Cạnh tranh thuế trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hoá

THẢO LUẬN THUẾ QUỐC TẾ Đề tài: CẠNH TRANH THUẾ TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP, TOÀN CẦU HOÁ CẠNH TRANH THUẾ Cạnh tranh thuế khi hội nhập toàn cầu hóa nền kinh tế: Hiện nay, cùng với sự tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin là nguyên nhân dẫn đến sự hội nhập sâu sắc chưa từng thấy không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trong lĩnh vực kinh tế, khi nói đến hội nhập, toàn cầu hoá người thường nghĩ nga

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cạnh tranh thuế trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y đến sự di chuyển linh hoạt theo xu hướng tự do hoá của các luồng vốn, lao động, công nghệ, kỹ thuật và hàng hoá. + Theo báo cáo của IMF nguồn vốn đầu tư nước ngoài toàn thế giới đang có xu hướng phát triển, trong đó luồng vốn đổ vào các nước đang phát triển có quy mô ngày càng tăng. Theo nghiên cứu của IMF: chính sách thuế có tác động tới nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp: . Những nước có mức thuế suất thấp hơn thu hút được nhiều FDI hơn các nước có mức thuế cao ( VD: Hà Lan, Iraen, Luc xăm bua, …) + Trong lĩnh vực lao động: hiện tượng di cư vì lý do kinh tế khá phổ biến: trong điều kiện chính phủ cũng như các rào cản đối với việc di chuyển lao động ngày càng tăng thì việc các công dân của một nước nào đó ko bằng lòng với chính sách thuế của nước mình có thể dễ dàng lựa chọn 1 nơi cư trú và làm việc thuận lợi hơn là điều dễ hiểu ( VD: vào những năm 2000 người ta chỉ ra rằng mặc dù có những rào cản về ngôn ngữ và văn hóa đối với những lao động di cư, những dòng lao động có kỹ năng vẫn liên tục đổ về các thành phố như Luân đôn, nơi có nhiều cơ hội việc làm và chế độ thuế thấp hơn , đb trong lĩnh vực công nghệ và tài chính. Theo ước tính, lực lượng lao động của Luân Đôn có tới 23% là người nước ngoài, trong đó một phần không nhỏ đến từ nước Pháp nơi có mức thuế cao hơn) Rõ ràng chính sách thuế của một nước tác động ko nhỏ tới việc phân bổ nguồn lực tài chính và lực lượng lao động. Hiện tượng này đã đặt các Chính phủ các nước trên thế giới vào một sức ép mới – đó là sức ép cạnh tranh thuế. 1, Cạnh tranh thuế: - K/n: Là việc 1 nước ban hành chính sách thuế có lợi thế so sánh nhằm thu hút nguồn lực, lao động và các yếu tố kinh tế khác từ bên ngoài vào nước mình, hoặc (đồng thời) để hạn chế sự di chuyển các nguồn lực trong nước ra nước ngoài. Cạnh tranh thuế có thể được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản : Một là, thiết lập các chính sách nhằm thu hút việc đặt địa điểm thực tế diễn ra các hoạt động kinh tế của các công ty nước ngoài. Hai là, thiết lập các chính sách nhằm thu hút địa điểm cư trú của công ty Cả hai hình thức này đều có thể được thực hiện bằng cách ban hành mức thuế suất thấp hơn những nước khác nhằm tạo ra những nơi ẩn thuế, hoặc áp dụng cùng mức thuế suất với nước khác nhưng sử dụng nhiều hình thức ưu đãi như miễn thuế, giảm thuế, hoặc các biện pháp ưu đãi khác để thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài. Nghiên cứu chính sách thuế của các nước có rất nhiều các hình thức ưu đãi, miễm giảm thuế khác nhau được áp dụng. Tuy nhiên, các hình thức này có thể được xếp vào 5 nhóm chủ yếu sau đây: Áp dụng thuế suất ưu đãi thấp đối với thuế thu nhập công ty theo các điều kiện ưu đãi đầu tư Miễn thuế họăc giảm thuế trong một thời gian nhất định hoặc kết hợp cả hai Khấu trừ thuế và trợ cấp (tín dụng ) thuế đầu tư ( giảm thuế trên cơ sở vốn đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng ) Khấu hao nhanh ( trì hoãn thuế ) Miễn hoặc giảm các thuế gián thu. a, Cạnh tranh thuế có những mặt lợi: Thứ nhất, việc cắt giảm thuế suất và cung cấp các biện pháp khuyến khích thông qua ưu đãi, miễn giảm thuế là tín hiệu tốt của nước chủ nhà đối với các luồng vôn đầu tư nước ngoài. Nếu các điều kiện khác tương đồng thì chế độ thuế trở thành một nhân tố cạnh tranh tốt thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài rót vốn đầu tư. