Cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế, thực tiễn ở Việt Nam

Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài: Từ sau năm 1986, Việt Nam bước vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao độ, đồng thời, thế giới đang diễn ra xu thế toàn cầu hoá và xu thế đó ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước diễn ra trong lúc toàn cầu hoá và khu vực hoá trở thành một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế. Để quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại, tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải sử dụng m

doc100 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3576 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế, thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột công cụ quan trọng đó là cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thanh toán quốc tế không chỉ được sử dụng để quản lý kinh tế vĩ mô mà nó còn có ý nghĩa trong việc đề ra các chính sách phát triển kinh tế vì nó phản ánh toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại của thế giới trong một thời gian nhất định. Do đó, cần xác định rõ những ảnh hưởng của nó tới sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong ngắn hạn và trong dài hạn. 2. Đánh giá các đề tài quá khứ: Trước đây, đã có một số đề tài trong khoá luận tốt nghiệp, luận án tiến sĩ hoặc phó tiến sĩ đã đề cập đến cán cân thanh toán quốc tế hay tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng như một số nước. Tuy nhiên, những đề tài này thường chỉ đi sâu phân tích một khía cạnh của vấn đề. + Khoá luận tốt nghiệp K35 của Phạm Thị Việt Hà về: “Thực trạng và các biện pháp nhằm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam ”, năm 1999 đã đề cập và phân tích khá rõ về cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam tuy nhiên lại chưa đề cập đến ảnh hưởng của nó tới sự tăng trưởng kinh tế. + Luận án của Nguyễn Văn Châu về: “Tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam ” đã phân tích rất rõ nét về những điểm mạnh yếu của Việt Nam trong quá trình vạch ra chiến lược tăng trưởng kinh tế, có so sánh với Hàn Quốc nhưng lại không phân tích cụ thể tình hình tăng trưởng cụ thể cũng như ảnh hưởng của cán cân thanh toán quốc tế. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ là tăng trưởng kinh tế đơn thuần chứ không đặt nó trong mối quan hệ với kinh tế đối ngoại. 3. Mục tiêu nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu nhằm những mục tiêu sau: Phân tích các chức năng của cán cân thanh toán quốc tế. Đánh giá ảnh hưởng của cán cân thanh toán quốc tế đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế để biến nó thành công cụ phân tích và quản lý có hiệu quả các hoạt động kinh tế đối ngoại. Đánh giá thực tiễn cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam, quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam nhằm rút ra mối liên hệ giữa hai lĩnh vực này. 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu các mặt của cán cân thanh toán quốc tế, tăng trưởng kinh tế, nghiên cứu mối liên quan giữa hai lĩnh vực này và thực tiễn ở Việt Nam để từ đó rút ra những biện pháp quản lý hiệu quả cán cân thanh toán quốc tế hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu: Với những mục tiêu trên, khoá luận này sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, so sánh, tổng hợp và phân tích, kết hợp với những kết quả thống kê, vận dụng lý luận để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. 6. Điểm mới của đề tài: + Luận văn không chỉ phân tích một nội dung mà đã phân tích đồng thời cả cán cân thanh toán quốc tế lẫn tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từ đó có những cơ sở để chỉ ra mối liên hệ biện chứng giữa hai nội dung này. + Trong luận văn, các số liệu được cập nhập một cách tương đối đầy đủ theo những thống kê gần đây nhất nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu và phân tích đạt được hiệu quả cao nhất. Các số liệu này cũng có thể phục vụ cho công tác giảng dạy ở các trường đại học. + Luận văn này được phân tích tổng hợp có kế thừa và phát huy sáng tạo để chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế, liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam để đề ra những biện pháp quản lý có hiệu quả. 7. Cấu trúc của luận văn: Luận văn gồm ba chương: Chương I: Lý thuyết chung về cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế. Nội dung của chương I đề cập đến những lý thuyết chung nhất về cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế, đồng thời chỉ ra mối liên hệ biện chứng giữa hai lĩnh vực này. Chương II: Thực tiễn cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1995 – 2001. Chương này nói về tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, trong đó có phân tích tác động của cán cân thanh toán quốc tế đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng như những chính sách tăng trưởng kinh tế mà nước ta đang thực hiện đem lại những dấu hiệu thay đổi như thế nào đến cán cân thanh toán. Chương III: Biện pháp quản lý cán cân thanh toán quốc tế nhằm hướng đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới. Mục đích của chương III là căn cứ trên những phân tích ở hai chương trên, đề ra một số giải pháp mang tính gợi ý nhằm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế đồng thời thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ. Chương này chúng ta nghiên cứu về cán cân thanh toán quốc tế và các nội dung chính của nó, nội dung và vai trò của từng cán cân bộ phận trong cán cân thanh toán quốc tế cũng như trong toàn bộ nền kinh tế. Tiếp đó, chúng ta sẽ tìm hiểu những lý thuyết chung nhất về Tăng trưởng kinh tế để thấy được tầm quan trọng và tính thiết yếu của Tăng trưởng kinh tế đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Từ những lý thuyết chung nhất về hai lĩnh vực này, chúng ta sẽ thấy được mối liên hệ biện chứng giữa chúng. 1. Cán cân thanh toán quốc tế và các nội dung chính: Khái niệm cán cân thanh toán quốc tế: Cán cân thanh toán quốc tế là một công cụ kinh tế quan trọng nhất dành cho các nhà hoạch định chính sách trong nền kinh tế mở, tuy nhiên hiểu được khái niệm cán cân thanh toán thế nào cho đúng cũng là một vấn đề tương đối phức tạp. Xét dưới một góc độ nhất định, định nghĩa về cán cân thanh toán quốc tế trong các giáo trình và sách tham khảo về kinh tế vĩ mô và tài chính quốc tế là tương đối giống nhau. Tuy vậy khái niệm được coi là hoàn chỉnh nhất là khái niệm của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) . Theo đó, cán cân thanh toán quốc tế được định nghĩa như sau: “Cán cân thanh toán là một bản thống kê được thành lập một cách có hệ thống các giao dịch kinh tế của một nước với phần còn lại của thế giới trong một khoảng thời gian nhất định. Các giao dịch bao gồm các luồng trao đổi về hàng hoá, dịch vụ và thu nhập, các giao dịch về tài sản, những khoản có và những khoản nợ tài chính của một nước với các nước khác trên thế giới, những khoản chuyển giao không bồi hoàn như quà tặng …”. Như vậy, cán cân thanh toán quốc tế là một trong những bản báo cáo thống kê quan trọng nhất của một quốc gia, là bản ghi chép toàn bộ giao dịch kinh tế đối ngoại của nước đó trong một khoảng thời gian nhất định. Thời gian lập bản báo cáo này thường là một năm, nhưng tuỳ theo yêu cầu mà cán cân thanh toán có thể được lập thường xuyên hơn. Các chỉ tiêu trong cán cân thanh toán quốc tế cho biết có bao nhiêu hàng hoá, dịch vụ mà một quốc gia đã xuất khẩu và nhập khẩu và quốc gia này hiện là con nợ hay là chủ nợ với phần thế giới còn lại,… để từ đó chúng ta đánh giá được sự thành công hay không trong chính sách kinh tế đối ngoại của một quốc gia. Tóm lại, cán cân thanh toán quốc tế giữ vai trò trung tâm trong hệ thống tài khoản quốc gia. Tình trạng của nó sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi tỷ giá hối đoái, đến tình hình ngoại hối, đến toàn bộ nền kinh tế của một nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Vì vậy, nghiên cứu các nội dung của cán cân thanh toán quốc tế sẽ giúp chúng ta biến nó thành công cụ phân tích và quản lý có hiệu quả các hoạt động kinh tế đối ngoại. Phân tích các nội dung của cán cân thanh toán quốc tế: Để hiểu rõ về cán cân thanh toán quốc tế, trước hết, chúng ta hãy tham khảo bản cán cân thanh toán quốc tế do IMF công bố cho tất cả các nước thành viên: Tài khoản vãng lai – Current Account 1 Xuất khẩu hàng hoá (1) 2 Nhập khẩu hàng hoá (2) 3 Cán cân thương mại (Trade Balance) (3) Hàng (1) + (2) 4 Xuất khẩu các dịch vụ (4) 5 Nhập khẩu các dịch vụ (5) 6 Thu nhập lãi suất, lợi nhuận, cổ tức (6) 7 Chi trả lãi suất, lợi nhuận, cổ tức (7) 8 Thu chuyển tiền một chiều (8) 9 Chi chuyển tiền một chiều (9) 10 Cán cân tài khoản vãng lai (Current Account Balance) (10) Tổng các hàng từ (3) đến (9) Tài khoản vốn – Capital Account 11 Đầu tư ra nước ngoài (11) 12 Cho vay ngắn hạn (12) 13 Cho vay trung dài hạn (13) 14 Hoàn trả các khoản vay (14) 15 Nước ngoài đầu tư vào (15) 16 Vay ngắn hạn (16) 17 Vay trung dài hạn (17) 18 Thu hồi vốn vay (18) 19 Cán cân tài khoản vốn (Capital Account Balance) (19) Tổng các hàng từ (11) đến (18) 20 Sai sót trong thống kê (20) 0-[(10)+(19)+(24)] 21 Cán cân thanh toán chính thức (Official Settlements Balance) (21) 22 Thay đổi dự trữ (22) (+) giảm; (-) tăng 23 Vay IMF (23) (+) vay; (-) trả 24 Cán cân tài trợ chính thức (Official Financing Balance) (24) (22) + (23) Nội dung của các cán cân bộ phận: Như vậy, nội dung của cán cân thanh toán quốc tế theo IMF bao gồm các hạng mục sau: Tài khoản vãng lai, tài khoản vốn, tài khoản dự trữ. Ngoài ra do có khó khăn trong việc thu thập số liệu của tất cả các giao dịch của một nước với thế giới bên ngoài nên trong cán cân thanh toán còn có tài khoản lỗi và sai sót. Đại diện cho các tài khoản này trong bảng cán cân thanh toán quốc tế là các cán cân bộ phận sẽ được đề cập dưới đây: Cán cân thương mại: hay còn được gọi là cán cân hiển thị là một bộ phận quan trọng nhất của cán cân thanh toán. Đôi khi người ta chỉ dùng cán cân này để đánh giá hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước thay cho việc sử dụng cả cán cân thanh toán quốc tế. Nó phản ánh chênh lệch giữa thu nhập về xuất khẩu hàng hoá và chi phí cho nhập khẩu hàng hoá, mà các hàng hoá này có thể quan sát được khi di chuyển qua biên giới. Thu nhập từ xuất khẩu hàng hoá được ghi có (+) trong tài khoản vãng lai và chi phí cho nhập khẩu được ghi nợ (-). Nếu thu nhập từ hoạt động xuất khẩu hàng hoá lớn hơn chi phí cho nhập khẩu hàng hoá thì cán cân thương mại là thặng dư, còn trong trường hợp ngược lại, ta nói cán cân thương mại bị thâm hụt. Cán cân tài khoản vãng lai: là tổng của cán cân hiển thị và không hiển thị, nó phản ánh đầy đủ mọi giao dịch có giá trị kinh tế xảy ra giữa người cư trú và người không cư trú và là bộ phận chính hình thành lên bảng cán cân thanh toán quốc tế của một nước. Như vậy, cán cân tài khoản vãng lai không chỉ phản ánh chênh lệch giữa thu và chi trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá mà còn phản ánh: chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu dịch vụ và các khoản chi cho hoạt động nhập khẩu dịch vụ (cán cân dịch vụ), chênh lệch giữa các khoản thu và chi cho hoạt động đầu tư, chênh lệch giữa thu và chi cho hoạt động chuyển tiền một chiều. Các khoản thu và chi từ các hoạt động xuất nhập khẩu dịch vụ, thu và chi từ các hoạt động đầu tư được ghi vào tài khoản vãng lai giống như đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Thế nhưng, điểm đáng chú ý là cách ghi các khoản tiền một chiều vào cán cân. Đây là những khoản thu và chi không phải bồi thường và hoàn trả và nó phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa người cư trú với người không cư trú. Chuyển tiền một chiều ra nước ngoài được xem như làm giảm sút thu