Cầu lao động Việt Nam và các giải pháp kích cầu

LỜI MỞ ĐẦU Xu thế hoà bình và hợp tác, tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, toàn cầu hoá và khu vực hoá, những xu hướng biến đổi môi trường và yêu cầu phát triển tác động đến Việt Nam, đòi hỏi chúng ta phải có những bước tiến để theo kịp thời đại. Xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp, nền kinh tế nghèo và lạc hậu trong khi đó quy mô dân số đông và có tốc độ tăng cao, đã tạo ra một sức ép lớn đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Với

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Cầu lao động Việt Nam và các giải pháp kích cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục tiêu đến năm 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp, yêu cầu đặt ra là phải có những biện pháp thúc đẩy nền kinh tế phát triển phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước và môi trường kinh tế quốc tế. Thực tế hiên nay,trên thị trường lao động đang xảy ra tình trạng cung lao động lớn hơn cầu lao động, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao là nguy cơ kìm hãm sự phát triển kinh tế, xã hội. Vậy phải có các giải pháp như thế nào để tăng cầu lao động ở nước ta, tức tăng số lao động có việc làm trong nền kinh tế và giảm tỷ lệ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Vì vậy em chọn đề tài: “Cầu lao động Việt Nam và các giải pháp kích cầu”, để tìm ra những hạn chế còn tồn tại và cách khắc phục của cầu lao động, cũng như những mặt tích cực để phát huy, qua đó làm giảm sự mất cân bằng cung- cầu trên thị trường lao động, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đề án được thực hiện dựa trên số liệu toàn quốc về ngành nghề, giới tính, khu vực, trình độ chuyên môn kỹ thuật …trong khoảng thời gian từ năm 1996 đến 2006. Đề án được thực hiện có thể còn thiếu sót, em mong được sự góp ý của thầy để bài làm của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy . Phần 1: Cơ sở lý luận về cầu lao và các giải pháp kích cầu 1. Khái niệm cầu lao động và một số khái niệm liên quan Trong phạm vi nền kinh tế: Cầu lao động là nhu cầu về sức lao động của nền kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, là khả năng thu hút sức lao động của nền kinh tế. Cầu lao động được phân chia thành 2 loại chính : Cầu thực tế và cầu tiềm năng + Cầu thực tế về lao động là nhu cầu thực tế lao động cần sử dụng tại một thời điểm nhất định thể hiện qua số lượng những chỗ làm việc trống và chỗ làm việc mới + Cầu tiềm năng về lao dộng là nhu cầu lao động cho tổng số chỗ lao động có thể đạt được sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ và các điều kiện khác như chính trị, xã hội… - Cầu lao động bao gồm hai mặt : cầu về chất lượng lao động và cầu về số lượng lao động . + Cầu về số lượng lao động : trong điều kiện năng suất lao động không thay đổi cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ sản xuất. Nếu quy mô sản xuất không đổi, cầu vê sức lao động tỷ lệ nghịch với năng suất lao động + Cầu về chất lượng laođộng : việc nâng cao năng suất lao động, mơ rộng quy mô, tiền vốn, tri thức …của doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi nâng cao chất lượng sức lao động 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu lao động Trong nền kinh tế quốc dân, cầulao động phụ thuộcvào trình độ phát triển kinhtế xã hội ,vốn đầu tư, chính sách của nhà nước … Trong tổ chức doanh nghiệp, cầu lao động phụ thuộc vào khối lượng nhiệm vụ sản xuất, trình độ trang bị kỹ thuật, mức năng suất lao động, cầu lao động phụ thuộc vào mức tiền công: mức tiền công càng cao thì với lượng vốn đầu tư thuê sức lao động không đổi thì lượng lao động có thể thuê được cang ít. Tuy nhiên, cầu thực tế về lao động của các doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào giá cả trên thị trường mà còn phụ thuộc vào các yếu tố như đã trình bày ở trên. Để đảm bảo cầu lao động thực tế cửa doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp buộc phải tăng vốn đầu tư để thuê sức lao động. Như vậy, cầu lao động trên thi trường phụ thuộc vào giá cả của một hàng hoá sức lao động nào đó và vốn đầu tư dùng để mua sắm nó . 