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp và các cá nhân trong nước cũng sẽ yên tâm bỏ vốn đầu tư trong nước, nhờ đó mà hạn chế được các dòng vốn và nhân lực có thể chảy ra nước ngoài. Thứ hai, cạnh tranh thuế làm cho các chính phủ mất thế độc quyền và phải quan tâm nhiều hơn đến các chính sách thông lệ quốc tế. Trên cơ sở đó thúc ép các chính phủ phải quan tâm nhiều hơn đến việc cải cách hệ thống thuế, làm minh bạch hóa các chính sách tài chính và làm lành mạnh nền hành chính thuế, tiến tới thực thi một bộ máy hoạt động hiệu quả hơn. Mặt khác do nguồn thu từ thuế bị hạn hẹp do sức ép cắt giảm thuế chính phủ buộc phải thực thi một chính sách chi tiêu hiêu quả hơn, hạn chế thất thoát lãng phí, xã hội có thêm nguồn lực để phát triển kinh tế. Thứ ba, thuế suất thấp sẽ làm giảm gánh nặng phụ trội do thuế gây ra. Thuế suất được giảm nhẹ sẽ khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân tự nguyện chấp hành, tuân thủ các quy định của luật thuế mà không cần tìm biện pháp trốn thuế hoặc tránh thuế. Chi phí thu hành chính nhờ đó mà có thể giảm thiểu, đồng thời nạn tham nhũng cũng sẽ bị hạn chế. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp số thu của ngân sách có thể không bị giảm, mà thậm chí còn có cơ hội tăng hơn trước do cơ sở đánh thuế được mở rộng hơn nhờ sự gia tăng của các nguồn đầu tư và hiệu quả hành thu b, Những thách thức đối với các chính phủ( đặc biệt là các nước nghèo) Thứ nhất, cạnh tranh thuế thông qua việc cắt giảm thuế và tăng cường áp dụng các ưu đãi thuế diễn ra đồng loạt ở các nước là nguy cơ thu hẹp cơ sở đánh thuế của mỗi nước mà do đó làm hạn hẹp nguồn thu của chính phủ. Hiệu ứng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hạn chế sự chảy máu vốn và chất xám ra bên ngoài chỉ xảy ra đối với những nước có chế độ thuế ưu việt hơn so với mặt bằng các nước khác. Tuy nhiên nếu việc cắt giảm thuế xảy ra đồng thời ở các nước thì hiệu ứng này bị trung hòa và có thể ở trạng thái số không. Hệ quả kéo theo của việc thu hẹp nguồn thu của chính phủ sẽ là không đủ nguồn lực để cung cấp các dịch vụ công cần thiết cho người dân. Vai trò và sức mạnh của nhà nước có thể bị thu hẹp và nguy cơ bất ổn trong nền kinh tế có thể dự đoán trước. Đối với các nước nghèo nguy cơ này càng gia tăng, vay nợ sẽ ngày càng nhiều và môi trường đầu tư ngày càng sa sút, dẫn đến sự sụt giảm về tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, trong khi tạo gánh nặng nợ cho thế hệ sau. Thứ hai, cạnh tranh thuế là nguy cơ gia tăng bất bình đẳng trong xã hội. Một ví dụ dễ thấy nhất là do sức ép cạnh tranh thuế các nước buộc phải cắt giảm mức thuế biên cao nhất (đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân ) và giảm bớt độ lũy tiến của thuế. Vì vậy khả năng phân phối lại thu nhập của hệ thống thuế bị thu hẹp. Hơn thế nữa, gánh nặng thuế sẽ dần bị chuyển sang cho các yếu tố sản xuất khác không hoặc ít có khả năng di chuyển, như tầng lớp lao động có trình độ thấp, đất đai bất động sản. Gánh nặng thuế đối với thu nhập từ vốn sẽ giảm, thuế đối với việc di chuyển vốn và thu nhập bị thu hẹp và dần được bãi bỏ. Thông thường người có thu nhập cao thì thu nhập chủ yếu là thu nhập lãi vốn, người có thu nhập thấp thì thu nhập chủ yếu là từ lao động. Vì vậy, việc chuyển gánh nặng thuế từ vốn sang lao động, từ lao động có trình độ cao sang lao động có trình độ thấp cũng đồng nghĩa với việc chuyển gánh nặng thuế từ người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp. Nguy