Chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần XNK Viglacera

MỤC LỤC Lời mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng và phát triển quan hệ thương mại với nước ngoài của Đảng và Nhà nước ta các doanh nghiệp Việt nam đang tích cực tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại với các thương nhân nước ngoài. Một trong những lĩnh vực chủ yếu của kinh tế đối ngoại là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.Trong những năm qua hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa ngày càng đóng góp hiệu quả cho sự phát triển kinh tế quốc dân, cho sự nghi

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần XNK Viglacera, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong hoạt động xuất nhập khẩu thì một công cụ pháp lý trung tâm mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường xuyên sử dụng là hợp đồng xuất nhập khẩu.Tuy nhiên trong bối cảnh mới đất nước mới chuyển sang cơ chế mới pháp luật còn đang trong thời gian hoàn thiện,các doanh nghiệp nước ta còn non kém kinh nghiêm,thiếu hiểu biết pháp luật trong giao thương quốc tế lại phải đối mặt với những thương nhân nước ngoài sắc sảo trong kinh doanh, sành sỏi về pháp luật; do vậy các doanh nghiệp nước ta còn chịu nhiều thua thiệt và rủi ro khi ký kết các hợp đồng làm cho hoạt động xuất nhập khẩu thực sự chưa đạt hiệu quả cao.Việc hoàn thiện pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như trong chế độ về hợp đồng xuất nhập khẩu là yêu cầu cầu cấp bách hiện nay. Trong một thời gian thực tập tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera đã cho em có điều kiện hiểu biết thực tế việc áp dụng chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu tại công ty qua đó cũng thấy đựợc những yêu cầu bức xúc của công ty trong việc nâng cao hiệu quả ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu.Vì vậy em đã quyết định chọn đề tài “chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Có được chuyên đề này là nhờ sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo-Thạc sỹ Đỗ Kim Hoàng, sự giúp đỡ rất lớn của các anh chị trong công ty đặc biệt các anh chị trong phòng Kinh tế, Trung tâm xuất nhập khẩu, phòng Tổ chức hành chính…Xin chân thành cảm ơn sự tạo giúp đỡ và tạo điều kiện đó,hy vọng chuyên đề này sẽ đáp ứng lòng mong mỏi của mọi người. Xin được nhận mọi ý kiến trao đổi, góp ý để hoàn thiện chuyên đề hơn. 2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Chuyên đề được thực hiện nhằm hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu,đồng thời đánh giá việc áp dụng chúng trong việc ký kết và thực hiện tại công ty và đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về hợp đồng xuất nhập khẩu, nâng cao hiệu quả ký kết và thực hiện tai công ty . Qua chuyên đề sẽ làm cho chúng ta có tầm nhìn khái quát pháp luật về hợp đồng xuất nhập khẩu nước nhà, đồng thời qua thời gian thực tiễn tại công ty là một cơ hội lớn để kết hợp lý luận và thực tiễn để trau dồi và làm sâu sắc kiến thức đã học. 3. Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề. Do hạn chế về thời gian và do kiến thức có hạn nên chuyên đề chỉ tập trung làm rõ chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu hiện hành và thực tiễn tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera trong những năm gần đây,chủ yếu là hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa.Những giải pháp mà chuyên đề đề cập chỉ mang tính kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng xuất nhập khẩu, nâng cao hiệu quả ký kết và thực hiện tại công ty trong những năm tới. 4. Kết cấu chuyên đề Chuyên đề bao gồm các phần là: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo.Trong đó phần nội dung là phần cốt lõi của chuyên đề bao gồm các chương như sau: Chương 1: Chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu Chương 2: Thực tiễn áp dụng chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera . 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chung được sử dụng trong quá trình tìm hiểu là phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lênin bao gồm phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Phương pháp cụ thể được áp dụng là phương pháp logic kết hợp với lịch sử,phân tích và tổng hợp, nghiên cứu lý thuyết, điều tra và tổng kết thực tiễn để đưa ra những kết luận phù hợp . Chương 1 CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU 1.1. Những vấn đề lý luận về hợp đồng xuất nhập khẩu 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm Hợp đồng xuất nhập khẩu còn gọi là hợp đồng mua bán quốc tế hoặc hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (Bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của một bên khác gọi là bên nhập khẩu (Bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá; bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng. Định nghĩa trên đây nêu rõ: Bản chất của hợp đồng này là sự thoả thuận của các bên ký kết . Chủ thể của hợp đồng là Bên bán (bên xuất khẩu) và bên mua (bên nhập khẩu). Họ có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Bên bán giao một giá trị nhất định, và để đổi lại, bên mua phải trả một đối giá cân xứng với giá trị đã được giao Đối tượng của hợp đồng này là tài sản; do được đem ra mua bán tài sản này biến thành hàng hoá. Hàng hoá này có thể được chuyển ra (hoặc đưa vào) lãnh thỗ người bán (người mua) hoặc đưa vào (hoặc từ) khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thỗ nước đó được coi là khu vực hải quan theo quy định của pháp luật . (Đ28- thương mại 2005). Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng phải là ngoại tệ đối với ít nhất một bên trong quan hệ hợp đồng . 1.1.2. Phân loại Pháp luật Việt nam xem hoạt động xuất nhập khẩu gồm 2 hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu (Đ28-Luật thương mại 2005) theo đó có thể chia hợp đồng xuất nhập khẩu thành 2 loại hợp đồng xuất khẩu và hợp đồng nhập khẩu, khi đó sự phân biệt giữa hai loại này ở việc đưa hàng hóa ra ngoài hay vào lãnh thổ Việt nam tương ứng với hợp đồng xuất khẩu hay hợp đồng nhập khẩu.Tuy nhiên trong thực tế trong hợp đồng xuất nhập khẩu bao gồm nhiều hợp đồng khác nhau được ký kết để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu, dù pháp luật Việt nam cũng như thế giới không quy định rõ ràng là có những loại nào nhưng qua thực tiễn ký kết các hợp đồng trong thương mại quốc tế có thể phân loại hợp đồng xuất nhập khẩu thành 2 hai nhóm sau Hợp đồng xuất nhập khẩu liên quan đến hàng hóa bao gồm hợp đồng mua bán,trao đổi hàng hóa (ví dụ trao đổi gạo lấy phân bón, sắt thép với thương nhân Nga), thông qua đấu thầu, đấu giá hàng hóa.. Hợp đồng xuất nhập khẩu liên quan đến dịch vụ bao gồm các hợp đồng liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu các dịch vụ như : vận tải, du lịch, bảo hiểm, gia công sản phẩm… Trong phạm vi của chuyên đề chỉ đề cập chủ yếu đến hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, các hợp đồng như hợp đồng vận tải, hợp đồng bảo hiểm..thường được gọi là hợp đồng liên quan đến hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa vì các hợp đồng đó là một trong những nội dung của hợp đồng xuất nhập khẩu.Các doanh nghiệp Việt nam cũng chủ yếu thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa,trong nhiều trường hợp thuật ngữ xuất nhập khẩu thường chỉ dùng đến khi nói về xuất nhập khẩu hàng hóa. 1.1.3. Hình thức cơ cấu hợp đồng xuất nhập khẩu 1.1.3.1. Hình thức Ở nước ta theo luật thương mại 2005 tại điều 27 khoản 2 thì “mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương đương”. Như vậy Luật pháp nước ta chỉ công nhận hình thức văn bản trong hợp đồng mua bán ký kết với nước ngoài.Trong khi đó theo luật quốc tế như công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế lại không giới hạn hình thức ký kết của hợp đồng “Không yêu cầu hợp đồng mua bán phải được ký kết hoặc được xác nhận bằng văn bản hoặc phải tuân thủ một yêu cầu nào đó về hình thức. Có thể dùng bất kỳ phương thức nào kể cả lời khai nhân chứng để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng” (Đ11) 1.1.3.2. Cơ cấu của hợp đồng Một hợp đồng xuất nhập khẩu thường bao gồm các phần sau đây Phần mở đầu gồm những nội dung sau đây - Tên và số hợp đồng - Ngày và nơi ký hợp đồng - Các bên ký hợp đồng (nhà xuất khẩu, nhập khẩu ) phần này ghi tên đơn vị,địa chỉ liên hệ, tên điện tín, số điện thoại, fax, tên và chức vụ người ký hợp đồng . - Cam kết ký hợp đồng Phần các điều khoản cam kết cụ thể ( tên hàng ,số lượng quy cách, phẩm chất, giá cả, thanh toán, vận tải và các điều khoản thưởng phạt, bất khả kháng, hiệu lực hợp đồng ..) Phần ký kết các bên xuất khẩu và nhập khẩu ký vào hợp đồng . 1.1.4. Nội dung cơ bản của hợp đồng xuất nhập khẩu Nội dung cơ bản của hợp đồng là những điều kiện mua bán mà các bên đã thỏa thuận. Một hợp đồng có 2 loại điều khoản sau 1.1.4.1 Điều khoản chủ yếu Là những điều khoản nếu một bên trong hợp đồng không thực hiện thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng và phạt gây thiệt hại. Các điều khoản đó như là : tên hàng, số lượng, chất lượng, địa điểm và thơi hạn giao hàng, giá cả, thanh toán… 1.1.4.2 Điều khoản không chủ yếu Là những điều khoản nếu một bên vi phạm thì bên kia không có quyền hủy hợp đồng mà chỉ có quyền đòi hỏi bên thực hiện và bắt phạt. Pháp luật Việt nam không quy định cụ thể những điều khoản nào là chủ yếu và không chủ yếu mà chỉ quy định những nội dung mang tính hướng dẫn như : Đối tượng hợp đồng, số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm thanh toán, quyền và nghĩa vụ các bên, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng…(Đ 402 Bộ luật dân sự ).Công ước Viên cũng vậy chỉ quy định gián tiếp những nội cơ bản của một hợp đồng qua bản chào hàng như: Giá cả,phương thức thanh toán, số lượng và phẩm chất hàng hóa, địa điểm và thời hạn giao hàng, trách nhiệm các bên, giải quyết tranh chấp…(Đ 19.3).Việc pháp luật quy định như vậy xuất phát từ tính tự do thỏa thuận của hợp đồng nhằm đạt được những thuận lợi nào đó cho việc ký kết, thực hiện và tránh những rủi ro có thể gặp phải của các bên. Ngay cả khi một sự vi phạm là cơ bản thì công ước Viên cũng chỉ định nghĩa một cách trừu tượng đó là trường hợp người bị thiệt hại “bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng” (Đ25) mà không quy định một cách chính thức cụ thể là những trường hợp nào. 1.1.5. Nguồn luật điều chỉnh 1.1.5.1 Điều ước quốc tế ( ĐƯQT) Có hai loại điều ước quốc tế điều chỉnh họat động thương mại quốc tế: Một là điều ước quốc tế quy định những nguyên tắc chung mang tính chỉ đạo đối với các hành vi thương mại của các thương nhân giữa các quốc gia khác nhau như quy chế Tối huệ quốc và Đãi ngộ quốc gia của. Hiệp định GATT/WTO. Hai là điều ước quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ thương mại quốc tế; điển hình là công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định thủ tục ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, quyền và nghĩa vụ của các bên, trách nhiêm do vi phạm hợp đồng. Theo quy định của pháp luật Việt nam đối với những ĐƯ mà Nhà nước đã tham gia ký kết và phê chuần thì sẽ áp dụng các ĐƯ đó cả khi ĐƯ đó trái quy định của pháp luật Việt nam. Đối với những ĐƯ mà nhà nước ta chưa tham gia hoặc chưa công nhận thì chỉ áp dụng các điều khoản không trái với pháp luật Việt nam và khi có sự thỏa thuận áp dụng giữa các bên. 1.1.5.2 Pháp luật quốc gia Các bên trong quan hệ hợp đồng có thể thỏa thỏa thuận dẫn chiếu luật của một nước bất kỳ để điều chỉnh các giao dịch của mình. Ngoài ra khi họ là thành viên của công ước mà công ước này dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của của một nước thành viên thì luật nước đó cũng trở