Chế độ hưu trí ở tỉnh Thái Bình thực trạng và giải pháp

Tài liệu Chế độ hưu trí ở tỉnh Thái Bình thực trạng và giải pháp: LỜI NÓI ĐẦU BHXH là một nội dung mà bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm, xã hội càng phát triển thì sự nghiệp BHXH càng được phát triển. Với Việt Nam BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, nó góp phần ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, chính sách BHXH được thực hiện từ những năm 1930, nhưng nó thực sự được trở thành một chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước kể từ năm 1961. Cùng với sự phát tri... Ebook Chế độ hưu trí ở tỉnh Thái Bình thực trạng và giải pháp

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chế độ hưu trí ở tỉnh Thái Bình thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển của đất nước, các chế độ chính sách BHXH cũng được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Để phù hợp với công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội của đất nước, từ năm 1995 Nhà nước đã bắt đầu đổi mới các chế độ chính sách BHXH. Sau 7 năm thực hiện quy định của Bộ Luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 23 tháng 6 năm 1994 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1995, Bảo hiểm xã hội Việt Nam từng bước được củng cố và phát triển: Hệ thống chính sách BHXH từng bước được hoàn thiện, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong hệ thống chính sách BHXH chế độ hưu trí cũng được sửa đổi cho phù hợp hơn. Thực tế cho thấy: chế độ hưu trí quyết định đời sống vật chất, tinh thần của người lao động khi về nghỉ. Câu hỏi đặt ra là thay đổi bổ sung và thực hiện chế độ BHXH đối với người về hưu như thế nào để đạt được hiệu quả nhất? Muốn trả lời cần đánh giá được thực trạng việc thực hiện chế độ này đối với người lao động khi về nghỉ hưu, trong đó phải chú ý tới giới tính, ngành nghề khi người lao động nghỉ chế độ hưu trí. Đồng thời tìm ra những giải pháp để hoàn thiện hợp lý hơn chế độ này, nhằm thực hiện tốt sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người về hưu. Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp, có số dân đông gần 2 triệu người, số người tham gia BHXH ngày càng tăng. Số đối tượng hưởng chế độ hưu lớn. Do vậy nghiên cứu làm rõ thực trạng chính sách BHXH (CĐHT) ở Thái Bình với tất cả những ưu điểm, nhược điểm của nó là một nhiệm vụ rất cần hiện nay. Nhận thức rõ vấn đề này, tôi đã chọn đề tài: "Chế độ hưu trí ở tỉnh Thái Bình thực trạng và giải pháp". Làm đề tài luận văn tốt nghiệp cử nhân Chính trị. Đề tài nhằm: Làm rõ thực trạng và nguyên nhân của thành công, thiếu sót của chế độ chính sách BHXH ở Thái Bình, qua đó góp phần hoàn thiện và thực hiện tốt hơn các chế độ chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh. Hoàn thành luận văn này, tôi đã được sự gợi ý, giúp đỡ của thầy, cô giáo Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Trường Chính trị tỉnh Thái Bình và các anh, chị đồng nghiệp ./. Tôi xin chân thành cảm ơn! Lê Đức Hiểu CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ BHXH VÀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ 1. Bảo hiểm xã hội 1.1. Khái niệm về BHXH Đất nước ta đã qua 4 ngàn năm dựng xây. Nhiều giai đoạn cách mạng trải qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm chăm sóc đời sống của người lao động. Sự quan tâm đó được thể hiện bằng chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Do vậy đời sống của người lao động không ngừng được cải thiện. Cùng với sự phát triển của sản xuất; xã hội; chế độ tiền lương, tiền thưởng và các phúc lợi tập thể khác được nâng cao cho người lao động: Trong đó có chế độ BHXH và hiện nay dự án về luật BHXH đang được chuẩn bị để trình Quốc hội phê chuẩn. BHXH được hiểu là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do đau ốm, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ "quỹ BHXH" do dự đóng góp của các bên tham gia. BHXH có sự bảo tồn của Nhà nước theo pháp luật quy định, nhằm đảm bảo an toàn cho người lao động và gia đình họ, bảo đảm an sinh xã hội. Việt Nam chúng ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế thấp kém, lại trải qua hậu quả của 2 cuộc kháng chiến lâu dài, vấn đề việc làm của người lao động chưa được giải quyết đầy đủ. Bệnh tật và tai nạn do chiến tranh để lại vẫn còn, do vậy chưa đủ điều kiện thực hiện chế độ BHXH cho nhân dân. Phúc lợi công cộng còn hạn chế, đời sống của nhân dân lao động nói chung còn có nhiều khó khăn, vì vậy xây dựng chế độ BHXH đối với người lao động là tất yếu khách quan. Lực lượng lao động của nước ta dồi dào với những đặc điểm riêng: lao động nông nghiệp rất lớn, họ trải qua một quá trình cách mạng lâu dài, có nhiều cống hiến cho đất nước, do đó chính sách BHXH phải quán triệt phương châm: Mọi đãi ngộ về BHXH là nhằm bảo đảm những điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần cho người lao động và gia đình họ trong trường hợp hiểm nghèo. Mức đãi ngộ cho mỗi người phải dựa theo nguyên tắc "Hưởng theo lao động" có chú ý tới mức độ cống hiến, thành tích, thời gian công tác nhiều hay ít để tránh tình trạng bình quân. Ngoài ra cần có sự ưu đãi với những người làm nghề đặc biệt nặng nhọc có hại đến sức khoẻ. Những đại ngộ về BHXH nói chung phải thấp hơn tiền lương khi đang làm việc, nhưng mức trợ cấp thấp nhất cũng được bảo đảm bằng một mức sinh hoạt tối thiểu. Mức đãi ngộ cao hay thấp, phạm vi thi hành rộng ha hẹp phải phù hợp với trình độ kinh tế, chính trị - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng theo xu hướng tăng dần. BHXH là một nhiệm vụ xã hội phức tạp, khó khăn, liên quan đến đời sống của hàng triệu người lao động nên cần phải thận trọng và có một thể chế rõ ràng về BHXH. Trong điều kiện hiện nay, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đang trong quá trình phát triển cả về tổ chức, cơ chế, điều hành và những chính sách chế độ hiện đang còn khá nhiều các quy định tạm thời, chế độ chinh sách còn nhiều bất cập, vì vậy hoàn thiện thể chế BHXH là một yêu cầu tất yếu. 1.2. Vai trò của BHXH. Trong cuộc sống của mỗi người muốn tồn tại và phát triển trước hết con người phải ăn, mặc, ở và đi lại,... Để đáp ứng nhu cầu thiết yếu đó con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết đáp ứng nhu cầu của mình. Trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng gặp những thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, có nhiều phát sinh gây ảnh hưởng đến chính cuộc sống của họ. Chẳng hạn bị rủi ro vì ốm đau, tai nạn lao động,... khi gặp những rủi ro này, không vì thế mà các nhu cầu cần thiết của họ mất đi ngược lại nhiều nhu cầu còn tăng thêm hoặc xuất hiện nhu cầu mới. Bởi vậy, con người đã tìm ra một phương pháp: hạn chế hay san sẻ rủi ro khi người lao động không may gặp phải đó là tham gia BHXH nói chung đối với mọi người nhất là tham gia BHXH nói riêng đối với người lao động. Như vậy BHXH ra đời và trở thành một lĩnh vực không thể thiếu được đối với người lao động và người sử dụng lao động nói chung, đồng thời đây là một chính sách xã hội lớn của mỗi quốc gia bởi vì: Thứ nhất: Với người lao động: BHXH đã giúp người lao động và gia đình họ ổn định cuộc sống khi họ gặp khó khăn do mất, hay giảm thu nhập. Khi chưa có BHXH, người lao động gặp rất nhiều khó khăn, khi có rủi ro xảy ra như đau ốm, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp,... lúc này người lao động không làm việc được và họ không có lương, do vậy cuộc sống của họ đã khó khăn, lại càng khó khăn hơn. Nhưng nhờ có BHXH mà họ có thể bù đắp một phần thu nhập của họ khi bị mất hoặc giảm do không làm việc, chính vì vậy mà cuộc sống của người lao động bớt đi khó khăn và ổn định hơn. Thứ hai: Với người sử dụng lao động. BHXH là tấm lá chắn giúp người sử dụng lao động trong sản xuất, kinh doanh ổn định hơn. Nghĩa là BHXH đã giúp họ chi trả những khoản tiền lớn khi người lao động không may gặp phải rủi ro hoặc ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mắc bệnh nghề nghiệp,... Điều này làm cho người sử dụng lao động yên tâm hơn khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đồng thời không ảnh hưởng đến tài chính của người sử dụng lao động. Do đó người sử dụng lao động yên tâm lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Những điều nhìn nhận ở đây là người sử dụng lao động đã tham gia đóng BHXH cho người lao động theo tỷ lệ % quỹ lương của mình vào quỹ BHXH (15%). Thứ ba: Với Nhà nước và xã hội. BHXH là chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Thông qua các chính sách này Nhà nước thực hiện quyền được tham gia BHXH của người lao động đồng thời BHXH cũng góp phần ổn định đời sống về vật chất cũng như về tinh thần của người lao động khi họ không may gặp phải rủi ro ốm đau, tai sản,... Tuy nhiên về mặt xã hội, BHXH là nguồn cổ vũ động viên lớn đối với người lao động cũng như người sử dụng lao động, giúp họ yên tâm lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Như vậy BHXH góp phần đảm bảo cho cả người sử dụng lao động, người lao động và cả xã hội, đây là mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời. Vì vậy nó giúp cho nền kinh tế ổn định và bền vững, tạo điều kiện phát triển cho đất nước ở những giai đoạn tiếp theo. 1.3. Nguyên tắc và chức năng của BHXH. Nguyên tắc của BHXH. BHXH là một hoạt động bảo hiểm nên nó cũng có những nguyên tắc cơ bản sau: Tất cả người lao động đều có quyền được hưởng BHXH và BHXH không chỉ đảm bảo quyền lợi cho người lao động, mà còn góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và tiến bộ xã hội. Quyền được bảo hiểm là một trong những biểu hiện cụ thể của quyền con người. Nhưng bảo hiểm không phải là cái có sẵn, nên trước mắt phải tìm cách tạo ra nó. Ở mỗi nước khi muốn xây dựng được hệ thống bảo hiểm xã hội thì đầu tiên Nhà nước phải tạo điều kiện về môi trường về kinh tế - xã hội, về chính sách và pháp luật, về cơ chế quản lý. Đồng thời người sử dụng lao động và người lao động phải thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính của mình vào quỹ BHXH. Không có sự đóng góp này thì chính sách BHXH khó thực hiện. Vì vậy, thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính xây dựng quỹ BHXH là điều kiện cơ bản để người lao động có quyền được hưởng các chế độ đãi ngộ thích hợp. Biểu hiện cụ thể quyền được hưởng BHXH của người lao động là họ được hưởng trợ cấp BHXH theo chế độ quy định. Các chế độ này gắn với tan nạn rủi ro xảy ra đối với người lao động làm giảm hoặc mất nguồn sinh sống của họ. Đây là điều kiện cần để họ được hưởng BHXH, còn điều kiện đủ là họ phải tham gia đóng BHXH theo quy định. Nhà nước, người sử dụng lao động phải thực hiện chính sách BHXH cho người lao động, đồng thời người lao động cũng phải tự thấy rõ trách nhiệm của mình đóng góp cho quỹ BHXH đó là sự hài hoà giữa các lợi ích. Nhìn chung trong mối quan hệ ba bên của BHXH, Nhà nước có vai trò quan trọng trong quản lý vĩ mô. Với vai trò này, Nhà nước có trong tay nhiều tiềm năng vật chất, nhiều công cụ cần thiết để thực hiện vai trò của mình. Nhất là trong việc giải quyết hậu quả không mong muốn, những rủi ro tai nạn của người lao động. Trong những trường hợp này nếu không có BHXH thì Nhà nước phải chi ngân sách để giúp đỡ người lao động dưới các hình thức khác. Sự giúp đỡ này sẽ không làm cho đời sống của người lao động ổn định mà còn ảnh hưởng đến ngay cả sự phát triển của sản xuất. Đối với người sử dụng lao động muốn ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh, thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư về trang thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại cần chăm lo đời sống của