cơ phân hóa giàu nghèo trong xã hội sẽ ngày càng sâu sắc và nguy cơ gia tăng bất ổn và bất công trong xã hội là có thực. Thứ ba, nhìn từ khía cạnh kinh tế học, cạnh tranh thuế có thể làm suy giảm hiệu quả chung của nền kinh tế thế giới. Do những ưu đãi thái quá, quyết định đầu tư có thể bị bóp méo. Vốn và nhân lực có thể chảy nhiều vào những nước có mức thuế thấp, nhưng có thể nơi đó không phải là có năng suất và hiệu quả sử dụng vốn và nhân lực cao hơn. Hiệu quả phân bổ nguồn lực kinh tế tối ưu khó mà đạt được. Tương tự như vậy, các ưu đãi, miễn giảm thuế thường gây ra những méo mó trong quyết định đầu tư. Thêm vào đó cạnh tranh thuế dưới hình thức cung cấp những ưu đãi, miễn giảm thuế thuế làm tăng cơ hội cho tham nhũng, tăng gánh nặng cho cơ quan thuế. Đây là những bất lợi dễ hiển hiện nhất ở các nước kém phát triển. 2. Xu thế cạnh tranh thuế trong một số thập kỉ gần đây Xu thế cạnh tranh thuế đã bắt đầu xảy ra khá phổ biến từ những năm 80 của thế kỉ XX. Khởi đầu là sự cắt giảm liên tục mức thuế suất thuế thu nhập công ty và sau đó là thuế thu nhập cá nhân. Nếu như năm 1986, mức thuế thu nhập công ty trung bình của 26 nước trong khối OECD là 41%, thì đến năm 2006, mức thuế trung bình của các nước này chỉ còn ở mức 27%( bảng1). Tương tự như vậy, năm 1985 mức thuế suất biên cao nhất trung bình thuế thu nhập cá nhân của các nước trong khối OECD là 63% thì đến năm 2005 mức thuế suất biên cao nhất chỉ trung bình là 35% ( bảng 2 ). Có thể nói hầu hết các nền kinh tế chủ chốt của thế giới đang thực hiện một cuộc chạy đua giảm thuế suất nhằm đạt lấy ưu thế cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hạn chế tình trạng chảy máu chất xám, vốn và nhân lực ra nước ngoài. Trước đây khi thủ tục hành chính chưa được nới lỏng và môi trường đầu tư khác biệt với những quy định có tính chất đặc biệt theo vùng miền, thì thuế suất không phải là nhân tố chính quyết định các luồng đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện môi trường và thông lệ đầu tư ngày càng thông thoáng thì thuế suất lại là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư: + Thuế suất cao làm giảm nỗ lực của các nhà đầu tư, đồng thời kích thích các nhà đầu tư áp dụng các thủ pháp kĩ thuật nhằm làm giảm nghĩa vụ thuế phải nộp( như định giá chuyển giao các yếu tố đầu vào cao, doanh thu đầu ra thấp để chuyển lợi nhuận ra nước ngoài một cách hợp pháp), bên cạnh đó khuyến khích các nhà đầu tư thay đổi cấu trúc vốn theo hướng nâng cao tỷ trọng vốn vay để khấu trù lãi phải trả vào chi phí nhằm làm giảm lợi nhuận chịu thuế. + Ngược lại thuế suất thấp hơn sẽ là nhân tố khuyến khích các nhà đầu tư tích cực bỏ vốn đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng nhằm làm tăng cường năng lực kinh doanh. Mức thuế suất danh nghĩa thấp là tín hiệu cho thấy chính phủ nước chủ nhà thực sự có thiện chí trong việc khuyến khích đầu tư và không áp dụng các biện pháp hành chính can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư. Thuế suất thấp có thể làm giảm nguồn thu của chính phủ trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài có thể nó sẽ được bù đắp ở cơ sở tính thuế rộng hơn nhờ việc tăng cường thu hút thêm các khoản đầu tư từ nơi khác. Thuế suất danh nghĩa là một trong những nhân tố nhãn tiền có sức thu hút đối với các nguồn đầu tư. Tuy nhiên, không chỉ có thế, các hình thức ưu đãi thuế là một nhân tố khác cũng có sức hấp dẫn không kém ẩn định đằng sau mức thuế suất danh nghĩa. Đối với nhà đầu tư, mối quan tâm cuối cùng không phải mức thuế suất danh nghĩa mà là mức thuế suất hiệu quả, đặc biệt là mức thuế suất hiệu quả sau khi đã khấu trừ đi các ưu đãi, miễn giảm thuế. Đôi khi có những nước công bố mức thuế suất danh nghĩa và mức thuế suất hiệu quả khá