thành luật đỉều chỉnh quan hệ giữa các bên. Việc áp dụng luật quốc gia là do ý chí trực tiếp của các bên thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng hoặc gián tiếp khi xuất phát từ nội dung của hợp đồng và điều kiện liên quan đến việc thực hiện các hợp đồng đó từ đó các bên muốn đặt nghĩa vụ của mình dưới sự điều chỉnh của pháp luật của một quốc gia nào đó. Ngay cả trong trường hợp không thỏa thuận luật áp dụng cho hợp đồng thì trường hợp này luật quốc gia được áp dụng theo nguyên tắc xung đột pháp luật.Theo đó Luật quốc gia được áp dụng có thể là luật nơi quốc gia có nghĩa vụ chủ yếu được thực hiện như luật của người bán,luật của của quốc gia vận chuyển..; hoặc Luật của quốc gia nơi ký kết hợp đồng; Luật của nơi có mối liên hệ mật thiết với hợp đồng do Tòa án đưa ra như Luật của quốc gia mà các bên có chung quốc tịch, luật nơi có bất động sản, luật của nơi mà các bên sử dụng ngôn ngữ nơi đó khi soạn thảo.. 1.1.5.3 Tập quán thương mại quốc tế và hợp đồng mẫu Tập quán thương mại quốc tế là những quy tắc xử sự phổ biến được hình thành lâu đời trong thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế. Bản thân tập quán thương mại quốc tế không có hiệu lực pháp lý như một văn bản quy phạm pháp luật mà nó chỉ có hiệu lực trong những trường hợp nhất định.Thực tiễn hoạt động thương mại từ trước đến nay cho thấy những trường hợp mà tập quán đó có hiệu lực như sau - Chúng được chính các quốc gia công nhận bằng văn bản nó như là một văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ như Ucraina, Iran và một số nước chậm phát triển ở Châu Phi. - Là ý chí của các bên trong hợp đồng trong việc thỏa thuận chọn áp dụng. - Được Tòa Án Trọng Tài công nhận như là nguồn luật điều chỉnh quan hệ giữa các bên theo hợp đồng xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của vụ việc. Một trong những tập quán được Ủy ban thương mại quốc tế soạn thảo lần đầu tiên và được sử dụng nhiều nhất trong thương mại quốc tế là cuốn “Các điều kiện thương mại quốc tế” (International commercial terms -Incoterms) với 6 lần sữa đổi và bổ sung từ năm 1936, 1953, 1967, 1980, 1990, 2000.Ngoài Incoterms còn có “những nguyên tắc thống nhất và tập quán liên quan đến tính dụng chứng từ (L/C)” (UCP-500) công bố năm 1993 cũng có ý nghĩa quan trọng được hầu hết các ngân hàng sử dụng trong thanh toán quốc tế .. Hợp đồng mẫu,những điều kiện giao dịch chung,những chỉ dẫn dù hạn chế các bên trong việc xác định các điều kiện của hợp đồng nhưng chính sự tự do của các bên trong việc xác định các điều kiện là cơ sở xây dựng các hợp đồng mẫu.Trên phiếu ghi hợp đồng mẫu thường có văn bản của hợp đồng mẫu và một số điều khoản đã được điền vào cụ thể ( tên gọi, địa chỉ các bên, giá, thời hạn giao hàng..) và hợp đồng có hiệu lực khi các bên ký lên phiếu. Hợp đồng mẫu được soạn thảo bởi các tổ chức, chủ thể có uy tín trên thế giới ví dụ như Hiệp hội thương mại Luân Đôn ( LonDon cortrade association ), Ủy ban kinh tế Châu âu.. 1.1.5.4 Án lệ Đây là việc Tòa án sử dụng một hoặc một số phán quyết của Tòa án đã được công bố để làm khuôn mẫu áp dụng cho việc giải quyết các trường hợp tranh chấp vụ việc tương tự .Mặc dù chưa được nhà nước và pháp luật Việt nam công nhận nhưng lại được công nhận cho việc áp dụng giải quyết các tranh chấp, vụ việc tương tự ở nhiều nước trên thế giới như các nước trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ, Châu Âu lục địa... 1.2 Chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu Nội dung của hợp đồng xuất nhập khẩu là tất cả các điều khoản được các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho phép xác lập quyền và nghĩa vụ mỗi bên.Trên cơ sỡ luật thương mại và một số quy định mang tính hướng dẫn tại Điều 402 Bộ luật dân sự 2005 có thể thấy một hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng xuất nhập khẩu nói riêng phải có các điều khoản sau 1.2.1. Điều kiện về tên hàng Điều khoản này nêu tên hàng, đặc tính (công dụng) và chủng loại hàng.Tên hàng có thể là tên thường gọi, tên khoa học, thường ghi kèm với nơi sản xuất, nhãn hiệu, công dụng của hàng. 1.2.2. Điều kiện về phẩm chất   Phẩm chất là điều khoản nói lên mặt chất của hàng hóa như tính năng, tác dụng, công suất, hiệu suất…của hàng hóa đó. Xác định cụ thể phẩm chất của sản phẩm là cơ sở xác định giá cả.Do vậy để xác định điều kiện phẩm chất tốt dẫn đến xác định giá cả tốt, đúng và mua được hàng hóa đúng yêu cầu của mình. Trong thực tiễn mậu dich hiện nay có nhiều biện pháp xác định phẩm chất hàng hóa: Có thể dựa vào hàng thực hoặc hàng mẫu mà 2 bên xem hàng có thể trực tiếp gặp hoặc gửi hàng mẫu (lấy từ lô hàng hoặc được sản xuất ra làm hàng mẫu ) cho nhau xem xét kiểm nghiệm và đàm phán. Cũng có thể dùng thuyết minh mô tả để định chất lượng hàng hóa hoặc có thể dựa vào nhãn hiệu hàng hóa để xác định chất lượng. Dù được xác định theo cách nào thì các bên đều mong muốn hàng hóa của mình của mình có giấy chứng nhận của hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO 9000) 1.2.3. Điều kiện về số lượng Số lượng hàng xác định bằng các đơn vị tính số lượng, trọng lượng, khối lượng,chiều dài diện tích, chiếc, kiện, thùng, hòm...Việc xác định đơn vị tùy vào mỗi loại hàng hóa khác nhau.Thông thường điều khoản ghi số lượng hàng hóa kèm với độ dung sai.Ngoài đơn vị tính phải thống nhất, điều khoản này còn ghi rõ phương pháp quy định số lượng như 1000 cái hay “xấp xỉ”, “khoảng” 1000 cái…tùy vào loại hàng, phương pháp quy định trọng lượng gồm trọng lượng tịnh hay cả trọng lượng bao bì hoặc trọng lượng thương mại. 1.2.4. Điều khoản giao hàng  Là điều khoản quy định trách nhiệm của 2 bên đưa hàng tới địa điểm giao hàng và từ địa điểm giao hàng tới đích đến, xácđịnh thời gian, địa điểm và phương thức giao hàng cùng với nghĩa vụ thông báo giao hàng, quy định chi phí cho các bên phải chịu và xác định thời điểm chuyển rủi ro và tổn thất về hàng hóa từ người bán sang người mua. Các điều kiện giao hàng được dùng nhiều nhất ở Việt nam là các điều kiện trong Incoterms: FOB, CIF và CFR… 1.2.5. Giá cả Cần xác định giá cả trong hợp đồng bao gồm các vấn đề : Đơn vị để tính giá,cơ sở tính giá, lựa chọn đồng tiền để tính. Giá cả phải biểu thị rõ đơn giá, tổng trị giá, đồng tiền tính giá và đồng tiền thanh toán.Bên cạnh đó cần có phương pháp quy định giá để để phòng sự mất giá của đồng tiền hay sự dao động của tỉ giá, do đó tùy theo thỏa thuận hợp đồng mà có thể ghi các loại giá như giá cố định, giá định sau, giá định lại và giá di động…Điều kiện cở sở giao hàng cho phép tính giá hàng trong hợp đồng bao gồm giá hàng thực tế cộng với giá cước vận tải, tiền bảo hiểm, gửi kho...hay không tùy vào từng nhóm điều kiện giao hàng. 1.2.6. Thanh toán Trong điều khoản này quy định đồng tiền thanh toán, thời hạn thanh toán và phương thức thanh toán. -Đồng tiền thanh toán: Việc thanh toán tiền hàng được tiến hành bằng đồng tiền của nước xuất khẩu, của nước nhập khẩu hoặc đôi khi một nước thứ ba thậm chí trong hợp đồng còn cho quyền người nhập khẩu được thanh toán bằng các ngoại tệ khác nhau tùy theo sự lựa chọn của mình.Đồng tiền thanh tóan có thể trùng hợp hoặc không trùng hợp với đồng tiền ghi giá, nếu không trùng hợp thì phải quy định tỷ giá quy đổi. -Thời hạn thanh toán: Thường quy định cụ thể trong hợp đồng ,nếu không quy định thì việc thanh toán thường đựoc thực hiện sau một số ngày khi nhà xuất khẩu đã thông báo cho nhà nhập khẩu hàng đã nằm trong sự kiểm soát của họ hoặc một số ngày (thường là 15 ngày) sau khi thông báo cho nhà nhập khẩu là hàng đã gửi theo tập quán quốc tế. -Phương thức thanh toán Có nhiều phương thưc thanh toán khác nhau trong hợp đồng từ trả tiền mặt, ghi sổ, nhờ thu, chuyển tiền, giao chứng từ trả sau, tín dụng chứng từ..trong đó phổ biến và thông dụng nhất hiện nay là phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ.Mỗi phương thức thanh toán đều có những ưu điểm lẫn hạn chế riêng do đó các bên cần nghiên cứu kỹ để chọn phương thức thanh toán hợp. 1.2.7. Bao bì và ký mã hiệu Ngoài phương thức để trần và để rời thì hầu hết các hàng hóa phải bao bì thích hợp khi chuyên chở và trong nhiều trường hợp là điều kiện chính của hợp đồng. Hàng hóa cần được bao bì đóng gói để cho tiện việc bảo quản, thuận lợi khi vận chuyển và tránh hư hỏng mất mát. Bao bì đóng gói gồm bao bì ngoài thích hợp từng loại hàng hóa,điều kiện vận chuyển,bốc dỡ ...để bảo vệ an toàn đến nơi tiêu thụ,loại bao bì này có thể kẻ những ký hiệu đơn giản thường để chỉ dẫn khi vận chuyển như chống mưa, chống vỡ.. Và bao bì tiêu thụ để tiện cho việc bày bán nhận biết,mang xách và sử dụng.Loại bao bì này dùng các dấu hiệu thuyết minh bằng chữ viết kết hợp với hình vẽ thoáng đẹp, hẫp dẫn để thuyết minh cho sản phẩm. 1.2.8. Bảo hành Trong điều khoản này thường đề cập tới hai yếu tố: Thứ nhất là thời gian bảo hành phải cụ thể là bao nhiêu, đó là khoảng thời gian cân thiết để xác định trách nhiệm đối với sản phẩm của chủ hàng.Thứ hai là nội dung bảo hành: người bán hàng cam kết trong thời hạn bảo hành hàng hóa sẽ bảo đảm các tiêu chuẩn chất lượng, đặc điểm kỹ thuật, phù hợp với qui định của hợp đồng, với điều kiện người mua phải nghiêm chỉnh thi hành sự hướng dẫn của người bán về sử dụng và bảo dưỡng. Nếu trong giai đoạn đó, người mua phát hiện thấy khuyết tật của hàng hóa, thì người bán phải sửa chữa miễn phí hoặc giao hàng thay thế. 1.2.9.Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng Điều khoản này các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng nếu một trong các bên không làm tốt nghĩa vụ của mình và trách nhiệm phải bồi thường nếu gây thiệt hại cho bên kia nếu không chứng minh được không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ do trường hợp bất khả kháng gây ra. Căn cứ để xác định trách nhiệm phát sinh do vi phạm hợp đồng là phải có hành vi phạm hợp đồng, hành vi ấy phải xuất phát từ lỗi của họ và phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu qủa là những thiệt hại thực tế đã xãy ra. Khi vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm phải chịu một trong các hình thức pháp lý sau tại Điều 292 Luật thương mại 2005 - Buộc thực hiện đúng hợp đồng (Đ297) như đã cam kết: Ngưòi bán giao hàng chậm thì phải nhanh chóng giao trong thời gian quy định cả gia hạn, giao hàng đủ như hợp đồng, sữa chữa khuyết tật của hàng hóa...Người mua phải trả tiền nhận hàng và thực hiện đúng nghĩa vụ khác. - Phạt không quá 8% giá trị nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm trừ trường hợp giám định sai ( Đ301), việc phạt này không nhất thiết phải có thiệt hại xảy ra với các vi phạm mà do sự thỏa thuận trong hợp đồng trừ trường hợp miễn trách (Đ300). Pháp luật các nước khác coi phạt là hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thường không hạn chế mức phạt mà do các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng . - Bồi thường thiệt hại một khoản bao gồm giá trị tổn thất thực tế trực tiếp và khỏan lợi đáng lẽ được hưởng nếu không có vi phạm ( Đ302). Để được bồi thường bên bị vi phạm phải có nghĩa vụ chứng minh tổn thất đó. Tuy nhiên bên yêu cầu bồi thường phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất nếu không bên vi phạm có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường bằng mức tổn thất đáng lẽ hạn chế được ( Đ305). - Tạm ngừng và đình chỉ thực hiện hợp đồng hợp đồng đối với những vi phạm cơ bản hoặc do thỏa thuận (Đ308,310), trường hợp này các bên có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có.