Chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động FDI tại Việt Nam

lời nói đầu Có thể nói nền kinh tế của nước ta trong những năm qua đã có nhiều thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực mà nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp tích cực vào những thành tựu đó. Việt Nam nhận thức rõ vai trò quan trọng của loại hình này nên đã liên tục đề ra những chính sách, biện pháp cụ thể nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy vậy, hiện nay vẫn còn nhiều bất cập mà trước hết phải kể đến những hạn chế trong năng lực quản lý

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1358 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động FDI tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của các cấp đối với hoạt động này mà trong đó cụ thể là chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hàng đầu tư nước ngoài. Việc tạo một môi trường đầu tư thông thoáng, lành mạnh càng trở nên cấp thiết. Tuy ngành Hải quan đã từng bước cải tiến, đơn giản hoá các thủ tục tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư hoạt động có hiệu quả nhưng công tác giám sát, quản lý còn không ít khó khăn do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nhằm giải quyết một số vấn đề liên quan đến quản lý Nhà nước Hải quan đối với hàng đầu tư trực tiếp nước ngoài chuyên đề nghiên cứu những thuận lợi và những tồn tại của hoạt động này đưa ra những ý kiến đề xuất, kiến nghị nhằm quản lý có hiệu quả. Cụ thể, trong chuyên đề này, với đề tài: Chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. em xin trình bày hệ thống các qui định quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và một vài năm về trước nhằm so sánh từ đó đánh giá thực trạng thực hiện chức năng giám sát quản lý của Hải quan đối với hàng đầu tư trực tiếp nước ngoài và đưa ra một số gợi ý cho những giải pháp nhàm tạo một hành lang pháp lý vững chắc, tạo môi trường đầu tư bình đẳng, hấp dẫn. Nội dung của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm các phần sau: Chương I: Những vấn đề lý luận chung Chương II: Tình hình áp dụng chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS-TS Nguyễn Ngọc Mai của Bộ môn Kinh tế Đầu tư trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Cảm ơn chú Lê Đàn Phó Văn phòng phòng Tổng hợp Cục Hải quan Thành phố Hà Nội cùng toàn thể các cô chú của Cục Hải quan Thành phố Hà Nội đã giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập để em có thể hoàn thành chuyên đề này. Chương I những vấn đề lý luận chung I. Khái niệm và các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển các nguốn lực từ nước này sang nước khác để thực hiện đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu trong đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý hoạt động đầu tư. 2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. - Hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới. - Hình thức doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở Hợp đồng liên doanh ký giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ sở Hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước khác. - Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của Nhà đầu tư nước ngoài, do Nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Ngoài ra còn có các phương thức và địa bàn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: - Các địa bàn: Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao - Các phương thức: BOT( xây dựng - kinh doanh - chuyển giao), BTO ( xây dựng – chuyển giao - kinh doanh), BT ( xây dựng – chuyển giao). II. Khái niệm Hải quan và chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà nước của Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1. Khái niệm Hải quan Hải quan là một cơ quan Nhà nước ra đời nhằm thực hiện chức năng của mình theo luật định. Tuỳ từng quốc gia mà nhiệm vụ của cơ quan Hải quan có thể nhiều hay ít và khác nhau đôi chút, song tất cả đều có nét cơ bản giống nhau là: Kiểm soát hàng hoá xuất nhập khẩu, người và phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, quá cảnh, mượn đường..; thi hành luật Hải quan, luật thuế quan và tất cả các luật lệ cũng như quy định khác có liên quan đến hoạt động của Hải quan và thuế quan; ngăn chặn, trấn áp buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và thẩm quyền xử lý đối với hành vi vi phạm và tội phạm Hải quan. 2. Chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước của Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2.1. Những nhiệm vụ chủ yếu của Hải quan Việt Nam. Theo Luật Hải quan được thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2001, nhiệm vụ của Hải quan Việt Nam là “thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa phương tiện vận tải; phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về Hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đỗi với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu”. Cụ thể có thể thấy một số những nhiệm vụ sau đây: -Tổ chức giám sát và quản lý việc thực hiện chính sách, chế độ, quy trình, thủ tục đối với các đối tượng chịu sự giám sát quản lý về Hải quan theo quy định của pháp luật. -Tổ chức chỉ đạo, kiểm tra các đơn vị trực thuộc thực hiện thu