nhập quốc nội, do đó được ghi nợ trong cán cân thanh toán quốc tế, trong khi đó chuyển tiền một chiều vào trong nước lại làm tăng thu nhập quốc nội và được ghi có trong cán cân thanh toán quốc tế. Tóm lại, cán cân tài khoản vãng lai chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân tài khoản vốn: là cán cân ghi chép những giao dịch liên quan đến sự di chuyển vốn tài chính vào và ra đối với một quốc gia. Luồng vốn chảy vào bao gồm việc một quốc gia đi vay nước ngoài hay bán tài sản chính ra nước ngoài và sự đầu tư của nước ngoài vào trong nước, do đó làm giảm giá trị tài sản nước ngoài mà quốc gia nắm giữ, hoặc làm tăng khoản nợ nước ngoài của quốc gia này. Luồng vốn chảy vào được ghi có trong tài khoản vốn. Ngược lại, luồng vốn chảy ra bao gồm hoạt động của những người cư trú của một quốc gia khi cho vay người không cư trú, mua các tài sản ở nước ngoài hay mua lại tài sản ở trong nước do người không cư trú nắm giữ. Luồng vốn này làm tăng giá trị tài sản hữu hình của quốc gia đối với người không cư trú, hoặc làm giảm dư nợ của quốc gia đối với người không cư trú do đó được ghi nợ trong tài khoản vốn. Cán cân này dùng để đánh giá hoạt động tài chính của một quốc gia. Cán cân thanh toán chính thức: là tổng của cán cân vãng lai, cán cân vốn và sai sót trong thống kê. Cán cân này có một ý nghĩa hết sức quan trọng vì: Nếu thặng dư (+), nó cho biết số tiền sẵn có để một quốc gia có thể sử dụng nhằm tăng dự trữ ngoại hối chính thức hoặc giảm các khoản nợ vay chính thức của chính phủ. Nếu thâm hụt (-), nó cho biết số tiền phải hoàn trả của một quốc gia bằng cách giảm dự trữ chính thức hoặc tăng các khoản vay chính thức của chính phủ. Nhìn vào cán cân thanh toán chính thức của một quốc gia, chúng ta có thể biết được chính sách kinh tế mà chính phủ nước đó đang thực hiện và hiệu quả của việc thực hiện các chính sách đó. Cán cân tài trợ chính thức: cán cân đối của cán cân thanh toán chính thức. Nó thể hiện lượng dự trữ ngoại tệ chính thức mà một quốc gia đang nắm giữ đồng thời cũng cho biết số vay nợ của quốc gia đó đối với Quỹ tiền tệ Quốc tế. Cán cân tài trợ chính thức bao gồm tài khoản dự trữ và khoản vay IMF. Tài khoản dự trữ ghi lại những thay đổi về tài sản dự trữ của cơ quan quản lý tiền tệ để tài trợ và điều hoà sự mất cân đối của cán cân thanh toán quốc tế. Phương tiện dự trữ ở đây là vàng thuộc sở hữu quốc gia, quyền rút vốn đặc biệt SDR của Quỹ tiền tệ IMF, ngoại hối. Về mặt lý thuyết, tổng của cán cân vãng lai, cán cân vốn, cán cân tài trợ chính thức phải luôn luôn bằng 0, nhưng trong thực tế khi tiến hành điều tra thống kê còn tồn tại những sai sót và nhầm lẫn do nhiều nguyên nhân nên tổng này không bằng 0. Những sai sót này có thể do không thể tập hợp thống kê được tất cả các giao dịch kinh tế xảy ra giữa người cư trú với người không cư trú, nhiều số liệu được thu thập trên cơ sở lấy mẫu dự đoán, một số giao dịch được báo cáo không chính xác nhằm mục đích trốn thuế, có những khoản thanh toán ứng trước hay trả chậm. Những khoản này được ghi vào tài khoản sai sót trong thống kê phản ánh phần chênh lệch của tất cả các hạng mục trong cán cân thanh toán. Phân tích cán cân thanh toán quốc tế: Phân tích cán cân thanh toán quốc tế là một trong những cơ sở quan trọng để các nhà hoạch định chính sách đưa ra những chính sách thích hợp cho từng thời kỳ nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, Cán cân thanh toán quốc tế cần phải được phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong mối quan hệ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác và trong mối quan hệ giữa các hạng mục của cán cân thanh toán. Đường ranh giới trong cán cân thanh toán quốc tế: Vì cán cân thanh toán là tài khoản được ghi kép: một ghi nợ và một ghi có với giá trị bằng nhau nên nó luôn bằng không với điều kiện là tất cả các giao dịch được lưu lại đúng và không có khoản mục có tên là sai sót trong thống kê. Từ góc độ này, có thể thấy cán cân thanh toán quốc tế không thể có cân bằng thực sự. Tuy nhiên nó lại được xây dựng để phản ánh một cân bằng. Điều này được thực hiện bằng cách sử dụng một đường ranh giới phân tích trong tài khoản. Theo “Sổ tay cán cân thanh toán” của IMF (1993), đường ranh giới này được vẽ để ghi lại vị thế của một quốc gia với bên ngoài. Nếu ở đường ranh giới này, giá trị các khoản ghi có vượt quá giá trị các khoản ghi nợ, người ta có thể nói cán cân thanh toán thặng dư và ngược lại. Các khoản mục ghi trên đường ranh giới mang tính tự định, nghĩa là chúng tự tạo ra lợi ích cho chúng chứ không ảnh hưởng tới vị thế bên ngoài của quốc gia. Điều này có thể minh hoạ bằng ví dụ sau: Người cư trú xuất khẩu giầy tới một người không cư trú và giữ lại số ngoại hối thu được trong một tài khoản nằm ngoài sự kiểm soát trực tiếp của cơ quan quản lý tiền tệ. Trong trường hợp này, cả hai khoản ghi đều nằm phía trên đường ranh giới vì giao dịch không có khía cạnh tài chính theo ý nghĩa cán cân thanh toán. Những khoản ghi dưới đường ranh giới là các giao dịch điều chỉnh. Chúng thực hiện do có giao dịch tự định để lại một lỗ hổng phải được bù đắp và ảnh hưởng trực tiếp tới vị thế bên ngoài của quốc gia, tới khả năng bảo vệ và tác động của các cơ quan quản lý tiền tệ. Chúng bao gồm hai loại tài khoản chính: các thay đổi trong tài sản dự trữ và các khoản mục tài chính ngoại lệ. Rõ ràng là các giao dịch điều chỉnh có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng của cơ quan quản lý trong việc bảo vệ đồng tiền vì chúng liên quan đến tài sản dự trữ và can thiệp vào thị trường ngoại hối. Phân tích cán cân thương mại: Cán cân thương mại là một chỉ tiêu kinh tế được quan tâm hàng đầu trong số các chỉ tiêu của kinh tế đối ngoại. Khi phân tích cán cân này chúng ta phải phân tích các hạng mục hàng hoá chính được xuất nhập khẩu đưọc tính theo giá FOB hoặc giá FAS. Hạng mục hàng hoá có thể được chia thành: + Hàng thông thường. + Hàng nhiên liệu và hàng mua tại cảng. + Hàng gia công chế biến. + Hàng sửa chữa. + Hàng viện trợ. + Vàng phi tiền tệ, kim loại, đá quý. + Hàng quân sự. Trong cán cân thương mại chúng ta sẽ quan tâm đến những mặt hàng đang có thế mạnh, có thể đẩy mạnh xuất khẩu trong tương lai, cũng như những mặt hàng đang có xu hướng nhập khẩu cao để có những chính sách kinh tế vĩ mô dài hạn nhằm phát triển sản xuất sản phẩm đó trong nước. Khi phân tích cán cân thương mại cũng cần xác định mặt hàng nào là nguyên nhân chính dẫn tới thâm hụt, mặt hàng nào quyết định thặng dư và mức thâm hụt hay thặng dư đó có những ảnh hưởng gì tới kinh tế trong dài hạn, có làm suy yếu nền kinh tế hay không? Phân tích tài khoản vãng lai: Như chúng ta đã đề cập ở trên, trong cán cân thanh toán, cán cân vãng lai giữ vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy khi phân tích cán cân thanh toán quốc tế cần phải chú trọng phân tích cán cân vãng lai và số dư tài khoản vãng lai. Các nhà kinh tế học cho rằng những định nghĩa khác nhau thể hiện những mặt khác nhau của cán cân vãng lai. Thực tế có nhiều định nghĩa khác nhau về cán cân vãng lai và sự lựa chọn định nghĩa nào phụ thuộc vào mục đích phân tích. Theo định nghĩa cán cân vãng lai đo lường các giao dịch kinh tế của một nước với phần còn lại của thế giới về hàng hoá, dịch vụ và chuyển giao một chiều (định nghĩa trong “Tài chính quốc tế và các nền kinh tế mở” của Rivera-Batiz, NXB Giáo Dục, 1994, trang 119). Như vậy cán cân vãng lai (CA) là tổng của chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ (X- M) cộng với thu nhập yếu tố ròng từ nước ngoài (NF) và chuyển khoản ròng từ nước ngoài (NTR). CA = X – M + NF +NTR Theo định nghĩa này, khi thâm hụt vượt quá 5% đến 6% GDP tức là hoạt động kinh tế có vấn đề và cần tìm ra yếu tố nào đã gây ra thâm hụt. Ngoài ra còn có nhiều định nghĩa khác về cán cân vãng lai như: là chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu của nền kinh tế, chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư quốc gia, những thay đổi trong tài sản nước ngoài ròng của quốc gia với phần còn lại của thế giới. Có thể tóm tắt các định nghĩa này theo sơ đồ dưới đây: Sơ đồ 1: Mối quan hệ kinh tế vĩ mô cơ bản Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ Trừ Chi tiêu (A) Thu nhập quốc dân khả dụng Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ Cộng Thu nhập ròng Cộng Chuyển giao ròng nước ngoài Chênh lệch Tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế Tất cả các khoản mục bù đắp để cân bằng cán cân vãng lai Chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư Chênh lệch khu vực tư nhân Chênh lệch khu vực Chính phủ Thay đổi về tài sản ngoại tệ ròng của các tổ chức phi ngân hàng Cộng Thay đổi về tài sản ngoại tệ ròng của các tổ chức ngân hàng Phân tích cán cân vốn: Tài khoản vốn bao gồm các luồng vốn dài hạn hoặc ngắn hạn, chạy vào hoặc chạy ra khỏi một nước. Nó cũng là tổng của đầu tư nước ngoài và số vay nợ ròng. Như vậy, tình trạng cán cân thanh toán quốc tế có liên quan trực tiếp đến tình trạng tài sản ròng của một nền kinh tế. Chính phủ có thể điều chỉnh chính sách nhằm thu hút đầu tư tư nhân hoặc tìm kiếm các khoản vay nước ngoài. Có nhiều nguồn tài chính có thể tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai nhưng xét về mặt hiệu quả sử dụng các loại nguồn vốn này, đầu tư trực tiếp nước ngoài được đánh giá cao hơn hẳn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số tính chất riêng ưu việt hơn so với các nguồn vốn ngắn hạn và đầu tư gián tiếp đó là: nó có tính linh động kém hơn nhiều do đó có thể đem đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng trong dài hạn mà không phải lo hoàn vốn; đầu tư trực tiếp còn giúp hình thành nên các pháp nhân tại nước nhận đầu tư làm cho thực lực kinh tế của nước nhận đầu tư tăng lên. Như vậy đầu tư trực tiếp có tác dụng rất lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng lại tạo ra rất ít dư nợ cho đất nước. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài còn là nhịp cầu để chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quản lý hiện đại giúp đất nước đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, cần chú ý rằng luồng vốn này cũng làm tăng nguồn chuyển giao ra nước ngoài, khi lợi nhuận và cổ tức được các nhà đầu tư chuyển về nước. Phân tích cán cân thanh toán chính thức hay cán cân tài trợ chính thức: Cán cân thanh toán chính thức cho chúng ta biết lượng dự trữ ngoại hối của một quốc gia, thường là do Ngân hàng Trung ương (NHTW) nắm giữ. Mỗi NHTW thường nắm giữ những giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ trong dự trữ ngoại hối chính thức của mình, mà chủ yếu là bằng tín phiếu kho bạc Mỹ. Dự trữ ngoại hối thường được NHTW sử dụng vào việc mua nội tệ trong trường hợp cần bảo vệ nội tệ khỏi bị giảm giá. Mọi thâm hụt trong cán cân thanh toán chính thức phải được tài trợ bằng cách giảm dự trữ hay đi vay từ IMF hay từ các NHTW khác. Nếu cán cân thanh toán chính thức thặng dư, thì có thể sử dụng để tăng dự trữ hay giảm vay nợ từ IMF hay từ các NHTW khác. Thực tế là, khi dự trữ ngoại hối tăng thì chúng ta ghi nợ (-) và giảm thì ghi có (+), do nhầm lẫn thường xảy ra ở đây nên chúng ta cần chú ý như sau: Dự trữ ngoại hối tăng khi NHTW mua ngoại tệ vào. Điều này có nghĩa là các khoản mục khác trong cán cân thanh toán quốc tế là thặng dư, do đó tăng dự trữ phải được ghi nợ (-) để đảm bảo rằng toàn bộ cán cân thanh toán được cân đối. Ngược lại, dự trữ ngoại hối giảm khi NHTW bán ngoại tệ ra. Nghĩa là các khoản mục khác trong cán cân thanh toán bị thâm hụt, do đó giảm dự trữ phải được ghi có (+) để đảm bảo cán cân thanh toán được cân đối. Về nguyên tắc, mức dự trữ cần thiết được đánh giá trên cơ sở tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu dự kiến hoặc khả năng dễ bị tổn thương về tài chính. Nhưng dù sử dụng chỉ số nào thì mức dự trữ cần thiết cũng phụ thuộc rất nhiều