người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm việc bình thường, người sử dụng lao động phải trả lương cho họ, khi họ không may gặp rủi ro như ốm đau, thai sản, TNLĐ và bệnh nghề nghiệp, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Trong nhiều trường hợp rủi ro, có rất không ít trường hợp gắn liền với quá trình lao động. Như vậy muốn đảm bảo cho người lao động yên tâm, tích cực lao động sản xuất, tăng năng suất lao động, người sử dụng lao động phải thực hiện nghĩa vụ của mình là đóng BHXH cho người lao động. Còn đối với người lao động không may gặp phải rủi ro, họ phải chấp nhận rủi ro này. Nhưng để san sẽ rủi ro này, họ phải tham gia BHXH cho chính bản thân mình, tức họ phải tham gia cùng với người sử dụng lao động đóng BHXH theo quy định của Bộ Luật lao động. Mức hưởng BHXH thấp hơn mức lương khi họ đang làm việc, nhưng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người được hưởng BHXH. Trợ cấp BHXH nói ở đây là loại trợ cấp thay thế thu nhập, khi người lao động bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, hưu trí tuổi già,... Như chúng ta đã biết thu nhập là khoản tiền lương mà người lao động được hưởng để họ tái sản xuất sức lao động, tức là giúp người lao động có điều kiện sức khoẻ bình thường để họ lao động. Trong thực tế cuộc sống luôn luôn có những rủi ro bất ngờ không lường trước được, do vậy khi bị ốm đau, thai sản, TNLĐ và bệnh nghề nghiệp,... người lao động không đủ điều kiện sức khoẻ để lao động, mà trước đó họ có tham gia BHXH thì họ được hưởng trợ cấp BHXH. Tuy nhiên mức trợ cấp này không thể bằng mức lương khi họ đang làm việc vì nếu vậy họ có thể tìm mọi cách để nhận trợ cấp BHXH. Do vậy mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương khi đang làm việc và mức lương thấp nhất cũng bằng mức lương tối thiểu, nhằm bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho người lao động khi họ không may gặp rủi ro. BHXH được thực hiện trên cơ sở lấy số đông bù số ít? Bất cứ người lao động nào khi tham gia BHXH đều phải đóng phí số phí này được dựa trên tỷ lệ phần trăm tiền lương của người lao động làm căn cứ để tính mức đóng. Tuy nhiên để được hưởng trợ cấp BHXH không phải ai cũng được hưởng ngay, mặc dù họ đã tham gia BHXH từ lâu hoặc mới tham gia. Tuy nhiên họ cũng được nhận trợ cấp ốm đau, thai sản, TNLĐ và bệnh nghề nghiệp,... Điều này thể hiện được quy luật (Lấy số đông bù số ít) tức là số tiền của hầu hết những người lao động đóng vào quỹ BHXH, dùng để chi trả cho một số người khi bị ốm đau, thai sản, TNLĐ và bệnh nghề nghiệp, số còn lại để tăng trưởng quỹ, giảm bớt một số kinh phí cho ngân sách Nhà nước cấp. Như vậy ngoài những chế độ trên người lao động có đủ điều kiện nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có 15 năm đóng BHXH trở lên được hưởng chế độ hưu trí khi họ về già. BHXH vừa mang tính chất bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện. Để đảm bảo cho lúc tuổi già và khi mất sức lao động tạm thời, người lao động có mức sống ổn định ở mức bình thường hoặc tối thiểu nhất, BHXH đã quy định về nguyên tắc hình thức bắt buộc để đảm bảo quy luật số lớn và có hệ số an toàn cao. Song do quy luật số lớn chi phối nên BHXH phải tận dụng triệt để nguyên tắc tự nguyện. Bảo hiểm tự nguyện tiến tới Bảo hiểm toàn dân đang trong quá trình hình thành. Điều đang quan tâm ở đây là sự an toàn về nguồn vốn và thực thi chính sách. Muốn bảo đảm được điều này tất yếu Nhà nước phải ban hành những văn bản cụ thể trong từng giai đoạn để người lao động yên tâm và tin tưởng đóng BHXH. - Người lao động tham gia BHXH có quyền được hưởng các chế độ về BHXH theo quy định của Nhà nước. Do vậy, giữa quyền lợi, nghĩa vụ trách nhiệm giữa người lao động, chủ sử dụng lao động và cơ quan BHXH bảo đảm công bằng, dân chủ. Chức năng của BHXH. Chức năng là sự khái quát của nhiệm vụ cơ bản, là hoạt động đặc trưng và phổ quát nhất của tổ chức hay cá nhân gắn với chức danh nào đó trong một phạm vi nhất định của xã hội. BHXH có các chức năng sau: - Góp phần bảo đảm, ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động. - Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân phối này cụ thể là phân phối loại thu nhập những người lao động trẻ và lao động già yếu, giữa những người lao động đang làm việc và người lao động đã nghỉ hưu, giữa những người lao động độc thân và người lao động có thân nhân phải nuôi dưỡng; giữa một bên là những người thường xuyên đóng BHXH nhưng chưa gặp rủi ro nên chưa được hưởng và một bên là những người đóng BHXH nhưng gặp phải rủi ro được quỹ BHXH chi trả trợ cấp trước. Lúc này số tiền đóng BHXH của mọi người được chuyển cho một số ít người gặp rủi ro. Ngoài ra còn có sự phân phối lại thu nhập giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp thông qua sự chuyển giao tiền và sự đóng góp của những người có mức lương cao sang những người có mức lương thấp. - Gắn lợi ích của người lao động với chủ sử dụng lao động và Nhà nước. Đây là vấn đề đặc biệt quan tâm trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá vì nếu không có các chế độ chính sách BHXH do Nhà nước quy định, thì doanh nghiệp vì một lý doa nào đó phải ngừng sản xuất, giải thể, hoặc phá sản, do đó người lao động sẽ bị mất việc làm và các nguồn thu nhập. Hoặc không được sự trợ giúp nào để bảo đảm ổn định cuộc sống tạm thời. Do vậy lợi ích của hai bên giữa người sử dụng và người lao động được bảo đảm thông qua sự đóng góp của mỗi bên cùng với sự trợ giúp của Nhà nước. - Đảm bảo an toàn xã hội. Thông qua phương thức dàn trải rủi ro thiệt hại theo không gian và thời gian. BHXH đã giúp giảm thiểu thiệt hại cho một số người trong xã hội, đồng thời làm tăng khả năng giải quyết rủi ro, khó khăn của người lao động khi tham gia bảo hiểm với tổng dự trữ ít nhất. Đối với Nhà nước việc chi trả trợ cấp vào quỹ bảo hiểm là phần chi ít nhất, nhưng nó lại giải quyết được khâu rủi ro, khó khăn cho người lao động và gia đình họ góp phần ổn định sản xuất, ổn định kinh tế chính trị và an toàn xã hội. Đây là mối quan tâm hàng đầu của bất cứ người lao động nào, giúp họ yên tâm hơn trong lao động sản xuất. Đối tượng tham gia BHXH Theo điều 141 và điều 149 Bộ luật lao động được cụ thể hoá tại Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995, Nghị định 45/CP ngày 15 tháng 7 năm 1995, Nghị định số 09/CP ngày 23 tháng 01 năm 1998, Nghị định số 73/CP ngày 19 tháng 8 năm 1995, Nghị định số 152/CP ngày 20 tháng 9 năm 1999 và Quyết định số 37/QĐ-Tg ngày 21 tháng 3 năm 2001 của Chính phủ những đối tượng sau được tham gia và hưởng chế độ BHXH. - Tất cả những người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể chính quyền từ cấp huyện trở lên, quân đội, công an, cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn. - Tất cả những người làm việc trong các doanh nghiệp của Nhà nước, các liên doanh có vốn đầu tư của nước ngoài. - Tất những người làm việc trong các cơ sở doanh nghiệp tư nhân có sử dụng từ 10 lao động trở lên. - Tất cả những người làm việc trong các cơ sở y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục, thể thao ngoài công lập. 2. Những nội dung cơ bản của BHXH 2.1. Khái niệm về chế độ hưu trí Chế độ hưu trí là các quy định cụ thể về (đối tượng, phạm vi, điều kiện hưởng...) và nêu rõ sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện luật hoặc các văn bản pháp luật, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Các chế độ hưu trí có tính chất pháp lý chặt chẽ, có những chế định rõ ràng. - Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH bao gồm các chế độ trợ cấp như: Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, thai sản, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ - BNN, trợ cấp người tàn tật và trợ cấp người nuôi dưỡng. Tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà hình thành hệ thống các chế độ BHXH thích hợp. Ở Việt Nam, theo quy định trong điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995 và Nghị định 45/CP ngày 15 tháng 7 năm 1995 của Chính phủ đang thực hiện 6 chế độ sau: - Chế độ trợ cấp ốm đau. - Chế độ trợ cấp thai sản. - Chế độ trợ cấp TNLĐ - BNN. - Chế độ trợ cấp hưu trí. - Chế độ trợ cấp tử tuất. - Chế độ trợ cấp nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ. Chính phủ ban hành Quyết định số 20/CP chuyển giao BH Y tế Việt Nam sang BHXH Việt Nam do đó BHXH Việt Nam đang thực hiện chế độ chăm sóc y tế (Bảo hiểm Y tế). 2.2. Quỹ BHXH, Hệ thống tổ chức BHXH. - Quỹ BHXH. Vào những năm đầu của thế kỷ 20, để bình ổn xã hội, giúp người lao động yên tâm sản xuất, và đáp ứng nguyện vọng chung nhất của người lao động trên thế giới. Ngày 28 tháng 6 năm 1952 Hội nghị toàn thể của tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã nhất trí thông qua công ước số 102 (công ước về đảm bảo XH) BHXH là trụ cột của bảo đảm xã hội. Đặc trưng của nó là hoạt động theo nguyên tắc ba bên cùng đóng phí bảo hiểm (Người sử dụng lao động, người lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước) chủ yếu là theo hình thức bắt buộc; tiền đóng góp của mỗi bên tham gia BHXH được hình thành nên quỹ riêng, để chi trả trợ cấp cho từng loại chế độ khi mà người lao động không may gặp phải rủi ro phần quỹ nhàn rỗi được đầu tư để sinh lời, tăng trưởng quỹ BHXH nhằm bổ sung cho nguồn tài chính của quỹ. Mức trợ cấp phụ thuộc vào sự đóng góp (thời gian) của mỗi người. Phần lớn các nước trên thế giới đều hình thành quỹ BHXH từ ba nguồn trên. Bảng 1: Nguồn tài chính của một số nước Tên nước Chính phủ Người lao động Người sử dụng LĐ Germany Bù thiếu Người lao động 16,3 - 22,6% quỹ lương France Bù thiếu 14,8 - 18,8 tiền lương 19,68% Indonesia Ngân hàng thương mại 11,82% 6,5% Philipin Ngân hàng thương mại 3% 6,83 - 8,05% Malaysia Chi ốm đau, thai sản 9,5% 12,75% Vietnam Bù thiếu 5% 15% Mức đóng của mỗi người vào quỹ BHXH. Gọi là phí BHXH, phí BHXH được phân loại như sau: - Phí dài hạn, trở thành nguồn quỹ để chi trả trợ cấp BHXH như hưu trí, MSLĐ, TNLĐ - BNN, tử tuất. - Phí ngắn hạn gồm các trợ cấp ốm đau, thai sản, TNLĐ... * Hệ thống tổ chức BHXH Mô hình tổ chức BHXH dù thực hiện theo hình thức nào cũng phải đảm bảo ba nguyên tắc cơ bản sau: - Nguồn quỹ BHXH chủ yếu là do sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước. - Việc đóng và hưởng BHXH phải dựa trên cơ sở công bằng thu - chi vì nguyên tắc này mà tổ chức lao động quốc tế (ILO) thường khuyên các nước đưa ra một mức đóng góp cao để có số thu lớn hơn số chi nhằm ổn định nguồn quỹ BHXH. - Đóng BHXH thực chất là thế hệ sau nuôi thế hệ trước, trên cơ sở này việc tổ chức BHXH dựa trên hai mô hình sau: Mô hình thứ nhất: Tự chủ có sự trợ giúp của Chính phủ về tài chính nên còn gọi là bán tư cách pháp nhân. Vì vậy cơ quan BHXH phải được quản lý với sự chỉ đạo của một số bộ có liên quan. Mô hình này được áp dụng phổ biến ở những nước cho đối tượng tham gia BHXH chủ yếu là công nhân viên chức ở khu vực Nhà nước. Mô hình thứ hai: Tự chủ hoàn toàn trên cơ sở cân bằng thu - chi, không có sự hỗ trợ của Chính phủ. Vì vậy cơ quan BHXH được tổ chức hoạt động độc lập và thống nhất. Qua hai mô hình trên. Hiện nay tổ chức bộ máy quản lý hoạt động BHXH nước ta được thực hiện theo quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam ban hành theo Quyết định số 606/TTg ngày 26 tháng 9 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ. BHXH Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó bộ máy BHXH Việt Nam gồm: Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam là cơ quan quản lý cao nhất BHXH Việt Nam, thành viên của Hội đồng quản lý bao gồm: Đại diện có thẩm quyền của Bộ lao động thương binh - xã hội; Bộ tài