thuế và các khoản thu khác đối với hàng hóa xuất nhập khẩu theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo thu đúng, thu đủ, nộp kịp thời vào Ngân sách Nhà nước và chống thất thu thuế xuất nhập khẩu. -Tổ chức đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới thuộc địa bàn phụ trách và xử lý các vi phạm về hải quan đối với các trường hợp chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. -Thực hiện thống kê Nhà nước về hải quan và ứng dụng công nghệ thông tin để hiện đại hoá, tự động hoá các hoạt động nghiệp vụ và quản lý hải quan. 2.2. Quản lý Nhà nước về Hải quan. Tổng cục Hải quan (thuộc Bộ Tài Chính) thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực Hải quan đối với hàng hoá được xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cá nhân trong nước và nước ngoài. Luật Hải quan đã nêu rõ nội dung quản lý Nhà nước về Hải quan bao gồm: -Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển Hải quan Việt Nam. -Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về Hải quan. -Hướng dẫn, thực hiện và tuyên truyền pháp luật Hải quan. -Quy định về tổ chức và hoạt động của Hải quan. -Đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ công chức Hải quan. -Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, phương pháp quản lý Hải quan hiện đại. -Thống kê Nhà nước về Hải quan. -Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về Hải quan. - Hợp tác quốc tế về Hải quan. 2.3. Quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cơ quan quản lý Nhà nước về Hải quan bao gồm: Bộ tài chính; Tổng cục Hải quan; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Uỷ ban nhân dân các cấp. Các cơ quan này sẽ thực hiện những nhiệm vụ về quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tức là đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ của Hải quan đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đối với hình thức gia công hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và đối với các hoạt động của các doanh nghiệp trong Khu chế xuất, Khu công nghiệp. Trong phần dưới đây ta sẽ làm rõ những qui định quản lý Nhà nước của Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước hết ta làm rõ một số khái niệm về các nghiệp vụ chủ yếu của Hải quan: Giám sát Hải quan là biện pháp nghiệp vụ do cơ quan Hải quan áp dụng để bảo đảm sự nguyên trạng của hàng hoá, phương tiện vận tải do cơ quan Hải quan thực hiện. Thủ tục Hải quan là các công việc mà người khai Hải quan và công chức Hải quan phải thực hiện theo qui định của Luật này đối với hàng hoá phương tiện vận tải. Kiểm tra Hải quan là việc kiểm tra hồ sơ Hải quan, các chừng từ liên quan đến và kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải uỷ quyền. III. Sự cần thiết của công tác quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động kinh tế đỗi ngoại ra đời muộn hơn các hoạt động kinh tế đỗi ngoại khác vài ba thập kỷ nhưng cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế hoạt động này không ngừng được mở rộng và chiếm vị trí ngày một quan trọng trong các quan hệ kinh tế.Trong xu thế liên kết và hoà nhập nền kinh tế thế giới thành một chỉnh thể thống nhất hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tham gia ngày càng tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế. Trong sỗ các hoạt động kinh tế đối ngoại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động có vị trí và vai trò ngày càng lớn và được nhiều quốc gia coi là một hoạt động đóng vai trò như một chính sách kinh tế quan trọng và lâu dài. Khai thác và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài đang là mục tiêu ưu tiên hàng đầu ở nhiều nước trên thế giới, nhất là đỗi với các nước đang phát triển, nơi có nhu cầu rất lớn về đầu tư để phát triển nền kinh tế. Trong bối cảnh của sự toàn cầu hoá về nhiều mặt diễn ra mạnh mẽ, sự quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu sắc, các quốc gia sẽ phụ thuộc lẫn nhau hơn, tham gia một cách tích cực vào quá trình liên kết, hợp tác quốc tế thì việc “mở cửa-hội nhập” của Việt Nam là đúng đắn, phù hợp với xu thế quốc tế hoá, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xuất phát từ lợi ích của quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trước hết tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng nhằm tăng cường phát triển sản xuất tạo mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Ngoài ra, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, trong tình hình cạnh tranh gay gắt, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đa dạng phức tạp do có những giao dịch với các doanh nhân, nhà đầu tư sành sỏi nước ngoài trong một thị trường rộng lớn, có liên quan đến các cửa khẩu biên giới thì việc quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là yêu cầu tất yếu nhằm ngăn ngừa hạn chế những cạnh tranh không lành mạnh, buôn lậu, gian lận thương mại, hối lộ nhân viên dẫn đến tha hoá đạo đức cán bộ… Là công cụ độc lập bảo vệ chủ quyền của quốc gia, hoạt động Hải quan ở bất cứ quốc gia nào cũng tác động đến ba lĩnh vực chủ yếu là kinh tế đối ngoại, tài chính quốc gia và an ninh đất nước. Việc quản lý theo dõi giám sát hàng hoá xuất nhập khẩu trong lĩnh vực hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là hết sức cần thiết và là nhiệm vụ quan trọng của Hải quan nói chung, Hải quan quản lý đầu tư liên doanh nói riêng nhằm tích cực tham gia vào công cuộc chống buôn lậu và gian lận thương mại tạo môi trường đầu tư thông thoáng, “sân chơi” bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh góp phần thống kê Nhà nước về Hải quan làm cơ sở để Nhà nước đưa ra những quyết sách đúng đắn phù hợp tình hình. IV. Những quy định của Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. 