2.1. Các nhân tố tác động đến cầu lao động về mặt số lượng Cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế sẽ tác động mạnh đến số lượng cầu lao động. Như đã biết việc làm phân bổ theo cơ cấu kinh tế bao gồm việc làm trong nông- lâm- ngư nghiệp (gọi chung là nông nghiệp), việc làm trong công nghiệp và xây dựng cơ bản (gọi chung la công nghiệp), và việc làm trong khu vực dịch vụ. Kinh nghiệm của các nước phát triển không thể áp dụng máy móc cho các nước đang phát triển trong đó có nước ta, vì hoàn cảnh rất khác nhau. Nước ta với hơn 70% lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông- lâm- ngư nghiệp, nhưng đang có xu hướng giảm mặc dù còn chậm do sức ép của quy mô lớn và tốc độ gia tăng dân số còn cao. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ diễn ra theo hai hướng, một là, chuyển một bộ phận lao động hiện có của khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ; hai là, có thể chuyển trong nội bộ khu vực từ nông nghiệp sang ngư nghiệp, vì ngư nghiệp ở nước ta có nhiều thuận lợi về điều kiên tự nhiên và đang được khuyến khích phát triển theo hướng hàng hoá thương phẩm và khai thác thị trường xuất khẩu. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hai hướng trên sữ làm tăng số lượng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm số lượng lao động trong khu vực nông nghiệp. Ngay trong nội bộ khu vực nông nghiệp thì số lượng lao động trong nghành ngư nghiệp tăng và nông nghiệp giảm Cơ cấu tổng sản phẩm (GDP): Sự thay đổi cơ cấu tổng sản phẩm GDP cũng tác động đến số lượng cầu lao động, một khi thu nhập đầu người tăng lên làm nhu cầu thay đổi theo hướng chuyển từ các hàng hoá nông nghiệp sang các hàng hoá công nghiệp và dịch vụ, kết quả là làm tăng việc làm trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Lựa chọn kiểu và mức độ công nghiiệp hoá: Đảng và Nhà nước ta xác định đường lối phát triển đất nước là công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Một trong những khó khăn gạp phải là làm thế nào để công nghiệp hoá có khả năng tạo đủ việc làm cho lực lượng lao động lớn và đang tăng lên ở nước ta. Rõ ràng là phải đứng trước sự lựa chọn “ công nghệ với chi phí tối thiểu” để sử dụng lao động nhiều hơn thay vì nhập khẩu và áp dụng công nghệ có dung lượng vốn lớn. Nếu tập trung vốn đầu tư hạn hẹp vào các ngành hiện đại, phục hồi và phát triển cơ khí cho các ngành chế biến và xuất khẩu, với giả thiết rằng tỷ số tiền lương trên vốn không thay đổi, thì sẽ không làm tăng được quy mô việc làm, nhưng làm tỷ trọng việc làm có năng suet cao tăng lên, như vậy có nguy cơ làm mất cân đối giữa các ngành về việc làm và thu nhập. Bơỉ vậy, chiến lược đặt ra là làm sao thúc đẩy các ngành công nghiệp nhỏ, cả truyền thống và hiện đại, thường có khả năng tạo việc làm nhiều hơn, khả thi hơn về vốn đối với chọn công nghệ. Vốn đầu tư: Vốn đầu tư là một yếu tố quan trọng trong vấn đề tạo việc làm, vốn đầu tư càng lớn thì càng nhiều lĩnh vực được đầu tư ,và quy mô của các doanh nghiệp, các công ty càng mở rộng. Do đó số lượng lao động tăng theo. Trong những năm gần đây, chúng ta đã và đang thu hút được nhiều nguồn vốn khác nhau, nhất là nguồn vốn đầu tư nước ngoài và chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và xây dung đã tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Yếu tố giá cả: mối liên hệ giữ giá cả và cầu lao động có thể được biểu diễn như sau: p*.Q = W*.L + r*.K, trong đó p là mức giá, Q là sản lượng đầu ra, W là mức tiền công, r là lãI suất vốn. Gía cả là yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn phương án sản xuất, tác động đến tỷ trọng lao động và vốn. Nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển giá cả