vào chế độ tỷ giá hối đoái. Thông thường một quốc gia theo chế độ tỷ giá cố định cần dự trữ nhiều hơn so với một quốc gia theo chế độ tỷ giá thả nổi vì với chế độ tỷ giá thả nổi, mức dự trữ cần thiết chỉ để cải thiện những biến động xấu do tỷ giá gây ra. Ngoài ra, về cơ bản thì mức độ tin cậy của các chính sách kinh tế và lòng tin của thị trường vào các chính sách này là yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ dự trữ cần thiết. Khái niệm thặng dư và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế: Như đã đề cập đến trong khái niệm chung về cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thanh toán quốc tế luôn luôn được cân đối, bởi vì với mỗi bút toán ghi nợ đều có bút toán ghi có tương ứng ở đâu đó trong cán cân thanh toán. Tuy nhiên, đối với từng tài khoản riêng biệt trong cán cân thanh toán thì không phải lúc nào cũng cân đối. Có thể cán cân vãng lai thặng dư nhưng cán cân vốn lại thâm hụt. Khi nói đến cán cân thanh toán thặng dư hay thâm hụt, thì thực chất là nói đến thặng dư hay thâm hụt của một hay một nhóm tài khoản nhất định nào đó. Sau đây, đề cập đến vấn đề thặng dư hay thâm hụt một số cán cân quan trọng. Cán cân thương mại và cán cân vãng lai: Đây là hai cán cân quan trọng, do đó hầu hết các nước phát triển đều công bố hai cán cân này hàng tháng. Cán cân vãng lai có ý nghĩa quan trọng hơn cán cân thương mại do nó bao gồm cả “cán cân hiển thị” lẫn “cán cân không hiển thị”. Tuy nhiên, tuỳ theo mục đích phân tích khác nhau mà người ta quan tâm đến mức thặng dư hay thâm hụt của hai cán cân này. Thặng dư và thâm hụt của cán cân vãng lai có ý nghĩa như sau: Nếu thặng dư thì quốc gia có thu nhập từ thế giới còn lại nhiều hơn phần chi cho thế giới còn lại, có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do phần còn lại của thế giới phát hành mà quốc gia này nắm giữ tăng lên. Nếu thâm hụt thì quốc gia này chi cho phần còn lại của thế giới nhiều hơn so với thu nhập từ đó, có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do các quốc gia này nắm giữ giảm xuống. Như vậy tình trạng của cán cân vãng lai luôn là một bộ phận không thể thiếu trong việc phân tích kinh tế đối với nền kinh tế mở. Đặc biệt là nó có khả năng ảnh hưởng trực tiếp và nhanh chóng đến các chỉ tiêu kinh tế quan trọng như tỷ giá, tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Những ảnh hưởng của cán cân thương mại đến tăng trưởng kinh tế chúng ta sẽ phân tích cụ thể trong chương sau. Cán cân cơ bản: Cán cân cơ bản bao gồm cán cân vãng lai và cán cân vốn dài hạn. Khi chế độ tỷ giá là cố định, thì cán cân cơ bản được coi là đặc biệt quan trọng bởi vì nó được đánh giá là đồng thời mang lại những nhân tố ổn định cho cán cân thanh toán quốc tế. Trong cán cân cơ bản, cán cân vốn dài hạn đóng góp rất lớn cho cán cân thanh toán quốc tế. Khác với vốn ngắn hạn, chúng ta có thể sử dụng các nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị,…do những nguồn vốn này được phép sử dụng trong thời gian dài. Nhờ có nguồn vốn này, ngành công nghiệp trong nước có cơ hội phát triển đẩy nhanh được số lượng sản phẩm đóng góp cho xuất khẩu góp phần tạo thặng dư cho cán cân thương mại. Bất cứ một sự thay đổi đáng kể nào trong cán cân cơ bản cũng sẽ trở thành tín hiệu cho sự thay đổi căn bản trong xu hướng của cán cân thanh toán quốc tế. Những bộ phận khác như vốn ngắn hạn, dự trữ chính thức do không thuộc cán cân cơ bản nên những thay đổi của chúng được xếp vào hàng dưới. Thông thường người ta cho rằng sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín hiệu xấu về tình trạng của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế không phải lúc nào cũng như vậy, dù cán cân cơ bản có thâm hụt cũng chưa chắc đã là điều xấu. Một quốc gia có thể đang bị thâm hụt cán cân vãng lai đồng thời các nguồn vốn dài hạn chảy ra, điều này làm cho cán cân cơ bản bị thâm hụt nặng, nhưng các luồng vốn chảy ra hứa hẹn những thu nhập như lãi suất, cổ tức hay lợi nhuận trong tương lai. Những thu nhập này sẽ góp phần cải thiện thâm hụt hay tạo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai. Ngược lại, sự thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. Khi luồng vốn dài hạn chảy vào một quốc gia thì có thể quốc gia đó nhận được sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài và không có gì phải lo lắng khi cán cân vãng lai bị thâm hụt. Nhưng cũng có thể quốc gia đó sẽ phải thanh toán các khoản lãi suất, cổ tức và lợi nhuận trong tương lai và có khả năng sẽ làm cho cán cân vãng lai bị thâm hụt. Khi phân tích cán cân cơ bản cũng cần chú ý đến hai vấn đề. Đó là việc phân loại các nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn chỉ là tương đối và tính chất ngắn hạn hay dài hạn của các luồng vốn thay đổi theo thời gian. Cán cân thanh toán chính thức: Cán cân thanh toán chính thức phụ thuộc vào cán cân vãng lai và cán cân vốn. Nếu cán cân vãng lai và cán cân vốn là âm, thì cán cân thanh toán chính thức của quốc gia bị thâm hụt, nó phải được tài trợ từ quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, vay các NHTW khác hay IMF. Điểm quan trọng trong khái niệm “cán cân thanh toán chính thức” là đối với quốc gia có đồng tiền được sử dụng làm tài sản dự trữ có thể kết hợp duy trì đồng thời hai trạng thái: trạng thái thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai và cán cân vốn cùng với trạng thái tỷ giá cố định mà không nhất thiết phải giảm dự trữ chính thức hay đi vay từ IMF. Điều này có thể xảy ra nếu các NHTW nước ngoài tăng dự trữ chính thức bằng cách mua đồng tiền dự trữ này vào. Do đó, trong cán cân thanh toán chính thức có một khoản mục ghi chép sự thay đổi của tài sản nợ là bộ phận trong dự trữ ngoại hối chính thức của các NHTW nước ngoài. Khái niệm về thặng dư và thâm hụt của cán cân thanh toán chính thức chỉ thích hợp với các nước áp dụng chế độ tỷ giá cố định và không thích hợp với các nước áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi. Nguyên nhân là vì nếu tỷ giá được hoàn toàn tự do biến động thì cán cân thanh toán chính thức luôn có xu hướng vận động về trạng thái cân bằng vì NHTW không can thiệp bằng cách mua vào hay bán ra đồng tiền của mình và do đó dự trữ chính thức không thay đổi. Trong chế độ tỷ giá thả nổi, thì nếu cầu về một đồng tiền lớn hơn cung thì tỷ giá của nó sẽ tăng và ngược lại nên thông qua cơ chế biến động của tỷ giá mà cán cân thanh toán chính thức luôn được điều chỉnh về trạng thái cân bằng. Tuy nhiên với quốc gia theo chế độ tỷ giá cố định thì cán cân thanh toán chính thức lại rất quan trọng, vì nó cho biết áp lực dẫn đến phá giá hay nâng giá đồng tiền như thế nào. Trong hệ thống tỷ giá cố định, một quốc gia có thâm hụt cán cân thanh toán chính thức phải chịu áp lực cung ngoại tệ lớn hơn cầu về nó, do đó để tránh việc phải phá giá nội tệ, NHTW phải tiến hành bán dự trữ ngoại hối để mua nội tệ vào. Tóm lại, phân tích cán cân thanh toán quốc tế, cụ thể là phân tích từng cán cân bộ phận với trạng thái thặng dư hay thâm hụt của nó giúp chúng ta có thể biến nó thành công cụ phân tích và quản lý có hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại, nhằm mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng kinh tế và nâng cao vị thế của Việt nam trên thế giới. Muốn đạt được mục tiêu cuối cùng này, chúng ta phải xem xét cán cân thanh toán quốc tế trong mối liên hệ với tăng trưởng kinh tế và các hoạt động kinh tế khác. Như vậy, sau đây sẽ là những kiến thức chung nhất về tăng trưởng kinh tế để giúp chúng ta phân tích những mối liên hệ này. 2. Cơ sở lý luận về tăng trưởng kinh tế: Tất cả các nghiên cứu kinh tế cho dù xuất phát từ quan điểm nào, dùng các chỉ số kinh tế nào thì cũng nhằm hướng đến mục tiêu là tăng trưởng và phát triển kinh tế . Vậy khái niệm tăng trưởng kinh tế được hiểu như thế nào, thước đo nào dùng để đo lường tăng trưởng kinh tế? 2.1 Khái niệm và các chỉ số đo lường tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng là mức tăng của một biến số qua thời gian. Tăng trưởng kinh tế (economic growth) là mức tăng của tổng sản lượng thực tế của một nền kinh tế qua thời gian, thông thường được tính trong khoảng thời gian là một năm. Tăng trưởng kinh tế._. thường được đo bằng mức gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội thực tế (GDP), hoặc tổng sản phẩm quốc dân thực tế (GNP), hoặc của GDP hay GNP thực tế bình quân đầu người. Khi tính toán tỷ lệ tăng trưởng của một quốc gia thì kết quả cũng sẽ tương tự nhau nếu sử dụng cả hai chỉ tiêu GDP và GNP thực tế. Do đó có thể định nghĩa tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng phần trăm hàng năm của tổng sản phẩm quốc dân GDP hay GNP bình quân đầu người. Tuy nhiên, ý nghĩa của việc sử dụng chỉ tiêu nào tuỳ thuộc vào mục tiêu nghiên cứu. Tổng sản phẩm quốc nội GDP đo lường tổng giá trị của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) không tính đến yếu tố sở hữu. Như vậy GDP là kết quả của hàng triệu triệu hoạt động kinh tế xảy ra bên trong lãnh thổ của một nước. Những hoạt động này có thể do công ty doanh nghiệp của công dân nước đó hay công dân nước ngoài sản xuất tại nước đó. Nhưng GDP không bao gồm kết quả hoạt động của công dân nước sở tại tiến hành ở nước ngoài. Khi sử dụng GDP thì tốt hơn nếu muốn nói đến quy mô nền kinh tế trong quan hệ so sánh giữa các quốc gia. GDP bình quân đầu người đo lường số lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra tính theo bình quân cho một người dân, điều này có ý nghĩa trong khi đề cập đến năng lực sản xuất, năng suất lao động. Tuy nhiên, chỉ tiêu GDP mới chỉ dừng lại ở mặt “lượng” mà chưa đề cập đến mặt “chất” của nền kinh tế. Với một nền kinh tế mà chủ yếu là dựa vào đầu tư nước ngoài, là công xưởng của thế giới thì có thể GDP là rất lớn nhưng ý nghĩa lại rất hạn chế. Chỉ tiêu GNP, tổng sản phẩm quốc dân, lại có ý nghĩa hơn trong việc xác định kết quả sản xuất của một quốc gia vì nó là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất trong một thời kỳ (thường lấy là một năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình. Như vậy, tổng sản phẩm quốc dân đánh giá kết quả hoạt động của hàng triệu giao dịch kinh tế do công dân của một đất nước tiến hành trong một thời kỳ nhất định. Đó chính là con số đạt được khi dùng thước đo tiền tệ để tính toán giá trị của các hàng hoá khác nhau mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, chính phủ mua sắm và tiêu dùng trong một thời gian đã cho. Những hàng hoá dịch vụ đó là các hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cuối cùng của các hộ gia đình, thiết bị nhà xưởng mua sắm và xây dựng lần đầu của các hãng kinh doanh, nhà mới xây dựng, hàng hoá và dịch vụ mà các cơ quan quản lý nhà nước mua sắm và phần chênh lệch giữa hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu. GNP là một chỉ tiêu hết sức quan trọng khắc phục được các nhược điểm của chỉ tiêu GDP, vì nó cho phép đo lường kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. GNP bình quân đầu người nói lên số lượng hàng hoá và dịch vụ mà một người dân của một nước có thể mua được. Vì thế, nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế cụ thể của một nước, chỉ tiêu GNP và GNP đầu người phản ánh xác thực tốc độ tăng trưởng kinh tế và biến động mức sống của dân cư nước đó. Do đó mức sống của dân cư một nước phụ thuộc vào độ lớn của GNP và quy mô dân số. Nền kinh tế của một quốc gia sẽ phát triển nhanh chóng nếu quốc gia đó vừa duy trì được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, vừa kiểm soát được gia tăng dân số. Khi tính GNP dùng thước đo tiền tệ để đo lường giá trị sản phẩm là thuận lợi vì thông qua giá cả thị trường chúng ta có thể cộng giá trị của các loại hàng hoá có hình thức và nội dung vật chất khác nhau. Nhờ vậy có thể đo lường kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế chỉ bằng một