1. Đối với hàng hoá dịch vụ phương tiện do chủ đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam để góp vốn. Quản lý Nhà nước về Hải quan trong lĩnh vực này góp phần khuyến khích và tạo điêù kiện thuận lợi cho người nước ngoài đầu tư vốn, kỹ thuật và công nghệ tiến bộ vào các khu công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác có hiệu quả nguồn lao động, thu hút kỹ thuật và công nghệ tiên tiến Giám sát quản lý Hải quan Các văn bản hướng dẫn của Tổng cục Hải quan đỗi với hoạt động này đều dựa trên cơ sở những Nghị định của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng như các biện pháp khuyến khích và đảm bảo đầu tư. Cụ thể là căn cứ theo Thông tư số 111/1997/ GSQL-TT của Tổng cục Hải quan hướng dẫn thi hành Nghị định 12/ CP ngày 18/2/1997 quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, căn cứ theo Nghị định 10/1998/ CP ngày 23/01/1998 về các biện pháp khuyến khích và đảm bảo đầu tư thì tất cả các phương tiện ( Thiết bị, máy móc, vật tư nhập khẩu phải là để tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh - bao gồm cả trường hợp thiết bị, máy móc, vật tư phục vụ mở rộng qui mô dự án, thay thế, đổi mới công nghệ) do chủ đầu tư nước ngoài đưa vào góp vốn đều là đối tượng giám sát, quản lý của Hải quan nhưng việc giám sát, quản lý được Hải quan căn cứ vào văn bản phê duyệt của Bộ Thương Mại để làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu theo đúng số lượng và trị giá của lô hàng hoá ghi trong giấy phép. Ngày 31/7/2000 Chính phủ ban hành Nghị định 24/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thay thế cho Nghị định 12/1997/NĐ-CP và Nghị định 10/1998/NĐ-CP. Ngày 31/10/2000 Tổng cục Hải quan ra thông tư 06/TT-TCHQ hướng dẫn thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài căn cứ vào Nghị định 24/CP. Phù hợp với tình hình mới, thông tư này qui định rõ ràng và chi tiết hơn các qui định về thủ tục Hải quan cũng như những điều kiện về giám định chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Các qui định nêu ra chặt chẽ hơn và cắt bớt những thủ tục không cần thiết. Rõ ràng nhất là theo thông tư 111/1997/GSQL-TT về chất lượng và việc giám định chất lượng, giá cả thiết bị, máy móc, vật tư phương tiện vận tải nhập khẩu thì tất cả thiết bị, máy móc, vật tư để thực hiện dự án đầu tư hình thành tài sản cố định đều phải có giấy chứng nhận giám định chất lượng. Cụ thể như sau: (i) Nếu giấy phép đầu tư/văn bản duyệt kế hoạch nhập khẩu của Bộ Thương mại qui định phải giám định trước khi nhập khẩu (Pre-Shipment Inspection) thì yêu cầu phải nộp chứng nhận giám định cùng với bộ hồ sơ đăng ký làm thủ tục nhập khẩu. (ii) Nếu giấy phép đầu tư/văn bản duyệt kế hoạch nhập khẩu của Bộ Thương mại không qui định phải giám định trước khi nhập khẩu thì Hải quan làm thủ tục cho giải phóng hàng ngay, còn riêng giấy chứng nhận giám định được nộp sau khi có kết quả giám định, nhưng chậm nhất không quá 30 ngày kể từ ngày Hải quan giải phóng hàng. Chủ hàng phải chịu trách nhiệm về giá trị và chất lượng hàng hoá nhập khẩu, Hải quan không chờ có kết quả giám định mới giải phóng hàng. Tuy nhiên theo như thông tư số 06/2000/TT-TCHQ thì cơ quan cấp giấy phép đầu tư chịu trách nhiệm xem xét vấn đề này. Khi làm thủ tục hải quan, cơ quan hải quan căn cứ vào kế hoạch nhập khẩu đã được Bộ Thương mại hoặc cơ quan được Bộ Thương mại uỷ quyền phê duyệt, không yêu cầu doanh nghiệp nộp hay xuất trình chứng thư giám định. Ngoài ra, thông tư 06/2000 cũng đề cập chi tiết hơn đến những qui định về tỷ lệ hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; nêu rõ địa điểm kiểm tra hàng hoá nhập khẩu để tạo tài sản cố định có thể tại nhà máy, chân công trình hoặc kho của doanh nghiệp. Việc kiểm tra và giám sát Hải quan đòi hỏi tính chuyên môn cao nên cần có sự giúp đỡ từ nhiều các cơ quan ban ngành khác. Do vậy, Tổng cục Hải quan đã cùng với Bộ Thương Mại ra Thông tư liên tịch số 22/2001/TTLT-BTM-TCHQ điều chỉnh, bổ sung Thông tư liên tịch số 09/2000/TTLT-BTM-TCHQ về hướng dẫn việc kiểm tra xuất xứ hàng hoá; cùng với Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ra thông tư số 37/2001/TTLT-BKHCNMT_TCHQ hướng dẫn thủ tục Hải quan và kiểm tra chất lượng đối với hàng hoá xuất nhập khẩu phải kiểm tra Nhà nước về chất lượng. Dựa vào các văn bản qui định chung này, cơ quan Hải quan có nhiều cơ sở hơn cho việc kiểm tra, giám sát hàng hoá trong tình hình đầu tư ở nước ta ngày càng đa dạng và phức tạp. Để góp phần bảo đảm thực hiện chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học và công nghệ, hợp tác và giao lưu quốc tế, bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân, ngày 12 tháng 7 năm 2001 Luật Hải quan đã được ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2002. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của ngành Hải quan qua hơn nửa thế kỷ hoạt động. Theo đó là các Nghị định của Chính phủ qui định chi tiết việc thi hành Luật. Đối với hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động Hải quan Chính phủ đã ban hành Nghị định 101/2001/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục Hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát Hải quan; Nghị định 102/2001/NĐ-CP qui định chi tiết về kiểm tra sau thông quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng tất nhiên cũng chịu sự qui định của các văn bản này. Những văn bản qui định đầy đủ và khoa học công tác kiểm tra giám sát Hải quan bao gồm kiểm tra thực tế, kiểm tra xuất xứ, kiểm tra sau thông quan, giám định và kiểm tra Nhà nước về chất lượng hàng hoá cũng như các hình thức được miễn kiểm tra và căn cứ để quyết định các hình thức kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu. Thủ tục Hải quan Trước hết về đối tượng áp dụng, theo thông tư số 111/1997/GSQL-TT thì qui định về thủ tục Hải quan đỗi với hàng hoá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng giống như qui định về thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu nói chung( trừ trường hợp hàng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung hoặc hàng hoá thuộc diện được miễn thuế nhập khẩu). Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp có qui chế riêng. Còn hàng hóa thuộc diện miễn thuế nhập khẩu được qui định theo khoản 1 điều 63 Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 thì không phải tính thuế khi làm thủ tục nhập khẩu theo hướng dẫn tại văn bản số 663/TCHQ-KTTT ngày 28/2/1997 của Tổng cục Hải quan.Tương tự như vậy 06/2000/TT-TCHQ nêu chỉ có qui định riêng về thủ tục Hải quan cho các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung. Thứ hai về căn cứ để làm thủ tục Hải quan cho loại hàng hoá này Thông tư 111/1997/GSQL-TCHQ nêu rõ là dựa vào qui định tại khoản 4, Điều 2, Nghị định 89/CP ngày 15-12-1995 và Điều 47, Điều 76 Nghị định 12/CP: Tất cả hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của các Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm thiết bị, máy móc, vật tư phương tiện vận tải nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất và tất cả hàng xuất khẩu) đều phải được Bộ Thương mại phê duyệt bằng văn bản. Hải quan căn cứ vào văn bản phê duyệt của Bộ Thương mại để làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu theo đúng số lượng và trị giá của lô hàng ghi trong giấy phép. Tuy vậy, thực hiện quy định tại Điều 71, Điều 76 Nghị định 24/2000/NĐ-CP, Thông tư 06/2000/TT-TCHQ đã có một số sửa đổi cơ bản: (i) Khi làm thủ tục hải quan cho hàng hoá nhập khẩu (bao gồm thiết bị, máy móc, vật tư, phương tiện vận tải nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất và hàng hoá nhập khẩu khác) doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nộp cho cơ quan hải quan Bản sao chính thức kế hoạch nhập khẩu (nộp khi làm thủ tục nhập khẩu lô hàng đầu tiên. Các lần sau, mỗi lần làm thủ tục nhập khẩu phải xuất trình bản chính kèm phiếu theo dõi) do Bộ Thương mại hoặc cơ quan được Bộ Thương mại uỷ quyền phê duyệt, trừ việc nhập khẩu phụ tùng thay thế, doanh nghiệp được trực tiếp làm thủ tục nhập khẩu với cơ quan hải quan, không cần văn bản phê duyệt nhập khẩu. (ii) Hàng hoá xuất khẩu doanh nghiệp làm thủ tục xuất khẩu tại cơ quan hải quan không phải có văn bản phê duyệt của Bộ Thương mại (trừ hàng hoá nằm trong danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, danh mục hàng hoá xuất khẩu có điều kiện). Như vậy, so với văn bản năm 1997, văn bản chỉ đạo theo Nghị định mới năm 2000 về luật đầu tư đã rút ngắn hơn, giảm nhẹ hơn một bước thủ tục về Hải quan. Bằng cách này hiệu quả, kết quả hoạt động của các ban ngành liên quan với Hải quan được nâng cao và tận dụng triệt để, tăng cường khả năng phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan Trung ương và về mặt công tác Hải quan nói riêng nó làm giảm bớt thời gian chờ đợi, giúp thông quan nhanh và hiệu quả. Tất nhiên quy định mới này đòi hỏi sự làm việc nghiêm túc, khoa học giữa Tổng cục Hải quan và Bộ Thương Mại để tránh nhầm lẫn gây những kẽ hở cho việc gian lận trong khai báo thủ tục Hải quan Ngoài ra như đã nói tới ở trên do yêu cầu về tình hình đầu tư ngày một đa dạng và phức tạp nên Thông tư 06/2000/TT-TCHQ qui định một cách chi tiết và cụ thể về địa điểm làm thủ tục Hải quan cũng như các khâu của thủ tục đối với từng mặt hàng nhập khẩu, xuất khẩu đồng thời đưa ra những hướng dẫn cho các hình thức đặc biệt của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có liên quan đến Hải quan như vấn đề doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh bán sản phẩm của mình sản xuất cho các doanh nghiệp khác trực tiếp sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu quy định tại khoản 2 Điều 58 Nghị định 24/2000/NĐ-CP ( mà cụ thể là khi doanh nghiệp (mua hàng) xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài Hải quan làm thủ tục như đối với lô hàng xuất khẩu, Hải quan không yêu cầu chủ hàng chứng minh nguồn gốc nguyên liệu hoặc bán sản phẩm sản xuất ra sản phẩm đó, không yêu cầu giải trình các định