc tế để quá trình thanh toán được thuận tiện an toàn và nhanh nhất. Thường xuyên theo dõi sự biến động của tỷ giá hối đoái tuỳ theo đặc điểm của từng giai đoạn mà trích lập quỹ dự phòng thiệt hại phải thu do tỷ giá giảm. ] Đối với khoản phải thu do bán hàng trên thị trường nội địa Đây là bộ phận lớn nhất trong tổng các khoản phải thu, hơn nữa nó rất đa dạng phức tạp và đặc biệt là không ít rủi ro. Do vậy, để có một giải pháp hoàn chỉnh cho nó thật không dễ dàng gì. Trong phạm vi luận văn này em xin đưa ra một số giải pháp và phương hướng trong việc quản lý các khoản phải thu này như sau: Tăng cường công tác thẩm định năng lực tài chính của khách hàng trước khi ra quyết định bán chịu như: năng lực tài chính (thông qua một số kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua, thu nhập kỳ vọng trong thời gian tới chiến lược kinh doanh và tính khả thi của nó...), năng lực pháp lý (tư cách pháp nhân, tính hợp pháp của hành vi kinh doanh...), hành vi đạo đức... Công ty cũng nên định mức giá bán trả chậm phải đảm bảo đủ để bù đắp những rủi ro tiềm ẩn của khoản phải thu đó như: rủi ro vỡ nợ, rủi ro giảm giá trị do ảnh hưởng của lạm phát... và các khoản phí tổn khác phát sinh trong việc quá trình thu nợ. Hay nói cách khác chính các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp phải lập dự toán cho tất cả thiệt hại cũng như lợi thế liên quan đến khoản tín dụng thương mại để xác định được chính xác giá trị chỉ tiêu NPV cho khoản tín dụng thương mại đó và chỉ chấp nhận bán trong trường hợp NPV thực sự dương. Mặt khác, cũng cần phải quan tâm đến đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ trước khi quyết định có bán chịu hay không và với mức giá là bao nhiêu. Chính nhân tố này sẽ tác động rất lớn đến rủi ro và tổn thất của khoản phải thu (sự thay đổi tỷ giá liên quan đến giá gốc nhập khẩu, đến tình trạng lạm phát, trì trệ của nền kinh tế...) Nghiên cứu, quan sát tình hình ngân quỹ của khách hàng để xác định thời hạn hợp lý nhất đảm bảo cho khách hàng trong tình trạng sẵn sàng trả nợ nhất. Hơn nữa, Công ty phải thường xuyên giám sát hoạt động của họ, có thể phân công quản lý theo từng khách hàng, nhóm khách hàng, đặc biệt đối với các khách hàng lớn. Từ đó giúp Công ty dễ dàng hơn trong công tác quản lý và thu nợ. Trong điều kiện khó khăn về vốn Công ty có thể giảm thời gian thu nợ bằng cách đưa ra mức chiết khấu thanh toán nhanh hấp dẫn. Các chứng từ của khoản phải thu phải đảm bảo phản ánh được đầy đủ quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên. Người đứng ra chịu trách nhiệm phải đúng trong phạm vi thẩm quyền được phép phòng khi có rủi ro xảy ra Công ty có thể mời “bên thứ ba”. Không nên để các món nợ chồng chất, nếu khách hàng nào có hiện tượng trì trệ thanh toán và kinh doanh có dấu hiệu không tốt thì Công ty nên cương quyết ngừng ngay việc cấp tín dụng thương mại cho họ. Hơn nữa, phải nhanh chóng xử lý các món nợ dây dưa bằng mọi biện pháp có thể được dù phải chấp nhận tổn thất như tham gia phát mại tài sản, cầm cố tài sản... Thường xuyên theo dõi số dư các khoản phải thu của từng khách hàng cũng như trong tổng thể để có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Đồng thời phải lập ngân quỹ cho từng thời điểm để có biện pháp cân đối nguồn cho phù hợp vừa đảm bảo thanh toán vừa tránh lãng phí vốn. Để thực hiện tốt vấn đề này thì việc xắp xếp tuổi cho các khoản phải thu là một vấn đề rất cần thiết. Tuỳ từng thời