cao, nhưng mức thúê suất thực lại khá thấp do có nhiều chế độ ưu đãi, miễn hoặc giảm thuế theo những tiêu chuẩn và điều kiện nhất định. Chẳng hạn mức thuế suất hiệu quả của thuế thu nhập doanh nghiệp sau khi đã khấu đi miễn, giảm thúê của Thái Lan chỉ còn là 7%, trong khi thuế suất hiệu quả trước miễn giảm là 46%( bảng 3). Như vậy, cạnh tranh thuế thông qua việc cắt giảm thuế suất và tiếp tục duy trì hay đẩy mạnh các biện pháp ưu đãi ,miễn giảm thuế là một xu hướng hiện thực trong nhiều thập kỉ qua ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Cạnh tranh thuế có cả những mặt hại và mặt lợi xét trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Vấn đề là mỗi quốc gia cần có mhững đối sách thích hợp nhằm tạo lợi thế cạnh tranh, hoặc đơn giản chỉ là để khỏi rơi vào tình trạng nguồn thu bị sói mòn từ quá trình này phục vụ tốt nhất cho đường lối phát triển của mình. II, Khu vực thương mại tự do Asean ( AFTA) và quá trình gia nhập AFTA của Việt Nam: 1, AFTA - CEPT: ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN giai đoạn 1981-1991 là 5,4%, gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới). Tuy vậy, trước khi AFTA ra đời, những nỗ lực hợp tác kinh tế của ASEAN đều không đạt được mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các kế hoạch hợp tác kinh tế như: - Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA). - Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP). - Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC). - Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ trong thương mại nội bộ ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong khối. a, Sự ra đời của AFTA: Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN đứng trước những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sự liên kết chặt chẽ hơn và những nỗ lực chung của toàn Hiệp hội, những thách thức đó là : - Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc tế. - Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như EU, NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này. - Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực. Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Xingapo đã quyết định thành lập một Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ( gọi tắt là AFTA). Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN ở một tầm mức mới. Mục tiêu của AFTA: AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau: - Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này sẽ khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN , dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội khối. - Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn. - Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới. b, Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT-AFTA): * Các Quy định chung của Hiệp định CEPT: Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, các nước ASEAN cũng trong năm 1992, đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT. CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. ( Đây là thời hạn đã có sự đẩy nhanh hơn so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu : từ 15 năm xuống còn 10 năm). Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc thực hiện Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu, không tách rời dưới đây : - Thứ nhất là vấn đề giảm thuế quan : Mục tiêu cuối cùng của AFTA là giảm thuế quan xuống 0-5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các nước mới, nhưng thời hạn tối đa là trong vòng 10 năm. - Thứ hai là vấn đề loại bỏ hàng rào phi quan thuế (NTB) : hạn ngạch, cấp giấy phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật : kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ. - Thứ ba là hài hoà các thủ tục Hải quan . * Các