mức và không có trách nhiệm xác nhận các định mức thực tế) ; thủ tục hải quan đối với trường hợp doanh nghiệp đầu tư nước ngoài xuất khẩu cho thương nhân nước ngoài nhưng hàng không xuất ra khỏi Việt Nam mà giao trong nước theo chỉ định của thương nhân nước ngoài (xuất khẩu tại chỗ) hayvấn đề thanh khoản công trình quy định tại Điều 102 của Nghị định trên. Ngoài ra, để thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tăng cường trách nhiệm của cơ quan kiểm tra Nhà nước và trách nhiệm của chủ hàng đối với chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thủ tục Hải quan đối với hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng chịu sự qui định của Thông tư liên tịch số 37/2001/TTLT-BKHCNMT-TCHQ hướng dẫn thủ tục Hải quan và kiểm tra chất lượng đối với hàng xuất nhập khẩu phải kiểm tra Nhà nước về chất lượng. Khi Luật Hải quan ra đời, thủ tục Hải quan được qui định trong nghị định 101/2001/NĐ-CP bao gồm hồ sơ Hải quan, thủ tục đăng ký hồ sơ Hải quan, thủ tục đối với các loại hàng hoá xuất nhập khẩu. Do vậy thủ tục Hải quan đối với hàng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng chịu sự quản lý của những qui định này. Chế độ thuế được áp dụng. 1.3.1 Đối tượng được miễn thuế Đối tượng được miễn thuế nhập khẩu trước khi Nghị định 24/2000/NĐ-CP ra đời được qui định tại điều 63 Nghị định 12/1997/NĐ-CP và Nghị định 10/1998/NĐ-CP. Năm 1999, nhằm tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg về một số biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài trong đó có bổ sung thêm một số hình thức được miễn thuế nhập khẩu. Trong Nghị định 24/2000/CP thay thế cho hai Nghị định trên các loại hàng hoá nhập khẩu nằm trong diện miễn thuế nhập khẩu được qui định chi tiết tại điều 57 và 58. Về cơ bản, những văn bản trên có những điểm chung như sau: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh được miễn thuế nhập khẩu dành cho thiết bị, máy móc nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp hoặc để tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ngoài ra còn có phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp hoặc để tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh và các bộ phận linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, đi kèm -Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh được miễn thuế nhập khẩu dành cho thiết bị, máy móc nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp hoặc để tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ngoài ra còn có phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ nhập khẩu để tạo tài sản cố định của do thiết bị, máy móc, phương tiện vận chuyển để đưa đón công nhân ( ô tô từ 24 chỗ ngồi trở lên, phương tiện thủy) áp dụng cho cả trường hợp mở rộng qui mô, dự án thay thế, đổi mới công nghệ, nguyên liệu; vật tư xây dựng nhập khẩu để tạo tài sản cố định mà trong nước chưa sản xuất được, nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để chế tạo thiết bị máy móc trong dây chuyền công nghệ hoặc để chế tạo linh kiện chi tiết bộ phận rời, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm thiết bị máy móc ( áp dụng cho cả trường hợp mở rộng qui mô dự án, thay thế đổi mới công nghệ). Nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để thực hiện dự án BOT, BTO, BT hay một số hàng hoá vật tư khác dùng cho các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư của Thủ tướng Chính Phủ ( giống cây trồng vật nuôi, nông dược đặc chủng được phép nhập khẩu để thực hiện dự án nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.. ) kể cả trường hợp mở rộng qui mô dự án thay thé, đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, nhà ở, trung tâm thương mạI, dịch vụ kỹ thuật, siêu thị, sân golf, khu du lịch, khu thể thao, khu vui chơi giải trí, cơ sở khám chữa bệnh, đào tạo văn hoá, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, dịch vụ tư vấn cũng là đối tượng được miễn thuế như trên trừ các trang thiết bị chỉ được miễn thuế nhập khẩu một lần qui định tại điểm 2 điều 10 Nghị định số 10/1998/NĐ-CP hay bảng phụ lục kèm theo Nghị định 24/2000/CP. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc vào các dự án thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư qui định tại Nghị định 10/CP hay bảng phụ lục kèm theo Nghị định 24/CP được miễn thuế nhập khẩu đỗi với nguyên liệu sản xuất trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thay vì trực tiếp nhập khẩu các nguyên phụ liệu rời, phụ tùng và vật tư để sản xuất hàng xuất khẩu thì khi nhập khẩu vào Việt Nam phải nộp thuế nhập khẩu, khi xuất khẩu thành phẩm được hoàn thuế tương ứng với tỷ lệ thành phẩm xuất khẩu. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bán sản phẩm cho doanh nghiệp khác để sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu cũng được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu tương ứng với số sản phẩm này và được xử lý hoàn thuế nhập khẩu cho doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu theo qui định. Như vậy, ngoài các trường hợp được miễn giảm thuế quy định tại Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên hợp doanh còn được miễn, giảm thuế ở những hình thức như trên. Tuy nhiên giữa các văn bản này cũng có một số khác biệt. Nghị định 12/1997/CP và 10/1998/CP có đề cập đến một số trường hợp sau: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thay vì trực tiếp nhập khẩu máy móc thiết bị mà nhập khẩu nguyên vật liệu để tự sản xuất chế tạo hoặc thuê doanh nghiệp khác gia công máy móc thiết bị..