chính; Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. BHXH Việt Nam được tổ chức thành hệ thống từ trung ương đến địa phương. - Cấp trung ương là BHXH Việt Nam. - Cấp địa phương là BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. - Cấp huyện là BHXH các huyện, thị xã trực thuộc BHXH tỉnh, thành phố. Ở các xã, phường, thị trấn đó là ban đại diện chi trả trợ cấp BHXH do chính quyền cấp đó cử ra làm hợp đồng BHXH. Xuất phát từ nhiệm vụ chủ yếu của BHXH - cơ quan BHXH là cơ quan quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ chính sách BHXH theo pháp luật của Nhà nước. Hoạt động của bộ máy quản lý BHXH ở nước ta có những đặc điểm sau: + Là cơ quan trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, BHXH Việt Nam có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH theo pháp luật và tham gia quản lý Nhà nước về BHXH. Để bảo đảm quyền lợi cho người lao động, tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã giúp các nước định hướng trong việc xây dựng hệ thống các chế độ BHXH, các chế độ này bao gồm 9 chế độ BHXH. - Chăm sóc y tế. - Trợ cấp ốm đau. - Trợ cấp thất nghiệp - Trợ cấp tuổi già. - Trợ cấp TNLĐ - BNN - Trợ cấp gia đình. - Trợ cấp thai sản. - Trợ cấp tàn tật. - Trợ cấp tử tuất. Theo khuyến nghị của tổ chức này, những nước phê chuẩn công tác này phải thiết lập ít nhất 3 chế độ, trong 3 chế độ này phải có một trong các chế độ trợ cấp tuổi già,, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp TNLĐ-BNN, trợ cấp tàn tật, tử tuất. Tuy nhiên các chế độ này phải được vận dụng phù hợp với điều kiện kinh tế của từng nước, trong từng thời kỳ. Do vậy bỏ hay không bỏ một trong các chế độ nào đó, hoặc có thể lồng ghép một trong các chế độ này vào một chế độ khác. Vì vậy là một cơ quan hành chính sự nghiệp trong hệ thống hành pháp của Nhà nước hoạt động của BHXH Việt Nam phải tuân theo quy chế hoạt động của Chính phủ của các cơ quan quản lý và pháp luật của Nhà nước. + BHXH Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức thu - chi BHXH đối với các đối tượng tham gia BHXH. Đó chính là công tác phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước thực hiện một chinh sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước như thực hiện một dịch vụ công cộng của xã hội. Cho nên dịch vụ này phải có mục đích phục vụ đầy đủ, kịp thời và thuận tiện đối với các đối tượng có nhu cầu. Hiệu quả hoạt động của nó là hiệu quả của kinh tế - xã hội chứ không vì mục tiêu lợi nhuận. BHXH là cơ quan quản lý quỹ BHXH, đây là một quỹ tài chính lớn có một phần nhàn rỗi chưa qua sử dụng, được phép tổ chức các hoạt động đầu tư để đảm bảo và tăng trưởng quỹ theo quy định của Chính phủ với những nguyên tắc nhất định như: an toàn (không bị rủi ro) có tăng trưởng và dễ thanh toán khi cần thiết. Từ những đặc điểm trên nên bộ máy quản lý, hoạt động của BHXH không phải là cơ quan hành chính đơn thuần, cũng không phải là một đơn vị kinh doanh bảo hiểm mà là một đơn vị sự nghiệp đặc thù với nhiệm vụ chủ yếu là thu - chi BHXH và giải quyết các chế độ chính sách BHXH. Sơ đồ bộ máy hoạt động BHXH Việt Nam HĐQL HĐQL HĐQL HĐQL Ban QLCĐCS Ban QLT Ban KTPC Ban TCCB Ban KHTC Ban CHI Văn Phòng TTTTKH Ngoài ra còn có các phòng ban trực thuộc Tổng Giám đốc như: Phòng quốc phòng an ninh, Phòng đối ngoại. Để thực hiện việc quản lý của mình BHXH Việt Nam tiến hành quản lý thu BHXH, giải quyết các chế độ chính sách BHXH, quản lý công tác chi trả cho đối tượng hưởng các chế độ BHXH. 3. Chế độ hưu trí trong BHXH 3.1. Vai trò của chế độ hưu trí Chế độ hưu trí là một trong các chế độ của BHXH. Đây là chế độ hết sức quan trọng của bất cứ quốc gia nào, khi áp dụng các chế độ do tổ chức lao động quốc tế đặt ra. Do vậy chế độ không thể thiếu được trong hệ thống BHXH. Điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau: + Chế độ hưu trí có mối quan hệ chặt chẽ với các chế độ BHXH khác. Chế độ này giúp cho việc đảm bảo cuộc sống của người lao động khi về hưu hay không đủ điều kiện sức khoẻ tham gia lao động khi họ bị rủi ro về ốm đau, thai sản, TNLĐ - BNN... những trường hợp có đủ điều kiện về hưu mặc dù chính sách hưởng có thể là hàng tháng hoặc trợ cấp 1 lần. + Thông qua chế độ hưu trí người lao động có thể tự bảo vệ mình khi hết tuổi lao động hoặc đủ điều kiện nghỉ hưu, đây là một cách tự do cho bản thân người lao động một cách hợp lý nhất. Tất nhiên là họ phải là những người có tham gia BHXH. + Trợ cấp hưu trí là nguồn thu nhập thường xuyên và ổn định của người về hưu. Tuy nhiên ngoài phần trợ cấp lương hưu ra người về hưu còn được cấp thẻ BHYT để họ được khám bệnh khi bị ốm, đau. + Trợ cấp hưu trí là một trong những chế độ dài hạn, do đó nó cũng tác động vào nhận thức của người lao động, giúp họ nhận thức được sử đảm bảo vững chắc về phần thu nhập khi họ về hưu, giúp họ yên tâm hăng hái lao động sản xuất tốt hơn, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. + Trợ cấp hưu trí là một trong những chế độ chính sách, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người lao động. Như vậy ngoài những vai trò tất yếu là bảo đảm nguồn thu nhập khi người lao động về nghỉ hưu, chế độ hưu trí còn có mối quan hệ mật thiết với các chế độ khác trong hệ thống chế độ chính sách của BHXH, và nó mang tính xã hội cao. 3.2. Cơ sở hình thành chế độ hưu trí trong hệ thống BHXH * Sự cần thiết khách quan của chế độ bảo hiểm hưu trí. Trong cuộc sống của mỗi con người không ai tránh khỏi quy luật của tự nhiên (Sinh, lão, bệnh, tử). Do vậy đối với người lao động khi còn trẻ khoẻ, họ có thể lao động không biết mệt mỏi để tạo ra nhiều của cải vật chất, nhằm phục vụ cho chính cuộc sống của họ và gia đình họ. Nhưng cùng với thời gian sức khoẻ cũng giảm dần, họ không còn đủ điều kiện sức khoẻ để tham gia lao động sản xuất, phải chăng khi không còn làm việc, họ sẽ không còn khoản thu nhập nào nữa. Nhưng cuộc sống không không muốn thế, dù già cả, ốm yếu nhưng họ vẫn phải tồn tại, phải ăn, phải ở. Trong khi tham gia lao động có thu nhập, tuỳ từng điều kiện của mỗi người khi về hưu có người có tích luỹ, do đó họ để lại cho mình một khoản tiền để hưởng lúc về già, trong khi những người kiếm tiền chỉ đủ ăn... Vậy khi về hưu họ sẽ ra sao? có thể nhờ vả vào con cháu song nhìn chung là hiệu quả thấp. Để đảm bảo quyền lợi của người lao động khi họ hết tuổi lao động và giúp họ có nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên khi họ không còn khả năng làm việc và lao động được nữa. Do vậy cần tiến hành giải pháp là cho người lao động tham gia BHXH có thể lồng nhiều hình thức khác nhau (bắt buộc hoặc tự nguyện) để người lao động yên tâm lao động và công tác tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, cho chính bản thân họ và gia đình họ. Mặt khác họ không phải lo lằng gì khi họ không làm việc nữa, vì họ đã có một khoản tiền nhất định hàng tháng hoặc một lần do được trợ cấp từ chế độ trợ cấp hưu trí chi trả. - Đặc trưng cơ bản của bảo hiểm hưu trí. Bảo hiểm hưu trí là chế độ dài hạn, nằm ngoài quá trình lao động. Đặc trưng này thể hiện cả quá trình đóng và hưởng, được thể hiện qua người lao động tham gia đóng phí bảo hiểm trong suốt quá trình lao động và được hưởng lương hưu trong suốt thời gian còn lại của cuộc đời. Mức hưởng lương hưu cao hay thấp, phụ thuộc vào thời gian đóng BHXH, mức lương cấp bậc, chức vụ, trong 5 năm liền trước khi nghỉ hưu, và tuổi đời khi nghỉ - dù cao hay thấp cũng chỉ được hưởng không quá 75% tiền lương bình quân 5 năm đóng BHXH. Trong chế độ hưu trí có sự tách biệt tương đối giữa đóng và hưởng vì đây là quá trình không thuộc phạm vi của quá trình lao động. Người lao động tham gia đóng phí BHXH trong suốt quá trình lao động và họ được hưởng một số chế độ BHXH trong thời gian này. Nhưng ngược lại đối với chế độ hưu trí của họ, chỉ được hưởng khi kết thúc quá trình lao động, tham gia đóng BHXH. Tỷ lệ phần trăm tiền lương của họ đóng vào quỹ BHXH, từ quỹ BHXH sẽ được chi trả cho thế hệ trước. Như vậy có tính kế thừa liên tiếp quỹ của các thế hệ lao động trong việc hình thành quỹ bảo hiểm hưu trí. Bảo hiểm hưu trí phụ thuộc chặt chẽ vào quan hệ sử dụng lao động giữa chủ sử dụng lao động và người lao động. Nó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, người lao động khi về già cần có khoản thu nhập để đảm bảo cuộc sống của mình. Trong khi._. đó người sử dụng lao động muốn ổn định phát triển sản xuất kinh doanh, ngoài việc họ đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho xí nghiệp, họ còn phải chăm lo đến đời sống người lao động của mình bằng cách trả lương cho họ. Điều đặc biệt ở đây là chủ sử dụng lao động còn đảm bảo cho người lao động về lâu dài là hàng tháng họ nộp cho quỹ BHXH theo tỷ lệ phần trăm quỹ lương của mình. - Tuổi nghỉ hưu và điều kiện hưởng trợ cấp bảo hiểm hưu trí. Tuổi nghỉ hưu là một trong những nhân tố quan trọng trong việc hình thành chế độ hưu trí ở mỗi quốc gia. Tuỳ theo các điều kiện về kinh tế - xã hội, văn hoá mà người ta đưa ra những quy định riêng về tuổi nghỉ hưu, ngay cả tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ. Đối với mỗi quốc gia có nền kinh tế khác nhau thì tuổi nghỉ hưu cũng khác nhau. Chúng ta có thể nhận thấy ở những nước có nền kinh tế phát triển, tuổi trung bình được nhận lương hưu của nam là 65 tuổi, nữ từ 60 - 65 tuổi, với những nước đang phát triển, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á tuổi trung bình được nhận lương hưu là 55 - 65 tuổi có thể thấy rõ vấn đề này qua bảng sau: Bảng II: Độ tuổi nghỉ hưu của một số nước trên thế giới Tên nước Nam (tuổi) Nữ (tuổi) Mỹ 65 65 Anh 60 65 Pháp 65 60 Đức 63 65 Nga 60 60 Nhật 65 65 Hàn Quốc 60 60 Hồng Kông 65 65 Trung Quốc 55 60 Bảng số liệu trên cho thấy, mỗi quốc gia đã xác định cụ thể cho chế độ hưu trí một độ tuổi nhất định. Tuy nhiên ngày nay khi nền kinh tế phát triển, điều kiện đời sống vật chất ngày được nâng cao, quy định tuổi nghỉ hưu đã được thay đổi cho phù hợp hơn. Mặt khác độ tuổi nghỉ hưu ngày càng tăng nên đây là nhân tố hết sức quan trọng góp phần nâng cao thời gian lao động, cống hiến của người lao động cho xã hội. Với Việt Nam tuổi nghỉ hưu nam là 60 tuổi, nữ là 55 tuổi. Tuy nhiên có những quy định riêng cho những trường hợp cá biệt ở dưới độ tuổi này vẫn đủ điều kiện nghỉ hưu nếu người lao động tham gia lao động ở những công việc nặng nhọc, độc hại, tham gia chiến đấu ở các chiến trường B, C, K. Ngoài ra điều kiện nghỉ hưu còn phụ thuộc vào thời gian tham gia đóng BHXH, điều kiện về sức khoẻ, mất sức khoẻ từ 61% trở lên. Như vậy việc xác định độ tuổi nghỉ hữu là vấn đề hết sức quan trọng đây là nội dung cơ bản của chế độ hưu trí ở mỗi quốc gia. - Quan điểm về người nghỉ hưu và chính sách bảo hiểm hưu trí. Người về hưu là những người lao động có thời gian làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp,... có tham gia BHXH, dù là giới chủ hay giới thợ, họ đều tham gia tạo ra cơ sở vật chất cho xã hội nói chung và phục vụ cuộc sống cho chính bản thân họ và gia đình họ. Điều ta quan tâm ở đây là chế độ bảo hiểm hưu trí có mang lại cuộc sống ổn định cho người lao động? khi họ không tham gia lao động sản xuất nữa? Chúng ta thấy rằng chế độ bảo hiểm hưu trí là một phương tiện, một công cụ để mỗi quốc gia có thể ổn định đời sống của phần lớn người lao động nghỉ hữu. Đặc biệt trong số những người nghỉ hưu này có một số người cô đơn không nơi nương tựa, hoặc có những người có sự đóng góp to lớn cho xã hội,... Như vậy khi thực hiện tốt chế độ bảo hiểm hưu trí sẽ nâng cao đời sống xã hội giảm bớt khó khăn cho người về hưu cũng như một số bộ phận khác (những người còn phụ thuộc vào họ), nâng cao vai trò của bảo hiểm xã hội và chế độ bảo hiểm hưu trí. Có