dao động với biên độ lớn, làm sai lệch lớn so với giá trị hàng hoá do chính sách tài chính tín dụng, ngân hàng đang chuyển đổi và hiện đại hoá. Hơn nữa tỷ giá hối đoái thường thấp hơn so với giá thị trường của công nghệ, máy móc thiết bị, trên phương diện của vi mô, điều đó khuyến khích tăng dung lượng vốn hơn là khuyến khích sử dụng vốn có hiệu quả. Trên phương diện vĩ mô, nó thúc đảy các công nghệ đắt tiền, không thích hợp và ảnh hưởng không tốt đến việc làm, sử dụng vốn kém hiệu quả. Mặt khác, nếu điều tiết tiền lương ,tiền công không tốt sẽ làm biến dạng giá cả, chẳng hạn nếu tăng tiền lương ở khu vực quản lý nhà nước và hành chính sự nghiệp và vẫn giữ nguyên biên chế thì sẽ làm tăng tiền lương đối với khu vực khác. Nhìn chung, tiền lương trong khu vực hiện đại, nhất là khu vực thành thị thường có xu hướng cao hơn đáng kể so với chi phí cơ hội của lao động, do đó tạo ra thiên hướng chọn công nghệ, hạn chế gia tăng lao động trong khu vực này. Yếu tố phân phối thu nhập và các hình thức tiêu dùng: Nếu các hình thức tiêu dùng có nhu cầu lớn đối với hàng hoá trong nước và các dịch vụ được tạo ra bởi các phương pháp sản xuất cần nhiều lao động, thì sẽ tăng được nhu cầu tiêu dùng, kết quả sẽ làm tăng nhu cầu lao động. Ngược lại, nếu nhu cầu tiêu dùng chỉ hướng tới các sản phẩm vaf hàng hoá nhập ngoại, được sản xuất bởi các công nghệ cần nhiều vốn, dẫn đến làm giảm nhu cầu lao động. Các hình thức tiêu dùng tác động quan trọng đến nhu cầu lao động. Mặt khác, các nhu cầu tiêu dùng chịu tác động bởi các yếu tố khác, trong đó có các loại hình phân phối thu nhập trong xã hội. Các hộ gia đình có mức thu nhập trung bình và cao có xu hướng tiêu dùng thiên về các hàng hoá nhập ngoại. Đối với các gia đình nghèo và có thu nhập thấp không thể tăng mức tiêu dùng nên thường tiêu dùng các hàng hoá địa phương, do đó khuyến khích sản xuất phát triển, tăng cầu lao động và mở rộng thêm việc làm. Tiết kiệm và tạo vốn : trong các nước phát triển, trong đó có nước ta, trong khi các ngành công nghiệp dung lượng vốn cao đã hạn chế quá trình công nghiệp hoá định hướng tăng việc làm thì vai trò tạo vốn đối với tăng sản lượng và việc làm bị đánh giá thấp. Nếu tăng sản lượng thông qua tăng năng suất lao động sẽ tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn, do đó một số lợi ích thu được sẽ đến với người lao động và người tiêu dùng, làm cho giá cả ổn định. Nước ta trình độ phát triển thấp, lượng lao động tăng nhanh cần mức tích luỹ cao, song các nước nghèo cần nhiều vốn lại không có vốn trong khi đầu tư nước ngoài và vay nợ cần thiết để tạo vốn thì nợ tồn đọng và khả năng thanh toán làm cản trở quá trình tạo việc làm các chiến lược phát triển kinh tế. Chính sách khuyến khích tự tạo việc làm: Đảng và Nhà nước khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Điều này đòi hỏi một thể chế ổn định. Tất cả các nhà đầu tư, dù lớn hay nhỏ đều đòi hỏi sự ổn định để có thể hoạch định và xúc tiến các dự án đầu tư. Sự ổn định này đòi hỏi trên 2 phương diện. Một là, hệ thống luật lệ điều tiết các hoạt động kinh tế tư nhân không được thay đổi thường xuyên. Hai là, nền kinh tế phảI ổn định để đảm bảo không lạm phát( hoặc dự báo trước), về tiết kiệm, tích luỹ, sự thay thế có hiệu quả nguồn lực giữ các thành phần và khu vực kinh tế. Mất ổn định kinh tế sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng, do đó cản trở tự tạo việc làm và làm giảm số lượng cầu lao động. 2.2. Các nhân tố tác động đến cầu lao động về mặt chất lượng Cơ cấu kinh tê : Sự thay đổi cơ cấu kinh tế cũng tác động mạnh đến chất lượng cầu lao động. Khi cơ cấu kinh tế chuyển dich theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp. Điều kiện cần để lực lượng lao động thu hút vào công nghiệp và dịch vụ là yêu cầu về trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật và tay nghề, do đó vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Một trong những chủ trương, chính sách lớn của Nhà nước là cơ khí hoá nông nghiệp cũng cần hướng tới xuất khẩu, tập trung ruộng đất cho chuyên canh cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ hải sản mang tính chất hàng hoá, cần giải phóng sức lao động trẻ em, tăng quỹ thời gian cho học hành. Như vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng trên không chỉ có tác dụng làm tăng cầu lao động về mặt số lượng mà còn làm tăng cầu lao động về mặt chất lượng. Tăng trưởng kinh tế: Như đã biết hàm sản xuất được viết: Q = f(K,L), trong đó Q là sản lượng, K là vốn, L là lao động, f biểu thị công nghệ. Nếu công nghệ và giá cả là cố định thì tăng trưởng kinh tế sẽ lam tăng cầu lao động. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế thường kéo theo sự thay đổi công nghệ mới tiên tiến hơn, hiện đại hơn, đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn cao hơn, và sự thay đổi này thường làm tăng nhu cầu giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, tăng nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, do đó làm tăng chất lượng cầu lao động. Trình độ phát triển kinh tế xã hội : Nếu trình độ phát triển kinh tế xã hội càng cao, giáo dục và y tế phát triển thì người lao động được nâng cao cả về thể lực và trí lực, qua đó làm tăng chất lượng lao động và ngược lại. Mặt khác, khi trình độ kinh tế phát triển nhu cầu của xã hội hương tới các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cao cấp, có công nghệ cao, do đó đòi hỏi người lao động cũng phải có chuyên môn trình độ cao để sản xuất hàng hoá và dịch vụ đó, vì vậy chất lượng lao động sẽ tăng lên. 3. Các giải pháp kích cầu 3.1. Khái niệm kích cầu lao động Kích cầu lao động là việc sử dụng các biện pháp làm tăng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân, tức tăng cầu lao động. 3.2. Tại sao phải kích cầu lao động Với trình độ phát triển kinh tế và cơ cấu kinh tế hiện nay của ViêtNam, cầu về nhân lực trên thị trường lao động phản ánh một cơ cấu nhân lực của một nền kinh tế còn nghèo , lạc hậu. Kinh tế Việt Nam còn đang gắn liền với các hiện tượng : Thất nghiệp hữu hình Thất nghiệp trá hình dưới nhiều dạng Thiếu việc làm ở nông thôn do nguồn nhân lực ngày càng đông nhưng diện tích đất canh tác chỉ có hạn Khả năng tạo ra cầu về nhân lực của các nghành công nghiệp còn yếu. Cầu trên thị trường còn yếu, sức thu hút của cầu còn nằm duới cung nhiều. Xuất hiện rõ trạng thái mất cân bằng,trong đó cung lớn hơn cầu. Sự mất cân bằng giữa cung và cầu trong khi các nguồn nhân lực lại tăng nhanh đang làm nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn về kinh tế, xã hội và cuộc sống của nhiều người lao động . Vì vậy, kích cầu lao động để tạo ra sự cân bằng cung cầu trên thị trường lao động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực là vấn đề mà các nhà kinh tế, nhà hoạch định chính sách cần quan tâm. 3.3. ý nghĩa kích cầu lao động Kích cầu lao động đem lại hiệu quả tích cực tới sự phát triển của cả kinh tế và xã hội . Xét về mặt kinh tế: kích cầu lao động sẽ tạo ra số việc làm trong nền kinh tế tăng và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Số lao động có việc làm trong nền kinh tế tăng sẽ làm tăng tổng sản phẩm xã hội và thúc đẩy kinh tế phát triển. Tỷ lệ thất nghiệp giảm sẽ giảm thiệt hại cho nền kinh tế và giảm bớt khó khăn cho cuộc sống cá nhân người lao động, bởi vì những người thất nghiệp tuy không sản xuất ra sản phẩm nhưng vẫn phải tiêu dùng một lượng nhất định. Khi số việc làm trong nền kinh tế tăng lên thì số người từ thất nghiệp trở thành người có việc làm tăng, giả sử những ngươi thất nghiệp nay có việc làm họ sẽ tạo ra một lượng giá trị chí ít bằng giá trị tối thiểu mà họ tiêu dùng thì mỗi năm nhà nước sẽ giảm được hàng nghìn tỷ đồng do giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng số việc làm trong nền kinh tế . Xét về mặt xã hội: Kích cầu lao động làm tăng số người lao động có việc làm, giảm số lượng