kỳ mà Công ty lên kế hoạch lập dự phòng phải thu khó đòi cho phù hợp không nên lớn quá mà gây ứ đọng vốn nhưng cũng không nên nhỏ quá mà gây khó khăn trong việc đảm bảo tái sản xuất của Công ty. ] Đối với khoản phải thu Nhà nước thông qua hoàn thuế VAT đầu vào. Đây cũng đang là yếu tố gây ứ đọng vốn không nhỏ cho Công ty. Mặc dù nguyên nhân của vấn đề này không phải do chính sách thuế cũng không hoàn toàn là lỗi của Công ty mà chủ yếu do sự thiếu đồng bộ trong hệ thống chứng từ sử dụng trong luật VAT của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ngoài ra còn nhiều bất cập khác xảy ra trong quá trình áp dụng luật thuế này. Mặc dù tại Công ty đã có một kế toán trong lĩnh vực này song lại không thể chống đỡ nổi với muôn vàn yếu tố khách quan. Do vậy vấn đề hoàn thuế vẫn còn là điều đang được sự quan tâm của toàn Công ty. Biện pháp duy nhất Công ty có thể làm được là hoàn thiện bộ hoá đơn VAT trong khâu thu mua, hồ sơ xin hoàn thuế phải tuân thủ nghiêm ngặt mọi điều khoản theo luật thuế hiện hành. Công ty cũng cần dự đoán các nhu cầu tiền để có thể chủ động trong việc tìm các nguồn tài trợ ngắn hạn tăng cường các hoạt động thanh toán của Công ty. 2.3. Rút ngắn thời gian làm thủ tục xuất nhập khẩu, vận chuyển. Thực tế rất có khả năng xảy ra trường hợp hàng đã về hoặc đã chuẩn bị xuất song vì thủ tục xuất nhập khẩu chưa được hoàn thiện nên nó vẫn bị tồn đọng trên các bến cảng, điều này sẽ đặc biệt nghiêm trọng hơn nếu đó là những lô hàng có giá trị lớn (trả lãi vay ngân hàng, chi phí bến bãi..) và chính lúc này vốn lưu động đang bị tồn đọng tài sản lưu động không tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy thực hiện tốt các thủ tục hành chính trong kinh doanh thương mại quốc tế là một vấn đề rất quan trọng góp phần rút ngắn thời gian vận động của vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thời gian vận chuyển bốc dỡ tại cảng tưởng chừng như không đáng kể nhưng thực tế nó cũng là một vấn đề. Thêm một giờ hàng còn trên các con tàu là thêm một giờ trong quá trình chu chuyển vốn lưu động vậy nên tổ chức công tác bốc dỡ cũng cần được quan tâm cũng như đối với việc lựa chọn phương tiện vận chuyển về tốc độ cũng như về khả năng trọng tải nhằm đạt được mục tiêu rút ngắn thời gian. 3. một số kiến nghị 3.1 Đối với Nhà nước 3.1.1.Nhà nước cần tạo ra môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn Để thực hiện được điều này, trước tiên Nhà nước cần ban hành các chính sách về tạo vốn. Các chính sách này cần phải đảm bảo được quyền huy động vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước bằng mọi hình thức như liên doanh. liên kết vay của các cá nhân. các tổ chức trong và ngoài nước từng bước phát hành cổ phiếu để huy động vốn từ cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp và của các cá nhân ngoài xã hội. Chính sách của Nhà nước cần chú trọng đến việc vừa khuyến khích định hướng cho các hoạt động thu hút vốn và cung ứng vốn vừa tạo sức ép buộc doanh nghiệp phải tự lo lắng và tính toán các biện pháp huy động vốn sao cho vừa đáp ứng nhu cầu thanh toán vừa đảm bảo khả năng sinh lợi của vốn. Bên cạnh đó Nhà nước cần phải nhanh chóng tạo lập một thị trường tài chính hoàn chỉnh. Tạo dựng và phát triển thị trường tài chính ở nước ta vừa là quá trình có tính quy luật của nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường vừa nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách về vốn cho mọi cá