thể nói trong những chế độ BHXH ngoài quá trình lao động thì bảo hiểm hưu trí là một chế độ hàng đầu, bản thân nó đang là một trong những chế độ bảo hiểm hưu trí có quy mô hoạt động lớn cả về số lượng và chất lượng, mang ý nghĩa sâu sắc trong xã hội. Thể hiện qua việc chi trả chế độ hưu trí bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số chi trả cho đối tượng hưởng chế độ BHXH. Chế độ bảo hiểm hưu trí là một công cụ, giúp cho việc giải quyết chế độ chính sách cho người về hưu và chi trả lương hưu cho họ. Tuy nhiên mức trợ cấp này đối với từng người được quy định cụ thể, dựa vào thời gian tham gia đóng bảo hiểm xã hội, tuổi đời, tình trạng sức khoẻ, công việc của họ đang làm của người về hưu để tính mức lương hưởng có thể là trợ cấp lương hưu thường xuyên, trợ cấp 1 lần theo điều 28 Điều lệ BHXH như ở nước ta. Tuy nhiên một số nước lại áp dụng tỷ lệ 40% cho những người lao động không có trình độ tay nghề, dưới 40% cho những người có trình độ tay nghề, vì lương của họ cao hơn. Cơ sở để tính lương hưu là mức lương bình quân gia quyền của cả thời gian làm việc, chứ không phải là tiền lương của tháng cuối trước khi nghỉ hưu. Cũng không phải là mức lương cao nhất trong suốt thời kỳ lao động sản xuất của người lao động. Quỹ thời gian để tính mức lương bình quân có thể là 3 năm, 5 năm, 10 năm tùy theo phương pháp thống kê, song với hoạch định chính sách về chế độ bảo hiểm hưu trí cũng phải chọn một đột dài thời gian thích hợp, đơn giản dễ hiểu nhất đối với người lao động về mặt tính toán tỷ lệ lương hưu so với tỷ lệ tiền lương. Ta thấy rằng một số nước còn áp dụng theo độ dài thâm niên, tức là làm việc càng lâu dài thì mức hưởng lương hưu càng cao, đây là một trong những quan điểm khuyến khích đối với người lao động làm việc lâu năm. Theo quan điểm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) trong hai điều kiện nghỉ hưu là (Thời gian đóng BHXH và tuổi đời) thì tuổi đời là quan trọng hơn vì chế độ hưu trí là chế độ cho tuổi già, còn tham gia đóng BHXH thì chỉ cần đạt tới một thời gian nhất định theo quy định. Từ vấn đề này chúng ta thấy rằng nếu chỉ chú trọng vào tuổi đời mà không quan tâm đến thời gian tham gia đóng BHXH là không hợp lý vì BHXH là một chính sách lớn của mỗi quốc gia, do đó nó cũng có những nguyên tắc nhất định như (có đóng có hưởng, không đóng không hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít). Ngoài ra khi người lao động nghỉ hưu lại có quan điểm cho rằng những người này khi về hưu phải bắt buộc nghỉ mọi hình thức lao động. Về mặt lý thuyết không thể có vừa hưởng lương vừa hưởng chế độ hưu trí. Mặt khác ở một số nước, do mức lương hưu thấp, nên người lao động được phép làm việc và vẫn tiếp tục đóng BHXH. Nhìn nhận ở quan điểm này thấy rằng, đối với người lao động, trí óc, văn nghệ sỹ, các nhà khoa học... khi về già họ cũng có khả năng làm việc, thì quan điểm là hoàn toàn hợp lý, tuy vậy cũng cần sự tách biệt giữa các ngành nghề khác nhau để vận dụng cho phù hợp hơn, tránh tình trạng người không làm vẫn được hưởng tiền lương cao hơn người tích cực tham gia lao động sản xuất và có đóng BHXH ở thời gian làm thêm khi họ đã đủ điều kiện về hưu. Ở Việt Nam, nước ta còn là nước đang phát triển, do vậy trình độ kỹ thuật tay nghề còn hạn chế đối với những người lao động trẻ, trong khi những người có trình độ tay nghề cao lại là những người đã có tuổi. Do vậy khi những người này về hưu thì họ vẫn được mời lại làm việc nếu công việc cần thiết có họ, mà họ được trả bằng một khoản phụ cấp trong khi đó họ vẫn hưởng lương hưu: Không tham gia đóng BHXH. Mặt khác, có những người khi về hưu do đồng lương quá thấp không đủ tiêu dùng cho họ và gia đình họ, do vậy họ không có cách nào khác phải tích cực tăng gia lao động sản xuất, có thể đi làm thuê, hoặc sản xuất theo quy mô điều kiện củ gia đình... Để tạo ra thu nhập ngoài tiền lương hưu, nhằm trang trải những nhu cầu của cuộc sống. Như vậy chế độ bảo hiểm hưu trí đối với người về hưu là một nội dung rất cần sự quan tâm của các tổ chức Chính phủ, đồng thời nó đòi hỏi ở các tổ chức ngày phải có biện pháp - như không ngừng hoàn thiện về chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí, để chế độ này thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc cho người lao động khi họ về hưu. CHƯƠNG II CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở TỈNH THÁI BÌNH 1. Vài nét về kinh tế - xã hội ở tỉnh Thái Bình Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp thuần nông, dân số đông, lực lượng lao động nông nghiệp dồi dào, đời sống của nhân dân nói chung là còn nhiều khó khăn; Qua hai cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc, con em Thái Bình đã đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Hoà bình Đảng bộ và nhân dân Thái Bình một lòng một dạ, đoàn kết, xây dựng quê hương ngày càng phát triển. Những cánh đồng lúa, những làng dệt, làng may, những làng sản xuất hàng mây tre đan xuất khẩu, hàng mỹ nghệ cao xuất khẩu ngày càng nhiều. Nằm ở châu thổ sông Hồng. Thái Bình là một tỉnh đồng bằng duy nhất trong cả nước không có một ngọn núi, quả đồi, cụm rừng, làng mạc đan xen đồng ruộng, vườn tược với những con đê bao quanh Thái Bình có diện tích 1537 km2, dân số 1.785.600 người, là tỉnh đất hẹp người đông, mật độ gần 1.200 người/km2 - chỉ đứng sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Từ xa xưa khi nói về Thái Bình là nói đến một vùng quê lúa, nơi trồng ra thóc gạo nổi tiếng. Người nông dân quanh năm "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" mong kiếm lấy đủ miếng ăn. Song nhiều năm mất mùa vì bị đói. Năm 1945 do giặc nhiều đã có 28 vạn người chết đói (gần bằng 1/3 dân số toàn tỉnh). Sau cách mạng tháng 8 thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch kính yêu. Thái Bình cùng quân dân cả nước tập trung sức để chống giặc đói, diệt giặc dốt, khắc phục thiên tai dịch hoạ, trong bom trong đạn đất vẫn sinh sôi, lúa vẫn lên xanh tốt đã làm nên những mốc son lịch sử trở thành "Quê hương 5 tấn, 10 tân, 12 tấn". Một thời thóc thừa, quân vượt mức. Hơn 20 năm đổi mới thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Thái Bình đã có những bước đột phá đáng kể, là tỉnh đi đầu trong xây dựng cơ sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng thêm khởi sắc. Năng suất lúa vượt lên đỉnh cao mới trên 12tấn/ha/năm, vượt qua mốc sản lượng 1 triệu tấn lương thực/năm. Thực hiện đường lối của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngày nay Thái Bình không còn là một tỉnh thuần nông. Nền công nghiệp đang phát triển, thu hút hàng vạn lao động chuyên nghiệp có kỹ thuật cao, hàng năm sản xuất ra giá trị sản lượng chiếm phần đáng kể trong cơ cấu kinh tế của tỉnh phục phụ tiêu dùng và xuất khẩu. Đời sống của nhân dân ngày càng cải thiện và nâng cao. Lương thực bình quân đầu người đạt 600 kg thuộc loại cao ở các tỉnh phía Bắc. Hiện Thái Bình có 99,5% số hộ dùng điện thắp sáng 87,7% có nhà kiên cố và bán kiên cố. (Tỷ lệ này cả nước là 60%). Về địa lý hành chính - tỉnh Thái Bình gồm 8 huyện và một thị xã. Mỗi địa bạn huyện, thị xã đều có thế mạnh riêng. Các vùng lúa, đầm tôm, làng nghề được phát huy. Hệ thống trường học, đường nhựa, trạm xá, nối liền giữa các địa phương trong tỉnh được hoàn thiện. Con em Thái Bình giàu lòng yêu nước, sẵn sàng nhận và hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào khi Đảng gọi. Nhân dân Thái Bình sống ở khắp mọi miền của đất nước với tinh thần lao động cần cù, trí thông minh, luôn luôn phát huy được bản chất của người Thái Bình và được các địa phương ghi nhận. Do những nét đặc thù riêng về địa lý, lịch sử, phong tục tập quán, con người Thái Bình cũng có sắc thái riêng. Sau những năm dài công tác, học tập, lao động sản xuất ở địa phương trong cả nước; khu tuổi già đều có nguyện vọng trở về quê hương sinh sống, về với cuội nguồn, với làng xóm. Do vậy đối tượng hưởng chế độ chính sách bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thái Bình rất đông, cao nhất có lúc gần 9 đến 10 vạn. Hiện nay đối tượng đang quản lý và chi trả chế độ BHXH là gần 7 vạn; đây là một khối lượng công việc không nhỏ. 2. Vài nét về BHXH tỉnh Thái Bình Trước nhu cầu tham gia BHXH của người lao động ngày càng tăng lên, cần nâng cao biện pháp quản lý đối tượng tham gia BHXH và xét hưởng trợ cấp cho đối tượng tham gia bảo hiểm. Trước yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, ngày 16 tháng 02 năm 1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở hợp nhất 2 tổ chức; Bảo hiểm do Bộ LĐTB - XH và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý trước đây là một tổ chức mới BHXH Việt Nam. Đây là biện pháp nhằm thực hiện cơ chế quản lý thống nhất BHXH từ Trung ương xuống địa phương theo tinh thần này BHXH tỉnh Thái Bình được thành lập theo Quyết định số 03/QĐ ngày 15 tháng 6 năm 1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Trên cơ sở hợp nhất tổ chức Bảo hiểm do Liên đoàn lao động tỉnh quản lý, và BHXH thuộc sở LĐTB - XH Thái Bình. Từ khi được thành lập và đi vào hoạt động BHXH tỉnh Thái Bình đã thực hiện nhiều nhiệm vụ của mình. 2.1. Công tác tổ chức quản lý và tổ chức hoạt động a. Tổ chức bộ máy hoạt động Theo các quy định trong Điều lệ BHXH, BHXH tỉnh Thái Bình đã tiến hành tổ chức bộ máy hoạt động của mình theo quy định tại Nghị định 19/CP và Quyết định 606/TTg của Chính phủ, dưới sự quản lý và điều hành củ BHXH Việt Nam. BHXH Thái Bình bao gồm: 5 phòng nghiệp vụ và BHXH 8 huyện, thị xã. * Các phòng nghiệp vụ chính là: - Phòng quản lý thu BHXH - Phòng quản lý chế độ chính sách - Phòng Kiểm tra - pháp chế - Phòng Kế hoạch - Tài chính - Phòng Tổ chức - Hành chính * BHXH các huyện, thị xã gồm: - BHXH thị xã Thái Bình - BHXH huyện Kiến Xương - BHXH huyện Tiền Hải - BHXH huyện Vũ Thư - BHXH huyện Đông Hưng - BHXH huyện Hưng Hà - BHXH huyện Quỳnh Phụ - BHXH huyện Thái Thuỵ Chức năng nhiệm vụ của các phòng nghiệp vụ và của BHXH huyện, thị xã do BHXH tỉnh trực tiếp quy định theo khu vực địa lý hành chính, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền cùng cấp. Thực hiện thu - chi và giải quyết chế độ BHXH cho người lao động theo quy định của BHXH Việt Nam và của Nhà nước. BHXH tỉnh thường xuyên quan hệ và xin ý kiến chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và một số ngành chức năng của tỉnh để lãnh đạo chỉ đạo thực hiện tốt chế độ BHXH ở địa phương. 