người thất nghiệp trong xã hội đồng thời giảm những hậu quả nặng lề cho xã hội. Khi xét đến nguyên nhân của các tệ nạn xã hội người ta thấy rằng, những người thất nghiệp tham gia một cách đáng kể vào các tệ nạn như ma tuý, trộm cướp, mại dâm, đâm thuê chém mướn trong xã hội đen….Vì thế thất nghiệp gây nhiều khó khăn phức tạp cho công tác quản lý xã hội, làm đảo lộn nhiều nếp sống lành mạnh và ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của một dân tộc 3.4. Giải pháp kích cầu lao động Tăng cầu lao động là phương hướng cơ bản để khai thác và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động : Phát triển các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm chẳng hạn như: hoạt động dịch vụ việc làm, dạy nghề gắn với việc làm, xuất khẩu lao động … *Tăng cầu lao động ở khu vực thành thị cần tập trung vào hướng sau: + Phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn, nhất là ở các địa bàn có điều kiện lập các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo việc làm có giá trị kinh tế cao. + Phát triển các lĩnh vực, ngành nghề có khả năng thu hút được nhiều lao động, việc làm khu vực phi chính thức, các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. + Phát triển hình thức gia công sản xuất hàng hoá tiêu dùng cho xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá, mặt hàng, trước hết là các mặt hàng có công nghệ sử dụng nhiều lao động như may mặc, da dày, gốm sứ, lắp ráp điện tử… * Đối với khu nông thôn, dể tăng cầu lao động cần phải: + Phát triển kinh tế trang trại gắn với xu thế chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá có giá trị kinh tế cao. + Khôi phục và phát triển các ngành nghề nông thôn. + Phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, chú trọng công nghiệp chế biến và dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp. + Chuyển đổi và phát triển các hợp tác xã mới chủ yếu làm các khâu dịch vụ cho hộ nông dân. Phần 2 : đánh giá về cầu lao động và các biện pháp kích cầu lao động 1. Thực trạng về cầu lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân Các nước trong khu vực phát triển nói nói chung & Viêt Nam nói riêng thường có nguồn lao động dồi dào vì vậy sử dụng tốt số lượng lao động có tầm quan trọng rất đặc biệt bởi các lý do chủ yếu sau : Lao động là một yếu tố tăng trưởng nền kinh tế . Do quy mô kinh tế còn nhỏ hẹp năng suất lao động còn thấp chúng ta chưa có điều kiện để tạo lập các quy mô cho các quỹ trợ cấp thất nghiệp Thất nghiệp làm cho thu nhập và sức mua có khả năng thanh toán giảm xuống tác động xấu đến tăng trưởng nền kinh tế và kinh doanh Thất nghiệp sẽ gây ra nhiều tệ nạn cho xã hội Kết quả nổi bật trong việc sử dụng lao động của Việt nam trong thời gian qua được thể hiện trong tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị giảm xuống. 1.1. Thực trạng về cầu lao động của khu vực nhà nước : Các doanh ngiệp nhà nước giảm từ năm 1990 đến nay có xu hướng giảm là do tổ chức lại sản xuất và sắp xếp lại lao động, tinh giảm bộ máy hành chính, cổ phần hoá , bán hoá giá , cho thuê , giải thể một số các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả . Tính đến đầu năm 2003 so với năm 2000 số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động tăng bình quân 22%/năm; trong đó doanh nghiệp Nhà nước giảm bình quân 3,5%/năm, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng bình quân 25,16%/năm và doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài tăng bình quân 22,7%/năm .Tổng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp là 4657000 người, tăng gấp 3 lần so với năm 1995và 1,3 lần so với năm 2000,tăng binh quân 14,4%/năm, trong đó: + Doanh nghiệp nhà nước có 2200000 người, chiếm 48%, tăng bình quân 4,1%/năm, song cơ cấu lao động rất khó đổi mới, số lao động cũ có xu hướng già hoá, không theo kịp công nghệ mới, năng suet lao động thấp và dôi dư lớn (khoảng 15 vạn người), nhưng vẫn phải tuyển