Đối với việc đình chỉ thực hiện hợp đồng phải thông báo cho bên kia biết trước nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. - Hủy hợp đồng đối với những vi phạm cơ bản hoặc do thỏa thuận hoặc đã cho bên vi phạm một thời hạn bổ sung để thực hiện hợp đồng mà bên vi phạm vẫn không thực hiện hoặc tuyên bố không thực hiện ( Đ312).Việc hủy bỏ phải thông báo cho bên kia được biết, nếu chưa thông báo mà bên vi phạm đã thực hiện nghĩa vụ thì bị mất quyền hủy hợp đồng. 1.2.10. Bảo hiểm  Trong điều khoản này cần thỏa thuận ai là người mua bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm cần mua.Thường thì điều khoản này phụ thuộc vào các điều kiện cơ sở giao hàng như trên đã đề cập. 1.2.11. Bất khả kháng  Là những trường hợp xảy ra khách quan mà đương sự được miễn một phần hay toàn bộ trách nhiệm hoặc được miễn hay hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Theo pháp luật Việt nam các trường hợp được miễn trách bao gồm: những trường hợp do thỏa thuận, xảy ra những trường hợp bất khả kháng như thiên tai, chiến tranh, đình công, nổi loạn; hành vi vi phạm do lỗi của bên kia hoặc hành vi đó do thực hiện quyết định của nhà nước mà không biết trước được vào thời điểm giao kết hợp đồng (Đ294.1-Thương mại 2005). Khi xảy ra trường hợp bất khả kháng đương sự phải thông bào kịp thời cho đối tác biết để xác định trách nhiệm hợp đồng, đồng thời để được miễn trách nhiệm bên vi phạm phải nghĩa vụ chứng minh tổn thất đó. 1.2.12. Khiếu nại Khiếu nại là các đề nghị do một bên đưa ra đối với bên kia do số lượng, chất lượng giao hàng, hoặc một số vấn đề khác không phù hợp với các điều khoản đã được qui định trong hợp đồng. Về điều khoản này các bên qui định trình tự tiến hành khiếu nại, thời hạn có thể nộp đơn khiếu nại, quyền hạn và nghĩa vụ của các bên liên quan đến việc phát đơn khiếu nại, các phương pháp điều chỉnh khiếu nại. Khiếu nại được đưa ra dưới dạng văn bản và gồm các số liệu sau:Tên hàng, số lượng, và xuất xứ hàng hóa, cơ sở để khiếu nại kèm theo chỉ dẫn chính về những thiếu xót mà đơn khiếu nại được phát ra, các yêu cầu về điều chỉnh khiếu nại. Ðơn khiếu nại được gửi đi kèm theo các chứng từ cần thiết như: biên bản giám định, biên bản chứng nhận tổn thất, mất mát, vận đơn đường biển, bản liệt kê chi tiết, giấy chứng nhận chất lượng. 1.2.13. Trọng tài Các bên tự thỏa thuận thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.Các bên thỏa thuận và thống nhất Tòa án hay Trọng tài nước nào giải quyết tranh chấp trong trường hợp không tự giải quyết được bằng thương lượng. Việt nam đã có Trọng tài thương mại và đã tham gia công ước Newyork về công nhận phán quyết của trọng tài.Điều khoản này còn quy định luật nào áp dụng vào xét xử ,địa điểm tiến hành xét xử và việc phân định chi phí trọng tàì. Ngoài các điều khoản trên trong hợp đồng các bên có thể thỏa thuận thêm những điều khoản khác cho đầy đủ, tuy nhiên chúng phải không được trái với quy định của ĐƯQT, luật quốc gia của người bán và người mua cụ thể là pháp luật Việt nam về thương mại. 1.3. Quá trình đàm phán và ký kết Hợp đồng xuất nhập khẩu 1.3.1. Các phương thức đàm phán Ðàm phán là một quá trình trong đó hai hay nhiều bên tiến hành thương lượng, thảo luận về các mối quan tâm chung và những quan điểm còn bất đồng để đi tới một thỏa thuận mà các bên cùng có lợi. Đây là công việc đầu tiên để chuẩn bị ký kết 1 hợp đồng. Việc đàm phán có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau nhưng nhìn chung gồm 2 phương thức cơ bản là đàm phán ký kết trực tiếp và đàm phán ký kết gián tiếp Đàm phángiao dịch bằng thư tín là hình thức gián tiếp qua thư từ gửi bằng bưu điện, telex, fax hoặc email nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu thỏa thuận với nhau những điều khoản cần thiết trong hợp đồng. Hình thức này tuy ít tốn kém, người viết có thời gian và điều kiện để cân nhắc ý kiến và gửi cùng lúc nhiều bạn hàng nhưng việc đàm phán có thể kéo dài, nhiều lúc trải qua nhiểu lần viết thư để đạt được kết quả cuối cùng. Hình thức này thường áp dung cho những khách hàng cũ có mối quan hệ buôn bán từ trước tới nay. Đàm phán qua điện thoại Đây là hình thức gián tiếp qua đường dây điện thoại quốc tế cả hai bên tiến hành thực hiện giao dịch để đi đến ký hợp đồng.Hình thức này làm cho việc ký kết hợp đồng có thể diễn ra nhanh chóng nhưng với cách trao đổi bằng miệng không có gì làm bằng chứng cho sự thỏa thuận, quyết định trong trao đổi; hơn nữa việc gọi điện thoại quốc tế rất tốn kém, trình bày sẽ rất khó đầy đủ ý cho nhau vì hạn chế thời gian.Người ta chỉ sử dụng trong trường hợp thật cần thiết, khẩn trương sợ lỡ thời cơ hoặc trong trường hợp mọi điều kiện đã thõa thuận xong chỉ còn chờ xác nhận một vài chi tiết nữa để làm rõ hợp đồng. Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp đây là hình thức 2 bên trực tiếp gặp gỡ bàn bạc, thương lượng trực tiếp các điều khoản của hợp đồng.Phương thức này tạo điều kiện cho các bên thống nhất bàn bạc kỹ lưỡng tránh những sai sót hiểu lầm ý định của nhau, kết quả của đàm phán có được sự xác nhận pháp lý ngay của các bên nên khiến hợp đồng mau chóng đi vào thực hiện. Nhưng hình thức này lại rất tốn kém, mất thời gian, dễ lộ bí mật thường áp dụng cho hợp đồng phức tạp dưới góc độ pháp lý, hoặc có giá trị lớn về kinh tế. 1.3.2. Soạn thảo và ký kết hợp đồng Văn bản hợp đồng thường do một bên soạn thảo. Trước khi ký kết bên kia phải xem xét kỹ lưỡng, cẩn thận đối chiếu với những thỏa thuận đã đạt được trong đàm phán.Cần chú ý là việc hợp đồng có hiệu lực hay không là dựa trên cơ sở quy định pháp luật quốc gia của các bên trong hợp đồng chứ không phụ thuộc vào việc lựa chọn luật áp dụng.Việc áp dụng điều kiện để hợp đồng có hiệu lực các bên thường tham khảo tới bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế (PRINCIPLES OF INTERNATIONAL COMMERCIAL CONTRACTS-PICC),tuy nhiên PICC chỉ có giá trị tham khảo mà không có trị pháp lý như một văn bản pháp luật.Vì vậy việc việc am hiểu pháp luật đối phương là đỉều cần thiết.Theo Luật dân sự 2005 thì để một hợp đồng có hiệu lực cần đảm bảo điều kiện sau (Đ 410) -Chủ thể của hợp đồng phải hợp pháp: Các chủ thể ở đây theo luật thương mại 2005 là các thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên và có đăng ký kinh doanh (Đ6).Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì tất cả các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh hàng hoá, có thị trường ổn định đã được cấp giấy đăng ký kinh doanh và giấy đăng ký mã số xuất nhập khẩu đều có thể tham gia XNK .Trong đó đối với pháp nhân theo pháp luật Việt nam là 1 tổ chức được thành lập một cách hợp pháp,có tài sản riêng và chịu trách nhiệm một cách độc lập bằng các tài sản, có quyền quyết định của minh và có quyền tự mình tham gia các quan hệ pháp luật.Đối với cá nhân phải có năng lực hành vi,năng lực pháp lý theo pháp luật dân sự. - Hàng hóa đối tượng của hợp đồng phải là hàng hóa phù hợp với mặt hàng ghi trong giấy phép đăng ký kinh doanh (trừ các mặt hàng cấm XNK và các mặt hàng có điều kiện).Danh mục mặt hàng này đã được pháp luật quy định cụ thể. - Hình thức hợp đồng phải là văn bản (như trên đã đề cập) - Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội (xem phần Nội dung cơ bản của hợp đồng xuất nhập khẩu ở trên) Bên cạnh đó việc ký kết hợp đồng phải tôn trọng nguyên tắc cơ bản là sự nguyện ,sự bình đẳng, thiện chí trung thực...của hai bên ký kết.Những hợp đồng ký kết do nhầm lẫn (Đ131-Dân sự 2005), do bị đe dọa hoặc một trong các bên bị lừa dối (Đ132-Dân sự 2005) thì hợp đồng không có hiệu lực. 1.4. Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu Sau khi hợp đồng được ký kết các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải tổ chức thực hiện nó.Công việc này đòi hỏi phải tuân thủ pháp luật quốc gia và quốc tế, đảm bảo quyền lợi quốc gia và uy tín của đơn vị kinh doanh.Việc tổ chức thực hiện cần cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ giao dịch. Với một hợp đồng xuất nhập khẩu nói chung việc thực hiện trải qua các bước sau đây: 1.4.1. Xin giấy phép xuất/nhập khẩu Sau khi ký h._.ợp đồng xuất nhập khẩu nói chung doanh nghiệp phải xin giấy phép giấy phép xuất nhập khẩu.Hiện nay trong xu thế tự do hóa mậu dịch nhiều nước đã giảm bớt một số mặt hàng phải xin giấy phép xuất nhập khẩu theo chuyến.Ở nước ta chỉ còn 9 trường hợp là các mặt hàng phải xin giấy phép xuất nhập khẩu theo chuyến theo công văn số 208/TCHQ-CSQL do Tổng cục Hải quan ban hành ngày 20/3/1996. Việc cấp giấy phép được phân công như sau - Bộ Thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu mậu dịch nếu hàng thuôc 1 trong 9 trường hợp trong công văn nêu trên - Tổng cục hải quan cấp phép đối với các mặt hàng phi mậu dịch. Mỗi giấy phép chỉ cấp cho 1 chủ hàng kinh doanh để xuất nhập khẩu 1 hoặc mốt số mặt hàng với một số nước quy định,chuyên chở bằng một phương thức vận tải và giao nhận tại một cửa khẩu nhất định.Đơn xin cấp phép (và các chứng từ kèm theo) phải được chuyển đến phòng cấp phép của 2 cơ quan có thẩm quyền trên. Sau 3 ngày nhận được đơn đó phòng hoặc tổ cấp giấy phép phải trả lời kết quả. 1.4.2. Chuẩn bị hàng xuất khẩu Thực hiện cam kết trong hợp đồng xuất khẩu chủ hàng xuất khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng xuất khẩu, căn cứ để chuẩn bị hàng xuất khẩu là hợp đồng đã ký và/hoặc L/C nếư hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C. Công việc chuẩn bị hàng cho xuất khẩu bao gổm 3 khâu chủ yếu sau: - Thu gom hàng thành lô hàng xuất khẩu Giai đoạn này chủ hàng phải tiến hành thu gom hàng từ nhiều cơ sở sản xuất –thu mua khác nhau cho lo hàng xuất khẩu của mình.Để thu gom hàng đó là các chủ hàng phải ký kết các hợp đồng kinh tế với cơ sở sàn xuất để huy động hàng, đó là những hợp đồng mua bán hàng,hợp đồng gia công, hợp đồng đổi hàng, hợp đồng ủy thác thu mua hàng hay hợp đồng nhận ủy thác xuất khẩu hoặc hợp đồng liên doanh liên kết xuất khẩu … -Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu Trong buôn bán quốc tế tuy không ít mặt hàng để trần hoặc để rời nhưng đại bộ phận hàng hóa đòi hỏi phải được đóng gói bao bì trong quá trình vận chuyển.Vì vậy việc tổ chức đóng gói, bao bì, kẻ mã hiệu là khâu quan trọng mà muốn làm tốt thì cần phân công cụ thể việc bao gói để lựa chọn cách bao gói thích hợp.Việc chọn loại bao bì nào là hòm, bao, kiện, thùng hoăc chai,lọ..với những vật liệu gì để gói bên trong cần đảm bảo an toàn,rẻ và thẩm mỹ.Ngoài ra cũng cần xét đến nhân điều kiện vận tải,khí hậu,cả luật pháp và chi phí vận chuyển để đảm bảo những yêu cầu đó. - Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu Ký mã hiệu (marking) là những ký hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được ghi trên các bao bì bên ngoài nhằm thông báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ hoặc bảo quản hàng hoá. Ký mã hiệu cần phải bao gồm những dấu hiệu cần thiết đối với người nhận hàng như: tên người nhận và tên người gửi, trọng lượng tịnh và trọng lượng cả bì, số hợp đồng, số hiệu chuyến hàng, số hiệu kiện hàng.     1.4.3. Kiểm tra chất lượng Người xuất khẩu có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng về phẩm chất, số lượng trọng lượng, bao bì hoặc nếu hàng hoá xuất khẩu là động vật, thực vật phải kiểm tra lây lan bệnh dịch.Việc kiểm nghiệm ở cơ sở do đơn vị sản xuất, thu mua chế biến.. kiểm tra chất lượng sản phẩm. Việc kiểm dịch thực vật ở cơ sở là do phòng bảo vệ thực vật tiến hành. Việc kiểm nghiệm và kiểm dịch được tiến hành ở hai cấp: ở cơ sở và ở cửa khẩu. trong đó việc kiểm tra ở cơ sở có vai trò quyết định nhất và có tác dụng triệt để nhất. Còn việc kiểm tra hàng hoá ở cửa khẩu có tác dụng thẩm tra lại kết quả kiểm tra ở cơ sở và thực hiện thủ tục quốc tế . Doanh nghiệp nhập khẩu, với tư cách là một bên đứng tên trên vận đơn, phải lập thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng có tổn thất sau đó phải yêu cầu công ty bảo hiểm lập biên bản giám định nêu tổn thất xảy ra bởi những rủi ro đã được mua bảo hiểm. Trong những trường hợp khác phải yêu cầu công ty giám định tiến hành kiểm tra hàng hoá và lập chứng thư giám định. Các cơ quan kiểm dịch phải thực hiện nhiệm vụ kiểm dịch nếu hàng nhập khẩu là động hoặc thực vật. 1.4.4. Thuê tàu lưu cước  Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào ba căn cứ sau đây: Những điều khoản của hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải. Các doanh nghiệp Việt nam thường lựa chọn điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là CIF hoặc của hợp đồng nhập khẩu là FOB thì chủ hàng xuất nhập khẩu phải thuê tàu biển để chở hàng.Tàu này có thể là tàu chuyến nếu hàng có khối lượng lớn và để tràn hoặc có thể có tàu chợ nếu hàng lẻ tẻ, lặt vặt, đóng trong bao kiện và trên đường hàng đi có chuyến tàu chợ. Việc thuê khoang tàu chợ còn gọi là lưu cước.Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước uỷ thác cả năm hoặc theo chuyến cho một công ty hàng hải như: công ty thuê tàu và môi giới hàng hải (Vietfracht), công ty đại lý tàu biển (VOSA)... 1.4.5. Mua bảo hiểm Các chủ hàng xuất nhập khẩu của ta, khi cần mua bảo hiểm đều mua tại công ty Việt Nam. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm bao hoặc là hợp đồng bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm bao, chủ hàng ký hợp đồng từ đầu năm, còn đến khi giao hàng xuống tàu xong chủ hàng chỉ gửi đến công ty bảo hiểm một thông báo bằng văn bản gọi là: "Giấy báo bắt đầu vận chuyển" khi mua bảo hiểm chuyến, chủ hàng phải gửi đến công ty bảo hiểm một văn bản gọi là: "Giấy yêu cầu bảo hiểm ". Trên sở "Giấy yêu cầu..."này, chủ hàng và công ty bảo hiểm đàm phán ký kết hợp đồng bảo hiểm. 1.4.6. Làm thủ tục hải quan Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hoặc nhập khẩu đều phải làm thủ hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu sau đây: -  Khai báo hải quan.  Chủ hàng khai báo trung thực và chính xác các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ.Nội dung của tờ khai bao gồm những mục như : Loại hàng (hàng mậu dịch, hàng trao đổi tiểu ngạch biên giới hàng tạm nhập tái xuất...), tên hàng, số, khối lượng, giá trị hàng, tên công cụ vận tải, xuất khẩu hoặc nhập khẩu với nước nào... tờ khai hải quan phải được xuất trình kèm theo một số chứng từ khác, mà chủ yếu là: giấy phép xuất nhập khẩu, hoá đơn phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết. - Xuất trình hàng hoá.  Hàng hoá xuất nhập khẩu phải được xắp xếp trật tự thuận tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công về việc mở, đóng các kiện hàng,nộp thủ tục phí hải quan. Yêu cầu của việc xuất trình hàng hoá cũng là sự trung thực của chủ hàng.  - Thực hiện các quyết định của hải quan.  Sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hoá, hải quan sẽ ra những quyết định như: Cho hàng được phép ngang qua biên giới (thông quan), cho hàng đi qua một cách có điều kiện (như phải sửa chữa, phải bao bì lại...) cho hàng đi qua sau khi chủ hàng đã nộp thuế; lưu kho ngoại quan (bonded warehouse) hàng không được xuất (hoặc nhập) khẩu... nghĩa vụ của chủ hàng là phải nghiêm túc thực hiện các quyết định đó. 1.4.7. Giao nhận hàng với tàu -Giao hàng xuất khẩu.  Hàng xuất khẩu của ta được giao, về cơ bản, bằng đường biển và đường sắt. Nếu hàng được giao bằng đường biển, chủ hàng phải tiến hành các việc sau:    + Lập bảng đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải để đổi lấy sơ đồ xếp hàng. + Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng.   + Bố trí phương tiện đem hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu.   + Lấy biên lai thuyền phó và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển.   Nếu hàng hoá được giao bằng container khi chiếm đủ một container, chủ hàng phải đăng ký thuê container, đóng hàng vào container và lập bảng kê hàng trong container . Khi hàng giao không chiếm hết một container, chủ hàng phải lập "bản đăng ký hàng chuyên chở" . Sau khi đăng ký được chấp thuận, chủ hàng giao hàng đến ga container cho người vận tải.  Nếu hàng hoá chuyên chở bằng đường sắt, chủ hàng phải kịp thời đăng ký với cơ quan đường sắt để xin cấp toa xe phù hợp với tính chất hàng hoá và khối lượng hàng hoá. Khi đã dược cấp toa xe, chủ hàng tổ chức bốc xếp hàng, niêm phong các chứng từ vận tải, trong đó chủ yếu là vận đơn đường sắt.  - Giao nhận hàng nhập khẩu. Đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải trực tiếp hoặc thông qua một đơn vị nhận uỷ thác giao nhận tiến hành:  Ký kết hợp dồng uỷ thác cho cơ quan vận tải (ga, cảng) về việc giao nhận hàng từ tàu ở nước ngoài về.   Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu từng năm, từng quý, lịch tàu, cơ cấu mặt hàng điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển giao nhận.  Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng hoá (như vận đơn, lệnh giao hàng...) nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan vận tải.  Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt mua hàng nhập khẩu (nếu hàng nhập khẩu cho một đơn vị trong nước) về dự kiến ngày hàng về, ngày thực tế tàu chở hàng về đến cảng hoặc ngày toa xe chở hàng về sân ga giao nhận.   Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp bảo quản và vận chuyển hàng nhập khẩu.  Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập những biên bản(nếu cần) về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn đề xảy ra trong việc giao nhận. 1.4.8 . Làm thủ tục thanh toán Việc thanh tóan thường theo nhiều phương thức khác nhaui và Mỗi phương thức lại có quy trình thủ tục khác nhau,dưới đây chỉ trình bày đối với phương thức thông dụng nhất hiện nay là thanh toán bằng thư tín dụng      Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định việc thanh toán bằng thư tín dụng, đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải đôn đốc người mua ở nước ngoài mở thư tín dụng (L/C) đúng hạn và sau khi nhận được L/C phải kiểm tra L/C và khả năng thuận tiện trong việc thu tiền hàng xuất khẩu L/C đó. Nếu L/C không đáp ứng được những yêu cầu này, cần phải buộc người mua sửa đổi lại rồi mới giao hàng.Khi lập bộ chứng từ thanh toán, những điểm quan trọng cần được quán triệt là: Nhanh chóng, chính xác, phù hợp với những yêu cầu của L/C cả về nội dung lẫn hình thức.  Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định tiền hàng thanh toán bằng L/C, đầu tiên bên mua phải mở L/C .Thời gian mở L/C, nếu hợp đồng không quy định gì, phụ thuộc vào thời gian giao hàng. Thông thường L/C được mở khoảng 20 - 25 ngày trước khi đến thời gian giao hàng (nếu khách hàng ở Châu Âu).Căn cứ mở L/C là các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Khi mở L/C, Tổng công ty hoặc công ty xuất nhập khẩu dựa vào căn cứ này để điền vào một mẫu gọi là " Giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu". Giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu kèm theo bản sao hợp đồng và giấy phép nhập khẩu được chuyển đến ngân hàng ngoại thương cùng với hai uỷ nhiệm chi: một uỷ nhiệm chi đã ký quỹ theo quy định về việc mở L/C và một uỷ nhiệm chi nữa để trả thủ tục phí cho ngân hàng về việc mở L/C.Khi bộ chứng từ gốc từ nước ngoài về đến ngân hàng ngoại thương đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải kiểm tra chứng từ và nếu chứng từ hợp lệ, trả tiền cho ngân hàng. Có như vậy, đơn vị kinh doanh nhập khẩu mới nhận được chứng từ để đi nhận hàng. 1.4.9. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại  Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng xuất nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đỗ vỡ thiếu hụt, mất mát, thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời gian khiếu nại.Có thể khiếu nại người bán nếu hàng không phù hợp với hợp đồng,thời hạn giao hàng bị vi phạm thanh toán nhầm lẫn...  Khiếu nại người vận tải nếu hàng bị tổn thất trong quá trình chuyên chở do lỗi cuả người vận tải gây nên. Khiếu nại công ty bảo hiểm nếu hàng hoá - đối tượng của bảo hiểm bị tổn thất do thiên tai, tại nạn bất ngờ hoặc do lỗi của người thứ ba gây nên, khi những rủi ro này đã được mua bảo hiểm.  Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất , hoá đơn , vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại công ty bảo hiểm ) .. Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, nếu chủ hàng xuất khẩu bị khiếu nại đòi bồi thường, cần phải có thái độ nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét yêu cầu của khách hàng (người nhập khẩu). Việc giải quyết phải khẩn trương kịp thời có tình có lý.  Nếu khiếu nại của khách hàng là cơ sở, chủ hàng xuất khẩu có thể giải quyết bằng một trong những phương pháp như: Giao đủ số hàng thiếu,giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng,sữa chữa hàng hỏng,giảm giá hàng mà số tiền giảm giá được trang trải bằng hàng hoá giao vào thời gian sau đó.  Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thỏa đáng hai bên có thể kiện nhau tại hội đồng trọng tài (nếu thoả thuận trọng tài) hoặc tại Toà án. 1.5.Tranh chấp và việc giải quyết tranh chấp trong hợp đồng xuất nhập khẩu Tranh chấp là những bất đồng xảy ra trong quá trình thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu.Tranh chấp là điều khó tránh khỏi do sự khác biệt về điều kiện địa lý,kinh tế, chính trị,văn hóa...Tranh chấp là điều các bên không ai mong muốn cả,do vậy khi có tranh chấp phát sinh cần nhanh chóng giải quyết ổn thỏa để giữ gìn mối quan hệ làm ăn,buôn bán.Tranh chấp thương mại được giải quyết bằng nhiều hình thức khác nhau.Những phương thức thường được áp dụng là giải quyết bằng thương lượng, giải quyết bằng hòa giải, giải quyết bằng trọng tài và giải quyết bằng tòa án. 1.5.1.Thương lượng trực tiếp giữa các bên tranh chấp Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không cần đến vai trò người thứ ba.Đặc điểm cơ bản của thượng là các bên cùng nhau bàn bạc trình bày quan điểm, tìm ra biện pháp thích hợp, trên cơ sở đó đi đến thống nhất để giải quyết những bất đồng.Do tính chất đơn giản, tiết kiệm, không làm phương hại quan hệ hợp tác vốn có, giữ được bí mật kinh doanh lại không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý nên được các thương nhân ưa chuộng.Kết quả của thương lượng là những cam kết,thỏa thuận tháo gỡ những bất đồng mà các bên thường không nhận thức được trước đó. Kết quả đó thường lập thành một biên bản, biên bản được thành lập một cách hợp lệ với những nội dung chủ yếu - Những sự kiện pháp lý liên quan đến thương lượng - Quan điểm của mỗi bên trong quá trình thươn lượng - Các giải pháp được đề xuất qua thương lượng - Những thỏa thuận,cam kết đạt được qua thương lượng\ Biên bản có giá trị như một hợp đồng và có giá trị bắt buộc với các bên.Biên bản như một chững cứ quan trọng yêu cầu các cơ quan tài phán công nhận và cưỡng chế thì hành những thỏa thuận nói trên khi một trong các bên không tự giác thi hành. 1.5.2.Hòa giải tranh chấp Đây là hinh thức giải quyết có sự tham gia của người thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định vai trò trung gian để hỗ trợ các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột. Hòa giải mang tính tự nguyện tùy thuộc vào sự lựa chọn của các bên.Hòa giải viên thường là những cá nhân,tổ chức có trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm về những vụ việc liên quan đến tranh chấp phát sinh.Có hai hình thức hòa giải chủ yếu là hòa giải ngoài thủ tục tố tụng và hòa giải trong thủ tục tố tụng Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng là hình thức hòa giải qua trung gian được các bên tiến hành trước khi đưa tranh chấp ra cơ quan tài phán.Khi thống nhất được phương án giải quyết tranh chấp thì các bên tự nguỵện thực hiện nó. Pháp luật Việt nam cũng như thế giới coi đây là công việc riêng tư của các bên nên không điều chỉnh trực tiếp và chi tiết. Hòa giải trong thủ tục tố tụng là hình thức hòa giải được tiến hành tại tòa án hay trọng tài khi các cơ quan này giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên.Trung gian ở đây có thể là thẩm phán hoặc trọng tài viên phục trách vụ việc.Hình thức này chỉ được tiến hành khi có đơn khởi kiện đến các cơ quan tài phán này và đã được thụ lý.Khi hòa giải thì người trung gian đó phải tôn trọng tính tự nguyện tự do ý chí của các bên.Khi đương sự thỏa thuận được với nhau thì trọng tài viên hoặc thẩm phán đó lập biên bản và ra quyết định công nhận nó.Quyết định có hiệu lực như một bản án hay một phán quyết của trọng tài. 1.5.3. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài Trọng tài là một phương thức giải quyết các tranh chấp theo đó các bên thỏa thuận giao cho một cá nhân (trọng tài viên) thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau.Trọng tài viên đó là bên thứ ba trung lập do các bên tự nguyện lựa chọn và sau khi nghe các bên trình bày sẽ ra một phán quyết có tinh bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Trọng tàì thương mại quốc tế được tổ chức dưới hai hình thức là trọng tài ad-hoc và Trọng tài thường trực Trọng tài ad-hoc là loại trọng tài không có cơ quan thường trực do các bên tranh chấp lập ra để giải quyết các vấn đề mà họ yêu cầu.Hình thức này tạo ra sự lựa chọn không giới hạn của đưong sự về Trọng tài viên trong danh sách có sẵn như trọng tài thường trực,đặc biệt các bên đương sự có tòan quyền trong việc xác lập quy chế tố tụng.Loại hình này được pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 cuả Việt nam chính thức ghi nhận. Trọng tài thường trực là là hình thức trung gian giữa tòa án và trọng tài ad-hoc.Trọng tài thường trực giống trọng tài ad-hoc ở khả năng lựa chọn trọng tài viên tuy có hạn chế hơn (phải lựa chọn trong danh sách trọng tài viên có sẵn..).Mặt khác các bên đương sự phải tuân theo các quy chế xét xử của từng trung tâm trọng tài. Cơ cấu của trọng tài thường trực nói chung rất phức tạp .Nói chung cơ cấu của nó bao gồm - Bộ phận thường trực giúp việc - Các Hội đồng trọng tài ( thành lập khi có vụ việc) Hiện nay có ba Hội lớn nhất chuyên giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế đó là Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ,Tòa Trọng tài quốc tế của phòng thương mại quốc tế và Tòa Trọng Tài quốc tế Luân Đôn.Ngoài ra còn có các trung tâm trọng tài nhiều nơi trên thế giới,ở Việt nam có Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. Phán quyết của trọng tài có giá trị bắt buộc với các bên.Khi phán quyết của trọng tài nước ngoài thì đối với các nước là thành viên của Công ước New-york 1958 thì quyết định của Trọng tàì dù được tuyên ở nước ngoài vẫn được các bên chấp hành nghiêm chỉnh, nếu không tực giác thi hành thì có thể kiến nghị lên có Thẩm quyền yêu cầu giải quyết.Đối với các nước không gia nhâp Công ước đó thì việc công nhận và cho thi hành tùy thuộc vào việc ký kết điều ước song phưong giữa các bên. 1.5.4. Giải quyết tranh chấp tại tòa án Việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án thường gắn liền với quyền lực của Nhà nước vì cho đến thực tế cho thấy rằng chưa có một tòa án quốc tế nào giải quyết hữu hiệu các tranh chấp thương mại quốc tế mà chỉ có thể giải quyết tại Tòa án của một quốc gia nào đó theo quy tắc tố tụng của pháp luật quốc gia đó. Lựa chọn Tòa án nước nào là do sự thỏa thuận của các bên có tranh chấp.Trong nhiều trường hợp các bên không quy định bất kỳ điều khoản nào về giải quyết tranh chấp.Khi tranh chấp phát sinh thì phải quyết định Tòa án nào có thẩm quyền bằng cách áp dụng các quy tắc xung đột xung đột pháp luật như trên đã nói hoặc xem xét các hiệp định song phương hoặc đa phương có thể áp dụng.Khi lựa chọn đặc biệt chú ý thẩm quyền của Tòa án được lựa chọn, tính khách của Tòa án được lựa chọn,hiệu lực thi hành bản án của Tòa án… Tại Việt nam việc giải quyết tranh chấp tại tòa án được tiến hành theo thủ tục tư pháp theo Bộ luật tố tụng dân sự 2004 bao gồm nhiều thủ tục được bộ luật quy định rất phức tạp từ thủ tục sơ phúc thẩm vụ việc đến thủ tục xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật tất cả đều rất chặt chẽ buộc các bên trong hợp đồng phải tuân thủ nghiêm ngặt thì việc giải quyết tranh chấp mới hiệu quả. Bản án của tòa án có hiệu lực thi hành bắt buộc với các bên, nếu bên nào không thi hành thì cơ quan thi hành án có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật ( Pháp lệnh thi hành án 2004). Chương 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU VIGLACERA 2.1.Tổng quan về công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera 2.1.1 .Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera. Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera mà tiền thân là Phòng kinh doanh và xuất nhập khẩu(được thành lập theo quyết định số 217/QĐ-BXD ngày 17/05/1998 với tên giao dịch là Business and import export company sau đổi thành Trading and and export-import company hay TRADIMEX), trực thuộc Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng(Viglacera),là công ty được chuyển đổi cổ phần hóa từ DNNN,theo quyết định số1679/QĐ-BXD ngày 05/09/2006 của bộ xây dựng,giấy phép thành lập và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103011079 do Sở Kê hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp ngày03/03/2006 (giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũ số 309941 cấp ngày 22/06/1998).Công ty có tên giao dịch quốc tế là VIGLACERA IMPORT - EXPORT JOINT STOCK COMPANY,viết tắt là VIGLACERA-EXIM.,JSC.Trụ sở chính của công ty đặt tại số 2- Đường Hoàng Quốc Việt -Phường Nghĩa Đô-Quận Cầu Giấy-Hà Nội.Công ty được thành lập với 69 Cổ đông sáng lập có tổng số vốn điều lệ là 8 tỷ đồng. Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera thực hiện chế độ hạch toán nội bộ trong cơ quan Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng, được sử dụng con dấu riêng theo mẫu quy định và được mở tài khoản tại ngân hàng,kho bạc Nhà nước,Ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Viêtnam và Ngân hàng nước ngoài khi cần thiết theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty.Công ty hoạt động theo sự phân công phân cấp của Tổng công ty theo điều lệ tổ chức và hoạt động công ty do Đại hội đồng cổ đông công ty thông qua ngày 10/10/2005 phù hợp với sự đổi mới của nền kinh tế nước nhà và nền kinh tế thế giới. 2.1.2. Chức năng nhiệm vụ của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera 2.1.2.1 Chức năng Như tên gọi của nó công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera thực hiện chức năng là kinh doanh xuất nhập khẩu (xuất nhập khẩu kinh doanh),xuất khẩu lao động , xuất nhập khác khẩu ủy thác cho các đơn vị trong tổng công ty và các đơn vị khác, kinh doanh vật liệu xây dựng và trang trí nội thất, kinh doanh nội địa... Như vậy về cơ bản có 2 nhóm chức năng cơ bản đó là: *Chức năng kinh doanh: Đây là chức năng chung của tất cả các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động của mình. Để đáp ứng yều này đòi hỏi công ty phải nghiên cứu quy luật cung cầu trên thị trường trong và ngoài nước về các loại sản phẩm do các đơn vị thành viên sản sản xuất để xây dựng phương án tiêu thụ,làm cho Tổng công ty hoà nhập và đáp ứng nhu cầu thị truờng,hiệu quả cao. *Chức năng xuất nhập khẩu Đây là chức năng đặc thù của mình trong lĩnh vực nghành nghề mà công ty hoạt động,công ty thực hiện chức năng xuất khẩu các sản phẩm gạch ngói đất sét nung và sành sứ xây dựng,gạch ốp lát ceramic,granit,nguyên vật liệu,sứ vệ sinh,kính xây dựng,máy móc thiết bị, phục vụ sản xuất công nghiệp và xây dựng. Nhập khẩu vật tư,nguyên vật liệu,thiết bị phụ tùng,hoá chất,phụ gia,vật liệu sản xuất của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty và phục vụ sản xuất kinh doanh. Thực hiện dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác theo uỷ quyền của Tổng giám đốc tổng công ty. 2.1.2.2 Nhiệm vụ của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera Về cơ bản nhiệm vụ của công ty là nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước nhằm đảm bảo sự hoạt động liên tục hiệu quả của các đơn vị thành viên bao gồm cả việc đảm bảo những yếu tố đầu vào (nhập khẩu) và việc tiêu thụ sản những sản phẩm đầu ra qua đó thu được lợi nhuận.Xây dựng,tổ chức triển khai quản lý hệ thống đại diện, đại lý cửa hàng,cộng tác viên để hình thành mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của Tổng công ty trong và ngoài nước.Xây dựng chương trình tiếp thị dài hạn và ngắn hạn trình Tổng giám đốc công ty phê duyệt trên cơ sở đó hoàn thành nhiệm vụ được giao.Thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các chính sách,chế độ hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của bộ thương mại. Tuy nhiên trong từng giai đoạn công ty cần tùy vào tình hình cụ thể của thị trường để có những thay đổi bổ sung phù hợp, đưa ra những nhiệm vụ cụ thể nhằm khái thác tối đa tiềm năng của thị trường để đảm bảo những mục tiêu không chỉ đối vớí trong phạm vi công ty mà còn đối với tổng công ty,chức năng đối với ngành và còn cả với nền kinh tế nước nhà trong bối cảnh hội nhập hiện nay. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera 2.1.3.1 Tổ chức bộ máy quản lý của công ty như sau Là một đơn vị được cổ phần hoá từ Doanh nghiệp Nhà nước do vậy cơ cấu tổ chức có hình thức theo quy định của điều lệ công ty phù hợp với quy định của luật doanh nghiệp 2005,và các quy định hướng dẫn khác của pháp luật . Cụ thể tổ chức bộ máy quản lý của công ty như sau -Đaị hội đồng cổ đông - Hội đồng quản trị -Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc - Ban kiểm soát. Trong đó Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần. Đại hội đồng Cổ đông có trách nhiệm thảo luận và phê chuẩn nhữngchính sách dài hạn và ngắn hạn về phát triển của Công ty, quyết định về cơ cấu vốn, bầu ra bộ máy quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của Công ty. Hội đồng Quản trị là cơ quan quản trị Công ty,có toàn quyền nhândanh Công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty, trừnhững vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng Cổ đông mà không được ủy quyền. Hội đồng Quản trị có trách nhiệm xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh, đưa ra các biệnpháp, các quyết định nhằm đạt được các mục tiêu do Đại hội đồng Cổ đông đề ra.Hội đồng quản trị (HĐQT) công ty hiện tại gồm 05 thành viên do Cổ đông sáng lập để cử theo tỷ lệ sở hữu cổ phần của từng Cổ đông sáng lập,các thành viên đó là -1.Ông Trần Quốc Thái-2.Ông Lê Minh Tuấn-3.Ông Nguyễn Vĩnh Cường-4.