2.2. Một số kết quả thực hiện công tác BHXH ở tỉnh Thái Bình Qua 7 năm tổ chức và thực hiện, BHXH tỉnh Thái Bình đã đạt được những kết quả sau: - Số lao động tham gia BHXH ngày càng tăng, quản lý đi vào nề nếp. Bảng 3: Tổng hợp số lao động tham gia BHXH Loại hình 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 DNNN 11.239 14.425 15.044 16.011 21.556 22.613 24.420 24.596 HCSN 24.122 25.500 26.200 26.100 26.547 26.602 26.120 28.109 DNNQD 121 127 321 323 527 657 Tổng cộng 35.361 40.046 41.421 42.431 48.426 49.742 53.147 53.371 Như vậy, ở tỉnh Thái Bình số lao động tham gia BHXH ngày càng tăng; đặc biệt là số lao động ở các doanh nghiệp nhà nước, ở khu vực hành chính sự nghiệp... Số người về hưu tương ứng với số tuyển dụng mới, chủ yếu là ngành giáo dục; Đối tượng ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thực tế có hơn 1000 đơn vị, nhưng mới chỉ tham gia rất ít; Số lao động còn đông, chưa tham gia BHXH, điều này đặt ra yêu cầu là các ngành, các cấp, cùng với BHXH phải có biện pháp chỉ đạo hữu hiệu, yêu cầu các chủ sử dụng lao động phải tham gia BHXH theo quy định của nhà nước. Đồng thời có những biện pháp cần thiết để xử lý những đơn vị trốn nộp BHXH. - Công tác quản lý, thu - chi cũng có sự chuyển biến rõ rệt. BHXH tỉnh căn cứ vào quy định Thông tư số 58/TC năm 1995 của Bộ Tài chính và các căn bản hướng dẫn của BHXH Việt Nam phân cấp thu BHXH cho các huyện, thị xã theo địa bàn quản lý. Kết quả thu BHXH đi vào nề nếp; người lao động, chủ sử dụng lao động thấy rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc tham gia BHXH. Nhiều đơn vị đưa vào danh hiệu thi đua hàng năm về hoạt động chuyên môn, công tác Đảng. Do vậy hiệu quả công tác thu đã có tiến bộ rõ rệt. Số nợ đọng (BHXH) đã giảm rất nhiều. Tuy nhiên vẫn còn một số doanh nghiệp Nhà nước do không có việc làm, người lao động không có lương, do vay tồn đọng về BHXH lớn. Hàng năm chưa quyết toán được đã tới hàng tỷ đồng. - Chi BHXH cho đối tượng hưởng BHXH, BHXH tỉnh Thái Bình đã căn cứ vào quy định của Nhà nước để quản lý nguồn quỹ, chủ động áp dụng phương pháp chi trả trực tiếp cho từng đối tượng, theo phương châm đúng kỳ, đủ số, an toàn và trân trọng. + Nguồn kinh phí: * Do Trung ương cấp từ ngân sách Nhà nước. * Quỹ BHXH Kết quả thực hiện qua các năm như sau: Bảng 4: Tình hình thu - chi BHXH Đơn vị tính: Triệu đồng Năm Thu BHXH Chi BHXH 1995 7.690 46.297 1996 25.703 179.298 1997 32.286 211.459 1998 35.910 210.605 1999 39.163 204.315 2000 51.522 266.951 2001 63.531 320.194 2/2002 18.064 132.983 Bảng trên cho chúng ta thấy: Số thu qua các năm đều có biểu hiện tăng theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước; Trong đó năm 1995 (BHXH tỉnh mới ra đời thực hiện thu - chi từ 6 tháng năm 1995), số chi b cũng khá cao. Nhưng chi BHXH ở Thái Bình có nét khác so với các địa phương khác đó là số người được giải quyết theo quy định tại Nghị định 12/CP; 45/CP; 93/CP tương đối ổn định. Sản xuất kinh doanh có nhiều thuận lợi, tiền lương, tiền thưởng phúc lợi tập thể tăng; Khối HSCN tiền lương ổn định đặc biệt là khối giáo dục, y tế. Bên cạnh đó có chế độ tiền bục giảng (đứng lớp), trực ca ở các bệnh viện... Do đó nguồn thu nhập của người lao động cao hơn, ổn định hơn so với trước; Số kinh phí chi tăng cùng với nhà nước công bố thay đổi mức lương tối thiểu, vì vậy tiền lương hưu cũng điều chỉnh tăng. Nhưng nguồn chi vẫn chủ yếu là do ngân sách nhà nước cấp chiếm tỷ trọng lớn hơn 80% tổng số chi BHXH. Căn cứ vào tình hình thu - chi BHXH tỉnh Thái Bình đã xác định được mức lương bình quân làm căn cứ đóng BHXH: Cán bộ công chức 477.770 đồng/tháng, cán bộ xã phường 240.858 đồng/ tháng. Phương pháp chi trả: - Chi ngắn hạn (ốm đau, thai sản, TNLĐ) Thực hiện chi qua đơn vị. Chủ sử dụng lao động căn cứ vào chứng từ - hồ sơ BHXH tỉnh, huyện, thị xã duyệt, tiến hành chi trả trợ cấp BHXH cùng với tiền lương của người lao động. - Chi dài hạn, toàn cấp tỉnh áp dụng mô hình chi trả trực tiếp cho đối tượng. Định kỳ hàng tháng từ ngày 20 trở đi BHXH các huyện, thị xã thực hiện chi trả thông qua phương pháp này các đối tượng hưởng phấn khởi, tin tưởng, công tác quản lý tài chính chặt chẽ, không bị thất thoát. Tình trạng chết, vướng mắc phát hiệp kịp thời, thực hiện trợ cấp, tạm ngừng chi trả theo quy định. Tất cả các kiến nghị của đối tượng về chính sách BHXH được tỉnh thường xuyên quan tâm, căn cứ vào quy định của Nhà nước của BHXH Việt Nam để kịp thời xử lý và giải quyết dứt điểm. Các đối tượng hưởng không đúng chế độ chính sách bị loại dần ra từ đó tạo được niềm tin đối với cán bộ và nhân dân ở địa phương. Như vậy kể từ khi thành lập và đi vào hoạt động cho đến nay, BHXH tỉnh Thái Bình đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trên tất cả các mặt công tác, trong đó công tác xét duyệt hồ sơ hưởng các chế độ BHXH luôn luôn đảm bảo kịp thời, chặt chẽ đúng quy định: Thực hiện cơ chế 1 cửa. BHXH huyện, thị xã, BHXH tỉnh tiếp nhận hồ sơ từ ngày 6 hàng tháng sau khi hồ sơ thẩm định ở Trung ương - BHXH tỉnh thực hiện chi trả kịp thời, vào tháng sau đó. Điều này đã khắc phục tình trạng người lao động khi nghỉ việc để hưởng chế độ BHXH, khi tiền lương không còn, được hưởng ngay trợ cấp BHXH để đảm bảo cuộc sống ổn định. Do vậy ngành BHXH đã chủ động tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sử dụng lao động và người lao động. Mối quan hệ cộng đồng trách nhiệm giữa cơ quan BHXH, đơn vị sử dụng lao động và người lao động ngày càng tăng cường. Tuy nhiên qua công tác tổ chức và thực hiện, BHXH tỉnh Thái Bình còn bộc lộ một số tồn tại cần được khắc phục và bổ sung, nhằm mục đích ngày càng hoàn thiện và đạt hiệu quả công tác cao hơn: + Sự chuyển đổi chính sách giữa cũ và mới còn nhiều bất cập nên việc đóng BHXH và hưởng chế độ và bảo hiểm vẫn còn một số vướng mắc về thời gian đóng và thời gian hưởng. + Việc quy định của chính sách đối với đối tượng tham gia còn hạn chế. Hiện nay, mới thực hiện BHXH bắt buộc đối với khối cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tỷ lệ tham gia còn ít. Họ chưa thực hiện được BHXH, tự nguyện cho người lao động. Do vậy số đối tượng tham gia mới chiếm khoảng 1/4 so với tổng số lao động của cả tỉnh. + Vẫn còn lồng ghép giữa chế độ BHXH với các chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng ở Nghị định 28/CP. + Mối quan hệ ba bên Nhà nước, người lao động, chủ sử dụng lao động chưa được xác định rõ ràng. + Do chưa có luật về BHXH nên việc tham gia chưa được coi là nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm của người lao động. Chủ sử dụng lao động do vậy họ chưa tham gia một cách tự giác và chưa đóng BHXH đầy đủ. + Quy chế quản lý tài chính với quỹ BHXH chưa được thể chế hoá cùng với việc sử dụng nguồn quỹ bị hạn chế do đó gây ảnh hưởng đến việc bảo tồn và tăng trưởng nguồn quỹ. + Đội ngũ cán bộ của BHXH tỉnh Thái Bình chưa được đồng đều. Một số cán bộ chưa được đào tạo, mới tuyển dụng, do đó năng lực quản lý đặc biệt là kinh nghiệm thực tế còn hạn chế. - Việc tuyên truyền về BHXH chưa tiến hành thường xuyên nên một số doanh nghiệp, đơn vị,... còn chây lỳ không tham gia đóng BHXH cho người lao động. Từ những vấn đề trên: BHXH tỉnh Thái Bình căn cứ vào Chỉ thị số 15/CT ngày 26 tháng 5 năm 1997 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác BHXH trong thời gian tới: cụ thể hoá chương trình, định hướng công tác trong thời gian tới như sau: * Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính, chế độ chính sách. * Đẩy mạnh công tác tổ chức để làm tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao. * Mở rộng đối tượng tham gia BHXH đặc biệt là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh nơi có sử dụng từ 10 lao động trở lên. * Nghiên cứu và kiến nghị cùng các cơ quan quản lý, ban hành chế độ chính sách, xây dựng và hoàn thiện dự thảo luật BHXH trình Quốc hội thông qua trong thời gian tới. * Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao để đáp ứng yêu cầu mới của đất nước: CNH - HĐH. * Xây dựng chương trình và có đề án cụ thể đưa các ứng dụng tin học vào công tác quản lý các đối tượng tham gia và hưởng chế độ BHXH, công tác quản lý quỹ, lưu trữ hồ sơ đối tượng BHXH. 3. Tình hình thực hiện chế độ hưu trí ở tỉnh Thái Bình. 3.1. Tình hình chế độ hưu trí trước năm 1993. - Nghị định 218/CP Như chúng ta đã biết BHXH ra đời gắn liền với lịch sử phát triển của Nhà nước Việt Nam từ năm 1945. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các sắc lệnh về các chế độ BHXH nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng cho công nhân viên chức Nhà nước. Điều này được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946 và 1954 về việc thừa nhận cán bộ công nhân viên chức Nhà nước có quyền được tham gia và hưởng trợ cấp BHXH. Quyền này được cụ thể hoá qua việc ban hành Nghị định 218/CP ngày 27 tháng 12 năm 1961 của Chính phủ. Nghị định này quy định rõ 6 chế độ về BHXH (ốm đau, thai sản, TNLĐ và bệnh nghề nghiệp, MSLĐ, hưu trí, tử tuất). Ở các chế độ này chế độ BHXH hưu trí được quy định như sau: a. Điều kiện hưởng. - Về tuổi đời. Độ tuổi công nhân viên chức nghỉ hưu theo quy định đủ 60 tuổi đối với nam, đủ 55 tuổi đối với nữ (nếu làm công việc bình thường) và 55 tuổi đối với nam, 50 tuổi đối với nữ (nếu làm công việc nặng nhọc, độc hại). Ngoài ra còn có quy định với công việc bình thường khi về hưu có thời gian công tác từ 25 năm công tác đối với nam, 20 năm công tác đối với nữ, nếu có cả thời gian công tác liên tục trong 5 năm, đối với công việc nặng nhọc, độc hại thì giảm 5 năm tuổi đời so với quy định này. Nghị định này còn quy định đối với công nhân viên chức Nhà nước được hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí với điều kiện: + Công nhân viên chức Nhà nước có đủ tuổi đời về hưu nhưng chưa đủ thời gian công tác nói chung, nếu có thời gian công tác liên tục đủ 15 năm. + Đối với nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi, ốm yếu không có khả năng lao động, nếu có thời gian công tác liên tục đủ 25 năm. b. Mức hưởng lương hưu. + Người lao động công tác liên tục 5 năm đầu là 45% từ năm thứ 6 trở đi đến năm thứ 10, mỗi năm thêm 1%, từ năm thứ 11 trở đi mỗi năm tăng thêm 2%. Nhưng mức lương hưu không quá 75% lương chính trước khi nghỉ hưu. - Nếu công nhân viên chức là anh hùng lao động, anh hùng quân đội nhân dân Việt Nam thì được hưởng thêm khoản phụ cấp ưu đãi (phần trợ cấp ngoài lương hưu). Từ 5% - 25% lương chính hàng tháng tuỳ từng người. - Mức sinh hoạt thấp nhất tại thời điểm lúc này là 22 (đồng), nếu mức hưởng lương hưu thấp hơn mức này thì được nâng lên bằng mức này. - Nếu công nhân viên chức Nhà nước có thêm trợ cấp thương tật ngoài trợ cấp hưu trí ra hàng tháng họ còn được trợ cấp thêm 10%. - Ngoài ra, họ còn được trợ cấp 1 tháng lương kể cả phụ cấp và trợ cấp con cái (nếu có). Khi họ đang hưởng lương hưu. Nhận xét: - Ưu điểm: Việc ban hành điều lệ BHXH tạm thời về BHXH là một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp BHXH ở nước ta. Lần đầu tiên quyền lợi của người lao động được quy định thống nhất, trong chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng. Điều lệ ra đời đã giải quyết được mức đóng, mức hưởng cụ thể. Những người có công với cách mạng được quan tâm hơn, biểu hiện cụ thể qua chế độ trợ cấp ưu đãi, và họ được chăm sóc nuôi dưỡng nếu họ sống cô đơn, không có nơi nương tựa. - Những tồn tại Việc quy định về thời gian công tác liên tục với thời gian công tác nói chung là không phù hợp. Trong thực tế có những người có thời gian công tác nói chung trên 25 năm, nhưng họ lại không có thời gian công tác liên tục vì một lý do nào đó. Khi họ đủ tuổi về hưu lại không được hưởng lương hưu. - Việc quy định mức hưởng lương hưu tối thiểu trong 5 năm công tác liên tục được hưởng 45% là không hợp lý. Nếu cán bộ công nhân, viên chức có đủ điều kiện về thời gian công tác và đủ tuổi đời theo quy định, thì cách tính mức lương hưu của họ như thế nào, nếu họ không có thời gian công tác liên tục trong 5 năm. - Việc ghép hai chế độ giữa trợ cấp ưu đãi và trợ cấp hưu trí để chi trả lương hưu là không hợp lý. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tăng gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, trong khi nguồn thu BHXH rất hạn chế so với tổng chi trả cho chế độ bảo hiểm hưu trí ở tỉnh Thái Bình ngân sách Nhà nước hàng năm phải chi hơn 80% tổng số kinh phí chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Do vậy để hoàn thiện hơn chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí cần được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp. Trước sự thay đổi và phát triển của đất nước phải hoàn thiện về chế độ chính sách BHXH. Nhà nước ta đã ban hành các văn bản pháp quy về BHXH nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng cho phù hợp với điều kiện về kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng. - Nghị định 236/HĐBT. Cùng với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mức sống của người lao động đã từng bước được nâng cao. Mức sống của người về hưu cũng tăng theo. Trước tình hình này, điều lệ tạm thời về BHXH không còn phù hợp với tình hình mới. Do vậy trước yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, Chính phủ đã ban hành Nghị định 236/HĐBT ngày 18 tháng 9 năm 1985 nhằm sửa đổi bổ sung, hoàn thiện hơn về chế độ chính sách BHXH. Cùng với sự thay đổi này chế độ bảo hiểm hưu trí cũng được thay đổi và những thay đổi đó được thể hiện như sau: a. Điều kiện hưởng. - Về tuổi đời nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi, nếu làm việc ở điều kiện bình thường trong đó: nếu tham gia lực lượng vũ trang về tuổi đời 55 tuổi đối với nam, 50 tuổi đối với nữ, thời gian công tác tính cả quy đổi - đủ 30 năm công tác đối với nam, 25 năm đối với nữ thì được nghỉ hưu. - Công nhân viên chức và quân nhân, nếu làm các việc nặng nhọc, độc hại mất sức lao động từ 61% trở lên đủ và thời gian đang đóng BHXH theo quy định thì cũng được nghỉ hưu. - Thời gian tham gia BHXH là thời gian công tác của công nhân viên chức và quân nhân khi đủ tuổi về hưu (đối với nam, nữ và từng ngành nghề). - Thời gian công tác ở giai đoạn này còn được dùng làm hệ số quy đổi như (1 + 2, 1 + 4, 1 + 6) tuỳ từng điều kiện công việc cụ thể và thời gian tham gia. b. Mức hưởng lương hưu. Lương hưu hàng tháng làm căn cứ đối với nam 30 năm, nữ 25 năm công tác được hưởng 75% lương chính và phụ cấp thâm niên (nếu có) ngoài ra cứ thêm 1 năm công tác thì được tính thêm 1% tiền lương, nhưng mức hưởng tối đa là 95% lương chính và phụ cấp. - Nếu là cán bộ hoạt động cách mạng trước cách mạng tháng 8 năm 1945. Theo Quyết định 128/QĐ - HĐBT mỗi tham niên hoạt động được trợ cấp hàng tháng là 20 (đồng), ngoài ra đối với những người này không có lương hưu thì được hưởng sinh hoạt phí là 220 đồng (nếu họ hoạt động từ năm 1935) và 160 đồng nếu họ hoạt động từ năm 1936 về sau. Mức hưởng được điều chỉnh theo từng thời điểm khi Nhà nước công bố, thay đổi mức lương tối thiểu. - Nếu công nhân viên chức, quân nhân là anh hùng lao động, anh hùng quân đội nghỉ hưu, hoặc mất sức lao động thì được trợ cấp thêm 5% tiền lương và phụ cấp thâm niên để tính mức hưởng lương hưu hàng tháng. Từ khi ban hành Nghị định 236/NĐ - HĐBT về các chế độ chính sách BHXH cùng với công tác tổ chức và thực hiện các chế độ chính sách BHXH nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ đối với các chế độ bảo hiểm hưu trí được thực hiện như sau: Bảng V: Số người được hưởng chế độ hưu trí (1989 - 1993) Năm Tổng số HC HQ Số người Số người Tăng so với năm trước Tỷ lệ % Số người Tăng so với năm trước Tỷ lệ % 1989 51.674 41.972 503 1,2 10.640 107 1,01 1990 53.707 42.104 1.936 4,6 10.820 238 2,2 1991 56.474 45.314 2.188 4,83 11.400 353 3,1 1992 58.589 47.368 4.817 10,17 12.300 418 3,4 1993 63.786 52.936 5.965 11,27 13.100 510 3,9 Các số liệu trên cho thấy, số người được hưởng chế độ chính sách hưu trí ở tỉnh Thái Bình hàng năm tăng lên. Mức tăng qua các năm 1989 - 1993 là không đều, cụ thể tốc độ tăng lớn nhất là ở năm 1991 - 1992 (số tăng tuyệt đối là 4.817 người chiếm 10,17%). Trong khi đó hàng năm số người bước vào độ tuổi lao động xấp xỉ vạn một người cùng với nó số người về hưu chiếm 16% so với lực lượng lao động tăng nên hàng năm (báo cáo tổng kết công tác năm Sở Lao động thương bình và xã hội năm 1993). Mặt khác, tốc độ về hưu ngày càng tăng. Từ năm 1989 đến năm 1993 tăng lên 12.112 người. Sự tăng lên này là do tác động của các Quyết định số 176/HĐBT ngày 9 tháng 10 năm 1989 và Quyết định số 111/HĐBT ngày 12 tháng 4 năm 1991 về việc tinh giảm biên chế và sắp xếp lại lao động đối với công nhân viên chức. Do vậy, số người về hưu tăng lên khá nhanh. Có những người có đủ số năm công tác và số năm công tác quy đổi, mặc dù chưa đủ tuổi cũng được nghỉ hưu vì từ năm 1991 số người về hưu đột ngột tăng lên. Đây là những ảnh hưởng của việc nghỉ "hưu non", "hưu chui". Ngoài ra đây là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, trong khi tỷ lệ thu so với tỷ lệ chi cho các chế độ BHXH, cụ thể trong năm 1991 là 15,07% và ngân sách Nhà nước cấp ở đây 84,93%. Kết._.ơng hưu hay trợ cấp BHXH 1 lần thì họ không được tính tháng lẻ này là thiệt hại cho người lao động. - Theo quy định việc lấy mức lương bình quân gia quyền của 5 năm cuối tính hưởng lương hưu là chưa hợp lý. Trên thực tế có những người có mức lương 5 năm cuối cao nhất, có những người 5 năm cuối lại có mức lương thấp nhất. Như vậy điều này là không hợp lý do vậy điều này càn được nghiên cứu và điều chỉnh theo Nghị định 93/CP. - Việc quy định mức đóng vào quỹ BHXH để bổ sung do quỹ giải quyết chế độ bảo hiểm hưu trí, tử tuất như hiện nay là 5% tiền lương đối với người lao động, chủ sử dụng lao động là 15% quỹ lương. Khi người lao động được nghỉ hưu được nhận 75% mức lương bình quân của 5 năm cuối của tiền lương tháng và mức lương hưu thấp cũng được điều chỉnh bằng mức lương tối thiểu do Nhà nước công bố tại thời điểm. Với quy định này dự báo trong 8 - 10 năm nữa thì quỹ BHXH sẽ bị thâm hụt vì thu không đủ chi trong khi đó nguồn chi cho các chế độ bảo hiểm hưu trí chiếm tỷ trọng lớn từ 61 - 70% trong tổng số chi cho các chế độ BHXH. Do đó về lâu dài cần điều chỉnh lại mức đóng cho phù hợp. - Về chế độ trợ cấp 1 lần, mục đích của chính sách là khuyến khích người lao động không về hưởng trợ cấp 1 lần, mà cố gắng để người lao động về hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng. Tuy nhiên trên thực tế còn phát sinh những trường hợp do những nguyên nhân khác nhau, người lao động phải nghỉ việc khi họ không đủ điều kiện về nghỉ hưu, hưởng trợ cấp hàng tháng thì được giải quyết hưởng trợ cấp 1 lần. Về mặt lý thuyết, việc giải quyết chế độ trợ cấp 1 lần có lợi cho quỹ BHXH nếu các yếu tố khác không phát sinh. Nhưng điều cần bàn tới ở đây, nếu người lao động có khoản tiền tích luỹ khá lớn và được trợ giúp của con, cháu, cộng với khoản tiền trợ cấp này thì cuộc sống của họ được ổn định. Mặt khác đối với những người già cả, neo đơn không có khoản tiền tích luỹ,... khi hưởng trợ cấp 1 lần thì họ sẽ có một số tiền nhất định để hưởng tuổi già, nhưng cuộc sống đòi hỏi nhiều khoản chi phí (ốm, đau,...) do vậy cuộc sống của họ sẽ rất khó khăn đây là điểm cần chú ý xem xét lại cho phù hợp. Chế độ bảo hiểm hưu trí cũng như các chế độ khác trong hệ thống BHXH có tác dụng rất lớn trong việc bảo đảm an toàn xã hội, ổn định cuộc sống cho người lao động, giúp họ yên tâm tham gia lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội và bản thân họ và gia đình họ. Một người đang được hưởng chế độ trợ cấp bảo hiểm hưu trí hàng tháng nếu bị TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp được xếp hạng thương tật 31% trở lên được hưởng trợ cấp hàng tháng, cùng với chế độ hưu trí theo quy định số tiền trợ cấp hàng tháng này giúp người về hưu trang trải những chi phí trong cuộc sống của họ. Đây là mối quan hệ chặt chẽ, bổ trợ cho nhau để phần nào giảm bớt khó khăn cho người về hưu. Ngoài ra chế độ trợ cấp còn được thực hiện đan xen, liên kết chặt chẽ với các chế độ khác trong hệ thống các chế độ chính sách BHXH. - Người lao động khi về hưu vẫn được trợ cấp về bảo hiểm y tế ở các cơ sở y tế nơi họ cư trú và hưởng lương hưu, nhằm mục đích khám chữa bệnh khi họ bị ốm, đau,... Nếu có rủi ro đặc biệt đối với người về hưu khi họ chết thì thân nhân của họ, con cái mà khi họ còn sống phải nuôi dưỡng trực tiếp được xem xét giải quyết chế độ trợ cấp tử tuất theo quy định. Trong hệ thống các chế độ BHXH - chế độ bảo hiểm hưu trí có một mối quan hệ mật thiết với các chế độ khác, chế độ này là cơ sở, tiền đề tạo điều kiện cho chế độ khác đạt kết quả. Bảo hiểm hưu trí nhằm mục đích góp phần bảo đảm cuộc sống ổn định cho người về hưu. 3.3. Thực trạng đời sống người về hưu ở tỉnh Thái Bình. a. Về đời sống vật chất Đời sống người về hưu, khi họ còn đang làm việc thì ngoài lương chính ra họ còn có thểm các khoản thu nhập, phụ cấp, trợ cấp, tiền thưởng,... nhưng đến khi họ về hưu thì họ chỉ nhận được một khoản tiền duy nhất lương hưu và không còn khoản thu nhập nào khác, đó là những người được hưởng trợ cấp hàng tháng, còn đối với những người hưởng trợ cấp 1 lần thì đời sống của họ sẽ ra sao? Đa số người về hưu cho rằng đời sống về vật chất của mình kém đi so với khi còn đang làm việc. Ở nước ta nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng do điều kiện về nhiều mặt còn hạn chế, tiền lương của người lao động nói chung chỉ đu răn, không có để tích luỹ. Trong khi đó cuộc sống của người lao động trong thực tế còn nhiều phát sinh. Như học hành của con cái, cha già, mẹ héo, hiếu, hỷ,... Do vậy đời sống của người lao động khi về hưu còn rất nhiều khó khăn, đứng trên bình diện tổng thể với tiền lương hưu hàng tháng thấp. Có thể thấy điều này qua bảng dưới đây: Bảng 11: Mức sống vật chất của nhóm xã hội về hưu phân theo nơi ở và giới tính Đơn vị: % Thực trạng vật chất Nông thôn Thành thị Chung Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Khá hơn 35,61 60,00 15,22 22,22 25,27 32,43 Không hơn, không kém 9,7 20,0 33,33 33,33 23,28 29,73 Kém hơn 43,7 20,0 44,44 44,44 50,36 37,84 Khó so sánh 0,47 0,77 0,76 Tổng 100 100 100 100 100 100 Theo bảng trên, chúng ta thấy cuộc sống của những người về hưu qua 2 khu vực nông thôn và thành thị có sự chênh lệch đáng kể. Mỗi khu vực có một ưu thế hơn; khu vực thành thị nhìn chung cuộc sống khó khăn, ngoài tiền trợ cấp lương hưu hàng tháng không có nguồn thu nhập nào khác, nếu họ không có nghề phụ,... trong thực tế đối tượng nghỉ hưu tuổi đả cao, sức khoẻ yếu do vậy nguồn thu khác rất ít, thậm chí không đủ chi tiêu nếu không có trợ giúp của con cái. Theo giới tính với nam 56,92%, nữ 44,44% trong đó nam giới có cuộc sống khó khăn hơn nữ giới thường là trụ cột của gia đình khi thu nhập của họ bị giảm, sẽ gây ảnh hưởng tới cuộc sống của chính họ và gia đình họ. Nhưng đối với nữ giới lại có cuộc sống vật chất thấp hơn nam giới do mức sống bị giảm sút nên rất khó khăn cho họ. Trong khi đó họ có rất ít cơ hội để tăng gia sản xuất nhằm tăng thêm thu nhập cho gia đình họ. Những người ở nông thôn lại có cuộc sống về vật chất đỡ bớt khó khăn hơn thể hiện ở nam chiếm 43,7%, nữ chiếm 20,0%. Vì họ có thêm những nguồn thu nhập khác như: Trồng trọt, chăn nuôi,làm kinh tế VAC... đặc biệt đối tượng thuộc huyện Thái Thuỵ, Tiền Hải, Kiến Xương, Hưng Hà họ có ưu thế về nghề truyền thống ,dệt, hàng mỹ nghệ cao,nghề biển. Cùng với các ưu thế đó giá cả ở khu vực nông thôn thấp hơn khu vực thành thị. Mặt khác giữa các nhóm nghỉ hưu, mức lương có sự chênh lệch đáng kể.