( thuộc đối tượng miễn thuế) được Bộ Thương Mại phê duyệt danh mục mặt hàng nhập khẩu miễn thuế và thủ tục xử lý thuế cũng tương tự. Trường hợp các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không trực tiếp nhập khẩu vật tư, nguyên liệu để chế tạo máy móc, thiết bị.. mà ký hợp đồng gia công, chế tạo máy móc, thiết bị với doanh nghiệp trong nước thì các doanh nghiệp trong nước được miễn thuế nhập khẩu đỗi với vật tư nguyên, phụ liệu nhập khẩu để gia công chế tạo máy móc, thiết bị theo qui định của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 4417/KTTH ngày 5/9/1997. Nếu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc ngành chế tạo máy móc nhập khẩu nguyên vật liệu để chế tạo máy móc, thiết bị …cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác khi xử lý thuế nhập khẩu Hải quan phải căn cứ danh mục hàng nhập khẩu miễn thuế do Bộ Thương Mại phê duyệt đồng thời phải đối chiếu với hợp đồng gia công chế tạo máy móc giữa hai doanh nghiệp để xử lý thuế nhập khẩu. Trong khi đó, so với hai văn bản trên thì điều11Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg bổ sung thêm một hình thức được miễn thuế là trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh đầu tư sản xuất linh kiện, phụ tùng cơ khí, điện, điện tử được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất trong 3 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất. Trường hợp doanh nghiệp vừa được ưu đãi theo quy định tại Điều 11Quyết định 53/1999/QĐ-TTg vừa được ưu đãi theo quy định tại Điểm 3 Điều 10 Nghị định số 10/1998/NĐ-CP của Chính phủ thì doanh nghiệp được quyền lựa chọn việc hưởng ưu đãi theo một trong hai quy định đó. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động được miễn thuế nhập khẩu đối với các lô nguyên liệu nhập khẩu theo các tờ khai Hải quan mở từ ngày 10/4/1999 và được giới hạn trong vòng 3 năm (tính theo năm dương lịch) kể từ năm doanh nghiệp bắt đầu sản xuất. Nghị định 24/2000/CP sửa đổi điều này là miễn thuế trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất. Đồng thời Nghị định của Chính phủ năm 2000 này cũng qui định một số hình thức khác như: nguyên liệu, bộ phận rời, phụ tùng và vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu; hàng hóa, vật tư khác dùng cho các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư theo quyết định củaThủ tướng Chính phủ được miễn thuế nhập khẩu. Căn cứ vào Giấy phép đầu tư, giải trình kinh tế kỹ thuật của từng dự án, Bộ Thương mại hoặc cơ quan được uỷ quyền xét duyệt danh mục mặt hàng nhập khẩu miễn thuế cho từng doanh nghiệp. Về thẩm quyền để xét miễn thuế, các văn bản đều có qui định chung là căn cứ danh mục mặt hàng nhập khẩu miễn thuế được duyệt, Cục Hải quan các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo dõi việc nhập khẩu của các doanh nghiệp. Định kỳ hàng quý các Cục Hải quan phải tập hợp báo cáo về Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan kim ngạch xuất, nhập khẩu và số lượng các mặt hàng xuất, nhập khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thủ tục thuế và giá tính thuế Theo điều 59 nghị định 24/2000/CP, giá tính thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu thuộc diện phải chịu thuế nhập khẩu được xác định theo giá ghi trong hoá đơn hàng hoá nhập khẩu. Trường hợp không có hoá đơn thì giá tính thuế nhập khẩu được xác định theo qui định của Bộ Tài Chính. Điều này cũng đúng đối với các văn bản trước đó. Nhằm hướng dẫn thực hiện tốt công tác thuế tạo điều kiện cho Hải quan quản lý, ngày 3/6/1998 Tổng cục Hải quan ban hành Thông tư số 1841/TCHQ-GSQL về thủ tục Hải quan cho hàng hoá xuất nhậ._.p khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (căn cứ quyết định số 0321/1998/QĐ-BTM ngày 14/3/1998 của Bộ Thương Mại qui định chi tiết việc thực hiện Nghị định 12/1997/CP và số 10/1998/NĐ-CP); Thông tư 06/2000/TT-TCHQ hướng dẫn thủ tục Hải quan đỗi với hàng hoá xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (căn cứ Nghị định 24/2000/CP). Ngoài ra, thủ tục miễn giảm thuế nhập khẩu đối với các trường hợp được miễn, giảm thuế nhập khẩu còn được qui định tại các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài Chính. Đólà: Thông tư 74/1997/TC-TCT( căn cứ vào Nghị định 12/1997/CP) ngày 20/10/1997 Thông tư 63/1998/TT-BTC ( căn cứ vào Nghị định 10/1998/CP) ngày 13/5/1998 Thông tư 89/1999/TT-BTC ( căn cứ vào Quyết định 53/1999/QĐ-TTg, Nghị định 12/CP và Nghị định 10/CP) ngày 10/7/1999 thay thế cho Thông tư 74/1997/TC-TCT Thông tư 13/2001/TT-BTC ( căn cứ theo Nghị định 24/2000/CP) ngày ( 8/3/2001) Các Thông tư này hướng dẫn cụ thể qui định về thuế đỗi với các hình thức đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo Thông tư số 89/1999/TT-BTC thì thủ tục miễn giảm thuế nhập khẩu đối với các trường hợp được miễn, giảm thuế nhập khẩu ở các Điều 10 và 13 Nghị định số 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ theo hướng dẫn tại Thông tư số 