Chế độ pháp lý về giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ

LỜI NÓI ĐẦU Đất nước ta sau nhiều năm chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã có nhiều thành tựu đáng chú ý. Nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt buộc các doanh nghiệp luôn phải nỗ lực không ngừng để tồn tại và đứng vững. Đặc biệt, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới. Nhiều doanh nghiệp bắt kịp được với cơ chế làm ăn phát đạt và khẳng định được vị trí của mình trên thương trường. Tuy nhiên cũ

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Chế độ pháp lý về giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng có nhiều doanh nghiệp không thích ứng được với cơ chế này, sản xuất kinh doanh thua lỗ và dẫn đến bị giải thể, phá sản. Chính vì vậy, các công ty cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn cho mình để tồn tại và phát triển. Sự sáng tạo và đổi mới trong cơ cấu tổ chức doanh nghiệp và chiến lược kinh doanh là điều kiện vô cùng quan trọng trong quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế của mỗi doanh nghiệp. Nắm bắt được tình hình thực tế đó, công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê & Vũ đã không ngừng cố gắng khắc phục những tồn tại đang có để có thể phát triển hơn nữa. Sau 6 năm hoạt động, công ty đã xây dựng được thương hiệu và tạo uy tín tốt trên thị trường. Hoạt động mua bán hàng hoá trong nước đã trở thành lĩnh vực kinh doanh chủ đạo và đem lại nguồn doanh thu lớn cho công ty. Tuy nhiên, để hoạt động mua bán hàng hoá của công ty đi vào chiều sâu thì đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm hiểu, tiếp cận và nhận thức đúng đắn các hoạt động thương mại theo đúng luật, nhằm hạn chế những tổn hại kinh tế không đáng có. Do tính chất có sẵn của tài liệu cũng như tầm quan trọng của hoạt động mua bán hàng hoá đối với công ty, em đã chọn đề tài “Chế độ pháp lý về giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ” để tìm hiểu và nghiên cứu. Qua việc lựa chọn đề tài này, em muốn tập trung nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty. Từ đó, tìm ra những vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa, đồng thời em cũng đưa ra một số đề xuất giúp Công ty nâng cao hiệu quả trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Kết cấu đề tài gồm có 3 chương : Chương 1 : Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa Chương 2 : Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá tại công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ Chương 3 : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và nâng cao hiệu quả ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ. Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Thủy và các anh chị các phòng ban công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê & Vũ đã giúp đỡ tận tình để em có thể hoàn thành bản chuyên đề này. Do sự hạn chế về thời gian và trình độ kiến thức của tác giả nên bài viết không thể tránh khỏi sai sót. Em kính mong nhận được sự đóng góp của thầy cô để chuyên đề hoàn thiện hơn. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TNHH : Trách nhiệm hữu hạn WTO : (World Trade Organization ) Tổ chức thương mại thế giới VND : Việt Nam Đồng VD : Ví dụ LTM : Luật Thương mại BLDS : Bộ luật Dân sự CHƯƠNG I : CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁNHÀNG HÓA I.Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hoá 1.Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá Hợp đồng mua bán hàng hóa là một phương tiện quan trọng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất kinh doanh, trao đổi vật tư, sản phẩm giữa các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Hiện nay, hoạt động mua bán hàng hoá được điều chỉnh chủ yếu bởi hai văn bản pháp luật quan trọng là Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005. Hoạt động mua bán hàng hoá có thể được xem là một dạng cụ thể của hoạt động mua bán tài sản. Theo quy định của Điều 428 BLDS 2005 về hợp đồng mua bán tài sản thì: Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Theo điều 163 Bộ luật Dân sự thì tài sản bao gồm : vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Luật Thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa mà chỉ đưa ra khái niệm về hoạt động mua bán hàng hoá. Mua bán hàng hóa được định nghĩa theo Khoản 8 Điều 3 Luật thương mại 2005 là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Hàng hóa theo quy định của Luật Thương mại 2005 có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại. Từ hai định nghĩa trên có thể thấy hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của Luật Thương mại 2005 là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Căn cứ các điều khoản trên, có thể kết luận rằng “ Hợp đồng mua bán hàng hoá là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng vàtrả tiền cho bên bán theo thời hạn, số lượng và phương thức thanh toán mà các bên đã thỏa thuận”. 2.Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hoá Trong nền kinh tế thị trường hợp đồng mua bán hàng hoá có vai trò rất quan trọng. Trước hết, loại hợp đồng này có vai trò điều tiết, điều chỉnh quá trình lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện quyền tự định đoạt của các bên chủ thể khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, ghi nhận sự thể hiện ý chí thống nhất của các bên về những điều kiện của quan hệ hợp đồng. Khi hợp đồng đặt ra các biện pháp bảo đảm thì nó có tác dụng nâng cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ nghĩa vụ, đồng thời ngăn ngừa và khắc phục hậu quả do việc không thực hiện hay thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ gây ra. Hợp đồng mua bán hàng hoá có bản chất chung của hợp đồng đó là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Có thể xem xét hợp đồng mua bán hàng hoá trong mối liên hệ với hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hoá, hợp đồng mua bán hàng hoá có những đặc điểm nhất định, xuất phát từ bản chất thương mại của hàng hoá. Đó là : - Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Theo Luật thương mại 2005, hàng hóa được định nghĩa “bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; các vật gắn liền với đất đai” (khoản 2 điều 3 Luật thương mại 2005). Hàng hóa là đối tượng mua bán phải không thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh theo quy định của Nhà nước (Nghị định 59/2006/NĐ- CP ngày 12/06/2006). Nếu hàng hóa đó thuộc danh mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì phải tuân theo đầy đủ các quy định của pháp luật về mua bán các loại hàng đó. - Hình thức của hợp đồng có thể bằng lời nói, bằng hành vi cụ thể hay bằng văn bản do các bên thỏa thuận, do pháp luật quy định hay được xác lập bằng một hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật qui định phải được lập thành văn bàn thì phải tuân theo các qui định đó. - Về nội dung, hợp đồng mua bán hàng hoá thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán. Bên bán thì có nghĩa vụ giao hàng và nhận tiền còn bên mua thì có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền. Những điều khoản cơ bản của một hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm: tên hàng, số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng. - Chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân. Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ mua bán hàng hoá phải tuân theo Luật Thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật Thương mại. 3.Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá Ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến đã có các bộ luật như Bộ hình thư (triều Lí), bộ Quốc triều thống chế (triều Trần), Bộ quốc triều hình luật (triều Lê), Bộ Hoàng Việt luật lệ (triều Nguyễn). Tuy nhiên, pháp luật thương mại hầu như không được biết đến trong các Bộ luật nước ta thời kỳ này. Điều đó có thể lý giải là vì kinh doanh thương mại lúc bấy giờ còn yếu kém và chưa phát triển. Sau đó, khi giành được chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Nhà nước ta đã lần lượt ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình, đó là : Điều lệ tạm thời “Hợp đồng kinh doanh”số 735/TTg năm 1956, Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 04/TTg ngày 4/1/1960, Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 54/CP của Hội đồng chính phủ ngày 10/3/1975. Tuy nhiên, do có sự hạn chế về nhận thức và điều kiện kinh tế xã hội nên pháp luật hợp đồng kinh tế khi đó là công cụ pháp lý của việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, hợp đồng kinh tế là hình thức pháp lý của các quan hệ mang tính chất tổ chức, kế hoạch. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã không mang lại được hiệu quả kinh tế cao, do vậy Đại hội VI tháng 12/1986 của Đảng đã quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội đồng nhà nước lần lượt thông qua các văn bản pháp lý mới là: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày25/9/1989, Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990, Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/1/1990 và nhiều văn bản hướng dẫn khác. Sau đó, Quốc hội thông qua Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995 , Luật thương mại ngày 10/5/1997. Sự ra đời của các văn bản này một phần nào đó đã giải quyết được những bức xúc trên tuy nhiên những qui định còn chồng chéo mâu thuẫn, mập mờ, chất lượng văn bản còn chưa cao. Các văn bản này do được ban hành ở những hoàn cảnh kinh tế - xã hội khác nhau, đã không thể có được sự thống nhất về phương pháp tiếp cận cũng như nội dung quy phạm. Do đó đã gây ra hậu quả bất lợi về nhiều mặt, cả thể chế, thiết chế và thực tiễn hoạt động của các cơ quan Nhà nước có liên quan, làm kìm hãm, trì trệ các hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Những bất cập đó đã dẫn đến một yêu cầu cấp bách phải xây dựng lại các quy định về hợp đồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Để giải quyết vấn đề này, đồng thời để đáp ứng nhu cầu hội nhập WTO, Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 ra đời với những quy định thống nhất đã đánh dấu bước phát triển mới của hợp đồng. Hiện nay, các văn bản điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là hai văn bản này. Các quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hoá bao gồm các văn bản sau: - Bộ luật dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thực hiện ngày 01/01/2006. - Bộ luật hàng hải số 40/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực thực hiện ngày 01/01/2006. - Luật Thương mại thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thực hiện ngày 01/01/2006. - Luật Dầu khí số 20/1993/QH9 được Quốc hội thông qua ngày 06 tháng 7 năm 1993 ;Luật số 19/2000/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí 1993 được Quốc hội thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000; Luật số 19/2000/QH10 sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Dầu khí số 10/2008/QH12 được Quốc hội thông qua ngày 03-06-2008. - Luật Điện lực số 28/2004/QH11 được Quốc hội khóa 11 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004 … - Và hệ thống các văn bản khác có liên quan như: + Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh. + Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa. Về nguyên tắc áp dụng, theo quy định tại Điều 4 Luật Thương mại 2005 thì nguyên tắc áp dụng quy định như sau: Hoạt động thương mại phải tuân theo LTM và pháp luật có liên quan; hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó; hoạt động thương mại không được quy định trong LTM và trong các luật khác thì áp dụng quy định của BLDS. II.Các quy định pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá 1.Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá Việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của các bên nhằm thoả mãn những nhu cầu về vật chất, văn hoá tinh thần của mỗi bên và phải hướng tới lợi ích chung của toàn xã hội. Ngoài ra các bên còn phải thể hiện việc chấp hành pháp luật, thể hiện tinh thần tôn trọng truyền thống đạo đức xã hội của trong quá trình thực hiện các giao dịch dân sự. Khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên có liên quan phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản khi giao kết hợp đồng dân sự và những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại. 1.1.Theo Điều 389_ Bộ luật dân sự 2005, việc giao kết hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau: a.Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của hợp đồng. Theo nguyên tắc này thì các bên đủ tư cách chủ thể có quyền tự do quyết định việc giao kết hợp đồng theo ý muốn chủ quan và vì lợi ích của chính họ. Các bên chủ thể có quyền tự do lựa chọn việc giao kết với ai, với nội dung như thế nào, hình thức ra sao. Mọi cam kết thoả thuận hợp pháp đều được nhà nước bảo hộ,và khi không có sự tự nguyện của các bên có thể bị tuyên bố vô hiệu. Tuy nhiên, sự tự do đó không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Khi đó thì hợp đồng giao kết mới được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Đạo đức xã hội là những trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục hình thành từ một cơ sở kinh tế nhất định và đã được cộng đồng thừa nhận. Với cơ sở kinh tế và chế độ chính trị hiện nay của Việt Nam thì hành vi được xem là không trái đạo đức xã hội nếu nó luôn đảm bảo được rằng “giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” (Điều 8 BLDS). Tôn trọng pháp luật có nghĩa là chủ thể tham gia hợp đồng ngoài việc phải tôn trọng nghĩa vụ đã cam kết trong lĩnh vực pháp lý đó còn phải tôn trọng và tuân thủ những qui định chung của pháp luật. Tuy rằng quan hệ hợp đồng xác lập trên cơ sở tự nguyện nhưng các bên không thể tiến hành tuỳ tiện mà phải thực hiện trong một khuôn khổ một giới hạn nhất định, luôn luôn phải “ Tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (Điều 10 BLDS). b.Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng Theo nguyên tắc này các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng và bảo đảm nội dung của quan hệ đó. Hợp đồng phải thể hiện được sự tương ứng về quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các bên. Các bên khi giao kết không được đe dọa, cưỡng ép bên kia giao kết hợp đồng với mình mà không theo ý chí của họ. Nếu phát hiện hợp đồng được giao kết mà bị đe dọa, cưỡng ép, lừa dối để giao kết thì hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu. Bên cạnh đó, trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng các bên phải thể hiện rõ thái độ trung thực và ngay thẳng. Trung thực và ngay thẳng có nghĩa là các phải nói rõ cho nhau biết về tình trạng và đặc tính của đối tượng, không được lừa dối nhau, nếu che dấu khuyết tật của đối tượng hợp đồng nhằm mục đích tư lợi mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường. Ngoài ra, các bên phải có tinh thần hợp tác lẫn nhau. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên tương trợ, giúp đỡ và thông tin cho nhau để đáp ứng nhu cầu và bảo đảm lợi ích cho các bên. Theo nguyên tắc này, các bên phải luôn quan tâm đến nhau, tạo điều kiện giúp nhau khắc phục khó khăn trong quá trình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Hơn nữa, nguyên tắc này đòi hỏi cả hai bên phải cùng nhau tìm và thực hiện mọi biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế khi có thiệt hại xảy ra. Nếu bên nào có điều kiện mà không thực hiện các biện pháp ngăn chặn sẽ bị coi là có lỗi và phải gánh chịu thiệt hại. 1.2.Luật thương mại 2005 qui định các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại từ Điều 10 đến Điều 15 a.Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng (Điều 10) Quyền bình đẳng thể hiện ở chỗ mọi cá nhân, pháp nhân, tổ chức đều được hoạt động thương mại trong khuôn khổ pháp lý chung và được Nhà nước bảo hộ, không có sự phân biệt đối xử giữa các chủ thể khác nhau. b.Nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá (Điều 11) Trong quá trình giao kết hợp đồng các bên cần hoàn toàn tự nguyện, không bên nào thực hiện hành vi áp đặt cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Nguyên tắc này được tuân thủ theo tinh thần chung của BLDS. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức được tự do lựa chọn đối tác, hình thức, xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như việc tự thoả thuận cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh. Việc thoả thuận này luôn được pháp luật bảo đảm nếu nó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội. c.Nguyên tắc áp dụng thói quen trong thương mại(Điều 12) Thói quen là qui tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên, được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch. Các bên được mặc nhiên áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng không trái với qui định của pháp luật, trừ trường hợp có thoả thuận khác. d.Nguyên tắc áp dụng tập quán trong thương mại (Điều 13) Các bên trong hợp đồng có quyền áp dụng tập quán thương mại nếu tập quán đó không trái với các nguyên tắc của Luật thương mại và Bộ luật dân sự 2005. Việc áp dụng tập quán thương mại có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thương mại, đặc biệt trường hợp các bên trong giao dịch hợp đồng không có thoả thuận hoặc thoả thuận không đầy đủ các điều khoản cụ thể của hợp đồng, pháp luật không có qui định và giữa các bên không có thói quen đã được thiết lập. e.Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng (Điều 14) Nguyên tắc này quy định rằng khi thương nhân thực hiện hoạt động thương mại có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin đó đồng thời thương nhân thực hiện hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh. Như vậy nguyên tắc này nhằm nâng cao nghĩa vụ, trách nhiệm và tính trung thực, ngay thẳng của người bán trong hoạt động kinh doanh; bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng; làm trong sáng môi trường kinh doanh. f.Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu (Điều 15) Theo khoản 5 điều 3 Luật thương mại 2005 thì thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử. Các thông điệp dữ liệu được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương như một văn bản nếu đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo qui định của pháp luật. Như vậy nguyên tắc này có ý nghĩa pháp lý quan trọng trong việc thiết lập các qui định về hình thức của hợp đồng thương mại, đáp ứng yêu cầu thực tiễn về các giao dịch thương mại. 2.Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa Hợp đồng mua bán hàng hoá được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân, ngoài ra nó còn được thiết lập giữa thương nhân và các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân. Ta có thể phân chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hoá thành các loại sau: 2.1.Chủ thể là thương nhân Theo Điều 1 khoản 6 Luật thương mại 2005 thì “Thương nhân bao gồm tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Thương nhân gồm có thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài. Theo Điều 16 khoản 1 Luật thương mại 2005 “Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận”. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Thương nhân có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác. a.Thương nhân là cá nhân Hợp đồng mua bán hàng hoá được thiết lập chủ yếu giữa các chủ thể là thương nhân. Thương nhân là cá nhân sẽ bao gồm: Cá nhân kinh doanh; doanh nghiệp tư nhân. Trong quá trình tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, các cá nhân tự mình tham gia vào hoạt động này do đó họ sẽ phải chịu mọi trách nhiệm về hành vi thương mại của mình, vì vậy những người dưới đây không được công nhận là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá : - Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Pháp luật qui định những người này không được công nhận là chủ thể hợp pháp của hợp đồng mua bán hàng hoá vì họ không đủ khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình để tham gia vào những giao dịch thương mại. - Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang phải chấp hành hình phạt tù. - Người đang trong thời gian bị toà án tước quyền hành nghề vì các tội buôn lậu, đầu cơ, buôn bán hàng cấm, làm hàng giả, buôn bán hàng hoá, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội theo qui định của pháp luật. b.Thương nhân là tổ chức Không phải tất cả những tổ chức là pháp nhân đều có thể trở thành thương nhân mà chỉ có những pháp nhân nào là tổ chức kinh tế được thành lập để hoạt động thương mại mới trở thành thương nhân. Có thể hiểu tổ chức kinh tế trước hết phải là tổ chức có tư cách pháp nhân trong quá trình hoạt động thương mại và hoạt động một cách thường xuyên và độc lập. Theo Điều 84_ Bộ luật dân sự 2005 thì một tổ chức kinh tế được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: Được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia vào quan hệ pháp luật một cách độc lập. Do đó, các thương nhân là tổ chức có thể là công ty cổ phần; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty hợp danh; doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức kinh tế khác có đủ điều kiện theo qui định của pháp luật. 2.2.Chủ thể không phải là thương nhân Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá khi họ giao kết với thương nhân. Nghĩa là một bên của hợp đồng là cá nhân tổ chức hoạt động thương mại độc lập thường xuyên còn bên kia là các chủ thể không cần các điều kiện nói trên. Khác với bên là thương nhân, bên không phải là thương nhân có thể là mọi chủ thể có đủ năng lực hành vi để tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá theo qui định của pháp luật. Đó có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, cũng có thể là hộ gia đình, tổ hợp tác và không hoạt động thương mại thường xuyên như một nghề. Và hoạt động của bên chủ thể này phải tuân theo Luật thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng luật thương mại (Điều 1 khoản 3_ Luật thương mại 2005). 