Ông Đặng Văn Thiệu và Ông.Nguyễn Trần Tuấn Nghĩa.Các thành viên của HĐQT có nhiệm kỳ không quá 3 năm và có thể được bầu lại vào đại hội cổ đông tiếp theo. Ban Giám đốc là cơ quan điều hành mọi hoạt động kinh doanh của Công ty, chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng Cổ đông, Hội đồng Quản trị về toàn bộ việc tổ chức sản xuất kinhdoanh, thực hiện các biện pháp nhằm đạt được các mục tiêu phát triển của Công ty. Ban Giám đốc gồm 01Giám đốcvà 03 PhóGiám đốc phụ trách trên các lĩnh vực xuất nhập khẩu,kinh doanh nội địa và kinh doanh VLXD.Giám đốc là đại diện pháp nhân của công ,chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ,HĐQT và pháp luật về các kết quả kinh doanh của công ty ,thay mặt công ty ký kết các hợp đồng tài chính, thương mại, tổ chức và điều hành sản xuất kinh doanh của công ty, trình HĐQT phê chuẩn kế hoạch kinhdoanh cho năm tài chính tiếp theo..Giám đốc và một số phó giám đốc có thể đồng thời là thành viên HĐQT và do HĐQT bổ nhiệm hoặc bãi miễn theo một Nghị quyết hợp thức của công ty.Cuối cùng là một hệ thống các bộ phận,trung tâm vàc các phòng ban tương ứng với các lĩnh vực hoạt động của mình ,bao gồm bộ phận kinh doanh nội địa,phòng xuất nhập khẩu,trung tâm xuất khẩu lao động, trung tâm kinh doanh vật liệu xây dựng;các phòng chức năng này hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các phó giám đốc phụ trách, bên cạnh đó còn có phòng kinh tế chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc công ty,phòng tổ chức hành chính chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Đại hội đông cổ đông.Giám đốc và bộ máy giúp việc điều hành hoạt động công ty chịu trách nhiệm và nằm dưới sự lãnh đạo của HĐQT. Trong đó : - Phòng kinh tế vốn được tổ chức từ phòng tài chính kế toán và phòng kế hoạch đầu tư trước đây nên về cơ bản chức năng nhiệm vụ của phòng là tổ chức quản lý chặt chẽ và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn và tài sản của công ty,theo dõi kiểm tra,kiểm soát tình hình tài chính công ty,lập hệ thống báo cáo tài chính và cung cấp thông tin kế toán cho các đối tượng sử dụng,xác lập và tập hợp số lượng thông tin các hoạt động sản xuất kinh doanh,phân tích các thông tin kế toán để giúp các nhà lãnh đạo công ty có giải pháp.Đồng thời phối hợp các phòng khác để tiến hành các hoạt động trong phạm vi nhiệm vụ của mình... - Bộ phận kinh doanh nội địa, đây là chi nhánh ở Hà nội của công ty thực hiện việc triển khai tiêu thụ các sản phẩm, xây dựng hệ thống khách hàng,lập các phương án, quản lý việc thu hồi công nợ.. - Phòng xuất nhập khẩu thực hiện việc tham mưu giám đốc về công tác xuất nhập khẩu, tìm kiếm và khai thác thị trường các nước trên thế giới để mở rộng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. Xây dựng phương án mở văn phòng đại diện tại nước ngoài để hình thành mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của Tổng công ty trên thế giới.. - Trung tâm xuất khẩu lao động thực hiện việc tham mưu cho giám đốc và tổ chức thực hiện các công việc liên quan đến xuất khẩu lao động như đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động, tuyển lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, làm các thủ tục để đưa người lao động đi làm ở nước ngoài; tìm kiếm đối tác và nguồn lao động trong nước, giao dịch tìm kiếm đối tác nước ngoài theo dõi và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của lao động ở nước ngoài.. - Trung tâm kinh doanh vật liệu xây dựng thực hiện việc kinh doanh các sản phẩm kính, gương-bán vật liệu xây dựng thu hồi công nợ của công ty. Tổ chức mạng lưới bán hàng mua sắm trang thiết bị (vận chuyển), trả lương cho CBCNV trong bộ phận, lao động thuê ngoài, nộp tiền khoán cho công ty và chịu trách nhiệm về công nợ bán hàng, sử dụng các biện pháp để chăm sóc khách hành tốt nhất, chủ động cung cấp đáp ứng sản phẩm cho khách hàng... - Phòng tổ chức hành chính thực hiện việc tham mưu cho lãnh đạo công ty thực hiện quản lý các lĩnh vực công tác như: tổ chức, hành chính, lao đông, tiền lương, đào tạo, bảo vệ an ninh quốc phòng và thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động của Công ty.Quản lý con dấu theo quy định của Nhà nước ,quản lý và điều hành phương tiện làm việc cho CBCNV của công ty,công tác thông tin,báo chí,tuyên truyền... Ngoài chi nhánh tại Hà nội công ty còn còn có một chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập từ tháng 6/2006 gồm cán bộ công nhân viên được tổ chức thành 4 phòng là phòng hành chính tổng hợp,phòng kế toán tài chính, phòng xuất khẩu lao động Malasia, phòng xuất khẩu lao động Đài Loan –Macao và bộ phận gồm 3 CBCNV đại diện tuyển dụng tạo nguồn ở các tỉnh phía Bắc.Là chi nhánh mới được thành lập nên trong sáu tháng đi vào hoạt động,ban đầu chỉ ổn định tổ chức bộ máy,hoàn thiện quy chế hoạt động,cơ sở vật chất và đăng ký kinh doanh..Trong kinh doanh chi nhánh chỉ mới bắt đầu xây dựng thực hiện phát triển thương hiệu của công ty tại chi nhánh phía ._. liệu xây dựng trong khi đó các công ty khác chỉ được xuất nhập khẩu chuyên doanh một loại mặt hàng nào đó.Vì vậy công ty sẽ có một thị trường quen biết từ trước tới nay và có kinh nghiệm tiếp cận kinh doanh với các thị trường khác một cách nhanh chóng,hiệu quả. Kinh nghiệm đó cũng cho phép công ty chủ động đối phó với thách thức rủi ro do sự biến động của thị trường cũng như xác đinh cho mình chiến lược kinh doanh mang lại nhiều hiệu quả nhất cho mình. Thực tiễn quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng những năm qua cho thấy công ty luôn đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng với thái độ trung thực thiện chí hai bên cùng có lợi nên chưa tưng xảy ra tranh chấp nào đáng kể, nếu có thì cũng được thương lượng giải quyết kịp thời. Điều này tạo ra uy tín kinh doanh rất lớn cho công ty,là cơ sở để đối tác tin cậy ký kết các hợp đồng làm ăn lớn và lâu dài. 3.1.2. Khó khăn, thách thức Những thuận lợi trên là rất lớn song công ty cũng gặp không ít khó khăn,khó khăn đó hầu hết đều mang tính khách quan mà tất cả các doanh nghiệp Việt nam đều gặp phải nhất là trong bối cảnh hiện nay. Đầu tiên là sự biến động trong môi trường kinh tế chính trị thế giới .Trong những năm qua cùng với xu thế tự do hóa thương mại quốc tế thì tình hình kinh tế chính trị thế giới biến động thường xuyên, nạn chiến tranh có vẽ như đã lùi vào quá khứ thì nay lại có nguy cơ diễn ra với sự đối đầu căng thẳng giữa các nước xung quang vấn đề phát triển hạt nhân; nạn khủng bố luôn bao trùm và được cảnh báo hơn bao giờ hết đã tạo tâm lý e ngại cho người dân các nước.Cơn sốt tăng giá xăng dầu và bất động sản không có dấu hiệu sụt giảm mà vẫn tăng cao bất chấp sư nỗ lực điều chỉnh của Chính phủ các nước. Bên cạnh đó tình trạng thiên tai, sóng thần, dịch cúm gia cầm …hoành hành ở Châu Á, diễn biến phức tạp làm cho bức tranh thế giới năm 2006 có phần ảm đạm khiến cho các nhà lãnh đạo lo ngại về một viễn cãnh tương lai toàn cầu. Xu thế tự do hóa thương mại một mặt tăng cường mối quan hệ giao thương giữa các nước nhưng mặt khác cũng làm cho mức độ phụ thuộc của các nước tăng lên nhất là phụ thuộc vào những biến động quốc tế nêu trên ngày càng lớn; nhất là hiện nay các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấnđộ, Braxil, khối Asean.. đang làm thay đổi bản đồ kinh tế chính trị thế giới bằng những con số phát triển nền kinh tế ngoạn mục (Trung Quốc tốc độ tăng trưởng đạt 10%, Ấn Độ 9%..) và ảnh hưởng ngày càng lớn vào chính trị thế giới.Xu thế tự do hóa thương mại khiến các nước phát triển e ngại sự xâm nhập sản phẩm của các nước đang phát triển với những lợi thế so sánh rất lớn, vì vậy thay vì việc sử dụng hàng rào thuế quan ( đã bị bãi bõ ) nay các nước phát triển lại lập ra các hàng rào phi thuế quan mới với các nước đang phát triển như Việt nam nhằm bảo hộ nên sản xuất nước họ. Đối với các doanh nghiệp Việt nam việc đạt được những tiêu chuẩn đó của hàng rào phi thuế gây nhiều bất lợi và đôi khi chính những tiêu chuẩn này là nguyên nhân làm cho chúng ta bị phân biệt đối xử dẫn đến chịu nhiều thua thiệt dù đã gia nhập WTO. Gia nhập WTO chúng ta chúng ta sẽ phải chấp nhận thách thức là bãi bõ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO.Mặc dù được quyền bảo lưu các ưu đãi đầu tư giành cho hàng xuất khẩu cấp trước ngày gia nhập trong thời gian 5 năm.Đối với nhập khẩu chúng ta phải mở cửa thị trường cho nước ngoài,Việt nam đã cam kết cắt giảm 22% thuế nhập khẩu so với mức thuế hiện hành, các biện pháp phi thuế Việt nam cam kết cam kết bãi bỏ hoàn toàn giấy phép mang tính hạn ngạch và các hạn chế định lượng khác kể từ thời điểm gia nhập WTO. Trong lĩnh vực thủy tinh và gốm sứ xây dựng tuy công ty có những lợi thế so với các doanh nghiệp Việt nam khác trong xuất nhập khẩu nhưng trên thị trường thế giới công ty phải cạnh tranh gay gắt với doanh nghiệp các nước khác đặc biệt là các nước trong khu vực.Hiện nay cùng với Indonesia, Malaysia, Thái Lan thì Việt nam là một trong bốn nước dẫn đầu trong khu vực về sản xuất gốm sứ xây dựng , giá trị xuất khẩu chiếm 5.62 % tổng giá trị xuất khẩu gốm sứ toàn cầu.Trong 2-3 năm trở lại đây sản phẩm của Trung Quốc với vũ khí giá mềm đã tạo sức hút khủng khiếp các nhà nhập khẩu các nước thậm chí ngay cả ở Việt nam. Việt nam có chung đường biên giới với Trung quốc nên việc thâm nhập vào thị trường Việt nam kể cả nhập lậu là rất lớn, trong khi đó các doanh nghiệp Việt nam nói chung và công ty nói riêng thì chưa kịp thời điều chỉnh chính sách giá cạnh tranh do hầu hết đang phải sử dụng công nghệ kỹ thuật lạc hậu, giá thành cao mà chất lượng vẫn kém.Cho đến nay các sản phẩm gốm sứ của Trung Quốc đã chiếm hơn nữa tổng công suất sản xuất gốm sứ toàn cầu. Bên cạnh đó công ty trước đây vốn là một doanh nghiệp nhà nước nay được chuyển đổi sang mô hình hoạt động công ty cổ phần xuất nhập khẩu theo chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước-tách hoạt động quản lý của Nhà nước ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh tạo môi trường pháp lý bình đẳng cho công ty tham gia hoạt động kinh doanh. Mô hình cơ chế mới tuy gọn nhẹ tinh giản,linh hoạt nhưng mới bước đầu chuyển sang quy chế mới nên công ty cũng như các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi khác bước đầu gặp không ít trở ngại .Việc cổ phần hóa làm cho các công ty nhà nước nói chung mất đi những lợi nhuận siêu ngạch, mất đi những độc quyền hay mất đi những ưu đãi mà Nhà nước giành cho trước đây điều này dễ tạo ra tâm lý nghi ngờ,e ngại dẫn tới việc thiếu quyết tâm đổi mới.Bước sang quy chế mới công ty phải tự chịu trách nhiệm và tồn tại bởi chính kết quả kinh doanh của chính mình.Mô hình mới công ty đòi hỏi cần một thời gian để thích ứng nhất là trong vấn đề quản lý, điều hành, hiện công ty vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện mô hình tổ chức cho phù hợp để nâng cao hiệu qủa hoạt động của mình.Hơn nữa việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh gặp khó khăn do chính sách thắt chặt của ngân hàng trong việc vay vốn trong khi đó thị trường vốn còn chưa phát triển ,việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán vẫn là một bài toán khó đối với các doanh nghiệp hiện nay. Ngoài ra công ty còn gặp khó khăn trong thu hồi công nợ của công ty khác, thậm chí hiện nay công ty còn phải tiến hành xuất nhập khẩu ủy thác cho các công ty đó để thu hồi công nợ, một số thì phải dừng hoạt động xuất nhập khẩu ủy thác này do công nợ quá cao mà đó lại là một việc không mang lại lợi nhuận cao như hoạt động xuất nhập khẩu kinh doanh trực tiếp. 3.2. Một số kiến nghị 3.2.1.Kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ hợp đồng xuất nhập khẩu 3.2.1.1 Đối với việc xây dựng và ban hành pháp luật Việt Nam Như trên đã đề cập việc pháp luật thương mại Việt nam tuy đã thực sự đã có những cố gắng thay đổi rất quan trọng theo hướng phù hợp với pháp luật quốc tế nhưng việc thay đổi những tư duy cũ không phải là điều dễ dàng nhất là các doanh nghiệp Việt nam còn chưa quen với môi trường kinh doanh mới. Nhưng trong nhu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cần phải nâng cao vai trò vị trí của hoạt động kinh tế đối ngoại tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam.Hệ thống pháp luật Việt nam cần phải tương thích hơn nữa với pháp luật thông lệ quốc tế,có như thế các doanh nghiệp Việt nam dù có lúc phải lựa chọn luật quốc tế hay luật quốc gia khác để điều chỉnh hợp đồng của mình thì cũng không e ngại, nên không gặp những rủi ro cũng như tốn kém phát sinh do không hiểu biết pháp luật nước khác.Vì vậy trong thời gian tới hướng hoàn thiện hơn nữa pháp luật về kinh tế thương mại nói chung và pháp luật trong hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng cần tương thích với pháp luật và thông lệ quốc tế. Muốn vậy việc xây dựng và ban hành pháp luật cần phải đảm bảo tính đồng bộ thống nhất để các doanh nghiệp áp dụng thống nhất, tránh ban hành những văn bản chồng chéo quy định khác nhau về cùng một vấn đề làm cho các doanh nghiệp lúng túng không biết áp dụng. Nhất là trong lĩnh vực pháp luật về hợp đồng rất phức tạp việc tư duy tách bạch giữa hợp đồng kinh tế thương mại và hợp đồng dân sự làm cho việc áp dụng luật nhiều khi rất phức tạp rất dễ chồng chéo dẫn đến việc thừa hoặc mâu thuẫn nhau.Các doanh nghiệp không phải lúc nào và không phải ai cũng có có điều kiện tìm hiểu những vấn đề phức tạp mang tính lý thuyết như vậy. Hệ thống pháp luật vừa đồng bộ thống nhất, gọn nhưng cũng không nên mang nặng tính học thuật hoặc quá phức tạp về nội dung cầu kỳ về câu chữ. Hơn nữa sự tương thích với pháp luật và thông lệ quốc tế có nghĩa là phải bảo đảm các quy định pháp luật Việt nam không khác biệt với của pháp luật và thông lệ quốc tế trong cùng một lĩnh vực; điều đó là một mặt tạo sự cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp nhưng mặt khác cũng làm cho các doanh nghiệp Việt nam đứng trước sự cạnh tranh rất mạnh của các doanh nghiệp nước ngoài vốn đã rất mạnh với truyền thống giao thương buôn bán lâu đời và một nền pháp luật về thương mại quốc tế đã có hàng trăm năm hoàn thiện.Vì vậy pháp luật bên cạnh tạo môi trường cạnh tranh công bằng bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp là yêu cầu chung của hội nhâp nhưng cũng phải thực sự phải làm sao cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam tăng lên mà không bị thương nhân nước ngoài lấn lướt là đòi hỏi rất cấp thiết. 