63/1998/TT-BTC ngày 13/5/1998 của Bộ Tài chính. Ngoài ra, Thông tư này nêu thủ tục cụ thể đối với nguyên liệu sản xuất của các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng cơ khí, điện, điện tử được miễn thuế theo quy định tại Điều 11 Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Thông tư số 13/2001/CP thay thế cho Thông tư 89/1999/TT-BTC và Thông tư 63/1998/TT-BTC qui định có sửa đổi thủ tục miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất của các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng cơ khí, điện, điện tử, các dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và dự án thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư được thực hiện theo Thông tư số 40/2000/TT-BTC ngày15/5/2000 và Thông tư số 117/2000/TT-BTC ngày 21/12/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Quyết định 176/1999/QĐ-TTg về miễn thuế nhập khẩu đỗi với nguyên vật liệu. Thông tư này có qui định thêm cho một số trường hợp như sau: - Các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu được tạm chưa nộp thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu trong thời hạn 9 tháng (tính tròn là 275 ngày theo dương lịch) kể từ ngày doanh nghiệp nhận được thông báo thuế chính thức của cơ quan Hải quan về số thuế phải nộp. Đối với một số sản phẩm do yêu cầu sản xuất hoặc do chu kỳ sản xuất, thì thời gian tạm chưa nộp thuế nhập khẩu có thể dài hơn 9 tháng. Điều kiện và thủ tục để được tạm chưa phải nộp thuế nhập khẩu, xác định thời hạn tạm chưa phải nộp dài hơn 9 tháng đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 172/1998/TT-BTC ngày 22/12/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. - Trường hợp doanh nghiệp bán sản phẩm của mình sản xuất cho các doanh nghiệp khác để trực tiếp sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập khẩu tương ứng với số sản phẩm này theo quy định tại Điều 58 của Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ. Việc miễn thuế nhập khẩu thực hiện như sau: Khi nhập khẩu vật tư, nguyên liệu để sản xuất sản phẩm bán cho doanh nghiệp khác để sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp phải nộp đủ thuế nhập khẩu theo quy định. Sau khi doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã xuất khẩu sản phẩm, doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu làm thủ tục gửi Bộ Tài chính đề nghị hoàn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất sản phẩm bán cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Thủ tục đề nghị hoàn thuế bao gồm: Công văn đề nghị hoàn thuế của doanh nghiệp trong đó có tính toán và ghi rõ số tiền thuế nhập khẩu nguyên liệu được hoàn; Định mức tiêu hao vật tư, nguyên liệu để sản xuất sản phẩm; Tờ khai Hải quan nhập khẩu và biên lai nộp thuế nhập khẩu của vật tư, nguyên liệu sử dụng để sản xuất sản phẩm; Hợp đồng bán sản phẩm của doanh nghiệp cho doanh nghiệp khác trong đó ghi rõ sản phẩm đó được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu; Hoá đơn bán hàng của doanh nghiệp cho doanh nghiệp khác sản xuất hàng xuất khẩu; Tờ khai Hải quan xuất hàng của doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã được Hải quan cửa khẩu xác nhận hàng đã thực xuất khẩu (bản sao công chứng) Bản kê khai của doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu về số lượng, giá trị bán thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất đã được sử dụng để sản xuất hàng hoá đã xuất khẩu. Giám đốc doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu phải chịu trách nhiệm về bản kê khai này. Căn cứ các hồ sơ nêu trên, Bộ Tài chính sẽ ra quyết định hoàn thuế nhập khẩu cho doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu. 2. Đối với hàng hoá dịch vụ nhập khẩu để sản xuất gia công hàng xuất khẩu Gia công hàng xuất khẩu là loại hình mang lại lợi ích kinh tế - xã hội cho đất nước trong thời điểm hiện nay. Đây là hình thức nhập khẩu nguyên, phụ liệu từ nước ngoài về gia công sản xuất trong nước sau đó xuất khẩu sản phẩm đã gia công. Hiệu quả lớn nhất mà loại hình gia công đem lại cho Việt Nam là giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 650.000 người chỉ tính riêng trong ngành gia công may mặc và giày dép. Thông qua hoạt động gia công xuất nhập khẩu đội ngũ công nhân được đào tạo lành nghề để có tay nghề, trình độ kỹ thuật cao, tác phong công nghiệp…chuẩn bị cho việc tiếp thu áp dụng công nghệ tiên tiến trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có thể nói trong nghiệp vụ Hải quan thì quản lý gia công xuất khẩu là một trong những khâu phức tạp nhất, phải tính toán nhiều nhất và cũng dễ gây sai sót nhất. Tuy nhiên trong công tác quản lý hàng hoá gia công cũng còn nhiều khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ. Sau đây là một số qui định Nhà nước về quản lý hàng gia công. Đặc điểm của loại hình này là nguyên, phụ liệu nhập khẩu để sản xuất hàng gia công xuất khẩu là đối tượng miễn thuế. Các văn bản qui định về loại hình này là: Quy chế ngày 08/4/1995 của Tổng cục Hải quan ( Quyết định số 126/TCHQ-QĐ); Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 qui định chi tiết thi hành Luật Thương Mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài trong đó những hướng dẫn về hoạt động gia công được qui