con số, một tổng lượng duy nhất. Nhưng giá cả lại là một thước đo co giãn, lạm phát thường xuyên đưa mức giá chung lên cao. Do vậy, GNP tính bằng tiền có thể tăng nhanh trong khi giá trị thực của tổng sản phẩm tính bằng hiện vật có thể không tăng hoặc tăng rất ít. Để khắc phục nhược điểm này, có thể sử dụng hai khái niệm: GNP danh nghĩa hay GNP thực tế. GNP danh nghĩa (GNPn) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá cả hiện hành, tức là giá cả của cùng thời kỳ đó. GNP thực tế (GNPr) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá cả cố định của một thời kỳ lấy làm gốc. Ta có mối liên hệ giữa GNP thực tế và GNP danh nghĩa như sau: Trong đó D là chỉ số lạm phát tính theo GNP Trên đây chúng ta đã nghiên cứu về nội dung và ý nghĩa của các chỉ số GDP và GNP trong việc phân tích kinh tế. Việc đo lường và xác lập mối quan hệ giữa GDP và GNP là rất quan trọng. Kinh tế học đã chỉ ra rằng hai chỉ tiêu này là hai chỉ tiêu bắt buộc và không thể thay thế được dùng để tính toán mức tăng trưởng kinh tế. Chỉ tiêu GDP hay GNP không chỉ là thước đo tốt về thành tựu kinh tế của một quốc gia, mà còn được dùng để phân tích những biến đổi về sản lượng của một đất nước trong thời gian khác nhau, đồng thời để phân tích sự thay đổi mức sống của dân cư. Ngày nay tất cả các chính phủ của các quốc gia và các tổ chức kinh tế trên thế giới đều phải tiến hành thu thập và dựa vào số liệu thu thập được về GDP và GNP để lập các nghiên cứu về kinh tế trên phạm vi thế giới cũng như quốc gia, làm cơ sở để lập ra các chiến lược phát triển kinh tế dài hạn và đề ra các mục tiêu. Nếu thiếu các thống kê chính xác về GDP và GNP các quốc gia thiếu một cơ sở tối cần thiết để hoạch định chính sách, quản lý và điều tiết kinh tế. 2.2 Một số lý thuyết tăng trưởng kinh tế: Nhận thức rõ tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế, các nhà kinh tế học đã nghiên cứu và xây dựng lên những học thuyết về sự tăng trưởng, trong đó phân tích quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia, các quy luật mà quá trình tăng trưởng kinh tế phải tuân theo. Tuy nhiên, do đây là những nghiên cứu lý luận rút ra từ thực tiễn tại các nước khác nhau, nên mỗi nhà kinh tế học lại đưa ra những lý thuyết khác nhau về tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết về các giai đoạn của tăng trưởng kinh tế (lý thuyết cất cánh): Theo lý thuyết này quá trình tăng trưởng kinh tế của một quốc gia được chia thành 5 giai đoạn mà các nền kinh tế phải trải qua trong quá trình phát triển từ nền nông nghiệp lạc hậu lên xã hội công nghiệp phát triển. Các giai đoạn đó bao gồm: Giai đoạn xã hội truyền thống: Đặc trưng của giai đoạn này là sự thống trị của các tập quán lâu đời, nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất theo đầu người rất thấp và có chiều hướng không tăng. Giai đoạn thiết lập các điều kiện chuẩn bị cho nền kinh tế cất cánh: Đây là giai đoạn quá độ, nền kinh tế bắt đầu vượt qua sức cản truyền thống và bước đầu khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Giai đoạn này sản xuất bắt đầu có dư thừa, chủ yếu là nông phẩm, và bước đầu có tích luỹ tư bản. Kinh tế đối ngoại bắt đầu phát triển do xuất khẩu các sản phẩm dư thừa. Trong nước, một hệ thống pháp lý được lập ra nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời, cũng xuất hiện một thị trường hoạt động dưới cơ chế pháp lý đó. Vào thời gian này, cơ sở hạ tầng được phát triển, đặc biệt là hệ thống giao thông công cộng, một số khu vực kinh tế bắt đầu đưa vào hoạt động, có tác động thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế. Giai đoạn cất cánh: Giai đoạn có tính chất quyết định, trong đó nền kinh tế vượt qua những rào cản cuối cùng và việc tăng trưởng kinh tế trở thành bình thường. Một số lĩnh vực công nghiệp có vai trò đầu tầu phát triển mạnh mẽ, có tác động lan truyền sang các khu vực kinh tế khác làm cho nền kinh tế chuyển đổi hoàn toàn từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp. Năng suất lao động tăng cao, ứng dụng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ. Tăng trưởng kinh tế đạt tỷ lệ cao, thu nhập theo đầu người tăng vọt, mức sống của người dân được nâng cao. Thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra sôi động, bắt đầu thu hút được những nguồn đầu tư lớn và cải tiến công nghệ. Lúc này bản thân nền kinh tế đã ở mức đủ cao để tăng trưởng thực sự được duy trì. Giai đoạn hướng đến trưởng thành, chín muồi: Trong giai đoạn này, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và được duy trì ổn định. Công nghiệp phát triển mạnh mẽ, các ngành mới ra đời, ít phụ thuộc vào nhập khẩu, xuất khẩu tăng nhanh. Nền kinh tế chứng tỏ khả năng vận động của nó vượt ra ngoài những ngành công nghiệp ban đầu cho phép nó cất cánh và nghiên cứu triển khai nhanh chóng những thành quả hiện đại của khoa học và công nghệ. Cơ cấu xã hội thay đổi, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao. Giai đoạn nền kinh tế với đặc trưng là tiêu dùng với mức cao, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ dồi dào, tinh xảo. Đây là giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế, các ngành công nghiệp mới, đặc biệt là các ngành khoa học công nghệ cao, giữ vị trí đứng đầu và phát triển mạnh mẽ. Đây là lý thuyết kinh tế của nhà kinh tế học người Mỹ W. W. Rostow, theo lý thuyết này thì các giai đoạn phát triển kinh tế quyết định tính tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Tất cả các quốc gia trong quá trình phát triển của mình đều phải trải qua cả 5 giai đoạn này và để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế trong từng giai đoạn thì quốc gia đó phải đề ra những chính sách kinh tế phù hợp. Ứng với mỗi giai đoạn này cán cân thanh toán quốc tế có vai trò như thế nào và làm thế nào để nâng cao hiệu quả tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế là nội dung chúng ta sẽ đề cập đến trong chương sau. Lý thuyết tương tác: Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế của nhà kinh tế học người Mỹ có tên là Alexander Gersenkron. Theo lý thuyết này, các nước nghèo có nhiều lợi thế hơn các nước giàu trong tăng trưởng kinh tế. Đó là do các nước này có khả năng du nhập kỹ thuật và công nghệ hiện đại làm cơ sở cho tăng trưởng kinh tế. Yếu tố chính được nhấn mạnh trong lý thuyết này chính là kỹ thuật và công nghệ, được coi là cơ sở đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, một nước muốn phát triển kinh tế phải nghiên cứu và triển khai nhanh chóng những ứng dụng của thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản suất. Các quốc gia chậm phát triển có lợi thế là không phải nghiên cứu cơ bản mà chỉ cần nghiên cứu ứng dụng những thành tựu đã có sẵn do vậy tiết kiệm được nhiều thời gian và tiền của cho đất nước. Do vậy các nước chậm phát triển có thể đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển một cách nhanh chóng hơn rất nhiều lần so với quá trình phát triển tuần tự. Tuy có nhiều ưu điểm trong phân tích kinh tế, lý thuyết này vẫn có nhược điểm là quá nhấn mạnh vào yếu tố công nghệ và kỹ thuật từ nước ngoài mà không tính đến các yếu tố nội tại của một quốc gia. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế dựa vào đầu tư nước ngoài: Nhà kinh tế học Paul A. Samuelson đã cho rằng để tăng trưởng kinh tế các nước nghèo phải dựa vào sự bảo đảm bốn yếu tố: nhân lực, tài nguyên, cơ cấu tư bản và kỹ thuật mà ở trong nước vốn rất yếu kém. Ở các nước nghèo do trình độ phát triển thấp kém, dân trí thấp, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, thiếu vốn… làm cho năng suất lao động thấp, dẫn đến thu nhập thấp, tiết kiệm và đầu tư thấp, tích luỹ vốn thấp. Các nước này sẽ tiếp tục ở trong vòng xoắn nghèo đói nếu như không có cú huých đầu tư từ bên ngoài. Điều đó có nghĩa là, nếu không có đầu tư từ bên ngoài thì các nước này không thể có cơ sở cho tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế dựa vào công nghiệp hoá: Trong kinh tế học hiện đại, lý thuyết tăng trưởng kinh tế dựa vào công nghiệp hoá đã được hoàn thiện. Nội dung cơ bản của lý thuyết tăng trưởng này là các nước nghèo muốn đạt được và duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cao thì phải tiến hành xây dựng nền sản xuất công nghiệp hiện đại, chuyển từ sản xuất nông nghiệp lạc hậu lên sản xuất công nghiệp có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Công nghiệp hoá thành công sẽ tạo ra một nền sản xuất mạnh mẽ, nâng cao chất lượng sản phẩm, sản lượng, tăng thu nhập cho dân cư, tăng tiềm lực kinh tế cho đất nước. Lý thuyết này hiện nay đang được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Trước đây, công nghiệp hoá là sự thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí từ khi xuất hiện máy móc. Dần dần do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghiệp hoá được hiểu với nghĩa rộng hơn như một giai đoạn phát triển kinh tế của một nước bao hàm nội dung xây dựng thành công nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) định nghĩa “Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra các phương tiện sản xuất hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp độ tăng trưởng cao trong toàn nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ của kinh tế và xã hội” Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế dựa vào công nghiệp hoá, các nhà kinh tế học đưa ra hai chiến lược kinh tế cơ bản. Đó là chiến lược công nghiệp hoá dựa vào thay thế nhập khẩu hoặc công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Việc sử dụng chiến lược kinh tế nào có ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng của các cán cân bộ phận trong cán cân thanh toán quốc tế. 2.3 Ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế chính là chỉ số chính để đánh giá sự phát triển của nền kinh tế, nó góp phần vào việc tạo ra sự thịnh vượng chung của quốc gia vì tăng trưởng kinh tế cao tạo ra nhiều hàng hoá và dịch vụ. Tăng trưởng kinh tế cao tức là sản xuất, thương mại phát triển, khoa học kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi, nền sản xuất liên tục phát triển với tốc độ cao. Tăng trưởng kinh tế cao mang lại thu nhập cao hơn, cho phép cộng đồng có thể tiêu thụ nhiều hơn. Tăng trưởng kinh tế cao làm tăng thêm lượng hàng hoá và dịch vụ phục vụ xã hội do đó cải thiện mức sống của người dân trong quốc gia. Với những lý do trên, tăng trưởng kinh tế là con đường duy nhất giúp một quốc gia đói nghèo, chậm phát triển vươn lên, đuổi kịp các quốc gia khác. Tăng trưởng kinh tế còn là phương thuốc chữa trị các căn bệnh của cả nền kinh tế. Điều này được thực hiện ở cả những quốc gia phát triển và chậm phát triển. Khi mà tăng trưởng kinh tế giảm xuống, thì tất cả các quốc gia đều phải đối mặt với các vấn đề kinh tế xã hội trầm trọng như thất nghiệp, khủng hoảng,… Như vậy, tăng trưởng kinh tế với tốc độ khác nhau trong một thời gian dài tạo nên sự khác biệt lớn giữa các nước về trình độ phát triển. Một số nước trở thành những nước phát triển hơn trong khi một số nước khác lại vẫn đang ở trong tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế chính là yếu tố quyết định trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Việc tạo ra và duy trì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao có thể giúp một nước chậm phát triển đuổi kịp và vượt những nước phát triển hơn. Khi các nước chậm phát triển có được một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các nước phát triển trong một thời gian dài, phần gia tăng được tích tụ qua thời gian sẽ đem lại kết quả to lớn, giúp các nước này đuổi kịp và vượt các nước khác. Ngược lại, nếu tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này lại thấp hơn, thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa. Nhận thức được tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế nhưng không phải bất cứ quốc gia nào cũng có thể tạo ra và duy trì được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao. Rõ ràng câu hỏi được đặt ra là những yếu tố nào quyết định tăng trưởng kinh tế của một nước và những chính sách kinh tế nào được thực hiện thì phát huy được hết hiệu quả của các yếu tố đó. Và ở trong chương tiếp theo chúng ta sẽ xem xét xem cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia sẽ thể hiện các yếu tố này như thế nào nhưng trước hết là các yếu tố đó. 2.4 Các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế được đo bằng thước đo GDP hay GNP thực tế hay bình quân đầu người trong một khoảng thời gian dài. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chính là tốc độ tăng của GDP hay GNP. Các yếu tố có tác dụng làm tăng hay giảm GDP hay GNP đều có tác dụng đến tăng trưởng kinh tế. Khả năng vật chất của một nền kinh tế để sản xuất ra nhiều hàng hoá và dịch vụ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lao động, vốn, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, đất đai,… Muốn đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế phải biết cách sử dụng các yếu tố này một cách hiệu quả kết hợp với việc sử dụng hiệu quả yếu tố đầu vào, phát triển sản phẩm mới và ứng dụng kỹ thuật mới. Việc tăng hay giảm sản lượng của một nền kinh tế phụ thuộc vào việc sử dụng các yếu tố sản xuất, việc nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất. Vốn sản xuất bao gồm máy móc, nhà xưởng,… kết hợp với các yếu tố đầu vào khác để sản xuất ra hàng hoá. Giả sử các yếu tố khác được cố định, tức là không thay đổi về quy mô, thì khi vốn tăng, tổng sản lượng của nền kinh tế sẽ tăng. Nhưng mối quan hệ tỷ lệ thuận này không đơn giản vì vốn được đặt trong mối quan hệ phức tạp với các yếu tố khác. Các yếu tố này bổ xung hỗ trợ cho nhau có thể làm tăng nhanh hơn sản lượng của nền kinh tế, cũng có thể kìm nén làm chậm tốc độ tăng trưởng. Khi xét đến yếu tố vốn, một chỉ tiêu quan trọng thường được tính đến là tỷ lệ vốn trên một người lao động. Nó thể hiện quy mô vốn trong mối liên hệ với quy mô lao động. Nếu tăng được tỷ lệ này, sẽ dễ dàng tăng được sản lượng của toàn bộ nền kinh tế. Lao động là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sản lượng, tăng cường độ hay tăng cường chất lượng lao động đều làm tăng sản lượng. Ở nghĩa rộng hơn, trên phạm vi quốc gia, lao động với tư cách là nguồn nhân lực có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển. Đất đai và tài nguyên là những yếu tố đầu vào có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những quốc gia, đặc biệt với những quốc gia có nền sản xuất dựa vào nông nghiệp là chủ yếu. Tăng lượng đất đai đưa vào sử dụng cũng như tăng chất lượng đất đai, ứng dụng những kỹ thuật mới cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao sản lượng của nền kinh tế. Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố mà không phải quốc gia nào cũng có được đầy đủ. Có những quốc gia được thiên nhiên ưu đãi nhưng lại có những quốc gia rất nghèo về tài nguyên thiên nhiên. Sử dụng nguyên vật liệu như thế nào để vừa tiết kiệm, vừa phát huy được hết hiệu quả của nguồn tài nguyên có hạn này cũng đang là vấn đề được đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Kỹ thuật sản xuất (bao gồm khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất và khoa học quản lý) là yếu tố quan trọng thứ hai sau nguồn nhân lực quyết định đến tăng trưởng kinh tế và trình độ phát triển của một quốc gia. Kỹ thuật giúp tăng năng suất lao động và do đó tăng sản lượng lao động. Ngày nay, chúng ta đều đang chú trọng vào việc nghiên cứu phát triển hoàn thiện kỹ thuật sản xuất và quản lý, sáng tạo ra sản phẩm mới, công nghệ mới, tăng cường tri thức để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước. Các yếu tố cản trở tăng trưởng kinh tế hiện nay: Các yếu tố trên đóng vai trò chính trong việc tăng sản lượng của nền kinh tế tuy nhiên nếu ta muốn xem thực chất của nền kinh tế ta lại cần tính các chỉ số GDP hay GNP trên đầu người mà những chỉ số này lại phụ thuộc vào quy mô dân số. Như vậy quy mô dân số cũng là một yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế. Hiện nay quy mô dân số đang là một trở ngại lớn cho các nước nghèo vì dân số tăng nhanh làm cho thu nhập đầu người thấp, chỉ đủ đáp ứng các nhu cầu tối thiểu, dẫn tới tiết kiệm và đầu tư cho sản xuất thấp. Các nước đang phát triển hiện nay lại có tốc độ tăng dân số lớn nhất thế giới. Dân số tăng nhanh còn tạo ra sức ép về việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và các dịch vụ xã hội khác càng làm cho nguồn đầu tư cho sản xuất giảm. Bên cạnh sự gia tăng về dân số, đất đai cũng chính là một nguyên nhân cản trở tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là đối với những nước mà nền sản xuất dựa vào nông nghiệp là chủ yếu do đất đai là có hạn trong khi nhu cầu sử dụng lại ngày càng nhiều. Khắc phục trở ngại này đối với từng quốc gia là khác nhau, do nguồn lực và mục đích sử dụng là khác nhau. Nhưng dù sao thì biện pháp chính vẫn là nâng cao năng suất lao động và kiểm soát sự gia tăng dân số. Các nước tiến hành công nghiệp hoá thành công là do trước đây đã khắc phục được hạn chế này bằng cách tăng năng suất lao động trong nông nghiệp đồng thời kiểm soát sự gia tăng dân số đến một mức nào đó, lao động dư thừa chuyển sang sản xuất công nghiệp. Ngược lại, sản xuất công nghiệp lại tác động tích cực đến nông nghiệp bằng cách cung cấp cho nông nghiệp những công cụ dụng cụ, tư liệu sản xuất mới, phân bón và các kỹ thuật thâm canh làm tăng năng suất và sản lượng nông nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên có hạn là trở ngại thứ ba đến tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia dù giàu có về tài nguyên thiên nhiên nhưng nếu khai thác bừa bãi cũng làm cho thế mạnh này trở nên can kiệt. Khi tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã đạt đến một mức nhất định thì tài nguyên thiên nhiên cũng cần phải khai thác nhiều hơn, dẫn đến những thiệt hại cả về môi trường, sinh thái, nảy sinh tình trạng chật chội, ô nhiễm. Sự khan hiếm về tài nguyên thiên nhiên sẽ dẫn đến những cuộc khủng hoảng làm đình đốn sản xuất và giảm tỷ lệ tăng trưởng. Giải pháp đặt ra lúc này là phải nghiên cứu tìm ra những nguồn tài nguyên mới, chế tạo ra những nguyên vật liệu nhân tạo thay thế cho nguồn tài nguyên đã cạn kiệt, tìm ra các biện pháp cải thiện môi trường. Trở ngại thứ tư là các chi phí phải trả cho tăng trưởng kinh tế. Khi tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao sẽ kéo theo quá trình đô thị hoá, tình trạng tập trung quá đông dân cư ở các thành phố lớn, ô nhiễm môi trường,.. Chi phí phải trả để khắc phục tình trạng này lại không phải là thấp. Với rất nhiều khó khăn phức tạp, nhưng tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu cuối cùng của tất cả các quốc gia. Như vậy tìm ra các chiến lược phát triển kinh tế phù hợp sẽ giúp các quốc gia đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Với những chiến lược đó hoạt động kinh tế đối nội cũng như đối ngoại sẽ được thực hiện như thế nào? Kết quả của những hoạt động đó, đặc biệt là hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ được thể hiện trên cán cân thanh toán quốc tế ra sao? Do đó chúng ta sẽ phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế với tăng trưởng kinh tế. Xem xét xem cán cân thanh toán quốc tế thể hiện những ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế, đồng thời những chính sách tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra cho cán cân thanh toán quốc tế sự thặng dư hay thâm hụt để cuối cùng sẽ tìm ra con đường tốt nhất cho tăng trưởng kinh tế. 3. Quan hệ giữa cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế Cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau. Kết quả của hoạt động này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động khác. Chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ biện chứng này một cách chi tiết để thấy được vai trò kinh tế của nó. 3.1 Ảnh hưởng của thăng dư và thâm hụt các cán cân bộ phận đến tăng trưởng kinh tế: Như chúng ta đã đề cập ở chương trước, cán cân thanh toán quốc tế luôn ở trạng thái cân bằng nhưng các cán cân bộ phận lại không phải lúc nào cũng như vậy. Các cán cân thanh toán bộ phận thể hiện phần chênh lệch giữa những nguồn thu, chi trong các hoạt động kinh tế đối ngoại do đó thể hiện kết quả của một phần lớn các hoạt động kinh tế diễn ra của một quốc gia. Với lý do đó, tình trạng thặng dư hay thâm hụt của các cán cân bộ phận có ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Ảnh hưởng của cán cân thương mại: Cán cân thương mại thể hiện toàn bộ hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia do đó cho thấy khả năng sản xuất của nền kinh tế. Quy mô sản xuất so với nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước được thể hiện qua các số liệu về kim ngạch xuất nhập khẩu của quốc gia đó. Nhưng thực chất hoạt động xuất nhập khẩu có những tác động như thế nào đến nền kinh tế? Nếu nhìn vào mức thâm hụt hay thặng dư của cán cân thương mại ta có thể thấy được mức chênh lệch của xuất khẩu so với nhập khẩu và thấy được khả năng phát triển kinh tế của đất nước đó. Nếu cán cân thương mại là thặng dư, tức là quốc gia này có được những hoạt động xuất khẩu sôi nổi và hiệu quả trong khi nhu cầu nhập khẩu lại thấp hơn rất nhiều. Nền sản xuất của quốc gia này là tương đối tốt vào thời điểm hiện tại do sản xuất ra nhiều hàng hoá mà nước ngoài quan tâm. Những khoản ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu đóng góp không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Như vậy, xét trong ngắn hạn thặng dư của cán cân thương mại đem lại những ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Nó thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển do tìm được đầu ra cho sản phẩm. Tuy nhiên trong dài hạn, thặng dư chỉ là tốt khi quốc gia đó xuất khẩu được được các sản phẩm có nhu cầu ổn định và thị trường ổn định và sản xuất trong nước đủ đáp ứng nhu cầu của người dân dẫn đến lượng nhập khẩu không tăng. Khi đó nền kinh tế trong nước sẽ có cơ sở để tăng trưởng với tốc độ cao trong dài hạn. Nếu thặng dư chỉ đạt được do một quốc gia xuất khẩu được những mặt hàng chỉ có nhu cầu nhất thời không ổn định hoặc do chính phủ hạn chế nhập khẩu trong một thời gian ngắn nhằm bảo hộ sản xuất trong nước hoặc nhằm hạn chế tiêu dùng thì thặng dư lại không phải là tốt. Khi nhu cầu về mặt hàng xuất khẩu trên thị trường không còn nữa, cũng như khi nhu cầu nhập khẩu hàng hoá trong nước tăng lên, chính phủ không thể hạn chế được nữa thì cán cân thương mại có thể bị thâm hụt và đồng thời dẫn đến những ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Ngược lại, nếu cán cân thương mại thâm hụt, chưa phải đã có những tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế. Có thể trong ngắn hạn, sự thâm hụt này có thể làm giảm tài sản của quốc gia, dẫn đến làm giảm sản lượng của nền kinh tế, kéo theo tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp. Nhưng trong dài hạn, có thể quốc gia này đang trong quá trình tìm kiếm thị trường xuất khẩu vững chắc hoặc đang tiến hành chính sách thúc đẩy nhập khẩu những mặt hàng cần thiết cho tăng trưởng kinh tế dài hạn. Thâm hụt tạm thời nhưng có thể dẫn đến thặng dư trong dài hạn. Bên cạnh đó việc phân tích cán cân thương mại có những ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào quốc gia đó đã hay đang phát triển. Đối với một quốc gia đã phát triển, thặng dư cán cân thương mại dù trong ngắn hạn hay dài hạn cũng là tốt vì nó cho thấy mức độ đáp ứng nhu cầu trong nước là tương đối tốt. Do quốc gia này đã phát triển tức là việc nhập khẩu máy móc thiết bị không còn phải ưu tiên hàng đầu như đối với các nước đang phát triển. Đối với những quốc gia này thâm hụt tức là sản