Nội dung và Quy định cụ thể : Vấn đề về thuế quan: Các bước thực hiện như sau : Bước 1 :Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hoá trong biểu thuế quan của mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng thực hiện CEPT: - Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay ( Tiếng Anh viết tắt là IL). - Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế ( viết tắt là TEL). - Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm ( viết tắt là SEL) - Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn ( viết tắt là GEL) Trong 4 loại Danh mục nói trên thì : - Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL): là những sản phẩm không phải thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định CEPT, tức là không phải cắt giảm thuế, loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Các sản phẩm trong danh mục này phải là những sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống, sức khoẻ con người, động thực vật, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, di tích lịch sử, khảo cổ...( theo điều 9B Hiệp định CEPT). - Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm cao (SEL): là những sản phẩm được thực hiện theo một lịch trình giảm thuế và thời hạn riêng, các nước ký một Nghị định thư xác định việc thức hiện cắt giảm thuế cho các sản phẩm này, cụ thể thời hạn bắt đầu cắt giảm là từ 1/1/2001 kết thúc 1/1/2010, mức thuế giảm xuống 0-5%, nghĩa là kéo dài thời hạn hơn các sản phẩm phải thực hiện nghĩa vụ theo CEPT. - Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay ( IL) và Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL) : Là 2 Danh mục mà sản phẩm trong những Danh mục này phải thực hiện các nghĩa vụ CEPT, tức là phải cắt giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Tuy nhiên tiến độ có khác nhau. Sản phẩm hàng hoá trong 2 Danh mục này là những sản phẩm công nghiệp chế tạo, nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm nông nghiệp... nghĩa là tất cả những sản phẩm hàng hoá được giao dịch thương mại bình thường trừ những sản phẩm hàng hoá được xác định trong 2 Danh mục SEL và GEL nêu trên. Bước 2 : Xây dựng lộ trình tổng thể cắt giảm thuế 10 năm ( toàn bộ thời gian thực hiện Hiệp định): Việc thực hiện Hiệp định chính là các nước thành viên phải xây dựng lộ trình tổng thể cho việc cắt giảm thuế đối với 2 Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay( IL) và Danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Các nguyên tắc xây dựng lộ trình giảm thuế tổng thể như sau : a) Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (Inclusion List - IL): Các sản phẩm nằm trong danh mục này được cắt giảm thuế quan ngay tại thời điểm bắt đầu thực hiện cho đến thời hạn kết thúc, tiến trình cắt giảm như sau : + Các sản phẩm có thuế suất trên 20% (> 20%) sẽ được giảm xuống 20% trong vòng 5 năm đầu và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% trong 5 năm còn lại. Cụ thể : Các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% vào 1/1/1998, và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003. + Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% (=< 20%) sẽ được giảm xuống còn 0-5% trong vòng 7 năm đầu . Cụ thể : Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2000. Các nước có quyền được quyết định mức cắt giảm nhưng tối thiểu mỗi năm 5 %, không được duy trì cùng thuế suất trong 3 năm liền, trong trường hợp thuế MFN thay đổi tại một thời điểm nào đó nếu cao hơn thuế suất CEPT tại thời điểm đó thì không được nâng thuế CEPT bằng mức thuế MFN đó; trường hợp thuế MFN thấp hơn thuế CEPT thì việc áp dụng phải tự động theo thuế suất MFN đó và phải điều chỉnh lịch trình. Không được nâng mức thuế CEPT của năm sau lên cao hơn năm