3.2.1.2 Đối với chính sách quản lý xuất nhập khẩu Trước hết là cần hoàn thiện quy định pháp luật về thuế quan và phi thuế quan Có thể nói pháp luật về thuế trong đó có các đạo luật về thuế như: Luật thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng…không chỉ là công cụ để thể chế hóa chủ trương chính sách phát triển thương mại trong nước mà còn là công cụ quan trọng thể hiện chính sách phát triển hoạt động thương mại với các thương nhân nước ngoài.Đạo luật này phải thể hiện hai nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế là nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tăc tối huệ quốc.Trong khi nhiều nước tìm cách nội luật hóa chúng tại các văn bản pháp luật nước mình mà trước hết là trong đạo luật về thuế thì Việt nam lại quy đinh tách biệt 2 nguyên tắc này trong pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia 2002 và trong các đạo luật về thuế thì được thể chế hóa sơ sài.Vì vậy cần bổ sung thêm các quy định này trong các đạo luật về thuế phù hợp quy định WTO, bên cạnh đó cần phải tính đến việc thu gọn các mức thuế suất phù hợp với việc đánh thuế; từng bước bỏ việc miễn giảm thuế đối với hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.Để làm được việc đó việc xây dựng các lịch trình cắt giảm thuế quan phải phù hợp với từng ngành hàng, nhóm mặt hàng để có thể duy trì bảo hộ sản xuất trong nước theo một lịch trình đó.Đối với hoạt động xuất khẩu công ty cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để tránh hàng rào thuế quan cao của nước nhập khẩu. Bên cạnh áp dụng các biện pháp thuế quan thì các biện pháp phi thuế quan cũng cần được điều chỉnh cho phù hợp,cần phải thực hiện các quy định trong lịch trình cắt giảm thuế quan của hiệp định CEPT và các cam kết tại ASEAN, APEC, WTO, PNTR…Một số mặt hàng bỏ biện pháp phi thuế quan thì có thể thuế hóa chúng cho phù hợp điều kiện Việt nam để có thể bảo hộ hợp lý các doanh nghiệp trong nước theo quy định của WTO, Asean...Kế hoạch và lịch trình phải xây dựng trên cơ sở phát triển tổng thể nền kinh tế trong việc ưu tiên bão hộ hợp lý từng ngành, hàng cụ thể, bảo vệ môi trường môi sinh và tài nguyên thiên nhiên.. Thứ 2 là hoàn thiện các quy định về hải quan Pháp luật về hải quan có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế đặc biệt trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Luật Hải quan 2001 và các văn bản hướng dẫn thi hành trong thời gian qua trong chừng mực nào đó đã đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về Hải quan tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phát triển đồng thời thực hiện các cam kết quốc tế. Song nhìn chung pháp luật hải quan hiện hành vẫn còn một số hạn chế trong việc tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thích ứng pháp luật và tập quán quốc tế.Vì vậy cần có sự rà soát đối chiếu với khả năng của các doanh nghiệp Việt nam trong việc tham gia công ước Kyoto sữa đổi về đơn giản hóa,thống nhất thủ tục hải quan. Danh mục các hàng hóa xuất nhập khẩu và biểu thuế của chúng cần điều hòa và mã hóa hàng hóa của tổ chức Hải quan thế giới. Hoàn thiện pháp luật hải quan còn bao gồm việc hoàn thiện các quy định về kiểm tra hàng hóa sau thông quan đối với hàng hóa nhập khẩu các quy định về chống buôn lậu và gian lận thương mại. Hiện nay Nhà nước đang tiến hành thí điểm thủ tục hải quan điện tử, đây là một thủ tục hải quan mới nhưng sẽ là thủ tục hải quan được thực hiện trong tương lai.Vì vậy việc áp dụng thủ tục hải quan thương mại điện tử cần nhanh chóng đưa vào áp dụng phổ biến sau khi xét thấy việc thí điểm,xem xét ở một các nơi đạt hiệu quả đồng thời giúp các doanh nghiệp thích ứng với thủ tục hải quan mới này. Bên cạnh đó pháp luật trong thương mại nói chung cần tập trung vào việc ban hành hướng dẫn pháp luật về cạnh tranh,các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa các quy định về chống bán phá giá, chống trợ cấp..nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại trong nước và quốc tế phát triển. 3.2.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả ký kết và thực hiện tại công ty . 3.2.2.1 Đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói chung Hoạt động xuất nhập khẩu chiếm vị trí quan trong trong công ty,là một trong những hoạt động mang về lợi nhuận nhiều nhất cho công ty.Mục tiêu của công ty trong những năm tới mà trước mắt là năm 2007 là tiếp tục xây dựng và phát triển thương hiệu mạnh trong và ngoài nước, tăng dần tỷ trọng nghiên cứu liên doanh hợp tác với các đối tác nước ngoài để phục vụ cho chiến lược xuất nhập khẩu, kinh doanh VLXD và trang trí nội thất,học hỏi để nâng cao dần tỷ trọng xuất khẩu..Đạt đượi mục tiêu đó là không dễ cần có những kế hoach cụ thể thật tốt, phù hợp với công ty cũng như yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Nói riêng trong họat động xuất nhập khẩu trong năm tới ngoài việc khai thác những thế mạnh và ưu thế sẵn có cũng như đã tạo ra được trong những năm trước cần chú trọng vào các vấn đề sau để tăng cường khai thác hiệu qủa hoạt động của nó . Thứ nhất là Tăng cường hệ thống thông thông tin, nghiên cứu thị truờng,đặc biệt là việc nghiên cứu, phổ biến cho cán bộ công nhân viên công ty hiểu biết về luật pháp, chính sách Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu ở những thị trường chủ yếu.Việc khai thác thông tin thị trường và đối tác có thể thông qua các nguồn như từ Bộ thương mại, Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam, qua các chi nhánh văn phòng đại diện ở nước ngoài, từ đại sứ quán hoặc lấy từ chính đối thủ cạnh tranh thậm chí phải mua thông tin từ những đối tượng có uy tín. Cần nắm những thôn tin về hàng hóa cụ thể mình định mua hay bán như đặc điểm,quy cách hàng,đòi hòi thị trường về sản phẩm, tình hình sản xuất chúng, tình hình cạnh tranh; đối với hàng xuất khẩu cần xem xét khả năng huy động hàng trước để chủ động giao hàng mà không vi phạm nghĩa vụ giao hàng (tránh tình trạng ký kêt hợp đồng rồi mới huy động hàng) .Bên cạnh đó thông tin quan trọng cần nắm nữa là thông tin về thị trường và giá cả hàng hóa như đối với nhà xuất khẩu thì cần nắm thông tin quy mô,tập quán thị hiếu,tình hình cung cầu, chiều hướng giá cả, nước xuất khẩu nào cạnh tranh cùng chủng loại mặt hàng với mình;với nhà nhập khẩu thì tìm hiểu thông tin về thị trường và giá cả trong nước. Ngoài ra cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu cũng cần nắm những thông tin về quy định quản lý xuất nhập khẩu trong nước, thông tin về điều kiện vận tải, tình hình kinh tế chính trị thế giới đang suy thoái hay đang phát triển.. Chỉ khi nắm vững các thông tin như vậy mới đảm bảo ký kết một hợp đồng an toàn và hiệu quả. Thứ hai là phải tích cực phối hợp với các hiệp hội ngành hàng, trung tâm xúc tiến thương mại,doanh nghiệp khác trong thời gian tới.Đây là vấn đề của hầu hết các doanh nghiệp Việt nam hiện nay gặp phải.Ngoài việc trong Tổng công ty các đơn vị thành viên phối hợp triển khai chào hàng và xuất khẩu hàng hóa, các đơn vị kinh doanh và kế toán phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện đúng hợp đồng kinh tế cung cấp nguyên liệu cho các đơn vị sản xuất thì việc thành lập các hiêp hội ngành hàng lập quỹ dự phòng rủi ro và phối hợp với các doanh nghiệp khác trong nước sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động, thắt chặt tính cộng đồng, bảo vệ, xử lý các rào cản và tận dụng mọi cơ hội để đấu tranh mỗi khi có có vấn đề phát sinh như bảo vệ nhau trước những vụ kiện mà doanh nghiệp nước ngoài kiện.Việc phối hợp với các trung tâm xúc tiến thương mại sẽ giúp doanh nghiệp tiệp cận thị trường nhanh chóng, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ và thân thiện với các bạn hàng và mở rộng thêm khách hàng trên cơ sở an toàn và hiệu quả. Để quảng bá,giới thiệu hình ảnh và sản phẩm của mình công ty một cách nhanh chóng và hiệu quả trong thời gian tới công ty cũng cần nhanh chóng hoàn thành trang web về công ty mình theo hướng hiện đại, đầy đủ thông tin, cập nhật. Đồng thời với xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại, phối hợp ngành hàng, tìm hiểu nghiên cứu thị trường thì công ty cần xây dựng một chiến lược marketing hỗn hợp xuất khẩu đối với mặt hàng; trong đó phải thực hiện sự đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt chú trọng tăng cường xuất khẩu các xuất khẩu các sản phẩm gia công sau kính, gương chất lượng cao, kính an toàn..Chú trọng thúc đẩy xuất khẩu ở các thị trường khu vực và quen thuộc như Thái Lan, Campuchia, Philipin, Ấn độ, Băngladet, Nam Phi, Malaysia, Đài Loan...với việc đưa ra những dịch vụ tốt nhất cho khách hàng như giao hàng đúc tiến độ, xuất trình hồ sơ chứng từ kịp thời, chính xác, an toàn. Bên cạnh đó tiếp tục mở rộng và khai thác thêm một số khách hàng ngoài khu vực trên là những thị trường có khả năng tiêu thụ tốt nhưng chưa được quan tâm triệt để như Singapore, Mỹ, Trung Đông, Nga, Châu Âu, Braxin…Để sản phẩm có sức cạnh tranh với sản phẩm của doanh nghiệp khác như của Trung Quốc cần nhanh chóng tận dụng tối đa trang thiết bị phương tiện hiện có, tiếp nhận công nghệ hiện đại nhằm có phương pháp sản xuất sản phẩm đạt chất lượng cao. Triển khai bố trí sản xuất kinh doanh làm sao tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã bao bì, đóng gói .. Trong nhập khẩu cần củng cố việc lưu trữ và luân chuyển chứng từ một cách khoa học, tuân thủ chặt chẽ các quy định của ISO trong công tác nhập khẩu với phương châm làm đúng ngay từ đầu; chủ động khai thác thêm nhiều nguồn hàng có giá cả cạnh tranh và chất lượng tốt để bán cho các đơn vị trong và ngoài công ty như hóa chất tạo màu, hạt nhựa, hàng trang trí nội thất...nhằm tối đa hóa lợi nhuận và nâng cao uy tín, sức cạnh tranh trên thị trường. Thứ ba là đối với cán bộ công nhân viên là một yếu tố hàng đầu và có vai trò quan trọng nhất mang lại hiệu quả hoạt động cho công ty vì đây là nhân tố vạch ra các kế hoạch hoạt động và thực hiện chúng.Hoạt động xuất nhập khẩu rất phức tạp đòi hỏi các cán bộ công nhân viên công ty đặc biệt là cán bộ chuyên trách xuất nhập khẩu phải có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương vững chắc, không chỉ am hiểu thương mại, pháp luật trong nước mà còn phải am hiểu pháp luật tập quán thương mại quốc tế. Cán bộ công nhân viên phải tích cực trau dồi, học hỏi, cập nhật kiến thức kinh doanh quốc tế để nhanh nhạy, sắc bén thích ứng trong môi trường kinh doanh đầy thử thách này.Về phía công ty cũng cần chính sách hợp lý từ việc tuyển dụng cho đến đào tạo ,bồi dưỡng nghiệp vụ, đảm bảo các chế độ, điều kiện nghiên cứu và các chế độ ưu đãi, khuyến khích khác cho người lao động, có như vậy mới thu hút được được đội ngũ nhân lực giỏi, tạo động lực phấn đấu mạnh mẽ cho họ. 3.2.2.2. Đối với việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu Trước khi thực hiện ký kết các hợp đồng thì việc đàm phán công ty là công việc đặc biệt quan trọng, việc ký kết được một hợp đồng có giá trị, an toàn và hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào nghệ thuật đàm phán của cán bộ làm công tác này.