xuất trong nước chưa đủ đáp ứng nhu cầu trong nước vì các nước này nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu và hàng tiêu dùng. Tình trạng của cán cân thương mại mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia này. Để chứng minh quan điểm trên, chúng ta sẽ xem xét cán cân thương mại Mỹ ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế trong năm 2001. Dưới đây là hai chỉ số quan trọng của nền kinh tế Mỹ. Bảng 1: Tăng trưởng GDP và cán cân thương mại của Mỹ năm 2001 GDP VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI MỸ NĂM 2001 Chỉ số Năm 2000 Quý I/2001 Quý II/2001 Quý III/2001 Quý IV/2001 Năm 2001 Tăng GDP (%) 4,1 1,3 0,3 -1,1 -2,4 1,1 Xuất khẩu (%) 9,5 -1,2 -11,9 -17,7 -10,0 -12,0 Nhập khẩu (%) 13,4 -5,0 -8,4 -12,9 -14,0 -10,0 Cán cân thương mại (tỷ USD) -375,7 -95,02 -90,54 -77,59 -80,00 -340,0 Nguồn: Bộ thương mại Mỹ – Tạp chí Kinh tế 2001 - 2002 Việt Nam & Thế giới – Thời báo Kinh tế Việt Nam Theo bảng số liệu trên, cán cân thương mại của Mỹ liên tục thâm hụt trong tất cả các quý dẫn đến ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế Mỹ, tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ cũng ở mức rất thấp thậm chí có lúc đạt mức tăng trưởng âm. Như vậy, đối với một quốc gia phát triển thì tình trạng cán cân thương mại có một ý nghĩa rất lớn đối với tăng trưởng kinh tế. Còn đối với một nước đang phát triển, cán cân thương mại vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong nền kinh tế do đó tình trạng của cán cân này gây ảnh hưởng chưa lớn lắm. Khi cán cân thương mại thặng dư, chúng ta chưa thể khẳng định là nền kinh tế đã phát triển tốt vì có thể quốc gia này đang xuất khẩu quá nhiều nguyên nhiên vật liệu thô và có thể dẫn đến phung phí nguồn tài nguyên quý giá này. Vì vậy trong tương lai quốc gia này có thể không kéo dài được tình trạng thặng dư này do tài nguyên là có hạn và có thể ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong nước. Như vậy, thặng dư cán cân thương mại có thể lại ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, thâm hụt cán cân thương mại lại chưa phải đã là xấu. Có thể quốc gia này đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá ở thời kỳ đầu, tức là phải nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, khoa học kỹ thuật để phục vụ sản xuất làm thâm hụt cán cân thương mại nhưng trong thời gian sau đó, bằng những máy móc thiết bị này có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm đưa cán cân thương mại lên thặng dư và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Tóm lại tình trạng thặng dư hay thâm hụt cán cân thương mại có cả những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Cán cân này không chỉ tác động trong ngắn hạn mà còn có những tác động lâu dài đến toàn nền kinh tế. Ảnh hưởng của cán cân tài khoản vãng lai: Cùng với cán cân thương mại, cán cân tài khoản vãng lai cũng là một chỉ tiêu để phân tích tăng trưởng kinh tế. Với nội dung rộng hơn hẳn cán cân thương mại, cán cân vãng lai cho thấy toàn bộ thu chi tài chính của một quốc gia. Hiện nay việc phân tích cán cân này càng có ý nghĩa khi mà nền kinh tế các nước đều có tỷ trọng dịch vụ ngày càng cao. Bên cạnh đó những quốc gia có hoạt động đầu tư diễn ra sôi động thì những khoản thu nhập lãi suất, lợi nhuận, cổ tức và những khoản thu chuyển tiền một chiều cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ trong nền kinh tế. Nếu dùng định nghĩa cán cân vãng lai là giao dịch kinh tế của một nước với phần còn lại của thế giới về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập từ chuyển giao một chiều, thì khi cán cân vãng lai thâm hụt tức là quốc gia đó đã nhập khẩu quá nhiều hàng hoá và dịch vụ. Phần thâm hụt do tiêu dùng bùng nổ này có thể tài trợ bằng phần rút ra từ các khoản dự trữ hoặc tăng các khoản nợ. Điều này cho thấy dấu hiệu của một nền kinh tế suy yếu, tăng trưởng kinh tế sẽ giảm tốc độ do ảnh hưởng của sự thâm hụt này. Nếu cán cân vãng lai thặng dư, có thể thấy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ và hoạt động tài chính đang diễn ra hiệu quả. Đây là yếu tố hiệu quả nhất đóng góp vào tổng sản phẩm của nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. ._.Năm 1995, cán cân dịch vụ đạt được mức thặng dư cao (159 triệu USD, cao nhất từ trước đến nay) do các khoản thu dịch vụ nhờ hoạt động nhập khẩu tăng lên. Do tốc độ tăng của xuất khẩu không bằng nhập khẩu nên các khoản chi cho dịch vụ này tuy cũng tăng nhưng không cao. Nhưng sau đó, năm 1996 cán cân dịch vụ bắt đầu thâm hụt mặc dù hoạt động nhập khẩu vẫn diễn ra tấp nập. Nguyên nhân có thể do lúc này, khả năng cung cấp dịch vụ không đủ đáp ứng với yêu cầu của mức tăng kim ngạch nhập khẩu, chúng ta phải sử dụng dịch vụ của nước ngoài. Nguồn thu nhập đầu tư ròng và chuyển giao một chiều trong giai đoạn này cũng tăng lên do chính phủ đã nới lỏng pháp luật cho hoạt động chuyển tiền. Chỉ trong vòng một năm, từ năm 1995 đến năm 1996 chuyển giao một chiều tăng gấp đôi từ 627 triệu USD lên 1.200 triệu USD. Kết quả là cán cân vãng lai của Việt Nam trong năm 1995- 1996 tuy bị thâm hụt nặng nề về cán cân thương mại nhưng lại được bù đắp một phần nhờ chuyển giao một chiều nên cán cân vãng lai thâm hụt ở mức 2.641 triệu USD năm 1995 và 2.426 triệu USD năm 1996. Cán cân vốn là cán cân chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất từ chính sách thu hút đầu tư của Nhà nước. Cán cân này tăng từ 1.476 triệu USD năm 1994 lên 2.326 triệu USD năm 1995 và 2.079 triệu USD năm 1996, trong đó chủ yếu là tăng từ vốn đầu tư nước ngoài. Đây là hệ quả chủ yếu của chính sách tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này. Năm 1997- 1999: Trong giai đoạn này Chính phủ Việt Nam nỗ lực kiểm soát nhập khẩu nhằm giảm thâm hụt của cán cân vãng lai. Có thể thấy rõ kim ngạch nhập khẩu trong những năm 1997, 1998, 1999 không hề tăng so với năm 1996, trong khi kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng lên. Cán cân thương mại từ đó giảm được thâm hụt. Tuy nhiên, trong thời gian này, cán cân dịch vụ của Việt Nam lại thâm hụt ở mức cao so với thời kỳ trước. Mức thâm hụt là 606 triệu USD năm 1997 và tăng lên mức 1.020 triệu USD năm 1999. Nguyên nhân là do chi phí cho dịch vụ hoạt động xuất khẩu tăng lên rất nhanh trong khi thu từ dịch vụ cung cấp cho hoạt động nhập khẩu lại không tăng. Đây cũng là kết quả của việc hạn chế nhập khẩu. Ngoài ra cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ trong khu vực gây tác động mạnh làm suy giảm nền kinh tế các nước trong khu vực dẫn đến việc giảm mạnh luồng vốn FDI cả về số lượng các dự án mới và sự chậm trễ trong việc giải ngân các dự án đã được cấp giấy phép. Giải ngân của dòng vốn FDI dưới hình thức thiết bị và máy móc cũng giảm. Trong thời gian này thâm hụt cán cân vãng lai giảm nhưng cán cân vốn cũng rơi vào tình trạng khủng hoảng, thậm chí năm 1998 chỉ đạt 216 triệu USD. Cũng do cuộc khủng hoảng dẫn đến thiếu vốn cung cấp cho sản xuất, chính phủ đã tăng vay nợ từ nước ngoài để bù đắp cho sự thiếu hụt này. Điều đó dẫn đến tổng dư nợ nước ngoài của các doanh nghiệp đến cuối năm 1998 vào khoảng 4.063 triệu USD. Cán cân vốn trong thời gian này là hệ quả tất yếu của chính sách kinh tế của chính phủ. Năm 2000- 2001: Trước thực trạng dòng vốn FDI chuyển vào Việt Nam những năm trước trở nên quá trì trệ cũng như cán cân thương mại vẫn thâm hụt ở mức cao làm cản trở sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực thay đổi chính sách thu hút đầu tư cũng như những biện pháp thúc đẩy hoạt xuất khẩu trong nước. Kết quả là cán cân thương mại được cải thiện đáng kể. Mức nhập siêu trong năm 2000 chỉ còn là 892 triệu USD và năm 2001 là 900 triệu USD so với mức hơn 2.000 triệu USD của những năm 1997- 1998. Tuy nhiên cán cân dịch vụ trong giai đoạn này không được cải thiện nhiều vẫn đang ở mức thâm hụt tương đối cao. Do đầu tư trực tiếp FDI tăng nhanh nên cán cân vốn năm 2000 tăng lên đến 2350 triệu USD và năm 2001 đã đạt 2410 triệu USD. Cán cân vốn được cải thiện thực chất là nhờ sự can thiệp tích cực của Nhà nước. CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ NHẰM HƯỚNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Phân tích chương II, cho thấy cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam còn rất nhiều tồn tại. Nhìn chung các khoản mục quan trọng thường xuyên ở trong tình trạng thâm hụt hoặc thặng dư rất ít. Tình trạng này tuy trong hiện tại không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng kinh tế do Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển nhưng về lâu dài sẽ có những cản trở không tốt cho tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Do vậy, quản lý kinh tế vĩ mô trong đó có quản lý cán cân thanh toán là một yêu cầu cần thiết để Việt Nam có một cơ sở vững chắc cho tăng trưởng kinh tế lâu dài. Quản lý cán cân thương mại Như chúng ta đã biết, cán cân thương mại của Việt Nam liên tục rơi vào tình trạng nhập siêu trong thời gian dài. Vậy những nguyên nhân nào làm cho cán cân thương mại Việt Nam rơi vào tình trạng này là nội dung quan trọng nhất để tìm ra phương pháp quản lý có hiệu quả. 1.1 Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu của cán cân thương mại nước ta. a. Sự gia tăng của các dòng vốn (ODA và FDI) kéo theo việc nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đi theo các dự án đầu tư. Từ sau năm 1995, các dòng vốn đổ vào Việt Nam không ngừng gia tăng do những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài thông qua việc mở rộng quan hệ hợp tác phát triển với cộng đồng quốc tế. Cho đến hết năm 2001, các nhà tài trợ đã cam kết giành cho Việt Nam trên 20 tỷ USD vốn ODA trong đó giải ngân khoảng hơn 9 tỷ USD. Chúng ta biết rằng một trong những đặc thù của nguồn vốn này đó là ODA thường đi kèm với những điều kiện ràng buộc về chính trị hoặc về kinh tế. Ngày nay phổ biến nhất vẫn là việc bên hỗ trợ yêu cầu nước tiếp nhận ODA nhập khẩu các máy móc, thiết bị từ nước họ. Chính vì vậy, nguồn ODA được triển khai khá lớn trên đây đã kéo theo việc nhập khẩu một khối lượng lớn các máy móc thiết bị từ nước cung cấp làm cho kim ngạch nhập khẩu tăng lên nhanh chóng. Ở nước ta, hỗ trợ phát triển chính thức ODA được coi là một loại hình đầu tư gián tiếp. Nguồn vốn ODA phần lớn được dùng cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội mà không trực tiếp đóng góp vào chế tạo tạo ra hàng xuất khẩu nên chỉ có nhập mà không có xuất. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cho rằng “ODA mở đường cho đầu tư tư nhân”. Điều đó có nghĩa là tạo điều kiện cho các nước nhận ODA thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tằng cường khả năng xuất khẩu trong tương lai. Bên cạnh nguồn vốn ODA, với những thay đổi tích cực về môi trường đầu tư, luồng vốn FDI vào Việt Nam cũng tăng lên nhanh chóng, từ mức chỉ đạt khoảng 18 tỷ USD vào năm 1995 đã lên đến hơn 39 tỷ USD vào năm 2001. Hầu hết nguồn vốn này cũng được thực hiện dưới dạng nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu vì đây là thời kỳ các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới bắt đầu xây dựng cơ sở, lắp đặt máy móc, thiết bị, chưa có sản phẩm xuất khẩu hoặc giá trị xuất khẩu còn nhỏ. Bên cạnh đó, tỷ lệ các dự án không sản xuất hàng xuất khẩu khá lớn, họ còn nhằm vào thị trường tiêu thụ nội địa nên thường đầu tư vào kinh doanh khách sạn, văn phòng, sản xuất nước giải khát, bia, đồ dùng gia đình,… Nếu chưa phân tích kỹ về chất lượng các mặt hàng nhập khẩu thì việc nhập siêu do ODA và FDI thời kỳ này là không tánh khỏi, nhập siêu chính là cơ sở nâng cao tiềm lực xuất khẩu trong tương lai. b.Tỷ giá hối đoái chưa hợp lý, thiếu linh hoạt cũng là một trong những nguyên nhân thúc đẩy nhập siêu. Tỷ giá là phương tiện biểu thị giá cả của thị trường trong nước theo ngoại tệ và ngược lại. Có thể nói rằng tỷ giá có vai trò quan trọng trong việc điều tiết xuất nhập khẩu. Ví dụ khi nhà nước muốn khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu có thể phá giá đồng nội tệ hay để đồng nội tệ giảm giá (nói cách khác tỷ giá hối đoái tăng lên) 10% so với các đồng ngoại tệ khác thì giá hàng nhập khẩu cũng bị tăng lên 10% làm cho nhu cầu nhập khẩu hàng giảm xuống, đồng thời giá hàng xuất lại giảm xuống, năng lực cạnh tranh của hàng xuất lại tăng lên, khuyến khích xuất khẩu. Ngược lại, nếu duy trì một tỷ giá thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu. Ở nước ta, ngoại tệ được dùng phổ biến là đô la Mỹ, nên tỷ giá giữa đồng Việt Nam (VND) và đồng đô la Mỹ (USD) có vai trò rất quan trọng nhưng trong giai đoạn 1995- 1997, khi tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam ở mức từ 40 – 50%, chúng ta muốn đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu thì tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng USD lại tương đối ít thay đổi. Thực tế, đến giai đoạn 1999- 2001, khi tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ thay đổi linh hoạt hơn theo nhu cầu của thị trường thì tỷ lệ nhập siêu ở Việt Nam giảm mạnh, ở mức dưới 10%. Như vậy, tỷ giá có vai trò quan trọng trong việc điều tiết xuất nhập khẩu, việc điều chỉnh hợp lý tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu và làm cho nhập khẩu bị đắt lên là biện pháp rất quan trọng để giảm nhập siêu. c. Sự chênh lệch giữa lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ làm tăng nhu cầu vay vốn nước ngoài thông qua các L/C nhập hàng trả chậm. Trong những năm trước đây, lãi suất cho vay của các ngân hàng trong nước cao hơn nhiều so với lãi suất trên thị trường thế giới, dẫn đến các doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn vốn ở thị trường nước ngoài và dùng vốn đó nhập khẩu hàng hoá. Năm 1995- 1996, lãi suất LIBOR (lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế ở Luân đôn) của đồng USD dao động ở mức 5,5- 6,5%/năm, nhưng ở Việt Nam nếu cộng thêm cả các khoản phụ phí vào lãi suất thì các doanh nghiệp Việt Nam cho vay với mức phí lên đến 18 – 20%/ năm. Điều này dẫn đến việc các doanh nghiệp do có nhu cầu về vốn kinh doanh đã chuyển sang vay vốn nước ngoài thông qua việc nhập khẩu trả chậm (điều này lý giải cho việc ứ đọng vốn tại các ngân hàng trong nước vào trước năm 1997). Việc vay vốn nước ngoài thông qua L/C nhập hàng trả chậm vào trước năm 1997 cho thấy việc nhập khẩu hàng hoá về trong thời gian này không phải là để đáp ứng nhu cầu của thị trường.Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trị giá hàng hoá nhập khẩu bằng hình thức L/C trả chậm có bảo lãnh của ngân hàng năm 1996 đã lên đến 1,3 tỷ USD (tổng số nhập khẩu trả chậm khoảng 2 tỷ USD), bằng 12% kim ngạch nhập khẩu cả năm và tương đương 30% nhập siêu năm 1996. Vì vậy, từ sau năm 1997, lãi suất cho vay ở Việt Nam đã được cắt giảm đáng kể. Cho đến năm 2001, trước tình hình lãi suất của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới giảm mạnh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã giảm lãi suất cho vay xuống mức từ 8- 12%/ năm đối với đồng Việt Nam, riêng với USD thì lãi suất càng giảm mạnh, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 5,5 – 6%/ năm, trung dài hạn là từ 6 – 6,5% / năm. Nhưng trên thực tế lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại lại cao hơn nhiều so với lãi suất của NHNN. Nguyên nhân là do việc huy động vốn chỉ thông qua hai con đường là qua ngân hàng và thị trường chứng khoán, nhưng ở Việt Nam thì việc huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán là hầu như không có. Trong khi đó các Ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động kém hiệu quả nên buộc phải tăng lãi suất cho vay lên cao làm chi phí vốn của các doanh nghiệp tăng lên. Kết quả là có những doanh nghiệp thua lỗ cũng chỉ vì lãi suất vay vốn quá cao. Dù vậy, việc cắt giảm lãi suất cũng đem lại những dấu hiệu tích cực về việc hạn chế nhập khẩu ở Việt Nam những năm vừa qua. d. Sự điều chỉnh chính sách thuế quan tác động đến nhập khẩu. Để thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan trong quá trình tham gia AFTA (Khu vực mậu dịch tự do Châu Á) và cải cách hệ thống thuế nói chung, hệ thống thuế trước đây đã được phân định thànhthuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế doanh thu, là những khoản thuế trước đây được đánh gộp cho hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam. Việc tách bạch các loại thuế này có tác dụng tương đương như việc giảm thuế nhập khẩu, trong đó chúng ta lại thiếu các loại phí khác đánh vào hàng nhập khẩu. Việc thuế nhập khẩu giảm kéo theo kim ngạch nhập khẩu tăng lên đáng kể. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu lâu dài và còn là nguy cơ cho tương lai khi mà Việt Nam thực hiện AFTA, cắt giảm thuế nhập khẩu cho hầu hết các mặt hàng trong khu vực nhập khẩu vào Việt Nam . 1.2 Ảnh hưởng của việc nhập siêu đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Khó có thể kể hết những ảnh hưởng khác nhau của việc nhập siêu quá lớn (cán cân thương mại bị thâm hụt nghiêm trọng), song ít nhất có hai hậu quả mà nền kinh tế sẽ phải gánh chịu. Một là, sự gia tăng nhập siêu làm cho khả năng trả nợ của nước ta giảm đi và mức tích nợ cao lên. Nhập siêu từ năm 1995 đến năm 2001 là gần 13,4 tỷ USD và nếu nhập siêu tăng mạnh thì trong vòng 20 năm tới mức nhập siêu sẽ lên tới bao nhiêu? Nguy cơ rơi vào tình trạng nợ nước ngoài quá lớn như một số nước đang phát triển là rất có thể xảy ra. Nếu nợ nước ngoài quá lớn thì lãi suất phải trả hàng năm tăng lên, như vậy các nước đang phát triển sẽ chỉ phục vụ một mục tiêu là trả nợ cho nước ngoài. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế, cán cân thanh toán quốc tế sẽ mất cân đối trong thời gian tới, nền kinh tế rất dễ rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, Việt Nam đã tương đối thành công trong việc hạn chế tỷ lệ nhập siêu trong những năm 1999- 2001 khi duy trì tỷ lệ này dưới mức 10%, đặc biệt năm 1999 chỉ nhập siêu 1% trong khi kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn tăng mạnh. Nừu chúng ta tiếp tục duy trì được tình tạng hiện tại thì nguy cơ trên sẽ ít có khả năng xảy ra. Hai là, sức cạnh tranh của hàng nội địa sẽ giảm xuống, cùng với sự gia tăng của nhập siêu, các ngành công nghiệp trong nước sẽ bị đình đốn. Ảnh hưởng này sẽ ngày càng nghiêm trọng khi nước ta chính thức thực hiện AFTA, thực hiện hiệp định thương mại Việt – Mỹ, tham gia WTO, hay các tổ chức quốc tế khác. Việc tự do hoá mậu dịch một mặt sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá nước ngoài thâm nhập thị trường nội địa, làm tăng kim ngạch nhập khẩu, mặt khác làm tăng sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu (do những mặt hàng này được hưởng thuế quan ưu đãi nên giảm được giá cả hàng hoá). Điều này dẫn đến nguy cơ phá sản của các xí nghiệp trong nước vì không đủ sức cạnh tranh với hàng nước ngoài có ưu thế về chất lượng và giá cả. Vì vậy Nhà nước cần có những chính sách kịp thời và hiệu quả để hạn chế nhập siêu gây những ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Bên cạnh những ảnh hưởng trên thì nhập siêu cũng có những ảnh hưởng tích cực đến xuất khẩu. Đó là nhập siêu làm máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất hàng hoá tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu. Điều này cũng đóng góp được một phần cho tăng trưởng kinh tế và trong thời gian sau đó nhập siêu lại chính là nguyên nhân làm tăng kim ngạch xuất khẩu, làm giảm tỷ lệ nhập siêu. Trên đây chỉ là những ảnh hưởng lớn nhất, bao quát nhất đối với sự tăng trưởng kinh tế của nhập siêu. Tuy chúng ta đã đạt được những mục tiêu đề ra trong thời gian trước là đưa xuất khẩu tăng lên đạt mức trên 15 tỷ USD vào năm 2001, nhưng nếu không tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới thì Việt Nam vẫn có nguy cơ rơi vào tình trạng nhập siêu. Việt Nam muốn đuổi kịp các nước trong khu vực và nâng cao hiệu quả kinh tế, cần không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu từ đó giảm thâm hụt thương mại cho đất nước. 1.3 Biện pháp quản lý cán cân thương mại và tình trạng nhập siêu. Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu Như đã phân tích về tác hại của tình trạng nhập siêu, chúng ta phải đưa ra những biện pháp nhằm hạn chế tình trạng này. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là việc khuyến khích xuất khẩu vì biện pháp này không những có thể cải thiện được cán cân thanh toán mà còn thúc đẩy các ngành công nghiệp trong nước phát triển. Dưới đây là một số biện pháp để thúc đẩy nhập khẩu ở Việt Nam. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại cấp quốc gia, đặc biệt là hoạt động thương mại của chính phủ với các quốc gia khác như ký kết các hiệp định thương mại, các văn bản cam kết xuất nhập khẩu,… để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có được một môi trường kinh doanh thuận lợi. Các thị trường tiềm năng cho hoạt đọng xuất khẩu hiện nay là các thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, các nước trong khối Asean, Trung Quốc, các nước EU… Việt Nam cũng phải phấn đấu từng bước để có thể tham gia tổ chức kinh tế thương mại Châu Á Thái Bình Dương, tổ chức thương mại thế giới (WTO). Thực hiện khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, đất đai, cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới, tăng các mặt hàng chế biến gia công, giảm tỷ trọng sản phẩm thô. Cần đầu tư thích đáng vào những mặt hàng Việt Nam có ưu thế như gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản, các sản phẩm khai khoáng như dầu mỏ, khí đốt,… Hướng xuất khẩu phấn đấu chuyển từ xuất khẩu sản phẩm thô sang sản phẩm đã qua chế biến. Vì vậy cần phải coi trọng việc phát triển công nghệ chế biến, coi trọng các công nghệ từ khi thu hoạch đến khi chế biến. Mở rộng hợp tác liên doanh với nước ngoài để nâng cao nămg lực ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu. Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như thuế, lãi suất cho vay đối với các mặt hàng xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu có điều kiện giảm giá thành và nâng cao tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đối với hàng nông sản, Nhà nước cần có chính sách trợ giá để giúp người nông dân tránh được những thiệt thòi do sự xáo trộn của thị trường nội địa, đồng thời cũng là biện pháp giúp họ yên tâm sản xuất và cải thiện đời sống của người nông dân. Cần tổ chức công tác điều tra, nghiên cứu thị trường các nước để có những cải tiến các mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với từng thị trường cụ thể. Mở rộng các hình thức gia công xuất khẩu cho nước ngoài bằng chính nguyên liệu của mình hoặc của người đặt hàng. Các biện pháp hạn chế nhập khẩu Bên cạnh việc khuyến khích xuất khẩu thì quản lý nhập khẩu cũng là một biện pháp hữu hiệu, giúp bảo hộ nền sản xuất trong nước. Các biện pháp chính đó là: Đối với những quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam, Việt Nam có thể quản lý nhập khẩu thông qua những yêu cầu cụ thể về tiêu chuẩn chất lượng, yêu cầu vệ sinh môi trường,… Ngoài những luồng nhập khẩu hợp pháp, hàng năm lượng hàng hoá nhập khẩu phi pháp vào Việt Nam chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Chúng ta cần tăng cường công tác chống buôn lậu thông qua việc đào tạo đội ngũ cán bộ, trang thiết bị đầy đủ và tạo điều kiện mọi mặt về vật chất lẫn tinh thần để các cán bộ hoàn thành nhiệm vụ. Xây dựng cơ chế điều hành ổn định lâu dài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu, tiếp tục mở rộng quyền tự chủ kinh doanh. Các biện pháp quản lý cán cân thương mại Khuyến khích xuất khẩu và quản lý nhập khẩu chưa thể nói là đã hoàn toàn đủ để cải thiện cán cân thanh toán nếu không biết cách quản