3.Nội dung và hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa 3.1.Nội dung của hợp đồng Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá là tất cả các điều khoản do hai bên thoả thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng theo qui định của pháp luật. Bởi vì trong Luật thương mại 2005 không có điều khoản nào qui định về nội dung bắt buộc cần có trong hợp đồng mua bán hàng hoá nên ta xem xét theo Điều 402 Bộ luật Dân sự 2005 quy định, tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây: a.Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá Hợp đồng mua bán sẽ không thể hình thành được nếu thiếu điều khoản về đối tượng của hợp đồng. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá được xác định thông qua tên gọi của hàng hoá. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên có thể ghi rõ tên hàng bằng tên thông thường, tên thương mại, tên khoa học… để tránh có sự sai lệch về đối tượng của hợp đồng. b.Số lượng, chất lượng hàng hóa Điều khoản về số lượng hàng hoá xác định về mặt lượng đối với đối tượng của hợp đồng. Việc giao đúng số lượng là nghĩa vụ của bên bán. Do vậy nếu bên bán không giao đúng số lượng thì bên mua có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm để hợp đồng có thể được thực hiện. Điều khoản về chất lượng hàng hoá xác định chất lượng đối với đối tượng của hợp đồng. Chất lượng của hàng hoá giúp xác định chính xác đối tượng của hợp đồng, như tác dụng, công suất hiệu quả, qui cách, tính năng, kích thước… c.Giá, phương thức thanh toán Giá cả được các bên thoả thuận và ghi rõ trong hợp đồng. Nếu không ghi cụ thể giá thì phải xác định rõ phương thức xác định giá để bên mua thuận lợi trong việc thanh toán. Phương thức thanh toán là cách thức mà bên mua và bên bán thoả thuận, theo đó bên mua phải thanh toán cho bên bán tiền hàng đã mua theo một phương thức nhất định. d.Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng Thời hạn thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian mà bên bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho bên mua theo đúng đối tượng, đúng địa điểm đã thoả thuận trong hợp đồng. Địa điểm giao hàng là nơi các bên tiến hành giao nhận hàng hoá. e.Quyền, nghĩa vụ của các bên Do hợp đồng mua bán hàng hoá là hợp đồng song vụ nên quyền và nghĩa vụ của các bên là tương ứng với nhau, thường được các bên thoả thuận phù hợp với nguyên tắc của Luật thương mại 2005 và Bộ luật dân sự 2005. Theo đó, bên bán có các nghĩa vụ chính là : Đảm bảo quyền sở hữu hàng hoá, giao hàng đúng thời hạn, giao hàng đúng địa điểm, kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng, giao hàng đúng đối tượng, số lượng và chất lượng, giao hàng kèm theo chứng từ (nếu có), bảo hành hàng hoá (nếu có). Các nghĩa vụ này tương ứng với quyền cơ bản của bên mua. Nghĩa vụ cơ bản của bên mua là : Nhận hàng, thanh toán tiền hàng, tương ứng với quyền cơ bản của bên bán. f.Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng Là các biện pháp chế tài mà cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bên bị vi phạm áp dụng đối với bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng hoá bao gồm : Buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng; huỷ bỏ hợp đồng; các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. g.Phạt vi phạm hợp đồng Điều khoản này thỏa thuận về vấn đề bên mua và bên bán có những quyền và nghĩa vụ gì khi có sự vi phạm hợp đồng; trong trường hợp đó thì mức phạt và bồi thường hợp đồng sẽ thực hiện như thế nào; khi xảy ra tranh chấp thì sẽ được giải quyết ở đâu. h.Các nội dung khác Các điều khoản khác thường là các điều khoản về bảo đảm thực hiện hợp đồng, các cam kết thực hiện hợp đồng. Việc đưa vào trong hợp đồng các điều khoản này là rất cần thiết. Nó sẽ giúp cho việc giao kết và thực hiện nhanh chóng, hiệu quả và hạn chế được tranh chấp xảy ra vì hợp đồng là cơ sở cho các bên căn cứ vào đó để thực hiện và nó cũng là công cụ pháp lý để các bên dẫn chiếu nếu có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, pháp luật không bắt buộc phải có nội dung chủ yếu của hợp đồng mà chỉ quy định những điều khoản này để cho các bên tham khảo và thỏa thuận đưa vào trong hợp đồng. Quy định này nhằm tôn trọng ý chí, sự tự nguyện của đôi bên trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. 3.2. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa Hình thức của hợp đồng mua bán là căn cứ để xác định người bán và người mua đã tham gia vào hợp đồng mua bán, từ đó xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng; xác định trách nhiệm dân sự của bên vi phạm. Theo điều 24 của Luật Thương mại thì hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. a.Hình thức bằng lời nói Đây là hình thức theo đó các bên giao kết hợp đồng chỉ thỏa thuận với nhau bằng lời nói về nội dung cơ bản của hợp đồng. Hình thức này có thuận lợi ở điểm là việc giao kết hợp đồng nhanh chóng. Tuy nhiên nó lại có điểm bất lợi là khi xảy ra tranh chấp thì các bên sẽ khó khăn trong việc tìm chứng cứ thể hiện những thỏa thuận trong hợp đồng với nhau. Do đó, hình thức này thường được áp dụng trong trường hợp các bên có sự tin tưởng lẫn nhau, hợp đồng được thực hiện và chấm dứt ngay sau đó hoặc giá trị hợp đồng không lớn. b.Hình thức bằng văn bản Trong văn bản này các bên ghi đầy đủ nội dung cơ bản của hợp đồng và sau khi được soạn thảo thì các bên cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Khi xảy ra tranh chấp, hình thức hợp đồng bằng văn bản sẽ tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức lời nói. Do đó, hình thức văn bản thường được sử dụng rộng rãi hơn. c.Hình thức giao kết bằng hành vi cụ thể Hình thức giao kết bằng hành vi cụ thể là hình thức mà các bên thể hiện sự thỏa thuận của mình bằng việc thực hiện một hành vi cụ thể theo qui ước định trước. Đó là việc bên bán giao hàng, bên mua thanh toán mà không cần một văn bản nào hay một thỏa thuận bằng miệng nào. Đây là hình thức đơn giản nhất trong giao dịch hợp đồng. Hợp đồng có thể được xác lập thông qua hình thức này mà không nhất thiết phải có sự hiện diện đồng thời của tất cả các bên tại nơi giao kết. 4.Phương thức và trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa 4.1.Phương thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được giao kết bằng phương thức trực tiếp hoặc phương thức gián tiếp. a.Phương thức giao kết trực tiếp Phương thức giao kết này được thực hiện như sau: các bên trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng để đi đến thống nhất về nội dung của hợp đồng và cùng ký tên vào văn bản của hợp đồng (nếu hình thức hợp đồng là văn bản). b.Phương thức giao kết gián tiếp Theo phương thức này thì các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc, thảo luận mà trao đổi với nhau thông qua các tài liệu giao dịch như: công văn, điện báo, đơn đặt hàng, fax, thông điệp dữ liệu điện tử khác…trong đó ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch. 4.2. Trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá a. Đề nghị giao kết hợp đồng Trong hợp đồng mua bán hàng hoá, đề nghị giao kết hợp đồng chính là chào hàng. Điều 390 quy định “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng bu._.ộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. Như vậy, một đề nghị giao kết hợp đồng là văn bản có nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá, được chuyển cho một hoặc nhiều nguời nhất định, có giá trị trong một thời gian nhất định. Những nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng gồm đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán…và phải rõ ràng để bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể hiểu được mong muốn giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết hợp đồng. Khi đó bên đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu sự ràng buộc bởi những nội dung đã đề nghị và không được thay đổi nội dung đó nếu bên được đề nghị đã đồng ý. Như vậy, trách nhiệm của bên đề nghị bắt đầu từ thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng được chuyển đi cho bên được đề nghị đến hết thời hạn ghi trong đề nghị giao kết hợp đồng. b. Chấp nhận giao kết hợp đồng Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị chuyển cho bên đề nghị về việc chấp thuận tất cả các nội dung đã nêu trong đề nghị giao kết hợp đồng. Như vậy, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chỉ có giá trị khi đó là hành vi mang tính tích cực của đối tác trong giao dịch mua bán hàng hoá. Trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được thông báo chấp nhận đề nghị sau khi hết thời hạn chờ trả lời thì đó được coi như là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan, mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết này vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị giao kết hợp đồng. Trong trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có điều kiện sửa đổi, bổ sung một trong những nội dung của đề nghị thì hành vi đó được coi là từ chối đề nghị và hình thành một đề nghị giao kết hợp đồng mới. Nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng được sửa đổi, bổ sung có thể là điều kiện về giá, thanh toán, chất lượng, số lượng, địa điểm thời gian giao hàng… c. Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán được quy định khác nhau phụ thuộc vào cách thức giao kết và hình thức của hợp đồng. Dựa theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, tại Điều 404, có thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo các trường hợp sau: - Nếu hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản. - Hợp đồng giao kết gián tiếp bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng là khi bên chào hàng nhận được trả lời chấp nhận chào hàng vô điều kiện. - Nếu hợp đồng được giao kết bằng lời nói thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Ngoài ra, khoản 2 Điều 404 Bộ luật dân sự 2005 còn quy định sự im lặng của bên nhận chào hàng cho đến khi hết thời hạn trả lời cũng có thể được coi là căn cứ xác định hợp đồng được giao kết nếu như có thỏa thuận im lặng là sự chấp nhận giao kết hợp đồng. III. Một số vấn đề pháp lý về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa 1.Khái niệm thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa Sau khi hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết và đáp ứng đầy đủ các điều kiện pháp luật quy định thì hợp đồng phải được thực hiện và các điều khoản của hợp đồng có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá là việc bên bán và bên mua tiến hành các nghĩa vụ mà mỗi bên tham gia hợp đồng phải thực hiện nhằm đáp ứng các quyền tương ứng của bên kia theo như nội dung đã thỏa thuận cam kết trong hợp đồng. 2.Nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá 2.1.Nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng Ý nghĩa của nguyên tắc này là các bên phải thực hiện đầy đủ, đúng các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng về đối tượng, thời hạn, địa điểm, các phương thức giao nhận và thanh toán . Nếu thực hiện không đúng, đủ làm ảnh hưởng đến bên cùng cam kết thì phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Nguyên tắc này giúp nâng cao trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện những nghĩa vụ đã cam kết. Do vậy, nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo hiệu quả cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục, thông suốt nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường. 2.2.Nguyên tắc thực hiện hợp đồng một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau Nguyên tắc này xuyên suốt quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng, cũng như giải quyết những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Theo đó, các bên có nghĩa vụ hợp tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi, giúp đỡ lẫn nhau để thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các cam kết trong hợp đồng. Các bên có trách nhiệm cùng nhau khắc phục tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng như luôn thông tin cho nhau về tiến độ thực hiện , những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Và ngay cả khi giải quyết tranh chấp cũng phải bàn bạc để có thể ngăn chặn và giảm bớt thiệt hại có thểxảy ra cho các bên, từ đó tìm ra hướng giải quyết tối ưu nhất, có lợi nhất cho các bên. 2.3.Nguyên tắc thực hiện hợp đồng không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác Các bên khi giao kết và thực hiện hợp đồng vì lợi ích riêng các bên nhưng cũng phải hướng tới lợi ích của Nhà nước và lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội nói chung. Chính vì thế, trật tự pháp luật sẽ luôn được củng cố và lợi ích của các bên được bảo vệ và không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người khác. Ngoài ra, đôi bên khi thực hiện hợp đồng không được xâm phạm lợi ích hợp pháp của người khác tức là lợi ích hợp pháp của bên thứ ba. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ bên bán có nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu tài sản của bên bán cho bên mua là không bị người thứ ba tranh chấp. 3.Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng Việc xác lập và thực hiện các hợp đồng trước hết là dựa vào sự tự giác của các bên nhưng trong thực tế, không phải bất cứ ai khi tham gia giao dịch đều có thiện chí trong việc thực hiện hợp đồng một cách nghiêm chỉnh. Do vậy trong hợp đồng thường có điều khoản thỏa thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng để đảm bảo độ tin cậy cho các bên đồng thời giúp các bên có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng. Theo Điều 318 BLDS, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp. Tuy nhiên, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, không áp dụng biện pháp bảo đảm bằng ký cược hay biện pháp bảo đảm bằng tín chấp. Bởi vì ký cược là biện pháp để bảo đảm trả lại tài sản thuê trong hợp đồng cho thuê tài sản, còn tín chấp là biện pháp mà do Tổ chức chính trị xã hội đứng ra bảo đảm cho hộ gia đình nghèo vay tiền tại Ngân hàng hoặc Tổ chức tín dụng. 3.1.Cầm cố tài sản Theo quy định tại Điều 326 BLDS năm 2005 thì cầm cố tài sản là việc trao động sản thuộc quyền sở hữu của mình cho phía bên kia trong quan hệ hợp đồng, để giữ gìn làm tin và bảo đảm tài sản trong trường hợp vi phạm hợp đồng đã được ký kết. Việc cầm cố phải được lập thành văn bản riêng, có xác nhận của cơ quan công chứng hay cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trong trường hợp mà không có cơ quan công chứng). Người thực hiện việc giữ vật bị cầm cố phải bảo đảm giữ nguyên giá trị của vật đó, không được chuyển dịch sở hữu vật cầm cố cho người khác trong thời gian văn bản cầm cố có hiệu lực. 3.2.Thế chấp tài sản Thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình bảo đảm tài sản cho việc thực hiện hợp đồng đã ký kết.Tài sản có thể là động sản, bất động sản hay giá trị tài sản khác. Hình thức thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản hay ghi trong hợp đồng chính, phải có xác nhận của cơ quan công chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn văn bản thế chấp có hiệu lực người thế chấp tài sản có nghĩa vụ phải bảo đảm giữ nguyên giá trị của tài sản thế chấp; không được chuyển dịch sở hữu hay tự động chuyển giao tài sản đó cho người khác trong thời gian văn bản thế chấp đó có hiệu lực. Bên cạnh đó, nếu bên nhận thế chấp giữ giấy tờ về tài sản thế chấp thì sẽ phải trả lại giấy tờ về tài sản thế chấp đó cho bên thế chấp khi chấm dứt thế chấp. 3.3.Đặt cọc Đặt cọc là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, được định nghĩa tại Điều 358 BLDS năm 2005 ‘Ðặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự”. Khi tiến hành đặt cọc thì phải lập thành văn bản ghi rõ các vấn đề như đối tượng, giá trị bằng tiền hay tài sản đặt cọc, thời hạn đặt cọc trong văn bản. Trong trường hợp, hợp đồng dân sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 3.4.Ký quỹ Theo khoản 1 Điều 360 BLDS thì ký quỹ cũng là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với các bên, nó được thực hiện thông qua ngân hàng – nơi nhận tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho một bên trong hợp đồng. Ngân hàng sẽ được bên có quyền yêu cầu thanh toán hay bồi thường thiệt hại (sau khi đã trừ đi chi phí dịch vụ ngân hàng) do bên có nghĩa vụ gây ra khi không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ. 3.5.Bảo lãnh Bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Tài sản bảo lãnh phải ngang bằng hoặc lớn hơn giá trị phần nghĩa vụ được cam kết thực hiện. Ngoài sự xác nhận của cơ quan công chứng nhà nước thì phải có thêm sự chứng thực của cơ quan ngân hàng, nơi người bảo lãnh mở tài khoản hay thực hiện các giao dịch khác chứng nhận về mức giá trị tài sản, hay về khoản tiền có trong tài khoản đưa ra bảo lãnh mới chính thức công nhận có sự bảo lãnh tài sản cho người có nghĩa vụ tài sản trong hợp đồng. Việc xử lý, hủy bỏ hay chấm dứt việc bảo lãnh được quy định tại các Điều 369, 370 và 371 BLDS 2005. 4.Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng vô hiệu, biện pháp xử lý 4.1.Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa Theo Điều 405 BLDS quy định hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Như vậy, trong nhiều trường hợp thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không trùng hợp với thời điểm giao kết hợp đồng. Để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực thì phải có đủ các điều kiện sau đây: Thứ nhất, hợp đồng được giao kết đảm bảo các nguyên tắc của hợp đồng theo quy định của pháp luật. Hợp đồng được giao kết phải đảm bảo sự thỏa thuận của các bên phù hợp với ý chí của họ, hướng đến những lợi ích chính đáng của các bên đồng thời không xâm hại những lợi ích hợp pháp của các bên khác được pháp luật bảo vệ. Thứ hai, chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa phải có năng lực chủ thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Ngoài ra, các bên tham gia ký kết còn phải có thẩm quyền ký kết. Đại diện của các bên ký kết phải là đại diện hợp pháp. Có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng không bị cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật. Thứ tư, hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật. Theo Điều 24 LTM năm 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mà pháp luật quy định phải được thiết lập bằng văn bản thì phải. Khi không tuân thủ các điều kiện trên thì hợp đồng mua bán hàng hóa bị vô hiệu. 4.2.Hợp đồng vô hiệu và biện pháp xử lý Những hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu khi nó trái với quy định của pháp luật hoặc không đủ những điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Hợp đồng bị vô hiệu theo hai loại là hợp đồng vô hiệu toàn bộ, hợp đồng vô hiệu từng phần. a.Hợp đồng vô hiệu toàn bộ Một hợp đồng mua bán hàng hoá bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường hợp sau : Khi vi phạm vào các điều cám của pháp luật, trái với đạo đức xã hội ; khi hợp đồng được giao kết một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba; khi hình thức của hợp đồng không tuân thủ theo các quy định bắt buộc của pháp luật. b.Hợp đồng vô hiệu từng phần Hợp đồng vô hiệu từng phần trong các trường hợp sau : Khi hợp đồng được ký kết bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; khi hợp đồng được ký kết do bị nhầm lẫn ; khi một bên chủ thể tham gia xác lập hợp đồng do bị lừa dối, đe doạ ; khi người xác lập hợp đồng đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập vào thời điểm không nhận thức được hành vi của mình. Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. 5.Trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng 5.1. Khái niệm vi phạm hợp đồng Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là hành vi mà các bên vi phạm những điều quy định đã được thỏa thuận và những quy định pháp luật theo điều 320 của Luật Thương mại năm 2005. Chế định trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng có vai trò bảo đảm, củng cố kỷ luật hợp đồng, phòng ngừa vi phạm pháp luật về hợp đồng, tăng cường ý thức trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện cam kết: Khi các bên tự nguyện giao kết hợp đồng thì họ sẽ bị ràng buộc bởi chính những cam kết đó, ngay cả khi một bên không có lợi ích phát sinh; những hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng đều bị đe dọa phải gánh chịu các biện pháp trách nhiệm hợp đồng; việc áp dụng trách nhiệm hợp đồng với các chế tài như buộc thực hiện hợp đồng, phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại… chính là những biện pháp bảo hộ pháp lý đảm bảo , củng cố kỷ luật hợp đồng. 5.2.Căn cứ áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá a.Có hành vi vi phạm hợp đồng Hành vi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá là việc các chủ thể trong hợp đồng thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng và qui định trong hợp đồng nói chung. Trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên không chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thoả thuận trong hợp đồng, mà còn phải thực hiện những nghĩa vụ theo qui định của pháp luật. Vì vậy khi xem xét có hành vi vi phạm hợp đồng hay không, cần phải căn cứ vào hợp đồng và các qui định của pháp luật. b.Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra Thiệt hại thực tế là những thiệt hại có thể tính được thành tiền mà bên bị vi phạm phải gánh chịu như hàng hoá mất mát, hư hỏng…Thiệt hại vật chất thực tế do vi phạm hợp đồng mua bán gây ra là căn cứ bắt buộc phải có khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. c. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế được xác định khihành vi vi phạm và thiệt hại thực tế có mối quan hệ nội tại tất yếu; hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi vi phạm hợp đồng. Trên thực tế, một hành vi vi phạm hợp đồng có thể gây ra nhiều khoản thiệt hại và một khoản thiệt hại cũng có thể được sinh ra do nhiều hành vi vi phạm hợp đồng. d. Có lỗi của bên vi phạm Lỗi của bên vi phạm hợp đồng là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng đối với tất cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý và mức độ nhận thức của một người đối với hành vi của họ và hậu quả của hành vi đó. 5.3. Các chế tài pháp lý áp dụng khi vi phạm hợp đồng a. Buộc thực hiện hợp đồng Buộc thực hiện hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Bên vi phạm có thể gia hạn một thời gian hợp lý để bến vi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. b.Phạt vi phạm Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 Luật Thương mại 2005 . Phạt vi phạm chỉ xảy ra nếu có thỏa thuận về vấn đề này trong hợp đồng. Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 Luật Thương mại 2005 là do kết quả giám định sai. c.Buộc bồi thường thiệt hại Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm, nhằm khôi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp đồng mua bán. Nó chỉ được áp dụng nếu có những căn cứ theo qui định tại Điều 303 Lụât thương mại 2005:Có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Về nguyên tắc, bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm; tuy nhiên các khoản thiệt hại đòi bồi thường phải nằm trong phạm vi được pháp luật qui định. d.Tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là chế tài được quy định tại Điều 308 LTM 2005 ‘tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng. - Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Hậu quả pháp lý của việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng (Điều 309 LTM 2005) là việc bên vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng (Điều 310 LTM 2005) xét về bản chất, đó là hành vi đơn phương chấm dứt quan hệ hợp đồng của một bên khi bên kia vi phạm hợp đồng. Điều kiện để một bên có quyền áp dụng chế tài đình chỉ hợp đồng là khi một bên đã vi phạm hợp đồng. Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng bị chấm dứt hiệu lực từ thời điểm bên vi phạm nhận được thông báo đình chỉ của bên bị vi phạm. Do vậy, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên bị vi phạm bồi thường thiệt hại. Các bên trong quan hệ hợp đồng có quyền ký kết, quyền hủy bỏ hợp đồng mà họ đã ký kết. Theo pháp luật quy định tại Điều 388 BLDS 2005 thì thỏa thuận hủy bỏ hợp đồng cũng là hợp đồng. Đó là sự thỏa thuận của các bên về việc chấm dứt quyền, nghĩa vụ. Như vậy, hủy bỏ hợp đồng đòi hỏi một phần của hợp đồng cũng là quyền của bên bị vi phạm khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng hay một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. 5.4. Các trường hợp miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa Khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa, có nhiều trường hợp không phải chịu các hình thức chế tài mà pháp luật quy định. Đó là khi thuộc một trong các trường hợp các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Theo Điều 294 LTM 2005, ngoài các trường hợp miễn trách mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng, bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán còn được miễn trách trong các trường hợp sau: Khi xảy ra sự kiện bất khả kháng; Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. 6. Giải quyết tranh chấp và hình thức xử lý 6.1.Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng Khi xảy ra tranh chấp, phương thức đầu tiên mà các bên thường hay lựa chọn nhất là thương lượng. Phương thức này thể hiện được bản chất của giao kết hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên. Nó cũng là phương thức nhanh gọn và đảm bảo lợi ích của các bên được hài hòa hơn. Thương lượng có thể được tiến hành độc lập hoặc tiến hành cùng với quá trình tố tụng tại Trung tâm trọng tài hoặc Tòa án. Đối với thương lượng độc lập: Nghĩa vụ của các bên phải tiến hành trong quá trình thương lượng được quy định trong điều khoản về giải quyết tranh chấp. Do đó các bên phải tiến hành như là một điều khoản trong hợp đồng. Kết quả thương lượng được coi như một thỏa thuận mới về vấn đề tranh chấp, các bên phải đảm bảo được sự tự nguyện trong thỏa thuận theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên đối với phương thức này thì kết quả thỏa thuận khó được thi hành trong thực tế nên không có lợi cho bên thắng kiện. Đối với thương lượng được tiến hành theo thủ tục trọng tài hoặc Tòa án thì theo yêu cầu của các bên, trọng tài viên, thẩm phán có thể ra văn bản công nhận kết quả thỏa thuận của các bên sau quá trình thương lượng. Văn bản này có giá trị như một quyết định của Trọng tài hay Tòa án. 6.2.Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải Hòa giải là quá trình giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó có hòa giải viên là người thứ ba làm trung gian giúp các bên đạt được sự thỏa thuận. Với phương thức này, các bên có thể giải quyết tranh chấp một cách thân thiện và có thể tiếp tục giữ vững mối quan hệ trong kinh doanh; hạn chế tối đa sự hao phí thời gian và tiền của vào việc giải quyết tranh chấp nếu nó được tiến hành theo thủ tục tố tụng trọng tài hoặc tòa án; ngoài ra, nó không phải là quá trình tố tụng công khai nên đảm bảo giữ vững được các bí mật trong thương mại mà các bên không muốn cho người ngoài biết. Giữ vững uy tín và danh dự cho các bên. Do bản chất của hòa giải là sự tự nguyện thỏa thuận nên kết quả thỏa thuận không có tính chất bắt buộc thi hành cao như giải quyết tại Trung tâm trọng tài hay Tòa án. 6.3.Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài Những ưu điểm của phương thức này có thể được kể đến đó là: Đỡ tốn kém về thời gian bởi đây là phương thức giải quyết nhanh gọn và quyết định của trọng tài là chung thẩm nên không dây dưa kiện đi kiện lại, trừ các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu và cần được giải quyết tại Tòa án. Và nó cũng đảm bảo tính khách quan, trung lập của trọng tài. Phán quyết của trọng tài có hiệu lực thi hành cao bởi nó được Tòa án công nhận và cho thi hành qua một thủ tục tư pháp. Thứ ba, các trọng tài viên thường là những chuyên gia hàng đầu của hầu hết các ngành trọng yếu. Trình độ các trọng tài viên thường là tiến sĩ, nếu thấp cũng là cao học. Ngoài ra phương thức này cũng đảm bảo bí quyết kinh doanh của các bên vì nó không phải là phương thức giải quyết công khai như giải quyết tại Tòa án. Tuy nhiên đây lại là phương thức chưa được sử dụng phổ biến tại Việt Nam, có thể do trình độ hiểu biết pháp luật chưa cao nên khi giao kết hợp đồng không thoả thuận điều khoản trọng tài hay tâm lý e ngại và lo sợ phải tiếp cận với phương thức giải quyết mới mà chỉ giữ thói quen đưa tranh chấp ra toà án. Để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực và được giải quyết tại Trung tâm trọng tài thì phải có đủ các điều kiện sau: + Tranh chấp phải phát sinh từ hoạt động thương mại thương mại. Các hoạt động thương mại được liệt kê ở Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài năm 2003. + Trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có Thỏa thuận trọng tài. Nếu các bên không có thỏa thuận trọng tài mà khi xảy ra tranh chấp lại có thỏa thuận trọng tài thì cũng được áp dụng hình thức này, tuy nhiên phải thỏa thuận giải quyết tại trọng tài trước khi các bên khởi kiện lên trung tâm trọng tài. + Người ký kết thỏa thuận trọng tài có năng lực ký kết theo quy định của pháp luật. Đó là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có thẩm quyền ký kết thỏa thuận đó. Tuy nhiên trong trường hợp nếu người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết và khi phát sinh tranh chấp mà một bên có yêu cầu tòa án giải quyết, thì tòa án yêu cầu người có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài cho biết ý kiến bằng văn bản họ có chấp nhận thỏa thuận trọng tài đó hay không. Nếu họ chấp nhận thì trường hợp này thỏa thuận trọng tài không vô hiệu và vụ tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo thủ tục chung. + Bên ký kết thỏa thuận trọng tài không bị lừa dối, bị đe dọa. + Thỏa thuận trọng tài phải quy định rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp, nếu không quy định rõ thì sau đó phải có thỏa thuận bổ sung. + Thỏa thuận trọng tài phải được lập theo hình thức do pháp luật quy định: “Thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Thỏa thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản”. 6.4.Giải quyết tranh chấp bằng tòa án Tòa án là cơ quan chủ yếu giải quyết các tranh chấp, bất đồng không những chỉ trong hoạt động kinh doanh thương mại mà còn các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Tuy nhiên đối với từng lĩnh vực thì có một tòa chuyên trách cho lĩnh vực đó giải quyết. Đối với lĩnh vực kinh doanh thương mại thì tòa kinh tế sẽ chịu trách nhiệm giải quyết. Những tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án được quy định tại Điều 29 – Bộ Luật tố tụng dân sự 2004. Để được giải quyết theo phương thức này thì không nhất thiết các bên phải thỏa thuận trước đó sẽ giải quyết tại Tòa án. Khi có tranh chấp xảy ra, nguyên đơn có quyền khởi kiện ra Tòa án nếu các bên không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Với phương thức giải quyết này ta có thể thấy được những ưu điểm đó là phán quyết của Tòa án có tính cưỡng chế thi hành cao. Tuy nhiên phương pháp này lại là phương pháp giải quyết công khai nên bất lợi cho các bên, đặc biệt là những lĩnh vực kinh doanh cần phải giữ bí mật cho bí quyết kinh doanh của mình. Ngoài ra, khi đã giải quyết được tranh chấp thì các bên khó có thể giữ được mối quan hệ trong kinh doanh như trước đây đã từng có. Mỗi phương thức giải quyết đều có ưu nhược điểm riêng, vì vậy khi ký hợp đồng các bên nên lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp, có lợi nhất cho các bên và đảm bảo sự công bằng, bình đẳng sau khi giải quyết tranh chấp. CHƯƠNG II : THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI CÔNG TY TNHH HỖ TRỢ KỸ THƯƠNG LÊ VÀ VŨ I.Giới thiệu chung về công ty TNHH Hỗ Trợ Kỹ Thương Lê và Vũ 1.Lịch sử hình thành của công ty Một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời đại ngày nay là đã khơi dậy được tiềm năng của các thành phần kinh tế thông qua chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong đó, kinh tế tư nhân đóng vai trò hết sức quan trọng. Kinh tế tư nhân ra đời khẳng định vai trò đặc biệt của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế Việt Nam. Sự thành công rất lớn của các doanh nghiệp cùng xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá khiến cho việc thành lập các công ty trách nhiêm hữu hạn là xu thế tất yếu. Năm 2004, công ty trách nhiệm hữu hạn hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ ra đời. Công ty có: -Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: số 0102011165 đăng ký lần đầu ngày 16/1/2004, đăng ký thay đổi lần 2 ngày 14 tháng 7 năm 2008 - Tên giao dịch là : Le & Vu promotionfortrading & Technologycompany limited -Tên viết tắt là : L&V promotion Co.,LTD -Địa chỉ trụ sở chính là : 43A Liên Trì, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà nội -Điện thoại là : (043)8228007 -Fax là : (043)8228007 -Email là : lvpromotionvn@vnn.vn -Website là : Sau khi được cấp giấy phép kinh doanh, công ty bắt đầu đi vào hoạt động vào tháng 1 năm 2004.Với số vốn điều lệ là 1,8 tỷ, trong giai đoạn đầu, quy mô công ty còn nhỏ với lĩnh vực hoạt động chủ yếu là xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như : gốm, sứ, mây, tre đan, lụa… 2.Quá trình phát triển của công ty Sau khi được thành lập, công ty đã nhanh chóng mở rộng và phát triển, đồng thời xuất khẩu và nhập khẩu nhiều mặt hàng khác nhau. Trong những năm qua, hoạt động thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ đồng thời vừa mở ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu vừa đặt ra những thách thức mới do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt trên thị trường thế giới. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những hoạt động đem về cho đất nước nhiều ngoại tệ nhất. Mặc dù hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có nhiều lợi thế xuất khẩu nhưng thực tế kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của chúng ta còn quá nhỏ bé so với nhu cầu trên thị trường thế giới. Nguyên nhân do thị phần xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ bé, hầu như các doanh nghiệp mới chỉ chú ý đến mở rộng thị trường xuất khẩu mà chưa đẩy mạnh xuất khẩu theo chiều sâu. Trong những năm tới, nhu cầu về các sản phẩm thủ công mỹ nghệ trên thế giới còn có xu hướng tăng nhiều hơn nữa. Trước tình hình đó việc phát triển thị trường đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu luôn là mục tiêu quan trọng. Thị phần càng lớn thì khối lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp càng lớn, sẽ làm tăng lợi nhuận và vị thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đối với công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê & Vũ, thị trường xuất khẩu chủ yếu là nước Mỹ, sản phẩm được xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như gốm, sứ, mây, tre đan… Ngoài ra, công ty còn tích cực khai thác thị trường trong nước bằng việc nhập khẩu một số mặt hàng công nghệ cao như máy tính, máy in, nguyên nhiên liệu để bán cho thị trường trong nước. Khi Việt Nam còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, có nhiều hạn chế về trình độ khoa học kỹ thuật thì tiếp cận những công nghệ và kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài l._.không tương xứng với giá trị thực tế của nó; vật được đem làm vật thế chấp, cầm cố hay bảo không được phép để đem ra làm bảo đảm …Hoặc có khi do quen biết, do làm ăn lâu năm, hay do ngại thủ tục rườm rà nên khi giao kết hợp đồng công ty đã không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Đây có thể là một trong những yếu tố dẫn tới hợp đồng bị vô hiệu, gây tổn thất không đáng có cho cả hai bên tham gia hợp đồng. b.Khó khăn trong công tác thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá Điều kiện vật chất và con người của công ty là những yếu tố hàng đầu tạo nên thành công cho doanh nghiệp. Tuy vậy, cơ sở vật chất, công nghệ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê & Vũ lại còn hạn chế nên việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong công ty tại một số giai đoạn còn gặp khó khăn. Ngoài ra, cơ cấu lao động của công ty đa phần là các nhân viên trẻ, trình độ giữa họ chưa đồng đều còn thiếu kinh nghiệm vì thế nên việc thực hiện hợp đồng còn chậm, chưa linh hoạt. Có thể nói, những khó khăn trên ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. Do vậy đã làm năng suất lao động, doanh thu và lợi nhuận của công ty bị sụt giảm. Thế nên công ty cần đề ra các phương hướng tháo gỡ, giải quyết triệt để những khó khăn trên, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của công ty trong hoạt động mua bán hàng hóa. II. Một số kiến nghị 1.Kiến nghị về phía nhà nước nhằm hoàn thiện pháp luật Trong quá trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá thưòng dễ nảy sinh tranh chấp nên rất cần sự hỗ trợ về mặt pháp lý. Việc nhà nước cần quan tâm hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về lĩnh vực này là điều thực sự cần thiết. Sau đây là một số kiến nghị : a.Nhà nước cần ban hành một hệ thống pháp luật văn bản pháp lý thống nhất, ổn định và minh bạch. Để đạt được điều đó, khi xây dựng pháp luật cần chú ý tới các vấn đề sau : Thứ nhất, để việc áp dụng pháp luật có hiệu quả thì Quốc hội cần ban hành văn bản pháp luật mang tính ổn định. Thực tiễn trước đây hệ thống pháp luật về mua bán hàng hóa ở Việt Nam đã liên tục thay đổi, bổ sung làm cho các doanh nghiệp Việt Nam khó khăn trong việc tìm hiểu và áp dụng văn bản mới. Muốn vậy, các văn bản khi được ban hành phải vừa sát với thực tiễn thương mại mà lại có thể phù hợp trong tương lai. Có như thế thì luật mới không bị thay đổi nhiều lần, làm mất tính ổn định cũng như hiệu quả thực thi của pháp luật. Thứ hai, cần xây dựng một hệ thống văn bản mang tính rõ ràng, dễ hiểu và thống nhất. Hiện nay, hoạt động thương mại được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật như là Luật thương mại 2005, Bộ Luật dân sự 2005, Luật chất lượng hàng hóa 2007, Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy định chi tiết Luật thương mại về mua bán hàng hóa; Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 của chính phủ quy định chi tiết về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh… gây khó khăn cho cả nhiều luật sư, nhiều chuyên gia luật và đặc biệt là các doanh nghiệp trong việc áp dụng. Do vậy Nhà nước cần cố gắng giảm bớt sự điều chỉnh của các văn bản luật liên quan. Hoạt động mua bán hàng hóa chỉ nên chịu sự điều chỉnh chính thức của LTM, BLDS và các văn bản pháp quy chuyên ngành. Trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền nên tạo điều kiện để hiệp hội các doanh nghiệp cũng như các cá nhân, tổ chức kinh doanh có mục đích lợi nhuận tham gia đóng góp ý kiến xây dựng văn bản điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa. Thủ tục giao kết hợp đồng được quy định trong Bộ Luật dân sự nên được quy định cụ thể hơn để các quan hệ hợp đồng được thiết lập nhanh chóng, đơn giản mà vẫn bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý. Muốn vậy, Bộ Luật dân sự phải quy định chi tiết về: + Một đề nghị phải thoả mãn ba điều kiện mới trở thành một chào hàng. Một là đề nghị đó phải được gửi tới một hoặc nhiều người cụ thể (xác định). Hai là đề nghị đó phải đủ chính xác, tức là phải nêu rõ tên hàng và ấn định rõ ràng hoặc ngầm định hay quy định phương pháp xác định số lượng và giá cả. Ba là phải chỉ rõ ý chí của người đề nghị muốn tự ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp có chấp nhận. Trường hợp một đề nghị không thoả mãn điều kiện thứ nhất, nhưng người đề nghị nêu rõ đó là một chào hàng thì đề nghị đó cũng được coi là một chào hàng. + Hình thức hợp đồng: BLDS cần bổ sung những quy định riêng về giao kết và thực hiện hợp đồng thông qua các phương tiện thông tin kỹ thuật số để tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển thương mại điện tử ở nước ta như quy định rõ thế nào là văn bản hợp đồng theo hình thức thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác. LTM cũng cần phải hoàn thiện cho phù hợp với BLDS, cũng như bổ sung thêm một số vấn đề để việc giao kết và thực hiện hợp đồng, cụ thể là : - LTM nên quy định những nội dung chủ yếu của hợp đồng như các điều khoản về hàng hóa, số lượng, giá cả để tạo điều kiện cho các bên khi thực hiện hợp đồng hạn chế được những tranh chấp xảy ra. Đây là nội dung chủ yếu nhất mà một hợp đồng mua bán hàng hóa phải có. Quy định này cũng là phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. - Cần quy định cụ thể về thời điểm phát sinh quyền khiếu nại để xác định thời hiệu khởi kiện. Để xác định thời điểm phát sinh quyền khiếu nại một cách đúng đắn, cần quy định các trường hợp cụ thể như sau : + Nếu hợp đồng đang có hiệu lực: Thời điểm phát sinh tranh chấp là ngày phát hiện việc vi phạm. + Nếu hợp đồng đã hết hiệu lực mà các bên không có thoả thuận nào khác và phát sinh tranh chấp: Thời điểm phát sinh tranh chấp là ngày tiếp theo của ngày hợp đồng kinh tế hết hiệu lực. + Nếu trước ngày hoặc vào ngày cuối cùng hợp đồng còn hiệu lực, các bên có thoả thuận mới quy định về thời hạn thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng, mà hết thời hạn đó, một trong các bên không thực hiện làm phát sinh tranh chấp: Thời điểm phát sinh tranh chấp là ngày kế tiếp theo của ngày hết thời hạn thực hiện thoả thuận đó. Thứ ba, cần bổ sung thêm một số qui định về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Cần bổ sung một điều luật quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng và trách nhiệm của các bên đối với tính trung thực, đầy đủ của các thông tin được cung cấp. Trong thực tế hiện nay, các bên tiến hành giao kết hợp đồng thường biết đến các đối tác của mình thông qua việc họ tự giới thiệu hoặc có thể qua quảng cáo. Các thông tin này, có một số trường hợp không được qua kiểm chứng nên đã có một số chủ thể trong hợp đồng đã lợi dụng nhằm lừa đảo, gây ra thiệt hại cho bên đối tác. Chính vì vậy, việc cần có quy định rõ ràng hơn về nghĩa vụ cung cấp thông tin và phương tiện chứa đựng thông tin; nghĩa vụ phải đảm bảo độ tin cậy của thông tin, quy định rõ hơn về trách nhiệm cho các bên đối với các thông tin mà họ đưa ra. Về vấn đề đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng cần hoàn thiện theo một số biện pháp sau : cần xây dựng, kiện toàn về tổ chức các cơ quan đăng ký; nâng cao hiệu quả phối hợp công tác giữa các Bộ, ngành, cơ quan trong lĩnh vực đăng ký các giao dịch bảo đảm; tăng cường hoạt động cung cấp thông tin, thực hiện cải cách hành chính, ứng dụng tin học nhiều hơn vào hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm… Bởi vì đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự tồn tại, vướng mắc hiện nay trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa các biện pháp xử lý tài sản thực hiện hợp đồng. BLDS 2005 nên có quy định rõ ràng về tài sản không được dùng làm vật thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Bởi vì, nhiều trường hợp trên thực tế để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên đã sử dụng các biện pháp như thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh tuy nhiên không phải bên nhận tài sản bảo đảm nào cũng hiểu rõ được hết các biện pháp bảo đảm, nhiều khi đã nhận những tài sản không được phép cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh. Các văn bản pháp lý hiện nay chưa giải quyết được mối quan hệ giữa pháp luật về hợp đồng với điều lệ, quy chế của doanh nghiệp, tổ chức, pháp nhân. Trong điều lệ của các công ty thường có quy định hợp đồng phải được Hội đồng thành viên chấp nhận. Như vậy, nếu hợp đồng được ký kết giữa người được ủy quyền ký kết hợp đồng và khách hàng mà hợp đồng này chưa được Hội đồng thành viên chấp nhận thì hợp đồng đó vô hiệu và được xử lý theo quy định của pháp luật. Điều này có thể gây ra thiệt hại cho bên khách hàng đã ký kết hợp đồng. Chính vì vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện nay đây là một vấn đề Nhà nước cần chú ý và tìm cách hoàn thiện. Ngoài ra pháp luật cũng cần có thêm nghị định qui định chi tiết về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong hệ thống các nguyên tắc giao kết, thực hiện hợp đồng, nhất là với hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong kinh doanh, các nhà kinh doanh cần lưu ý ngoài việc đặt mục tiêu lợi nhuận thì vấn đề bảo đảm lợi ích của khách hàng, người tiêu dùng cũng quan trọng không kém và cần phải được đặt lên hàng đầu. Vì khách hàng và người tiêu dùng sẽ luôn là bên bị yếu thế và hay phải chịu nhiều bất lợi, thiệt hại nếu quan hệ mua bán gặp nhiều vấn đề trục trặc. Do đó, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cũng cần phải được chú ý, coi trọng trong hệ thống nguyên tắc giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá. b.Cần nâng cao hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa. Một văn bản pháp luật về hợp đồng mua bán dù tốt đến mấy mà không được đưa ra thực hiện trong cuộc sống thì cũng không thể được ghi nhận. Vì thế, việc đưa các văn bản pháp lý vào cuộc sống là rất quan trọng và cần được nâng cao. Nhưng văn bản pháp luật không thể tự mình đi vào cuộc sống mà phải trải qua các khâu tổ chức thực hiện. Do vậy cần một sự đồng bộ giữa công tác ban hành và công tác thực thi pháp luật. Trước hết các cán bộ công chức, những người làm về pháp luật phải là những người có trình độ cao, hiểu biết sâu rộng về pháp luật, đặc biệt là phải hiểu rõ thực tế, có như thế khi xây dựng pháp luật mới có ý nghĩa thực tiễn. Cụ thể là trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hóa thì các cơ quan như Chính phủ, Bộ Tài chính, các sở, phòng, ban chuyên môn phải có kế hoạch để phổ biến pháp luật cho các doanh nghiệp đẻ họ nắm rõ các quy định pháp lý , từ đó vận dụng chính xác tinh thần pháp luật mà văn bản đưa ra. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân một cách rộng rãi về chế định hợp đồng trong các văn bản luật. Bộ luật Dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 là những văn bản quan trọng của hệ thống pháp luật nước ta. Do vậy, chúng có ảnh hưởng và tác động rất lớn đến đời sống dân cư cũng như sự phát triển kinh tế xã hội. Việc tuyên truyền phổ biến sâu rộng nội dung những văn bản pháp luật này là rất cần thiết; và có thể thực hiện thông qua nhiều phương tiện khác nhau như : báo chí, phát thanh, truyền hình, internet… Để việc tuyên truyền đạt hiệu quả cao nên phân loại đối tượng theo lứa tuổi, giới tính, ngành nghề, dân tộc… để có các hình thức, nội dung tuyên truyền phù hợp. Cần tiến hành giải đáp những thắc mắc, kiến nghị của doanh nghiệp khi thực hiện pháp luật về hợp đồng một cách rộng rãi. Việc giải đáp pháp luật được thực hiện dưới các hình thức khác nhau như bằng văn bản, thông qua mạng điện tử, thông qua điện thoại hoặc đối thoại trực tiếp. c.Nâng cao vị thế của Trọng tài thương mại trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa. Mỗi khi xẩy ra tranh chấp, thì các doanh nghiệp Việt Nam thường thông qua hình thức thương lượng, tự giải quyết với nhau hoặc khi không đạt được kết quả thì tìm đến tòa án trong khi đó hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới lại tìm đến các trọng tài vì những ưu điểm của hình thức này. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa của hầu hết doanh nghiệp Việt Nam điều khoản cuối cùng thường quy định “nếu có tranh chấp xảy ra thì giải quyết bằng con đường thương lượng, trên tinh thần hợp tác, hiểu biết , giúp đỡ lẫn nhau. Nếu không thỏa mãn yêu cầu của các bên tranh chấp sẽ được giải quyết tại Tòa án”. Việc các doanh nghiệp Việt Nam ít lựa chọn con đường giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một hạn chế cho các doanh nghiệp khi tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Xuất phát từ thực tế đó, vấn đề đặt ra là cần phải làm sao để giới thiệu nhiều và sâu hơn nữa về cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài cũng như việc nâng cao vị thế của trọng tài thương mại. Do vậy, nên tiến hành các cuộc tập huấn cho các doanh nghiệp về giải quyết tranh chấp bằng phương thức này. Đây có thể xem là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, tuy nhiên để xúc tiến quá trình tiếp cận với các doanh nghiệp xảy ra nhanh hơn thì các trung tâm trọng tài nên có các chương trình tự quảng bá và giới thiệu, thay vì thụ động hoặc chờ sự hỗ trợ bao cấp của Nhà nước như lâu nay. d.Đề ra một số chính sách quản lý trong lĩnh vực pháp lụât Các ngành, các cấp cần phải tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động mua bán hàng hóa trên địa bàn, quản lý của mình. Thông qua một số biện pháp như sau: Thứ nhất, tăng cường kiểm tra điều kiện kinh doanh cũng như năng lực tài chính của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động mua bán hàng hóa. Trên thực tế hiện nay có nhiều cá nhân thành lập công ty, tiến hành công việc kinh doanh trong lĩnh vực mua bán hàng hóa nên cần phải tăng cường nâng cao các biệnn pháp quản lý, tổ chức kiểm tra hoạt động kinh doanh của các công ty tránh gây lừa đảo Thứ hai, cần xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu pháp luật về hợp đồng nhằm mục đích hỗ trợ cho các doanh nghiệp khi họ gặp khó khăn trong tiếp cận với thông tin pháp luật về hợp đồng. Và để bảo đảm việc phổ biến kịp thời các quy định pháp luật có liên quan phục vụ hoạt động của doanh nghiệp thì các Bộ, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức biên soạn, xuất bản tài liệu giới thiệu, tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành có liên quan đến ngành, lĩnh vực hay phạm vi do mình quản lý cho doanh nghiệp. UBND cấp tỉnh chỉ đạo xây dựng kế hoạch và phối hợp với các tổ chức đại diện của doanh nghiệp phổ biến các tài liệu giới thiệu, tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật cho doanh nghiệp. Thứ ba, một vấn đề khác nên được nhà nước quan tâm đó là hiện nay các văn bản pháp quy được bán với giá khá cao gây cản trở cho việc pháp luật đi vào cuộc sống nhân dân. Nếu như những văn bản pháp luật quan trọng, cơ bản của đất nước được phát miễn phí cho nhân dân, nhất là vùng nông thôn, miền núi thì sẽ tạo điều kiện rất lớn trong việc nâng cao hiểu biết về pháp luật trong nhân dân. Bên cạnh đó, Nhà nước ta nên đưa ra những chính sách có lợi để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuận tiện hơn trong việc mua bán và phân phối hàng hóa, thúc đẩy quá trình phát triển đất nước. Ví dụ như các chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, đất đai, chính sách về thương nhân, đại lý, các chính sách về thị trường và mặt hàng…nhằm khuyến khích các công ty đầu tư phát triển, nâng cao năng suất, phát triển kinh tế. Ngoài ra, nhà nước cũng cần quan tâm đầu tư phát triển các dịch vụ hỗ trợ phát triển hệ thống phân phối hàng hóa như: hạ tầng cơ sở giao thông, hạ tầng cơ sở thông tin, thanh toán, kho bãi, vận chuyển. 2.Kiến nghị về phía doanh nghiệp 2.1.Về công tác soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hoá Hoạt đồng mua bán hàng hóa là lĩnh vực phát triển mạnh mẽ nhưng lại thường xảy ra tranh chấp. Do vậy, trước khi ký kết, công ty nên soạn thảo sẵn các mẫu hợp đồng chặt chẽ và hợp pháp để vừa không bị vô hiệu, lại vừa hạn chế được tranh chấp xảy ra, tránh tạo ra kẽ hở cho đối tượng xấu lợi dụng để vi phạm hợp đồng gây thiệt hại cho công ty. Việc soạn thảo nên nhờ luật sư hoặc là người am hiểu về pháp luật đảm nhiệm.Cần quy định cụ thể các điều khoản của hợp đồng như: Thứ nhất, hiện nay hầu hết các hợp đồng mua bán hàng hóa của công ty vẫn còn dùng tên gọi là Hợp đồng kinh tế, thuật ngữ này không còn phù hợp nữa đòi hỏi công ty cần phải tìm hiểu thật kỹ càng về những văn bản pháp luật đã thay đổi để áp dụng cho phù hợp. Thứ hai, thoả thuận về giá cả: Trong hợp đồng nên có điều khoản thoả thuận trong trường hợp có sự thay đổi về giá. Khi đó công ty sẽ thông báo kịp thời cho bên mua để bên mua biết. Căn cứ vào sự chênh lệch về giá mới so với giá cũ đã thỏa thuận trong hợp đồng để quy ra số lượng hàng hóa tương ứng với số tiền chênh lệch đó và bên bán sẽ cắt giảm lượng hàng hóa giao hoặc tăng thêm tùy vào giá mới giảm hay tăng so với giá cũ. Mặt khác, công ty cũng nên có bảo lưu về điều khoản “ Bên bán có quyền điều chỉnh giá tăng theo tỷ lệ % tăng tương ứng với giá hàng hoá nhập khẩu”, như vậy sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho công ty trong việc nhận thanh toán. Thứ ba, về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng: Tuy trong hợp đồng thanh toán sau có nêu điều khoản này nhưng các hợp đồng thanh toán trước cũng cần áp dụng biện pháp này bởi có nhiều trường hợp bên mua đặt hàng nhưng không nhận hàng gây thiệt hại cho công ty. Ngoài ra, đối với biện pháp bảo đảm nên áp dụng biện pháp đặt cọc trong những trường hợp giá trị hợp đồng nhỏ, do dặc điểm dễ thoả thuận và thủ tục không rườm rà. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho bên mua, nên thỏa thuận các hình thức bảo đảm này cho phù hợp theo từng trường hợp. Thứ tư, về phương thức giao hàng cũng cần được quy định rõ ràng hơn, ví dụ như nếu giao hàng tại kho bãi của công ty hoặc giao hàng tại địa điểm nào đó cũng phải quy định cụ thể bên nào phải chịu chi phí vận chuyển. Và nếu giao hàng trong thời hạn đó thì giao một chuyến hay giao trong nhiều chuyến, vì đây cũng là vấn đề hay xảy ra tranh chấp. Thứ năm, thời điểm chuyển rủi ro cũng là một vấn đề mà Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ phải chú ý tới khi giao kết và thực hiện hợp đồng. Thực tế có những hợp đồng công ty ký kết với khách hàng mà không có điều khoản quy định về thời điểm chuyển rủi ro, nhưng rất may là lại không có vấn đề gì xảy ra trong quá trình các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, thế nên vấn đề chuyển rủi ro không được chú ý tới. Tuy nhiên, những hợp đồng sau này công ty ký kết nên có điều khoản quy định rõ ràng thời điểm chuyển rủi ro, vì như thế sẽ xác định được cụ thể trong trường hợp có rủi ro xảy ra đối với hàng hóa, các bên sẽ phải chịu trách nhiệm như thế nào, tránh tình trạng vì không có thỏa thuận và quy định trong hợp đồng nên các bên lẩn tránh, đổ trách nhiệm cho nhau. Và như vậy thì tranh chấp là điều khó tránh khỏi, làm ảnh hưởng đến uy tín và mối quan hệ bạn hàng giữa hai bên. Thứ sáu, một điều khoản cũng hết sức cần thiết là điều khoản bất khả kháng. Bất khả kháng là sự kiện pháp lý làm nảy sinh ngoài ý muốn chủ quan của các bên ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện hợp đồng đã ký. Đó là các sự kiện thiên nhiên như bão, lũ lụt, hạn hán, động đất. núi lửa, chiến tranh,…. Việc không qui định rõ điều này thì rất dễ bị bên vi phạm lợi dụng để thoái thác trách nhiệm dẫn đến thiệt hại cho công ty vì khi xảy ra sự kiện bất khả kháng thì bên vi phạm hợp đồng không phải chịu trách nhiệm về tài sản. Do đó khi ký hợp đồng, trong điều khoản này công ty cần phải định nghĩa về bất khả kháng và qui định nghĩa vụ của bên gặp sự kiện bất khả kháng. Thứ bảy, điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng cũng cần được công ty lưu ý đến khi soạn thảo hợp đồng. Tuy công ty trong thời gian hoạt động vừa qua không xảy ra vụ kiện nào nhưng để đề phòng rủi ro thì đây là một điều khoản có vai trò quan trọng. Trong các hợp đồng mà công ty đã ký kết, cũng có những hợp đồng điều khoản giải quyết tranh chấp được quy định tuy nhiên đó đều là những quy định chung chung, không rõ ràng. Thoả thuận được nêu ra như sau : Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có gì vướng mắc hai bên A, B gặp gỡ, trao đổi tìm biện pháp tháo gỡ thương lượng giải quyết kịp thời. Nếu trường hợp không đạt được thỏa thuận thì việc giải quyết sẽ được thông qua tòa án kinh tế thành phố Hà Nội. Theo như những quy định của điều khoản này thì nếu công ty có xảy ra tranh chấp cũng không áp dụng được phương thức trọng tài để giải quyết tranh chấp. Bởi vì theo PLTTTM 2003 thì việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chỉ được thực hiện khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Việc quy định như vậy sẽ tránh được những trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra. Nói chung, nội dung hợp đồng càng cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ thì càng thuận tiện trong quá trình thực hiện và càng ít rủi ro. Vì thế khi soạn thảo hợp đồng công ty cần nêu rõ những vấn đề đã thỏa thuận, tránh trường hợp soạn thảo xong hợp đồng rồi lại sửa đổi, sẽ rất tốn kém về thời gian và có thể làm giảm uy tín của công ty. Bên cạnh đó, hình thức của hợp đồng cũng nên được sử dụng đa dạng hơn. Hình thức ký kết bằng văn bản là hình thức chủ yếu trong việc giao kết hợp đồng của công ty từ trước đến nay. Công ty nên mở rộng các hình thức ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa tạo điều kiện thuận lợi trong trường hợp các đối tác ở xa, không thuận tiện cho việc đi lại để giao kết hợp đồng trực tiếp. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường luôn có sự biến đổi, công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng nếu công ty không tận dụng lợi thế này, nhiều khi sẽ bỏ lỡ cơ hội có thêm khách hàng mới. Chính vì vậy, công ty nên tiến hành việc ký kết hợp đồng bằng các hình thức khác như bằng lời nói, các thông điệp dữ liệu, điện báo, telex, fax..,nhằm đáp ứng sự nhanh nhạy và linh hoạt trong ký kết hợp đồng . 2.2.Về công tác thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá Để đạt được hiệu quả trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng, công ty cần chú ý đánh giá đối tác một cách thận trọng trước khi ký kết về các mặt như: tình hình tài chính, khả năng thanh toán, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tránh tình trạng khi hợp đồng được ký kết và đi vào thực hiện thì công ty lại không được thanh toán vì đối tác không thể thanh toán hoặc đang lâm vào tình trạng phá sản. Ngoài ra, hiện nay trong nền kinh tế thị trường, các công ty ma, công ty ảo tồn tại khá nhiều dưới các hình thức khác nhau, do đó, nếu không cẩn thận thì rất dễ bị lừa. Công ty nên tuyển dụng thêm một nhân viên pháp chế hoặc cử cán bộ đi học thêm một lớp đào tạo về luật để rà soát các điểm chưa phù hợp trong hợp đồng, tư vấn về việc ký kết và thực hiện hợp đồng hạn chế việc các bên vi phạm hợp đồng và xảy ra tranh chấp. Công ty có thể thu hút nhân tài thông qua các hình thức như quảng cáo về công ty, về môi trường làm việc trong công ty, chế độ lương, thưởng, về tinh thần hợp tác và tôn trọng người tài… Trong đó, chế độ lương, thưởng và môi trường làm việc thường được đánh giá là yếu tố thu hút nhân tài cao nhất. Ngoài ra, công ty có thể phát hiện nhân tài ngay trong nội bộ công ty, trọng dụng và bố trí họ vào đúng vị trí xứng đáng, có như thế mới phát huy tối đa năng lực của họ, phục vụ cho công ty. Ngoài việc nghiên cứu hệ thống pháp luật trong nước, công ty cần tìm hiểu về pháp luật và thông lệ quốc tế, bởi có nhiều vấn đề áp dụng các điều khoản này trong hợp đồng sẽ có lợi cho các bên. Tuy nhiên các điều khoản này không được trái với các quy định của pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, công ty nên cải thiện mối quan hệ với các luật sư. Việc liên hệ và nhờ sự giúp đỡ, tư vấn của các luật sư nên trở thành thông lệ khi công ty thoả thuận giao kết, thực hiện hợp đồng với các đối tác có kinh nghiệm hoặc giá trị hợp đồng lớn. Trên thực tế, có rất ít doanh nghiệp am hiểu về luật trong quá trình kinh doanh cũng như giao kết hợp đồng. Nếu doanh nghiệp và luật sư có hợp đồng tư vấn dịch vụ pháp lý thì luật sư sẽ vận dụng kinh nghiệm và kiến thức của bản thân để hóa giải các vướng mắc phát sinh cho doanh nghiệp bởi vì doanh nghiệp không thể nắm vững và thấu hiểu pháp luật như luật sư. Bây giờ, ở nước ta chỉ có một số công ty có tiềm năng kinh tế thì mới thuê luật sư trong khi tham gia ký kết hợp đồng, dẫn đến nhiều hạn chế cũng như thiệt hại không đáng có cho doanh nghiệp. KẾT LUẬN Việt Nam gia nhập WTO đồng nghĩa với việc đã chính thức bước vào sân chơi quốc tế, do đó doanh nghiệp phải đối mặt với một thị trường mang tính cạnh tranh khốc liệt. Thêm vào đó, điều kiện nền kinh tế thị trường không ngừng biến đổi khiến cho quan hệ mua bán hàng hoá được thực hiện bởi doanh nghiệp càng trở nên đa dạng và phức tạp. Do vậy, việc hoàn thiện chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hoá là một vấn đề quan trọng và bức thiết. Đề tài “Chế độ pháp lý về giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ” nghiên cứu pháp luật về hoạt động mua bán hàng hoá, lợi ích mà doanh nghiệp có được khi tham gia ký kết hợp đồng. Trên cơ sở đó, vận dụng vào thực tế tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ để đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng hàng hóa nói chung và áp dụng pháp luật vào hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty nói riêng. Một lần nữa em xin cám ơn cô giáo PGS-TS. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ-Trường ĐH Kinh tế quốc dân và anh chị công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em thực hiện chuyên đề này. PHỤ LỤC Mẫu hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập- Tự do- Hạnh phúc Hà nội, ngày 11 tháng 3 năm 2008 Hợp đồng mua bán hàng hoá Số: - Căn cứ Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2006 - Căn cứ Luật thương mại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hnàh ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thi hành ngày 1/1/2006 - Căn cứ vào nhu cầu và khả năng của hai bên Hôm nay, ngày… BÊN MUA: …BÊN A - Địa chỉ: - Điện thoại:- Fax: - Tài khoản: - Mã số thuế: - Đại diện: BÊN BÁN: CÔNG TY TNHH HỖ TRỢ KỸ THƯƠNG LÊ VÀ VŨ - BÊN B - Địa chỉ:- Fax: - Điện thoại: - Tài khoản - Đại diện: Hai bên thống nhất ký hợp đồng mua bán hàng hoá theo các điều khoản sau: Điều1: Tên hàng, số lượng, giá trị Bên A đồng ý mua, Bên B đồng ý bán loại hàng hoá sau: Tên hàng ĐVT Số lượng Đơn giá(đ) Thành tiền(đ) - Tổng giá trị của hợp đồng: * Đơn giá trên chưa bao gồm thuế GTGT Điều 2: Tiêu chuẩn chất lượng theo qui cách đóng gói - Chất lượng: - Bao bì, đóng gói Điều 3: Thời gian, địa điểm và phương thức giao nhận - Thời gian giao hàng: - Địa điểm giao hàng: - Vận chuyển: - Bốc xếp: - Phương thức giao nhận: + Xác định khối lượng: + Xác định chất lượng: Điều 4: Phương thức thanh toán - Hình thức thanh toán: - Thời hạn thanh toán: Điều 5 : Nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên Đối với Bên A: - Kiểm tra chất lượng, quy cách hàng trước khi nhận hàng của Bên B. - Nhận hàng đúng quy cách, chủng loại, chất lượng, thời gian như quy định của hợp đồng. - Thanh toán đúng hạn theo quy định trong hợp đồng. Đối với Bên B: - Giao hàng cho Bên A đúng quy cách, chủng loại, chất lượng, số lượng như quy định của hợp đồng hoặc theo đơn đặt hàng đã thỏa thuận giữa hai bên. - Cung cấp hóa đơn VAT hợp lệ cho Bên A sau mỗi lô hàng và chứng chỉ chất lượng (bản gốc) kèm theo. Điều 6 : Thanh lý hợp đồng Sau khi hai bên tiến hành thủ tục thanh toán, chuyển tiền và giao nhận hàng hóa sẽ cùng thống nhất làm biên bản thanh lý hợp đồng trên cơ sở thực tế đã thực hiện. Điều 7 : Giải quyết tranh chấp - Mọi tranh chấp phát sinh giữa hai bên liên quan đến hợp đồng trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng giữa các bên trên cơ sở tôn trọng.bình đẳng và cùng có lợi. - Trong trường hợp thương lượng không đạt kết quả, mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đên hợp đồng đang ký kết sẽ được giải quyết tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam theo quy tắc tố tụng của Trung tâm này. Quyết định của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam là quyết định cuối cùng buộc các bên phải thực hiện. Mọi chi phí do bên thua chịu. Điều 8: Điều khoản chung - Hai bên cam kết thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản đã thoả thuận trên; không bên nào được tuỳ ý sửa đổi hoặc huỷ bỏ. Trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh, hai bên sẽ cùng bàn bạc giải quyết trên tinh thần hợp tác thương lượng và thống nhất bằng văn bản - Hợp đồng có giá trị kể từ ngày ký kết đến khi bên A thanh toán xong toàn bộ giá trị hàng hoá hai bên thực giao nhận - Kết thúc hợp đồng, nếu hai bên không có điều gì vướng mắc về các điều khoản đã ký thì coi như hợp đồng đã được thanh lý Hợp đồng được lập thành 4 bản, bên A giữ 02 bản, bên B giữ 02 bản Đại diện bên A Đại diện bên B DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn bản quy phạm pháp luật Bộ luật Dân sự 2005. Luật Thương mại 2005. Luật Doanh nghiệp 2005. Luật chất lượng hàng hoá 2007. Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của chính phủ quy định chi tiết về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh. Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về mua bán hàng hoá. II. Giáo trình và sách tham khảo 1. Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên) – Giáo trình Pháp luật kinh tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội – NXB Thống kê 2005. 2. Trần Thị Hoà Bình - Trần Văn Nam (đồng chủ biên) – Giáo trình Luật Thương mại quốc tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội – NXB Lao động – Xã hội 2005. 4. Phạm Duy Nghĩa – Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2002. 5. Nguyễn Viết Tý (chủ biên) – Giáo trình Luật Thương mại (tập 2) - Đại học Luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân 2006. III.Báo và Tạp chí Báo lao động số 15/2008 . Báo kinh tế Việt Nam năm 2009. Tạp chí nhà nước và pháp luật số 3/2008. Tạp chí luật học số 5/2008. Tạp chí kinh tế số 16/2009. IV.Tài liệu của Công ty Điều lệ công ty. Nội quy lao động của công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê & Vũ. Quy chế tổ chức và hoạt động của công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê & Vũ. Báo cáo tổng kết năm 2004- 2009. Các hợp đồng mua bán hàng hóa mà Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ ký kết. Website : MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ Sơ đồ 1 : Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý công ty 32 Bảng 1.Bảng tổng kết doanh thu và lợi nhuận sau thuế của công ty. 37 Biểu đồ1.Biểu đồ về doanh thu của công ty. 38 Biểu đồ 2: Biểu đồ về tốc độ tăng lợi nhuận sau thuế của công ty. 39 Bảng 2. Bảng tổng kết đánh giá doanh thu từ hoạt động mua bán hàng hoá. 40 Biểu đồ 3. Biểu đồ về doanh thu từ hoạt động mua bán hàng hoá và tổng doanh thu. 41 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31410.doc
Tài liệu liên quan