Đối với cán bộ quân đội khi còn công tác họ có mức lương khá và đóng quỹ BHXH cao, do vậy mức lương của họ cao hơn so với rất nhiều mức lương của phần lớn đối tượng cán bộ viên chức nghỉ hưu. Tuy nhiên phải chú ý đến các đối tượng có quá trình công tác và tham gia BHXH dài, họ giữ vị trí cao trong bộ máy của Nhà Nước và cơ quan của Đảng. Như vậy cuộc sống của người về hưu cơ bản nhìn chung còn rất khó khăn. Cùng với giá cả sinh hoạt ngày càng cao, mức lương hưởng hàng tháng gần như cố định. Mặc dù vừa qua nhà nước có điều chỉnh lương tối thiểu lên 210.000 đồng, lương hưu được điều chỉnh theo Nghị định 175/CP, nghị định 77/CP tăng thêm là 16.7 %. Nhưng so với sự gia tăng của vật giá, mức tăng nên không đáp ứng ưu cầu . Tuy nhiên sự điều chỉnh này cũng là góp phần giảm bớt mức nào đó khó khăn cho đối tượng chính sách nói chung và người về hưu nói riêng. Tuy nhiên, với đối tượng về hưu họ không chỉ muốn nhận duy nhất tiền lương, mà họ còn tiến hành tăng gia sản xuất bằng nhiều hình thức khác nhau (làm kinh tế CAV, bán hàng...) để tăng thêm thu nhập. Đây là vấn đề mặt nào đó mang tính tích cực nhưng nó cũng thể hiện được những yếu điểm của chính sách BHXH hiện hành. Trên thực tế thì đồng lương hưu chỉ đáp ứng được nhu cầu tối thiểu củ người về hưu như ăn, uống... nhưng đối với họ còn có các nhu cầu khác như ăn dưỡng tuổi già, du lịch... Những hoạt động đối với họ chỉ trông mong vào sự chu cấp của con cháu hoặc từ nguồn thu nhập thêm của họ. Tóm lại: Mặc dù mức lương hưu chỉ bảo đảm tối thiểu cho người về hưu có cuộc sống bình thường và ổn định, như chúng ta cũng phải nhận thấy rằng chế độ trợ cấp này đã thể hiện tính xã hội cao mà Đảng và Nhà nước ta trong việc quan tâm đối với người về nghỉ hưu. b. Đời sống về tinh thần. Bất cứ người lao động nào trong xã hội hiện nay đều nhận thấy, khi nền kinh tế càng phát triển, con người được đáp ứng đủ về mặt vật chất thì nhu cầu mới xuất hiện, như nhu cầu về du lịch, vui chơi, giải trí... ngày càng đòi hỏi được đáp ứng. Đối với người về hưu, càng cần có nhu cầu này vì nó thiết thực cho cuộc sống an hưởng tuổi già. Nó giúp họ tìm được giá trị của cuộc sống có ích. Như vậy nhu cầu về tinh thần là rất quan trọng đối với người về hưu, tuy nhiên nếu so sánh về nhu cầu này về đời sống tinh thần trước khi chưa nghỉ hưu ta thấy như sau: Bảng 12: Đời sống tinh thần của người hưu trí so với trước khi nghỉ hưu Thực trạng vật chất Nông thôn Thành thị Chung Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Khá hơn 52,15 47,06 47,34 58,49 49,73 55,71 Không hơn, không kém 29,03 23,53 39,89 37,74 34,49 34,24 Kém hơn 17,74 29,41 12,23 3,77 14,49 10,00 Khó so sánh 1,08 0 0,53 0 0,80 0 Tổng 100 100 100 100 100 100 Bảng trên cho ta thấy: Đời sống tinh thàn của người về hưu ở hai khu vực nông thôn và thành thị rất khác nhau. Nhìn chung số người ở thành thị có đời sống tinh thần rất cao. Trong khi đời sống tinh thần của người về hưu ở nông thôn là hạn chế. Trong thực tế, ta thấy số người về hưu ở thành thị có nhu cầu về đời sống tinh thần cao. Nhưng cuộc sống đô thị luôn luôn có sự cạnh tranh để tồn tại. Cùng với nó là giá cả sinh hoạt cao, do vậy người về hưu luôn phải bươn trải để có thêm thu nhập, do đó đời sống tinh thần của họ không được thoải mái nhiều qua bảng trên nam 47,34%, nữ 58,49%. Trong khi đó số người về hưu ở khu vực nông thôn cảm thấy thoải mái hơn, họ vui vẻ cùng con cháu, chăn nuôi, trồng trọt... để tăng thêm thu nhập. Tỷ lệ này ở nam là 52,15% và nữ là 47,06%. Như vậy đời sống tinh thần là rất quan trọng đối với mọi người nói chung và những người về hưu nói riêng. Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với người về hưu và toàn xã hội. Cùng với các chính sách thúc đẩy nền kinh tế phát triển, việc xây dựng các loại hình dịch vụ ngày càng cao của mọi người lao động trong đó có bộ phận đông đảo người lao động về hưu là một tất yếu. Mặt khác cần phải tăng cường sự quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện của các cấp, các ngành nơi người lao động về nghỉ hưu, thành lập tổ hưu trí, câu lạc bộ hưu trí, câu lạc bộ dưỡng sinh, tổ chức các hoạt động tham gia du lịch sinh thái, du lịch văn hoá... Thực hiện tốt các lĩnh vực này sẽ mang lại cho người về hưu những lợi ích to lớn, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phát triển, cải thiện đời sống cho mọi người lao động. Làm tốt điều này sẽ phát huy được truyền thống cách mạng, nêu gương tốt con cháu noi theo, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở nơi cư trú. Tăng cường truyền thống đoàn kết, trọng người già, nhất là những người có công với Đảng, với dân. Quan tâm chăm sóc bồi dưỡng và phát huy, tôn trọng, trọng dụng những người về hưu là trách nhiệm của các cấp, các ngành mà cụ thể là hệ thống chính trị ở cơ sở nơi người về hưu cư trú. Trước hết cần chăm lo về mặt tinh thần, tình cảm như hỏi thăm khi ốm đau, gặp mặt nhân ngày tế, ngày lễ, phối hợp với các cơ quan BHXH để thực hiện tốt chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người về hưu, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để người về hưu tiếp tục cống hiến những khả năng còn lại của họ nhằm đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu và đẹp. CHƯƠNG III NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở TỈNH THÁI BÌNH TRONG THỜI GIAN TỚI Sự nghiệp BHXH là một lĩnh vực được Đảng và Nhà nước rất quan tâm, trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đề ra. Do vậy ngay từ khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm tới việc xây dựng và ban hành chế độ chính sách BHXH đối với người lao động, thông qua Pháp lệnh quy định về các chế độ BHXH. Tuy nhiên trong từng thời kỳ phát triển khác nhau của đất nước, đòi hỏi các chế độ chính sách phải thường xuyên sửa đổi và bổ sung cho phù hợp tình hình mới. Trước những đòi hỏi này, bước tiếptheo của các Pháp lệnh của Chính phủ, Nhà nước đã ban hành (Điều lệ BHXH tạm thời) kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27 tháng 12 năm 1961 và Nghị định 236/HĐBT ngày 19 tháng 8 năm 1985, Nghị định 43/CP ngày 29 tháng 6 năm 1993 và Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995. Đây là những văn bản pháp quy đánh dấu từng mốc thời gian về việc sửa đổi và bổ sung các chế độ chính sách BHXH. Qua gần 7 năm thực hiện chế độ chính sách BHXH theo Nghị định 12/CP cho đến nay, ở trên phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng, Nghị định này đã bộc lộ những tồn tại cần được xem xét lại nhằm sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Trước những tồn tại đó, chế độ chính sách BHXH, bảo hiểm hưu trí đặt ra trước chúng ta nhiều yêu cầu, cần phải được thay đổi cho phù hợp khắc phục những tồn tại để hoàn thiện hơn chế độ chính sách BHXH trong điều kiện nền kinh tế thị trường. 1. Những quan điểm đổi mới chế độ hưu trí. 1.1. Đổi mới về nhận thức, đối tượng tham gia BHXH và hình thức tham gia BHXH. - Đổi mới về nhận thức: Ngày nay chế độ bảo hiểm hưu trí có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động, nó đảm bảo điều kiện vật chất cũng như điều kiện tinh thần của nhà nước đối với người lao động, thông qua sự tích tụ dần dần khoản đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và nguồn hỗ trợ của ngân sách Nhà nước. Qua việc đóng góp này, góp phần tạo lập nên nguồn quỹ BHXH để chi trả cho các chế độ trợ cấp BHXH nói chung và chế độ bảo hiểm hưu trí nói riêng. Như vậy, việc trợ cấp cho chế độ bảo hiểm hưu trí là việc chi trả cho người lao động khi họ hết tuổi lao động, hoặc đủ điều kiện để nghỉ hưu nhằm đảm bảo cho sự thay đổi đột ngột nguồn thu nhập của người lao động khi họ về hưu. Do vậy Nhà nước cần đẩy mạnh và quan tâm nhiều đến công tác tuyên truyền về BHXH để nâng cao nhận thức của người lao động, giúp họ có nhận thức đúng đắn hơn về BHXH, tự nguyện tham gia đóng BHXH. Như vậy đổi mới nhận thức của người lao động nói chung và của người sử dụng lao động là việc làm rất cần thiết vì qua việc người lao động tham gia BHXH là việc người lao động tự bảo vệ cho chính bản thân họ và những người thân của họ ngay cả khi họ còn tham gia lao động và đặc biệt là khi họ không tham gia lao động, thì chế độ trợ cấp hưu trí là chỗ dựa vững chắc cho họ. Mức trợ cấp này có thể là hàng tháng hoặc trợ cấp 1 lần. - Đổi mới về đối tượng tham gia BHXH và hình thức tham gia. Hiện nay trong xã hội có rất nhiều loại hình lao động như lao động trong các doanh nghiệp, xí nghiệp nhà nước, lao động trong nông thôn, lao động tiểu thủ công nghiệp, nhưng việc quy định như hiện nay chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp, xí nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở lên và lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy đối với chế độ bảo hiểm hưu trí thì việc quy định đối với lao động thuộc diện bắt buộc, khi người lao động về hưu họ có quyền hưởng chế độ hưu trí suốt đời. Trong khi đó người lao động không thuộc diện bắt buộc ở trên thì họ không được một khoản trợ cấp nào mặc dù họ cũng tham gia lao động sản xuất, khi còn trẻ, khoẻ, cũng cống hiến cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Khi họ đã có tuổi và không tham gia lao động sản xuất được nữa thì nguồn thu nhập của họ là sự tích luỹ một khoản tiền nhất định khi họ còn tham gia lao động sản xuất cộng với sự trợ giúp của con cháu. Nhưng phải chăng ai cũng có một khoản tiền tích luỹ này? Trên thực tế có rất nhiều người lao động như lao động vùng Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Vũ Thư,... có nguồn thu nhập không ổn định, phụ thuộc vào mùa vụ, thời tiết làm chỉ đủ ăn và không có tích luỹ. Như vậy áp dụng loại hình bắt buộc này mới chỉ chiếm tỷ lệ rất ít so với tổng số lao động của tỉnh trong khi đó cả nước là 14%. Do vậy những đòi hỏi đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách là cần mở rộng đối tượng tham gia, hình thức tham gia có thể là (Bắt buộc, hoặc tự nguyện) lao động trong nông nghiệp, tiến tới BHXH toàn dân. 1.2. Đổi mới và hoàn thiện chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí. Cùng với việc đổi mới và hoàn thiện chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí này cần phải xác định rõ ràng mức đóng, mức hưởng một cách cụ thể: Đối với mức đóng như hiện nay là 20% trong đó: Người sử dụng lao động đóng 15% quỹ lương, người lao động đóng 5% tiền lương cấp bậc, chức vụ. Với mức này là thấp không đảm bảo nguồn chi vì mức hưởng lương hưu tối đa là 75% như tỉnh Thái Bình. Thu BHXH một năm chỉ đạt 66 tỷ trong khi đó số tiền chi cho các đối tượng trong 1 năm lớn hơn 320 tỷ đồng. Do vậy mục tiêu của BHXH đặt ra là dần dần chủ động hoàn toàn trong việc chi trả cho đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Ngoài ngân sách Nhà nước sẽ không phải chi trả một phần nào cho các đối tượng này nữa. Trong tình hình hiện nay, trước mắt chưa có vấn đề gì xảy ra nhưng về lâu dài mức chi này cũng không ngừng tăng lên, cùng với nó là việc đầu tư để tăng nguồn quỹ lại bị hạn chế, do nguồn quỹ này bị thâm hụt. Như vậy để cho việc chi trả ngày một tốt hơn cho các đối tượng hưởng chế độ trợ cấp BHXH nói chung và chế độ bảo hiểm hưu trí nói riêng ở đây cần nâng mức đóng lên cho phù hợp. - Đối với điều kiện hưởng và mức hưởng. Hiện nay chúng ta đang thực hiện Nghị định 12/CP và thực hiện Nghị định 93/CP về sửa đổi bổ sung về chế độ bảo hiểm hưu trí nhưng quá trình thực hiện lại nảy sinh những tồn tại: Việc quy định tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ như hiện nay là không công bằng, vấn đề tỷ lệ hưởng tối đa ở đây là phù hợp, việc lấy mức lương bình quân của 5 năm cuối để tính lương là chưa hợp lý. Mức trợ cấp 1 lần như hiện nay liệu có cần thiết không? đối với người tham gia đóng BHXH trên 30 năm trở đi cứ mỗi năm tham gia được hưởng nửa tháng lương, nhưng tối đa không quá 5 tháng là điều bất hợp lý. Thông thường những trường hợp này lại là những người có công lớn cho xã hội, cho cách mạng. Như vậy, từ nhận định trên đây chúng ta thấy việc đổi mới và hoàn thiện chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí là hoàn toàn hợp lý với yêu cầu của người lao động cũng như của toàn xã hội. 1.3. Đổi mới chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí hiện hành sang chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí mới. Phải thực hiện dần dần và có những bước đi biện pháp phù hợp. Trước hết cần tách phần trợ cấp ưu đãi ra khỏi chế độ trợ cấp bảo hỉêm hưu trí. Ở đây phần trợ cấp ưu đãi sẽ do ngân sách Nhà nước chi trả, còn phần trợ cấp bảo hiểm hưu trí sẽ do nguồn quỹ BHXH chi trả cần được thực hiện tốt mục tiêu này. Đổi mới cơ chế quản lý BHXH. Với định hướng xã hội hoá và đa dạng