trước. b) Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Để tạo thuận lợi cho các nước thành viên có một thời gian chuẩn bị và chuyển hướng đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu, Hiệp định CEPT cho phép các nước thành viên ASEAN được đưa ra một số sản phẩm tạm thời chưa thực hiện tiến trình cắt giảm thuế quan ngay theo CEPT. Tuy nhiên, Danh mục TEL này chỉ mang tính chất tạm thời, các sản phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển toàn bộ sang Danh mục cắt giảm thuế(IL) ngay trong vòng 5 năm, kể từ năm thứ 4 thực hiện Hiệp định tức là từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong Danh mục TEL vào Danh mục IL. Lịch trình cắt giảm thuế của các sản phẩm chuyển từ Danh mục TEL sang Danh mục IL này như sau: - Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, phải giảm dần thuế suất xuống bằng 20% vào thời điểm năm 1998, trường hợp các sản phẩm được chuyển vào đúng hoặc sau thời điểm năm 1998 thì thuế suất lập tức phải bằng hoặc thấp hơn 20% , và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003 như lịch trình đối với sản phẩm trong Danh mục IL. - Đối với những sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% (=< 20%) sẽ được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003 Các quy định khác cũng tương tự như đối với Danh mục IL nói trên. Ngoài các quy định được nêu trên trong quá trình xây dựng và thực hiện, không được có sự thụt lùi về tiến độ, cũng như không được phép chuyển các mặt hàng từ Danh mục cắt giảm (IL) sang bất kỳ Danh mục nào, không được chuyển các mặt hàng từ Danh mục TEL sang Danh mục nhạy cảm (SEL) hay Danh mục Loại trừ hoàn toàn (GE) mà chỉ có sự chuyển từ Danh mục TEL sang Danh mục IL nói trên, hoặc chuyển từ Danh mục SEL, GE sang Danh mục TEL hoặc IL. Nếu vi phạm thì nước thành viên phải đàm phán lại với các nước khác và phải có nhân nhượng bồi thường. Bước 3 : Ban hành văn bản pháp lý xác định hiệu lực thực hiện việc cắt giảm thuế hàng năm : Trên cơ sở Lịch trình cắt giảm tổng thể thuế nêu trên, hàng năm các nước thành viên phải ban hành văn bản pháp lý để công bố hiệu lực thi hành thuế suất CEPT của năm đó. Văn bản này phải được gửi cho Ban Thư ký ASEAN để thông báo cho các nước thành viên. Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản phi thuế quan khác (NTBs) Để thiết lập được khu vực mậu dịch tự do, việc cắt giảm thuế quan cần phải được tiến hành đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Các hàng rào phi thuế quan bao gồm các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch, giấy phép,...) và các hàng rào phi thuế quan khác (như các khoản phụ thu, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng,...) Các hạn chế về số lượng có thể được xác định một cách dễ dàng và do đó, được quy định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng trong Chương trình CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên khác. Tuy nhiên, đối với các rào cản phi thuế quan khác, việc xác định và loại bỏ phức tạp hơn rất nhiều. Hiệp định CEPT quy định về vấn đề này như sau: - Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm trong CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó; cụ thể: những mặt hàng đã được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ phải bỏ các hạn chế về số lượng. - Các hàng rào phi quan thuế khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi; - Các hạn chế ngoại hối mà các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt đối với các sản phẩm thuộc CEPT; - Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và thừa nhận các chứng nhận chất lượng của nhau; - Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột gây phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập khẩu. Vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan: Thống nhất biểu thuế quan: Để tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu ASEAN tiến hành việc buôn bán trong nội bộ Khu vực được dễ dàng và thuận lợi, cũng như các cơ quan Hải quan ASEAN dễ dàng trong việc xác định mức thuế cho các mặt hàng một cách thống nhất, ngoài ra phục vụ cho các mục đích thống kê, phân tích, đánh giá việc thực hiện CEPT- AFTA, cũng như tình hình xuất nhập khẩu nội khối, các nước đã quyết định sẽ thống nhất một biểu thuế quan trong khối ASEAN ở mức 8 chữ số theo Hệ thống điều hoà của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới(HS). Hiện nay biểu thuế quan chung của ASEAN đã được xây dựng và hoàn thành trong năm 2000 và được áp dụng từ năm 2000, những nước nào chậm nhất cũng phải áp dụng từ năm 2002. Thống nhất hệ thống tính giá hải quan: Vào năm 2000, các nước thành viên ASEAN đã thực hiện phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT- GTV (GATT Transactions Value), thực hiện điều khoản VII của Hiệp định chung về thương mại và thuế quan 1994 ( Hiện nay là Tổ chức thương mại thế giới WTO) để tính giá hải quan. Một cách tóm tắt là giá trị hàng hoá để tính thuế xuất nhập khẩu là giá trị giao dịch thực tế giữa người xuất khẩu và ngưòi nhập khẩu, không phải là do nhà nước áp đặt. Xây dựng Hệ thống Luồng xanh hải quan: Hệ thống này được thực hiện từ 1/1/1996 nhằm đơn giản hoá hệ thống thủ tục hải quan dành cho các hàng hoá thuộc diện được hưởng ưu đãi theo Chương trình CEPT của ASEAN. Thống nhất thủ tục hải quan: Hai vấn đề đã được các nước thành viên ưu tiên trong việc thống nhất thủ tục hải quan là : + Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT: Các nước ASEAN đã gộp ba loại tờ khai hải quan: Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) Mẫu D, Tờ khai hải quan xuất khẩu và Tờ khai hải quan nhập khẩu lại thành một mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT. + Thủ tục xuất nhập khẩu chung: bao gồm những vấn đề sau: · Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá xuất khẩu; · Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá nhập khẩu; · Các vấn đề về giám định hàng hoá; · Các vấn đề về gửi hàng trong đó giấy chứng nhận xuất xứ được cấp sau và có hiệu lực hồi tố; · Các vấn đề liên quan đến hoàn trả... 2, Qúa trình tham gia khu vực Mậu dịch Tự do Asean (AFTA) và lịch trình giảm thuế của Việt Nam theo CEPT/AFTA Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức trở thành hội viên của Asean và tham gia ngay vào chương trình thực hiện AFTA a. Những yêu cầu của CEPT -AFTA đối với Việt Nam: Căn cứ theo quy định của Hiệp định CEPT và thoả thuận giữa Việt nam và các nước thành viên khác của ASEAN, chương trình giảm thuế nhập khẩu theo CEPT của Việt Nam bắt đầu được thực hiện từ 1/1/1996 và hoàn thành vào 1/1/2006 để đạt được mức thuế suất cuối cùng là 0-5%, chậm hơn các nước thành viên khác 3 năm. Các bước cụ thể để thực hiện mục tiêu này bao gồm: • Xác định danh mục các mặt hàng thực hiện giảm thuế theo CEPT gồm: danh mục giảm thuế ngay (IL), danh mục loại trừ tạm thời (TEL), danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL), danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL). • Các mặt hàng thuộc danh mục IL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/1996 và kết thúc với thuế suất 0-5% vào 1/1/2006. Các mặt hàng có thuế suất trên 20% phải giảm xuống 20% vào 1/1/2001. Các mặt hàng có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm xuống 0-5% vào 1/1/2003. • Các mặt hàng thuộc danh mục TEL sẽ được chuyển sang danh mục IL trong vòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%, để thực hiện giảm thuế với thuế suất cuối cùng là 0-5% vào năm 2006. Đồng thời, các bước giảm sau khi đưa vào IL phải được thực hiện chậm nhất