thêm lao động mới trẻ hơn. Biểu 1: Số lượng các doanh nghiệp nhà nước từ năm 1990 đến năm 2000: 1990 1994 2000 Tổng số DNNN 5704 6042 5531 DNNNTrung ương 1675 1771 1877 DNNN Địa phương 4029 4271 3654 Biểu trên cho thấy,số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm đi kể từ năm 1990 trở lại đây, đặc biệt là doanh nghiệp do địa phương quản lý . Nếu năm 1990 có 5704 doanh nghiệp, trong đó có 1675 doanh nghiệp do trung ương quản lý và 4029 doanh nghiệp do địa phương quản lý, năm 1994 tổng doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước là 6024 doanh nghiệp, trong đó có 1771 doanh nghiệp do trung ương quản lý và4271 doang nghiệp do địa phương quản lý thì đến thời điểm tháng 12 năm 2000 là 5331 doanh nghiệp nha nước, trong đó có 1877 doanh nghiệp nhà nước trung ương và 3654doanh nghiệp nhà nước địa phương quản lý. Từ năm 1986, sau đại hội 6 của Đảng, với mục tiêu thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vấn đề quan tâm hang đầu với cac doanh nghiệp nhà nước là đổi mới cơ chế quản lý, chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, thực hiện cắt giảm biên chế sang bao cấp về lương và việc làm, chuyển từ cơ chế biên chế sang cơ chế tự do tuyển dụng trong doanh nghiệp nhà nước.Cơ chế này đã tạo ra sự thông thoáng, nhất định cho các doanh nghiệp nhà nước tự quyền quyết định số lượng trình độ người lao động phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh và trình độ công nghệ của mình. Giai đoạn 2000 đến 2005, tổng số lao động làm việc trong toàn bộ nền kinh tế đã tăng thêm 5,1 triệu người, thì số lao động làm việc trong khu vực nhà nước chỉ tăng thêm có 599 nghìn người chiếm 11,7% số lao động tăng thêm. Các số liệu trên cho thấy, số doanh nghiệp nhà nước giảm, nhưng số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước lại tăng lên, mặc dù tăng với tốc độ còn thấp. Điều đó có nghĩa quy mô các doanh nghiệp lớn hơn trước. Trong quá trinh sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm của người lao động có xu hướng ngày càng tăng. Theo báo cáo của 3639 doanh nghiệp trong năm 1998 thì số lao động không bố trí được việc làm ở 1946 doanh nghiệp là 92.274 người, chiếm khoảng 9,1% lao động hiện có trong các doanh nghiệp báo cáo. Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ có tỷ lệ lao động dôI dư cao, chiếm tới khoảng 15% tổng số lao động, gấp khoảng 1,5 lần các doanh nghiệp có quy mô vốn trên 5 tỷ đồng. Theo số liệu của Bộ Lao động,Thương binh và Xã hội, số lao động không có việc làm đầu tiên hoặc mất việc làm ở các doanh nghiệp khoảng 20%, có doanh nghiệp lên tới 40%.Theo lộ trinh sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, năm 2003 có khoảng 150.000 lao động bị mất việc làm, đưa tổng số lao động không có việc làm trong các doanh nghiệp quốc doanh lên tới gần 400.000 người. Lao động nữ, lao động trẻ em, lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật và lao động được đào tạo ở trình độ trung cấp và dạy nghề cũng chịu tác động mạnh của cải cách, có tỷ lệ dôi dư cao. Ngoài ra còn một loại lao động chưa thất nghiệp, nhưng là dạng tiềm năng của thất nghiệp, đó là số lao động vẫn có việc làm, nhưng không thạt sự cần thiết, nếu cắt giảm đi cũng không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Theo các kết quả điều tra dựa trên đánh giá của các doanh nghiệp, thì số lao động không cần thiết này bằng 9,4% tổng số lao động trong các doanh nghiệp. Do đó, nếu tính cả số lao động thất nghiệp tiềm năng này thì tỷ lệ thất nghiệp của doanh nghiệp nhà nước rất cao, chiếm khoảng 8,55 1.2. Thực trạng về cầu lao động của khu vực ngoài quốc doanh Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thu hút 1.700.000 lao động, chiếm 36,6%, tăng binh quân 28%/năm. Đây là khu vực có khả năng thu hút nhiều lao động, nhất là lao động mới. Nhưng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ Như trên đã phân tích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng liên tục đặc biệt là từ sau khi ban hành luật doanh nghiệp năm 2000. Việc tăng lên của các nghiệp ngoài doanh nghiệp ngoài quốc doanh kéo theo sự tăng lên về cầu lao động. Theo thống kê thì khu vực ngoai quốc doanh thu hút tới trên 90% lao động mặc dù đóng góp của khu vực nay vẫn chưa tới 50%GDP. Cầu lao động trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần ngày càng tăng. Từ năm 1990 đến 1998 mỗi năm có khoảng 5000 doanh nghiệp và công ty tư nhân ra đời nên tạo ra hơn 500 nghìn việc làm hàng năm. Giai đoạn 2000 đến 2005 cả nước tăng thêm 5,1 triệu lao động thì khu vực tư nhân tăng 4034,8 nghìn người, chiếm 79,1% tổng số lao động tăng thêm. Một kết quả điều tra nói rằng sự phát triển của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy về cầu lao động trong thời gian qua, hiện nay và trong cả tương lai. Như vậy cầu của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sự tác động tích cực đến việc mở rộng và nâng cao cầu lao động, tuy nhiên tốc độ tăng của khu vực này còn châm so với tốc độ tăng của lực lượng lao động. Biểu 2: Số người từ 15 tuổi trở lên làm việc thường xuyên theo thời kỳ1996 đến 2000: (Đơn vị: nghìn người) 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Nhà nước 2973 3094 3533 3606 3644 3769 4011 Ngoài nhà nước 31005 31128 31083 31884 32343 33554 34863 Có vốn đầu tư nước ngoài 130 184 190 218 354 439 Tổng 33978 34352 34801 35679 36205 37677 39286 Cầu doanh nghiệp tư nhân tuy có quy mo nhỏ nhưng có tác dụng hạn chế thất nghiệp, góp phần hình thành thị trường lao động. Trong giai đoạn 2001-2005, bình quân cả nước tạo việc làm mới cho người lao động khoangr 1,5 triệu việc làm/năm. Trong đó khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đóng góp đáng kể, khoảng 0,3 triệu việc làm/năm. Trong những năm qua, khu vực doanh nghiệo ngoài quốc doanh đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu nghành kinh tế, cơ cấu lao động, nhất là cơ cấu thanh phần kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong tong vùng, tong nghành, từng lĩnh vực. Khu vực này sử dụng lại lao động dôi dư của khu vực nhà nước dẫn đến chuyển dịch lao động theo hướng tích cực (tăng lao động trong khu vực công nghiệp , dịch vụ và giảm lao động trong khu vực nông nghiệp). Hiên nay khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực phi kết cấu là nơi có nhiều khả năng tạo ra việc làm do những tiêu chí về quy mô và chi phí thấp để tạo ra một chỗ làm việc có tính năng động và tạo lợi ích cho người lao động , phù hợp với tính chất lực lượng lao động và trình độ quản của Việt nam hiên nay. Tuy nhiên tiềm năng thu hút thêm lao động từ khu vực này đang gặp phải khó khăn trong điều kiện hội nhập do sự hạn chế về môi trường kinh tế , vốn , chất lượng sản phẩm không cao , môi trường kinh doanh chưa thực sự ổn định , thiếu thông tin và hỗ trợ từ các cơ quan nhà nước 1.3. Thực trạng về cầu lao động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tuy mới đước phát triển gần đây nhưng tăng trưởng khá nhanh. Theo số liệu điều tra từ 2001 đến 2003 ta thấy số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên tục tăng. Đên năm 2003 tổng số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 2308 doanh nghiệp, tăng bình quân 22,7%/năm, trong vòng 2 năm tăng 783 doanh nghiệp, trong đó khu vực 100% vốn nước ngoài tăng bình quân 35%/năm, trong vòng 2 năm tăng 707 doanh nghiệp. --Sự tăng lên rất nhanh về số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kéo theo sự tăng lên về cầu lao động của khu vục này cụ thể là: Năm 1997, số lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 130 nghìn người, đến năm 2004 là 691 nghìn người. Các năm 2001-2004 tốc độ tăng lao động bình quân của khu vực nay là30,2%, trong đó doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng bình quân 37%/năm. Trong giai đoạn 2000-2005 thì trong tổng số 5,1 triệu lao động tăng thêm thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng thêm 456,6 nghìn người, chiếm 9% tổng số lao động tăng thêm. Theo cục đầu tư nước ngoài, 9 tháng đầu năm nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài(FDI) đã tạo thêm việc làm cho 82.000 lao động, đưa tổng số lao động làm việc trong khu vực này lên 730.000 người. Tốc độ tăng việc làm cao của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng khá lớn đối với việc thúc đẩy phát triển mức cầu trên thị trường lao động của Việt Nam nói chung. Nếu ta so sánh về tốc độ tăng việc làm thì có thể xếp theo thứ tự như sau: Kinh tê có vốn đầu tư nước ngoài nhanh nhất, nhà nước, khu vục ngoài quốc doanh là thấp nhất. Hiện nay các doanh nghiệp cố vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam gặp phải tình trạng: Các doanh nghiệp đều thiếu lao động phổ thông(70%), còn công nhân kỹ thuật và sơ cấp nhu cầu tuyển dụng là 26,23%, trình độ trung cấp,cao đẳng và đại học trở lên nhu cầu tuyển dụng chỉ khoảng trên 3%. Đây là kết quả về điều tra về tiền lương và thu nhập của lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam do Viện khoa học lao động và xã hội(Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ) thực hiên. Sở dĩ có tình trạng trên la do: Sự xuất hiện khá nhiều các khu công nghiệp tại nhiều tỉnh, thành, còn những khu công nghiệp tập trung, mức lương tăng không kịp với mức tăng giá cả sinh hoạt, dịch vụ, khiến đời sống của nhiều công nhân khó khăn. Thu nhập của người lao động chỉ mới đáp ứng được nhu cầu thiết yếu, chưa có tích luỹ. Điều này cũng khiến cho nhiều lao động đã đơn phương phá vỡ hợp đòng để đến với doanh nghiệp có thu nhập cao hơn. Bên cạnh đó, những vấn đề hệ trọng như hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, lương và các lợi ích hợp pháp khác của nhiều lao động dã bị không ít doanh nghiệp làm ngơ, hoặc thể hiện trong văn bản thiếu tính minh bạch cũng là một trong những nguyên nhân. 2. Thực trạng cầu lao động về số lượng và chất lượng . 2.1. Thực trạng cầu lao động về số lượng Việt nam là một nước nông nghiệp nghèo, có dân số đông với tốc độ tăng cao, nguồn lao động dồi dào,năng suất lao động thấp, cung lao động luôn lớn hơn cầu lao động, bởi vậy trong nền kinh tế luôn tồn tại một lượng lao động dư thừa dưới nhiều hình thức trong đó tình trạng thiếu việc làm rất phổ biến. Năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6,42% còn ở nông thôn tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động chỉ là 76,58%. Đây là vấn đề cấp bách không chỉ trước mắt mà còn có nguy cơ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội về lâu dài. Vậy cần có các giải pháp như thế nào để tăng cầu lao động ở nước ta. Trước hết chúng ta xem xét hiện trạng và xu hướng thay đổi việc làm trong những năm gần đây. Biểu 3 : Số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên, thời kỳ 1996 – 2002 Các tiêu chí 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 33978 34352 34801 35679 36205 37677 39286 Trong đó 1. Theo nhóm ngành 1.1 Nông, lâm, ngư ngiệp 23431 22589 23018 22861 22670 22813 23835 1.2 Xây dựng, công nghiệp 3698 4170 4049 4435 4744 5428 5942 1.3 Dịch vụ 6849 7693 7734 8382 8791 8426 9509 2.Theo thành phần kinh tế 2.1 Nhà nước 2973 3094 3533 3606 3644 3769 4011 2.2 Ngoài nhà nước 31005 31128 31083 31884 32343 33554 34836 2.3 Có vốn đầu tư nước ngoài - 130 184 190 218 354 439 Nguồn: Số liệu thống kê lao động- thương binh và xã hội ở Việt Nam. NXB lao động- xã hội. Hà Nội 2001 Chúng ta thấy rằng số người có việc làm thường xuyên tăng lên liên tục trong thời kỳ 1996-2002, mỗi năm trung bình tăng khoảng 740.000, trong đó năm tăng nhiều nhất là 2002 so với 2001 với số tuyệt đối là 1609 nghìn và năm tăng ít nhất là 1998 so với 1997 với số người là 449 nghìn. Ngoài những nguyên nhân như quy mô và cơ cấu dân số, nguồn lao động còn phải kể đến các ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36067.doc
Tài liệu liên quan