nhân và tổ chức kinh doanh. ở nước ta hiện nay, vốn lưu chuyển chủ yếu qua hệ thống ngân hàng vì thị trường tài chính chưa hoàn thiện do đó năng lực huy động vốn và tốc độ chu chuyển vốn của nền kinh tế là rất hạn chế. Kinh nghiệm của các nước cho thấy chỉ khi nào hai hình thức lưu chuyển này cùng tồn tại và bổ xung cho nhau thì mới cung cấp đủ lượng vốn cần thiết cho mọi thành viên của xã hội. Vì vậy, Nhà nước cần phải nhanh chóng hoàn thiện thị trường tài chíng tạo điều kiện cung cấp vốn cho các doanh nghiệp hoạt động và phát triển. Hơn nữa, một thị trường tài chính hoàn chỉnh còn giúp doanh nghiệp có thể thực hiện quản lý tài chính tốt hơn như quản lý tiền và quản lý rủi ro (chủ yếu là rủi ro về tỷ giá). 3.1.2.Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn vốn dưới dạng ngoại tệ: ở Việt Nam, các doanh nghiệp xuất khẩu phải chuyển khoản ngoại tệ vào các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ. Hơn nữa, Nhà nước còn cấm gửi các ngoại tệ thu được do xuất khẩu vào các ngân hàng nước ngoài nếu không sẽ vi phạm quy chế quản lý ngoại hối. Nên chăng, Nhà nước có những ưu đãi về sử dụng nguồn vốn ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cho phép các doanh nghiệp này được giữ lại một phần nào đó khoản tiền này để tạo thành một nguồn vốn mới sử dụng trong các lần xuất khẩu tiếp theo. hoặc sử dụng để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết. Như vậy sẽ giảm được gánh nặng trong hoạt động thanh toán của doanh nghiệp, tăng tốc độ chu chuyển của vốn. 3.1.3.Thành lập các Công ty mua bán nợ đối với doanh nghiệp Đây chính là hình thức factoring mua nợ, một dịch vụ do Công ty con của ngân hàng thực hiện. đó là nghiệp vụ mua lại các yêu cầu chi trả (thường là ngắn hạn) của doanh nghiệp sau đó nhận các khoản chi trả của các yêu cầu đó. Công ty mua nợ sẽ chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi, thu hồi và chịu rủi ro về các khoản chi trả đó. ở nước ta hiện nay đã có rất nhiều Công ty tài chính đươc thành lập. tuy nhiên hoạt động của các Công ty này còn rất hạn chế. Điều này khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong thanh toán khi không tiêu thụ được hàng hoá và không thu hồi được các khoản phải thu. Nhà nước cần tạo cơ sở để các Công ty tài chính có thể hoạt động ở phạm vi rộng hơn. Cụ thể là Công ty tài chính chấp nhận cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong thanh toán vay một khoản tiền mà tài sản bảo đảm chính là các khoản phải thu của doanh nghiệp. 3.2. Đối với Bộ thương mại Để việc sử dụng các nguồn lực của Công ty hiệu quả hơn không bị đứt quãng, Bộ Thương Mại nên xem xét lại cơ chế cấp hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu cho Công ty sao cho phù hợp với khả năng tốt nhất của Công ty. Đối với một số mặt hàng nhập khẩu đã rơi vào tình trạng khó tiêu thụ Bộ thương mại nên xem xét khấu trừ một phần lỗ cho Công ty khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Hơn nữa, Bộ nên tổ chức các cuộc triển lãm ở các nước khác trên thế giới để nhờ đó Công ty có điều kiện giới thiệu về mình cũng như gặp gỡ các bạn hàng mới. Mặt khác, Bộ nên mở rộng các quan hệ thương mại với các nước khác để tạo điều kiện cho Công ty mở rộng thị trường. 3.3.