là 2-3 năm một lần và mỗi lần giảm không ít hơn 5%. • Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/2004 và kết thúc vào 1/1/2013 với thuế suất cuối cùng là 0-5%. Riêng mặt hàng đường vào năm 2010 :0-5%. • Các mặt hàng đã đưa vào chương trình giảm thuế và được hưởng nhượng bộ thì phải bỏ ngay các quy định về hạn chế số lượng (QRs) và bỏ dần các biện pháp hạn chế phi quan thuế khác (NTBs) 5 năm sau đó. b. Tiến trình thực hiện CEPT của Việt Nam: * Nguyên tắc xây dựng phương án tham gia của Việt nam : - Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách - Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước - Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho nền sản xuất trong nước - Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các qui định của Hiệp định CEPT để tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. * Lộ trình cắt giảm thuế : - Năm 1996 Việt nam đã công bố cho ASEAN các loại Danh mục: Danh mục cắt giảm thuế IL; Danh mục loại trừ tạm thời TEL; Danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhậy cảm SL và Danh mục loại trừ hoàn toàn GEL; Cụ thể: Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): Danh mục này được xây dựng phù hợp với Điều 9 của Hiệp định CEPT và bao gồm những nhóm mặt hàng có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, cuộc sống và sức khoẻ của con người, động thực vật, đến các giá trị lịch sử, nghệ thuật, khảo cổ như các loại động vật sống, thuốc phiện, thuốc nổ, vũ khí,... Danh mục này chiếm 6,6% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu, và là các mặt hàng cụ thể như sau: • Thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện, xì gà, thuốc lá và rượu bia thành phẩm; • Các loại xỉ và tro; • Các loại xăng dầu (trừ dầu thô); • Các loại thuốc nổ, thuốc phóng, các loại pháo; • Các loại lốp bơm hơi cũ; • Các loại thiết bị điện thoại, điện báo hữu tuyến, vô tuyến, các loại thiết bị ra đa, các loại máy thu sóng dùng cho điện thoại, điện báo...; • Các loại ô tô dưới 16 chỗ ngồi, các loại ô tô và phương tiện tự hành có tay lái nghịch; • Các loại vũ khí, khí tài quân sự; • Các loại văn hoá phẩm đồi truỵ, phản động, đồ chơi cho trẻ em có ảnh hưởng xấu đến giáo dục và trật tự an toàn xã hội; • Các loại hoá chất, dược phẩm độc hại, các chất phế thải, đồ tiêu dùng đã qua sử dụng;... Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL): Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm của Việt nam bao gồm 26 nhóm mặt hàng, chiếm 0,8% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu và là những mặt hàng cụ thể như: thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc, gạo lứt,..., được xây dựng căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng nông sản chưa chế biến và theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng thời trên cơ sở tham khảo Danh mục này của các nước ASEAN khác. Các mặt hàng này đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý theo hạn ngạch hàng tiêu dùng, quản lý của Bộ chuyên ngành. Danh mục cắt giảm thuế ngay (IL): Danh mục này chủ yếu bao gồm những mặt hàng trong Biểu thuế hiện đang có thuế suất dưới 20% - là những mặt hàng thuộc diện có thể áp dụng ưu đãi theo CEPT ngay và một số mặt hàng tuy có thuế suất cao nhưng Việt nam lại đang có thế mạnh về xuất khẩu. Tổng số nhóm mặt hàng trong Danh mục cắt giảm thuế quan là 1661, chiếm 51,6% tổng nhóm mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam. Tỷ lệ này thấp hơn so với các nước thành viên ASEAN khác khi họ bắt đầu thực hiện chương trình CEPT, nhưng đây là biện pháp an toàn nhất đối với Việt Nam. Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): Danh mục này chiếm khoảng 40,9%._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21807.doc
Tài liệu liên quan