hoá, cơ chế quản lý BHXH nói chung và quản lý bảo hiểm hưu trí nói riêng cũng phải hoàn thiện, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý Nhà nước về BHXH của ngành Lao động thương binh - xã hội từ trung ương xuống địa phương với các công cụ quản lý, công tác thanh tra và các chế tài hữu hiệu. Đối với hệ thống hoạt động sự nghiệp BHXH, để phù hợp với tình hình mới, cần nghiên cứu theo hướng hình thành nhiều hệ thống hoạt động sự nghiệp BHXH, đồng thời nâng cao mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH với các hoạt động sự nghiệp BHXH trên cơ sở quy định của pháp luật, các vấn đề này được điều chỉnh bởi nội dung của Luật BHXH. Việc mở rộng đối tượng tham gia, hoàn thiện chính sách BHXH, xây dựng pháp luật BHXH có ý nghĩa hết sức quan trọng cho mục tiêu chiến lược về con người của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhưng BHXH cũng là việc hết sức phức tạp và khó khăn vì trong việc mở rộng đối tượng BHXH và mở rộng chế độ BHXH còn nhiều vấn đề chúng ta chưa có kinh nghiệm để hoàn thiện và nâng cao. Tóm lại, trong điều kiện như hiện nay việc đổi mới này cần được gắn liền với thực tiễn, việc quy định thay đổi các văn bản cần rõ ràng việc xây dựng tiêu chí quản lý đối tượng BHXH không nên chỉ dựa vào quan điểm của ngành mà cần xét tới dư luận chung và sự phát triển của toàn xã hội. 2. Các giải pháp hoàn thiện chế độ bảo hiểm hưu trí 2.1. Giải pháp về chế độ chính sách - Về tuổi đời. + Đối với lao động nữ việc xác định tuổi nghỉ hưu nhằm rút bớt khoảng cách về hưu đối với nam giới. Nhà nước ta cần nâng tuổi lao động nữ lên, có thể lên bằng nam giới để khi nghỉ hưu họ có cơ hội hưởng bậc lương gần cuối cùng trong quy định bậc lương (Hiện nay nếu lao động nữ nghỉ hưu ở độ tuổi 55 thì họ mới chỉ đạt đến bậc lương thứ 16/18 bậc theo quy định). + Đối với những người làm công tác nghiên cứu khoa học, y tế, giáo dục,... khi đến độ tuổi nghỉ hưu cơ quan đơn vị có nhu cầu thì nên sử dụng tiếp, nhưng tố đa là 65 tuổi, ngược lại có những người có thời gian công tác đủ 15 năm ở vùng cao, biên giới hải đảo, ở những nơi có phụ cấp khu vực từ 0,5 trở lên thì giảm 5 tuổi đời (Hiện nay giảm 5 tuổi đời nơi có phụ cấp khu vực 0,7 trở lên). Người lao động thiếu một vài tháng mới đủ điều kiện giảm 5 tuổi đời thì nên tính lại. Nếu thiếu từ 6 tháng trở xuống thì xem như đủ điều kiện giảm 5 năm tuổi đời. Người lao động có thời gian tham gia ở chiến trường B, C, K vừa có thời gian công tác nặng nhọc, độc hại nhưng mỗi thời gian tương ứng không đủ 15 năm thì nên cộng dồn cho đủ 15 năm để được hưởng 5 năm tuổi đời theo quy định. Mặt khác, BHXH là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, nên khi có sự thay đổi về chính sách BHXH thì chính sách này phải áp dụng chung cho mọi người lao động tham gia BHXH chứ không áp dụng cho một ngành hay một đoàn thể nào đó. Trong năm 1996 Chính phủ có ban hành Nghị định 29/CP ngày 8 tháng 5 năm 1996 về việc giảm 5 tuổi đời cho cán bộ dân cử không trúng tuyển trong năm 1996 về nghỉ hưu khi đủ điều kiện về hưu, đây là vấn đề gây ra nhiều bất hợp lý trong đội ngũ công chức viên chức và người lao động làm công ăn lương, mặc dù nó chỉ có hiệu lực trong năm 1996. - Vấn đề tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. + Tiền lương danh nghĩa (cấp bậc, chức vụ) để làm cơ sở đóng BHXH là không hợp lý vì lương cấp bậc luôn thấp hơn nhiều so với lương thực tế. Thực tế hiện nay ở nhiều ngành sản xuất, kinh doanh có mức lương cao hơn nhiều tiền lương cấp bậc, có ngành cao gấp 2 - 3 lần. Do vậy mức lương nghỉ hưu hiện nay trên nền lương cấp bậc là quá thấp, khoảng cách chênh lệch giữa mức trợ cấp khi nghỉ hưu với mức lương khi còn làm việc là quá xa. Điều này làm cho người lao động không muốn về hưu vì mức hưởng lương hưu là quá thấp không đảm bảo được cuộc sống. + Tiền lương làm cơ sở đóng BHXH trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đang có những khúc mắc. Theo quy định tiền lương làm cơ sở đóng BHXH trong liên doanh là tiền lương theo hợp đồng bằng ngoại tệ. Do chưa có quy định về (mức trần đóng) cho nên tiền đóng BHXH ở khu vực này cao hơn rất nhiều so với khu vực khác, điều này dẫn đến khi về hưu trong khu vực này có mức trợ cấp hưu trí rất cao so với khu vực khác, điều này dẫn đến quan hệ trợ cấp BHXH giữa những người nghỉ hưu trong cộng đồng rất cách biệt, mặt khác trong xí nghiệp liên doanh vẫn còn tồn tại vấn đề đóng BHXH khi chưa tính thuế thu nhập, hay sau khi đã tính thuế thu nhập cũng chưa được quy định cụ thể. Để giải quyết hai vấn đề trên, ta có thể áp dụng các giải pháp sau: Thứ nhất: Với tỷ lệ đóng góp như hiện nay là 20% (người sử dụng lao động đóng 15% quỹ lương, người lao động đóng 5% tiền lương) với mức hưởng tối đa là 75%, e rằng trong 8 - 10 năm nữa mà không có sự thay đổi về mức đóng góp, thì nguồn quỹ BHXH sẽ bị thâm hụt, và ngân sách Nhà nước sẽ là nguồn hỗ trợ chủ yếu. Do vậy, để khắc phục vấn đề này cần nâng tỷ lệ đóng góp này lên cho phù hợp hơn. Thứ hai: Đối với lao động trong xí nghiệp liên doanh cần phải tính thuế thu nhập trước khi tính tiền lương làm căn cứ đóng BHXH theo tỷ lệ quy định. Thực hiện tốt hai nội dung này mới đảm bảo được sự công bằng xã hội và khuyến khích người lao động đóng BHXH và về hưu khi họ có đủ điều kiện để nghỉ hưu. - Về cách tính hưởng lương hưu. Trong thực tế phát sinh nhiều vấn đề và cách tính theo quy định, về việc lấy lương bình quân 5 năm cuối cùng để tính mức hưởng lương hưu là chưa hợp lý, cách tính này chưa đảm bảo nguyên tắc giữa đóng và hưởng, đồng thời cách tính này có lợi cho những người có mức lương cao về cuối càng ngày càng tăng, nhưng lại thiệt thòi cho những người càng về cuối có mức lương thấp đi, đây là điều bất hợp lý trong cach tính này. Đặc biệt trong cách tính này là nảy sinh bất hợp lý về cách tính lương hưởng bình quân như sau: a. Sự thay đổi đột ngột trong khu vực Nhà nước. - Ngay trong cùng một doanh nghiệp, vẫn có thể bị sụt giảm nhiều bậc lương khi đổi từ công việc này sang công việc khác. - Đang hưởng lương cấp bậc thì được đề bạt lên lãnh đạo, do đó được tăng lương lên một cách đột ngột, ngược lại thì lại giảm mức lương. - Sỹ quan quân đội chuyển ngành sang khu vực doanh nghiệp, ở trong quân đội họi đang được hưởng lương cao nhưng khi chuyển sang khu vực này thì mức lương của họ lại bị giảm đi. Để làm rõ vấn đề này ta xem ví dụ sau: Một công nhân đã làm việc được 15 năm trong doanh nghiệp Nhà nước đang hưởng bậc lương 3,37 được 3 năm. Trước đó hưởng bậc lương 3,05, sau khi chấm dứt hợp đồng lao động và ký hợp đồng lao động với một DNNN khác với mức lương bậc 3 là 1,83 trong 3 năm thì nghỉ việc và xin trợ cấp BHXH thì mức lương bình quân được hưởng sẽ là: Lbp = (((3,72 x 2 x 12) + (1,83 x 3 x 12)) / 5 x 12) / x 180.000 = 466.200 đồng Tương tự như vậy, thay vì ký hợp đồng với doanh nghiệp Nhà nước thì người này lại hợp đồng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh với mức lương 330.00 đồng (tương ứng với mức lương hệ số 1,83) Khi đó lương bình quân sẽ là: Lbq = (((3,05 x 2 x 12) + (3,73 x 3 x 12))/5 x 12)/ x 180.000 = 622.440 đồng. Như vậy lương bình quân của cả hai giai đoạn là: Lbq = (622.440 x 15 ngày x 12 tháng ) + (466.200 x 3 ngày x 12 tháng)/ (18 ngày x 12 tháng) = 596.400 đồng. Như vậy hai cách tính này cách tính thứ hai cho kết quả phù hợp hơn, mặc dù chênh lệch giữa 2 cách tính này là rất lớn. b. Sự chênh lệch giữa hai khu vực: Sự bất hợp lý này thể hiện với người tham gia BHXH trên 30 năm, trong đó có một thời gian tham gia nộp BHXH theo bảng lương thang lương của Nhà nước thấp, có một thời gian nộp BHXH theo bảng lương của Nhà nước rất cao. Ví dụ: Một người có 30 năm làm việc trong khu vực Nhà nước, mức lương bình quân 5 năm cuối là 2,5 sau đó người này chuyển sang làm việc ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và hưởng 1000 USD/ tháng trong 5 năm rồi về hưu, như vậy cách tính lương bình quân sẽ là: Lbq = = 2.385.714 đồng. Lương hưu hưởng tối đa là 75% Lbq = 1789.285 đồng. Tương tự như ví dụ trên, nhưng người này chỉ có 25 năm là khu vực Nhà nước thì lương bình quân sẽ là: Lbq = = 2.385.714 đồng. Lương hưu hưởng tối đa là 75% Lbq = 2031.249 đồng Như vậy ở hai trường hợp trên thì trường hợp thứ hai có lợi hơn, mặt khác mức trợ cấp một lần của trường hợp một là có, trường hợp hai thì không có, nhưng trường hợp hai có thời gian có thời gian đóng BHXH ngắn hơn trường hợp một. Từ hai nhận định này ta có giải pháp cho các trường hợp sau: + Đối với trường hợp (a). Theo quy định, hưởng lương theo bảng lương do Nhà nước quy định thì ngoài việc hưởng theo các mức lương (hệ số so với lương tối thiểu) còn bao hàm cả việc đảm bảo quy luật tăng lương theo niên hạn. Nếu mỗi khi có sự thay đổi mức lương đột ngột thì cần tách ra các giai đoạn riêng để tính lương bình quân. Mức lương bình quân của cả quá trình tham gia BHXH được tính trên cơ sở bình quân các giai đoạn, cụ thể là: Lbq = Trong đó: - n là số giai đoạn được phân chia nếu có sự thay đổi lương. - Lbq1, Lbq2,... là mức lương bình quân 5 năm cuối của các giai đoạn. - T1, T2... Tn là thời gian tham gia BHXH của các giai đoạn. Nếu trong một giai đoạn nào đó mà hưởng lương không theo thang lương của Nhà nước, thì thay tích số (Lbq x T) bằng tổng tiền lương đóng BHXH của giai đoạn đó một cách tổng quát là: Lbq = (i = 1 - n) Trong đó: - Li lương bình quân 5 năm cuối của giai đoạn i - Ti số tháng tham gia BHXH giai đoạn i - n số giai đoạn được phân ra nếu có sự thay đổi đột ngột. Thực chất của giải pháp này là việc vận dụng và mở rộng cách tính lương bình quân đối với người tham gia BHXH của cả hai khu vực, nhằm khắc phục những mâu thuẫn ở ví dụ trên. + Đối với trường hợp (b): Để khắc phục bất hợp lý nêu trên, cần hướng dẫn cách tính lương bình quân trong trường hợp này (thời gian tham gia BHXH trên 30 năm, hưởng lương ở hai khu vực) như sau: - Ưu tiên tính thời gian đủ cho lúc nộp BHXH theo mức cao. - Thời gian tính cho lúc nộp BHXH ở mức thấp sẽ bằng 30 năm thời gian tính cho lúc nộp BHXH ở mức cao (ở ví dụ trên là 30 -5 = 25 năm). 2,5 tháng x 2.385.714 đồng = 5.964.285 đồng Kết quả này có thể chấp nhận được trong mối tương quan giữa hai trường hợp trên. - Về tỷ lệ hưởng (% hưởng làm căn cứ hưởng BHXH) Theo quy định hiện nay, đủ 15 năm đóng BHXH tính bằng 45% mức lương bình quân, sau đó cứ mỗi năm (đủ 12 tháng) được cộng thêm 2% và đến 30 năm sau mức hưởng tối đa là 75%. Ngược lại cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi theo quy định bị giảm 2% (theo Nghị định 93/CP được sửa đổi lại chỉ giảm 1%). Tuy nhiên việc quy định này lại không khống chế mức giảm tối đa theo cấp độ tương ứng. - Về trợ cấp BHXH một lần cho những trường hợp trên 30 năm công tác. Hiện nay, trong bộ máy quản lý Nhà nước có những nhà khoa học đầu ngành, các nhân sỹ, các nghệ sỹ... thời gian tham gia BHXH của họ không chỉ dừng lại ở 30 năm tham gia BHXH mà còn tới 40 năm hoặc 50 năm. Theo quy định thì đủ 30 năm đóng BHXH được hưởng tối đa 75% lương bình quân của 5 năm cuối cùng, từ năm thứ 31 cứ mỗi năm được tính bằng 1/2 tháng lương bình quân của 5 năm cuối và tối đa không quá 5 tháng là điều bất hợp lý, về mặt công bằng xã hội là không đảm bảo. Như vậy cần thực hiện nên đưa tối đa mức hưởng là 75% mức lương hưu ở năm thứ 35 (Mức hưởng khởi đầu tham gia BHXH là 40%, sau đó mỗi năm tăng lên là 1,75%, kết quả mức hưởng sẽ đạt 75% sau 35 năm đóng BHXH). Mặt khác cũng có thể không nên khống chế tối đa 5 tháng lương đối với những người có trên 30 năm tham gia đóng BHXH thì được hưởng 1 tháng lương, ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20620.doc
Tài liệu liên quan