lý nó một cách chặt chẽ. Để quản lý cán cân thương mại chúng ta cần thực hiện việc thanh toán tiền hàng xuất nhập khẩu hoàn toàn thông qua hệ thống ngân hàng. Dưới đây là một số phương pháp để thu hút thanh toán tiền hàng thông qua hệ thống Ngân hàng: Mở rộng hệ thống Ngân hàng ra cả nước tại các Tỉnh, Thành phố, đặc biệt là ở các khu vực có khu công nghiệp mới, khu chế xuất và các tỉnh biên giới có vị trí chiến lược như Lạng Sơn, Móng Cái, Lào Cai,… Các Tỉnh, Thành Phố này một mặt có nhu cầu thanh toán quốc tế cao một mặt lại ít có chi nhánh của các Ngân hàng thương mại, việc mở rộng thị trường của các Ngân hàng ở đây gặp nhiều thuận lợi. Tăng cường hợp tác với các Ngân hàng nước ngoài để nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ ngân hàng và đào tạo đội ngũ cán bộ Ngân hàng tài giỏi, đủ năng lực quản lý,… Mở rộng phạm vi dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng nhằm thu hút thêm khách hàng mới đồng thời củng cố vững chắc thêm các mối quan hệ đã có sẵn. Quản lý cán cân vãng lai Cán cân vãng lai bao gồm cả cán cân thương mại, nhưng do vai trò quan trọng của cán cân thương mại nên chúng ta đưa nó thành một mục riêng để nghiên cứu. Như vậy, trong phần này chúng ta chỉ đề cập đến việc quản lý các cán cân còn lại trong cán cân vãng lai, đó là cán cân dịch vụ, cán cân thu nhập đầu tư và chuyển giao một chiều. Quản lý cán cân dịch vụ Trước hết, chúng ta sẽ xem xét về việc quản lý cán cân dịch vụ và các biện pháp nhằm cải thiện cán cân này. Các biện pháp cải thiện cán cân dịch vụ Tăng cường hợp tác quốc tế với các doanh nghiệp nước ngoài, cử cán bộ đi đào tạo chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm trong hoạt động cung cấp các dịch vụ vận tải, bảo hiểm, thanh toán qua Ngân hàng,… Nhận làm đại lý cho các ngân hàng lớn, tổ chức tín dụng, các hãng vận tải, các công ty thương mại có tiềm lực kinh tế cao. Phát huy nội lực trong nước để nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm thu hút các hãng nước ngoài sử dụng dịch vụ của Việt Nam. Biện pháp quản lý cán cân dịch vụ Đào tạo đội ngũ cán bộ thống kê có đủ kinh nghiệm và năng lực để có thể thống kê đầy đủ và chính xác toàn bộ nguồn thu chi dịch vụ của quốc gia. Ban hành các mẫu, biểu thống kê đến các đơn vị kinh doanh dịch vụ, thực hiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động cung cấp và sử dụng dịch vụ. Quản lý các khoản thu nhập đầu tư và chuyển giao một chiều Trong cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thì hạng mục thu nhập đầu tư luôn ở trong tình trạng thâm hụt vì thực tế người dân Việt Nam chưa quen với hoạt động đầu tư cũng như chưa đủ tiềm lực kinh tế để đầu tư ra nước ngoài nhằm thu lợi nhuận, các dự án đầu tư ra nước ngoài vẫn đang trong giai đoạn chưa có lãi, trong khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thì hoạt động tương đối hiệu quả. Phải xuất phát từ quan điểm đối với việc quản lý luồng vốn chảy ra nước ngoài là có lợi cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới hay không. Nếu chưa thể để luồng vốn của Việt Nam chảy ra nước ngoài một cách tự do thì chúng ta sẽ phải chấp nhận tình trạng thâm hụt hạng mục thu nhập đầu tư và quản lý chặt chẽ luồng vốn thông qua các văn bản pháp luật. Nếu Việt Nam đã có đủ nguồn vốn để đầu tư trong nước và không cần quản lý chặt chẽ luồng vốn chảy ra nước ngoài thì chúng ta có thể tiến hành đào tạo các lớp chuyên sâu về nghiệp vụ đầu tư gián tiếp ra nước ngoài giúp mọi người hiểu biết thêm về nghiệp vụ này để khi có điều kiện họ có thể đầu tư thu lợi một cách hợp pháp. Hoạt động chuyển giao một chiều là hoạt động mới ở Việt Nam trong những năm gần đây do chính phủ đã tiến hành các biện pháp thu hút các khoản chuyển tiền bằng ngoại tệ từ người Việt Nam sống ở nước ngoài thông qua việc bãi bỏ thuế chuyển tiền từ năm 1995. Tuy nhiên, thủ tục chuyển tiền ở Việt Nam còn phức tạp rườm rà do đó chính phủ cần có chính sách giảm bớt thủ tục, tạo điều kiện cho hoạt động chuyển tiền được dễ dàng, thông thoáng hơn. Quản lý cán cân vốn Quản lý đầu tư nước ngoài Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta đã khẳng định rằng “nguồn vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng”. Trong giai đoạn đầu khi thu nhập của chúng ta còn thấp, khả năng tích luỹ chưa cao, nền kinh tế thường xuyên thiếu vốn thì việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp càng cần thiết hơn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài không chỉ mang lại cho chúng ta một nguồn vốn mới mà điều quan trọng là qua quá trình đầu tư chúng ta sẽ nắm bắt được kinh nghiệm quản lý, tiếp thu bí quyết công nghệ của các nước tiên tiến, cải thiện được môi trường kinh doanh và nâng cao thực lực của nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó làm việc với chuyên gia nước ngoài sẽ là một môi trường lý tưởng để công nhân Việt Nam nâng cao tay nghề. Để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư và quản lý một cách có hiệu quả thì trong việc cấp giấy phép đầu tư, Nhà nước cần phải đứng trên quan điểm có lợi cho cả quốc gia và cho cả nhà đầu tư nước ngoài, kết hợp với các chiến lược phát triển kinh tế. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có hoạt động xuất khẩu thì phải cân đối ngoại tệ, không được mua ngoại tệ từ các ngân hàng trong nước để nhập nguyên liêu, vật tư thiết bị và chuyển vốn ra nước ngoài mà phải thông qua hoạt động xuất khẩu thu ngoại tệ để phục vụ mình. Các biện pháp cụ thể là: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư một cách đồng bộ, có sức cạnh tranh với các nước xung quanh để thu hút đầu tư mới (cả khung pháp lý và việc thi hành luật pháp, kết cấu hạ tầng và các dịch vụ cần thiết với giá cả hợp lý). Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động ở nước ta kinh doanh và mở rông đầu tư có hiệu quả, đúng luật pháp, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Chú trọng thu hút đầu tư của các nước và tập đoàn có công nghệ nguồn, có thị trường lớn, hướng vào sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, sản xuất nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các sản phẩm cuối cùng xuất khẩu, giảm dần gia công và lắp ráp, hình thành các ngành sản xuất có khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, thâm nhập được các thị trường mới. Quản lý nợ nước ngoài Việc quản lý vay nợ cần phải được hoàn thiện, phải đáp ứng hai mục tiêu: Một là, nâng cao hiệu quả vốn vay, hai là giữ được mức nợ nước ngoài trong một tỷ lệ tương ứng với năng lực trả nợ của đất nước. Phải có chiến lược vay nợ và quy chế sử dụng vay nợ. Việc quản lý vay nợ phải bao quát tất cả các khoản vay nợ như vay nợ của Chính phủ, của các Ngân hàng thương mại và các Doanh nghiệp (kể cả vay thương mại). Phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc quản lý và sử dụng vay nợ. Kết luận: Tóm lại, sau khi nghiên cứu đề tài, tôi đi đến các kết luận sau: Nội dung của cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại của một quốc gia, cho thấy quốc gia đó có triển vọng phát triển kinh tế hay khôngdo ngày nay, hoạt động kinh tế đối ngoại có vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển của một đất nước. Còn về tăng trưởng kinh tế, đây là một chỉ tiêu kinh tế hết sức quan trọng, cũng hướng đến mục tiêu cuối cùng là phát triển nền kinh tế của đất nước, đem lại cuộc sống ổn định với mức sống cao cho người dân. Tăng trưởng kinh tế được đánh giá thông qua rất nhiều chỉ tiêu nhưng nhìn chung là tổng sản phẩm thực tế do quốc gia đó sản xuất ra và chỉ tiêu này chịu những ảnh hưởng không nhỏ của hoạt động kinh tế đối ngoại. Mối quan hệ biện chứng giữa cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế: Cán cân thanh toán quốc tế thực tế chỉ là một bảng biểu thống kê nhưng tình trạng của nó lại thể hiện những tác động tích cực hay tiêu cực đến quá trình tăng trưởng kinh tế do nó không chỉ thể hiện tình trạng xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ mà còn thể hiện tình trạng cán cân vốn, cụ thể là đầu tư trực tiếp, gián tiếp,… Tình trạng của những cán cân này tác động trực tiếp đến nền sản xuất của một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế là một chỉ tiêu tổng quát bao gồm cả kinh tế đối ngoại và tưởng như không thể ảnh hưởng đến kinh tế kinh tế đối ngoại. Nhưng thực tế, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, các nhà hoạch định chính sách phải đặt ra các chính sách tăng trưởng khác nhau và mỗi chính sách này đều gây ra các phản ứng riêng biệt trên cán cân thanh toán quốc tế. Thực tiễn ở Việt Nam Trong giai đoạn 1995-2001 kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong cả hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên cũng còn không ít những bất cập như cán cân thanh toán quốc tế vẫn liên tục ở trong tình trạng thâm hụt, tăng trưởng kinh tế tuy đạt được tốc độ cao nhưng cơ cấu nền kinh tế còn chưa hợp lý, tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP còn cao trong khi tỷ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp còn chưa phù hợp với tiềm năng. Những bất cập này cần được khắc phục để có thể đưa nền kinh tế Việt Nam bắt kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đề ra các biện pháp quản lý Trên cơ sở những lý thuyết đã phân tích, luận văn đưa ra một số giải pháp mang tính gợi ý nhằm góp phần vào việc quản lý cán cân thanh toán quốc tế một cách có hiệu quả hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong dài hạn. Những biện pháp này bao gồm: thay đổi và hoàn thiện hệ thống luật pháp, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, hoàn thiện cơ chế và hệ thống cán bộ quản lý kinh tế, tăng cường hợp tác quốc tế, đưa ra các chính sách khuyến khích đầu tư cũng như khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu và xuất khẩu,… Tất cả các biện pháp này nếu được áp dụng và phối hợp một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả mong muốn. Danh mục tài liệu tham khảo: + Ngọc Đào – Năm 2002 phải là năm cơ cấu lại – Tạp chí kinh tế Việt Nam và Thế giới 2001- 2002, Trang 7 - Thời báo kinh tế Việt Nam. + Dương Ngọc – Năm 2001: GDP đạt mức tăng cao nhất sau 4 năm - Tạp chí kinh tế Việt Nam và Thế giới 2001- 2002, Trang 4 - Thời báo kinh tế Việt Nam. + N. Gregory Mankiw – Harvard University - Macroeconomics (Second edition) – Worth Publisher. + Paul A Samuelson- William D. Nordhalls – Dịch giả: Vũ Cương; Đinh Xuân Hà; Nguyễn Xuân Nguyên; Trần Đình Toàn - Kinh Tế Học (Tập 2) – NXB Thống Kê - Tái bản lần thứ nhất. + TS Trần Ngọc Thơ; THS Nguyễn Thị Ngọc Trang; TS Nguyễn Ngọc Định; TS Nguyễn Thị Liên Hoa - Đại học Kinh Tế TP Hồ Chí Minh - Tài chính quốc tế – NXB Thống Kê - Năm 2000. + TS Nguyễn Văn Tiến - Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở – NXB Thống kê - Năm 2002. + PGS. Đinh Xuân Trình - Giáo trình Thanh toán Quốc tế - NXB Giáo Dục - Năm 2002. + Thông tư số 05/2000/ TT - NHNN1 ngày 28/3/2000 hướng dẫn thi hành một số điểm về lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam theo nghị định số 164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ. + Bảng: Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam 1993- 1999 - Tạp chí Ngân Hàng, trang 24 – Số 10 Năm 2000. + Bảng: Kiều hối và mối tương quan với đầu tư nước ngoài 1995-2001 – Tạp chí kinh tế và dự báo tháng 4 năm 2002, Trang 12 – Tạp chí hàng tháng của bộ kế hoạch đầu tư. + Bộ môn Kinh tế vĩ mô - Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - Những vấn đề cơ bản về Kinh tế vĩ mô - NXB Thống kê - Năm 1996. + Kinh tế - xã hội Việt Nam qua các con số thống kê - Tạp chí kinh tế Việt Nam và Thế giới 2001- 2002, Trang 48,49,50,51,52 – Thời báo kinh tế Việt Nam. + www.vneconomy.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC¸n c©n thanh to¸n quèc tÕ vµ t¨ng tr­ëng kinh tÕ,......doc
  • docBia.doc
  • docMucluc.doc