Để thực hiện đàm phán thành công cần nắm những căn cứ về khía cạnh luật pháp, khía cạnh thông tin, khía cạnh pháp lý của các bên tham gia như trên đã đề cập.Thành phần nhân sự trong đàm phán phải hội đủ chuyên gia ở 3 lĩnh vực: Pháp lý, kỹ thuật, thương mại và phải có sự phối hợp ăn ý nhịp nhàng giữa 3 chuyên gia này để đi đến ký kết một hợp đồng chặt chẽ, khả thi và hiệu quả. Để đàm phán đạt hiệu quả phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho công tác này, đàm phán với thái độ niềm nở lịch sự, tôn trọng, nhạy bén thích ứng nhanh với diễn biến để có quyết định đúng đắn ở mức nào là vừa phải do cương quyết giữ vững ý định của mình với khả năng chấp nhận được của đối tác. Là một nghệ thuật, đàm phán đòi hỏi vận dụng kỹ năng thương lượng ,thuyết phục đã tích lũy được, nhiều khi phải nhượng bộ nếu xét thấy ở mức độ đó vẫn đảm bảo quyền lợi chủ yếu cho mình mà vẫn làm cho đối tác cảm thấy thỏa mãn. Địa điểm đàm phán phải thoải mái tiện nghi, thời gian đàm phán cần thống nhất cụ thể và có thể dự phòng thời gian để đàm phán thương lượng tiếp các vấn đề chưa được giải quyết xong. Khi các điều khoản hợp đồng đã được đàm phán xong hai bên sẽ soạn thảo và ký kết hợp đồng.Văn bản hợp đồng thường do một bên soạn thảo,nếu là công ty soạn thảo thì hợp đồng đó nên đề cập tới mọi vấn đề của hợp đồng, không nên có điều khoản trái pháp luật và thông lệ nước mình hay cả nước đối tác,đặc biệt phải cẩn thận đối chiếu với những thõa thuận đã đạt được tránh việc đối phương có thể chèn vào một cách khéo léo những điểm chưa đạt được hoặc bỏ qua không ghi vào hợp đồng những điểm đã thống nhất; việc trình bày văn bản hợp đồng phải sáng sủa, rõ ràng tránh mập mờ dẫn tới việc suy luận nhiều cách hiểu không thống nhất và nên viết bằng ngôn ngữ mà hai bên cùng thông thạo. Ngoài ra nên phòng ngừa các sự cố có thể xảy ra bằng các điều khoản chặt chẽ như hiệu lực hợp đồng , bất khả kháng, trách nhiệm do vi phạm, chọn luật điều chỉnh, giải quyết tranh chấp... Hợp đồng khi đã ký kết xong công ty phải luôn cố gắng làm hết sức mình để thực hiện những điều khoản đã cam kết và thõa thuận, trong đó khi xuất khẩu công ty phải có nghĩa vụ giao hàng giao chứng từ liên quan đến hàng hóa và chuyển giao quyền sở hữu về hàng theo đúng quy định trong hợp đồng ;khi nhập khẩu thì phải thực hiện hai bước chủ yếu là trả tiền hàng và nhận hàng. Khi xuất khẩu công ty nên ký kết điều khoản giao hàng theo điều kiện CIF (incoterms 2000) để chủ động bốc xếp và vận chuyển, giao hàng và nhập khẩu đồng thời tạo nguồn thu cho doanh nghiệp bảo hiểm- nhập khẩu nên theo điều kiện C&F hoặc FOB để tránh rủi ro gặp phải khi hàng chưa về đến nơi của mình. Khi ký kết theo các điều khoản đó công ty còn phải thực hiện tốt thêm những việc như thuê phương tiện vận tải , mua bảo hiểm cho hàng hóa ( Điều kiện CIF). Nói chung là công ty phải thực hiện tốt và nhanh chóng trong thời gian hợp đồng quy định những bước cần thiết để thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu như trên đã đề cập, nhanh chóng thực hiện nghiêm chỉnh những quy định thủ tục bắt buộc của nhà nước và quy định thủ tục ghi trong hợp đồng như thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát số lượng và chất lượng hàng… Trong trường hợp gặp phải hay phát hiện những vấn đề nào đó cản trở đến việc thực hiện hợp đồng mà có thể dẫn tới vi phạm hợp đồng cần lập tức thông báo cho đối tác biết ngay để các bên tìm cách khắc phục chúng cũng như kịp thời đưa ra phương án hữu hiệu nhất nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng đúng tiến độ, tiết kiệm thời gian, chi phí. Việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình bằng thái độ trung thực thiện chí với phương châm hai bên cùng có lợi nên trong những năm qua công ty rất hiếm khi xảy ra tranh chấp và nếu có thì cũng nhanh chóng giải quyết bằng thương lượng kịp thời.Tuy nhiên sẽ là không thừa nếu khi ký kết các hợp đồng cần quy định một cách chặt chẽ điều khoản này vì thực tiễn kinh doanh thương mại quốc tế ngày càng phức tạp,công ty cũng như các doanh nghiệp khác cần có tâm lý sẵn có để đối mặt với các vụ tranh chấp, kiện cáo xảy ra bất cứ lúc nào.Để phòng ngừa rủi ro phát sinh do tranh chấp trước hết công ty nên vận dụng đúng các quy định điều khoản trong hợp đồng , giải thích và vận dụng đúng các quy định của pháp luật áp dụng cho hợp đồng đó.Muốn vậy công ty nên chọn người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ pháp lý xuất nhập khẩu để đọc kỹ và phân tích các điều khoản của hợp đồng và quy định của pháp luật, khi gặp khó khăn có thể nhờ luật sư hoặc chuyên gia giúp đỡ. Khi lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp phải phù hợp đặc biệt khi phải lựa chọn trọng tài hay tòa án giải quyết vụ việc; dù lựa chọn phương thức nào cũng cần đảm bảo việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng hiệu quả, không làm phương hại tới mối quan hệ kinh doanh buôn bán lẫn nhau và cơ quan,cá nhân hay tổ chức đứng ra giải quyết tranh chấp phải thực sự công bằng, hợp lý, nghiêm minh. Mặc dù trước hết khi có tranh chấp cần tìm hiểu việc tranh chấp, ngồi lại bàn bạc thương lượng để tìm ra biện pháp tháo gỡ nhưng nhiều khi việc bàn bạc thương lượng hay hòa giải có thể kéo dài mà không đạt kết quả gì mà chỉ mất thời gian, chi phí thậm chí còn mất thời hiệu khởi kiện khiến việc giải quyết tranh chấp lâm vào bế tắc khó khăn.Vì vậy nhìn chung khi xảy ra tranh chấp cần bình tĩnh nhìn nhận vấn đề, kiên trì mềm dẽo và thiện chí trong quá trình giải quyết tranh chấp, kết hợp với sự tác động của các cơ quan quản lý Nhà nước (như Bộ thương mại, Đại sứ quán..) để nhắc nhở khuyến cáo đối phương. Khi phải đưa tranh chấp ra tòa án hay Trọng tài thì cần vận dụng đúng pháp luật tố tụng của Tòa án hay Trọng tài được chọn, lập và nộp đầy đủ, đúng hạn hồ sơ chứng từ liên quan khi được yêu cầu đồng thời nghiên cứu kỹ hồ sơ khiếu nại, khiếu kiện và cung cấp những bằng chứng, lập luận một cách hợp lý, logic cho mình. Kết luận Hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay đặt trong bối cảnh vừa đối mặt với những khó khăn và những thuận lợi,việc áp dụng chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu không chỉ phụ thuộc vào chính sách xuất nhập khẩu của nước Nhà mà còn bị điều chỉnh bởi luật lệ quốc tế trong thương mại quốc tế. Một trong những thách thức lớn nhất của chúng ta trong điều kiện hội nhập là tạo khuôn khổ pháp lý chung tuơng thích với pháp luật quốc tế để các doanh nghiệp yên tâm khi phải lựa chọn luật của quốc tế để điều chỉnh hợp đồng như chính lựa chọn luật của quốc gia mình. Vì vậy trong những năm tới cần nhanh chóng hoàn thiện theo hướng ổn định lâu dài và đồng thời phối hợp đồng bộ tất cả các đối tượng liên quan để đáp ứng những yêu cầu mới trong quan hệ quôc tế, thực hiện thắng lợi hội nhập sâu cũng như nâng cao vị thế các doanh nghiệp trên trường quốc tế. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo Thạc sỹ Đỗ Kim Hoàng, sự giúp đỡ của các anh chị trong công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera đặc biệt là các anh chị trong phòng Kinh tế, Trung tâm xuất nhập khẩu và phòng tổ chức hành chính. Em thực sự đã có một thời gian thực tập bổ ích và đầy ý nghĩa. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I.Văn bản quy phạm pháp luật - Bộ luật dân sự ngày 14-6-2005 - Luật doanh nghiệp ngày 29-11-2005 . - Bộ luật hàng hải ngày 14-6-2005 - Bộ luật lao động ngày 23-6-1994 (sữa đổi, bổ sung ngày 2-4-2002 ) - Luật hải quan ngày 29-6- 2001 - Pháp lệnh trọng tài thương mại ngày 25-2-2003 - Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25/5/2002 về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế - Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/1/2006 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý,bán,gia công và qúa cảnh hàng hóa với nước ngoài. - Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần. - Quyết định số 56/2003/QĐ-BTC ngày 16/4/2003 quy định về hồ sơ,quy trình thủ tục hải quan của các đơn vị xuất khẩu,nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Quyết định số 156/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 Của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010 - Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ về chiến lược xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010 - Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty số 0103011079 do Sở kế hoạch và đầu tư Hà nội cấp ngày 9/5/2006. - Quyết đinh thành công ty lập số 1679/QĐ-BXD ngày 5/9/2005 của Bộ Xây dựng. - Thông tư số 45/2005/TT-BTC về việc ban hành danh mục hàng hóa và thuế suất của Việt nam để thực hiện hoạt động về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN. II. Điều ước quốc tế và tập quán, thông lệ thương mại quốc tế - Công ước của Liên Hợp Quốc về hơp đồng mua bán quốc tế(Công ước Viên 1980) - Quy tắc về thực hành thống nhất tín dụng chứng từ do phòng thương mại quốc tế ban hành (UCP-500) - Incoterms 2000 III.Tài liệu tham khảo khác - TS.Nguyễn Mạnh Bách:Hợp đồng xuất nhập khẩu (NXB pháp lý 1982) - PGS.TS Hoàng Ngọc Thiết:Tranh chấp từ hợp đồng xuất nhập khẩu Án lệ trọng tài và kinh nghiệm (NXB Chính Trị Quốc Gia 2002) - TS.Trần Thị Hòa Bình –TS.Trần Văn Nam:Giáo trình luật thương mại quốc tế (NXB Lao Động và Xã Hội 2005) - PGS.Vũ Hữu Tửu:Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ giao dịch ngoại thương (NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân 2006) - Điều lệ công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera - Sổ tay chất lượng ISO 9001:2000 của công ty - Tờ trình phê duyệt phương án cổ phần hóa công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Tradimex thành công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera do giám đốc công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu (Tradimex) ký ngày 7/7/2005 . - Kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm của công ty từ 2004 đến 2007. - Một số mẫu hợp đồng xuất nhập khẩu cụ thể của công ty - Thái Thị Thùy Trang K32-T2 Học Viện Tài Chính “Tổ chức kế toán bàn hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty kinh doanh và Xuất nhập khẩu”( chuyên đề tốt nghiệp) - Trần Thị Thanh Huyền-K41 Khoa Luật kinh tế-Đại học KTQD “Hoàn thiện chế độ pháp lý về hợp đồng nhập khẩu tại Công ty kinh doanh và Xuất nhập khẩu”(chuyên đề tốt nghiệp) - Tạp chí ngoại thương số từ ngày 11/1/2006-20/1/2006, 21/2/2006-28/2/2006 - Tạp chí thương mại số 1, 2, 3, 12, 20 năm 2006. NhẬN XÉT CỦA CÁN BỘ TẠI CƠ SỞ THỰC TẬP Ngày tháng năm 200 TRƯỞNG PHÒNG KINH TẾ (Ký tên, đóng dấu) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31987.doc
Tài liệu liên quan