Đối với Tổng Công ty than Việt Nam và các cơ quan chức năng Xét tình hình huy động vốn lưu động hiện nay của Công ty em thấy việc Công ty dựa quá nhiều vào vốn vay ngân hàng và ký quỹ của khách hàng là điều khá mạo hiểm và lãng phí, không tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong tổng Công ty. Theo em để tránh tình trạng nguồn vốn của các doanh nghiệp khác trong tổng Công ty thì nhàn rỗi còn với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu như Coalimex thì lại thiếu vốn lưu động ta nên thành lập công ty tài chính trực thuộc Tổng Công ty than Việt Nam để góp phần điều tiết và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn trong toàn Tổng Công ty. Thực tế cho thấy 5 mô hình Công ty tài chính 5 Tổng Công ty Nhà nước (Công ty tài chính Dệt - May, Công ty tài chính Cao su, Công ty tài chính Bưu điện, Công ty tài chính công nghiệp Tàu thuỷ, Công ty tài chính Dầu khí) đã hoạt động khá hiệu quả từ khi mới thành lập cho đến nay thực sự là nhân tố điều tiết đáng tin cậy và là người trợ thủ đắc lực cho các Công ty thương mại trong các Tổng Công ty đó với lãi suất cho vay trong Tổng Công ty thấp hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng, đi đôi với điều này thì điều kiện cho vay và thủ tục cũng đơn giản hơn. Chính vì vậy việc các cơ quan có chức năng và Tổng Công ty than Việt Nam sớm thành lập một Công ty tài chính trực thuộc Tổng Công ty than là một giải pháp tuyệt vời góp phần tài trợ vốn lưu động với chi phí thấp cho Coalimex - một Công ty chủ yếu hoạt động bằng nguồn vốn lưu động đi vay. Tuy nhiên để Công ty tài chính này hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải có một dự án thật cụ thể đồng thời Nhà nước cũng nên nới lỏng phạm vi kinh doanh cho các Công ty tài chính để họ được tự do hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Kết luận Có thể khẳng định rằng cải thiện tình hình và khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động là một trong những nội dung quan trọng nhất trong đổi mới quản lý doanh nghiệp giúp doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn và thậm chí nó còn quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Qua thời gian thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex đã cho em thêm nhiều hiểu biết, kinh nghiệm và kiến thức về các hoạt động quản trị tài chính doanh nghiệp nói chung cũng như quản lý tình hình. khả năng thanh toán và tài sản lưu động nói riêng. Luận văn này chính là sự đúc rút những kinh nghiệm, kiến thức bổ ích đó đồng thời nó cũng là kết quả của sự chỉ dạy tận tình của các thầy cô, của các cô chú, anh chị trong Công ty. Chính vì vậy với tất cả sự chân thành em xin gửi đến Thạc sỹ Lê Hương Lan và các cán bộ trong Công ty Coalimex nói chung cũng như các nhân viên trong phòng Kế hoạch kinh tế - Tài chính nói riêng lòng biết ơn sâu sắc nhất. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình “Tài chính doanh nghiệp” chủ biên TS Lưu Thị Hương NXB Giáo dục - 1998 Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp Trường Đại học Kinh tế quốc dân -1998 Chủ biên:TS Vũ Duy Hào -TS Đàm Văn Huệ Đọc lập phân tích và dự đoán nhu cầu tài chính doanh nghiệp Đào Xuân Tiến.Vũ Công Ty. Nghuyễn Viết Lợi Nhà xuất bản tài chính - 1996 Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường Sở kinh tế đối ngoại Hà Nội - 1995 Quản lý tài chính doanh nghiệp -Josette Peyrard Nhà xuất bản thống kê - 1994 Đọc và phân tích các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp Ngô Thế Chi - Nhà xuất bản tài chính - 1996 Thời báo tài chính 2001 Công báo 2000 và 2001 Các tài liệu của Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0093.doc