định tại chương III; Các văn bản hướng dẫn thi hành chương III Nghị định trên của Tổng cục Hải quan :Thông tư số 03/1998/TT-TCHQ ngày 29/8/1998 và Thông tư số 07/2000/TCHQ ngày 2/11/2000 thay thế cho Thông tư số 03/1998/TT-TCHQ trên. Thông tư 18/1998/TT-BTM ngày 28/8/1998 hướng dẫn thực hiện Nghị định 57/1998/NĐ-CP Thông tư 26/1999/BTM ngày 19/8/1999 bổ sung Thông tư 18/1998/TT-BTM Thông tư 01/2000/TT-BTM ngày 17/1/2000 bổ sung Thông tư 26/1999/TT-BTM. Nghị định 44/2001/NĐ-CP ngày 2/8/2001 bổ sung Nghị định 57/1998/NĐ-CP Thông tư 20/2001/TT-BTM ngày 17/8/2001 hướng dẫn thực hiện Nghị định 44/2001/NĐ-CP Ngoài ra loại hình hàng hoá này còn chịu sự quản lý của các văn bản qui định về đầu tư nước ngoài và thủ tục Hải quan đã được nêu ở phần trên. Cụ thể một số qui định như sau: Nghị định 24/CP qui định doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các Bên hợp doanh được thực hiện hợp đồng gia công hoặc gia công lại sản phẩm theo mục tiêu được qui định tại Giấy phép đầu tư, đó là: nhận gia công nước ngoàI, nhận gia công trong nước, đặt gia công trong nước một phần sản phẩm hoặc một số công đoạn mà công suất máy móc, thiết bị hoặc dây chuyền công nghệ chưa đảm bảo sản xuất được. Căn cứ theo Thông tư 07/2000/TT-TCHQ thì: a. Hợp đồng gia công hàng hoá ký giữa thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo nội dung đã được quy định tại Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ Việt Nam là căn cứ để cơ quan Hải quan làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và theo dõi việc xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến hợp đồng gia công đó. Phụ kiện của hợp đồng gia công là bộ phận không tách rời của hợp đồng gia công. Trong quá trình thực hiện hợp đồng gia công, nếu có thay đổi, điều chỉnh các điều khoản của hợp đồng gia công, thương nhân Việt Nam tham gia ký kết hợp đồng phải cung cấp cho Hải quan nơi theo dõi hợp đồng gia công văn bản điều chỉnh đó. Thời hạn cung cấp như sau: Nếu sự thay đổi, bổ sung các điều khoản của hợp đồng gia công liên quan đến việc nhập khẩu nguyên phụ liệu, vật tư, máy móc, thiết bị mượn thì thời hạn cung cấp cho Hải quan là trước khi làm thủ tục nhập khẩu cho hàng hoá đó. Nếu thay đổi định mức gia công hoặc có sự thay đổi, điều chỉnh liên quan đến việc xuất khẩu sản phẩm thì phải cung cấp cho Hải quan trước khi làm thủ tục xuất khẩu sản phẩm đó. Thương nhân ký hợp đồng gia công phải chịu trách nhiệm thực hiện đúng quy định của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện hợp đồng gia công. b. Tất cả hàng hoá xuất nhập khẩu của hợp đồng gia công đều phải làm thủ tục hải quan, chịu sự kiểm tra giám sát của Hải quan và nộp lệ phí hải quan theo quy định của pháp luật. Nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa máy móc, thiết bị mượn để phục vụ gia công; phế liệu, phế phẩm gia công, doanh nghiệp nhận gia công phải giải quyết như quy định tại điểm 11, mục A, phần III là phải làm đầy đủ thủ tục hải quan theo quy định của Thông tư này, tuyệt đối không được tự ý sử dụng ngoài mục đích gia công, tiêu thụ hoặc chuyển nhượng cho người khác. c. Đơn vị Hải quan quản lý hàng gia công và địa điểm kiểm tra đối với hàng hoá gia công xuất nhập khẩu. -Việc làm thủ tục Hải quan cho một hợp đồng gia công từ khâu tiếp nhận hợp đồng gia công, làm thủ tục Hải quan cho từng lô hàng xuất nhập khẩu của hợp đồng gia công, cho đến khâu thanh khoản hợp đồng gia công đều phải thực hiện tại một đơn vị Hải quan thuộc tỉnh, thành phố nơi có xí nghiệp (xí nghiệp của doanh nghiệp hoặc xí nghiệp của doanh nghiệp khác mà hợp đồng gia công được thực hiện ở đó) hoặc trụ sở của doanh nghiệp (trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc trụ sở các chi nhánh của doanh nghiệp, nếu các chi nhánh đó có Giấy đăng kí kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký thuế riêng). Trường hợp tại địa phương đó không có tổ chức Hải quan, doanh nghiệp được chọn đơn vị Hải quan thuận tiện nhất để làm thủ tục, nhưng đã làm thủ tục tại đơn vị Hải quan nào thì phải làm trọn hợp đồng gia công ở đơn vị Hải quan đó. Các trường hợp đặc biệt khác do Tổng cục Hải quan quyết định. - Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của hợp đồng gia công cho nước ngoài được kiểm tra tại kho của doanh nghiệp hoặc tại cửa khẩu xuất/nhập. Nếu hàng được kiểm tra tại kho của doanh nghiệp thì việc chuyển tiếp hàng hoá xuất khẩu đã hoàn thành thủ tục hải quan từ kho của doanh nghiệp đến cửa khẩu xuất và việc chuyển tiếp hàng hoá nhập khẩu từ cửa khẩu nhập về kho của doanh nghiệp để kiểm tra hải quan thực hiện theo quy định tại Quy chế quản lý Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu chuyển tiếp hiện hành. Trường hợp hàng phải kiểm tra ở cửa khẩu, nếu đơn vị Hải quan quản lý hợp đồng gia công không phải Hải quan cửa khẩu xuất/nhập thì Hải quan nơi có cửa khẩu xuất/nhập chịu trách nhiệm kiểm hoá (đối với hàng nhập khẩu) hoặc kiểm hoá và giám sát thực xuất (đối với hàng xuất khẩu) trên cơ sở bộ hồ sơ hải quan đã được đăng ký do Hải quan nơi quản lý hợp đồng gia công chuyển đến và công văn đề nghị của đơn vị Hải quan này. Sau khi làm xong thủ tục kiểm hoá hoặc giám sát thực suất cho lô hàng, Hải quan cửa khẩu xuất/nhập trả 01 bộ hồ sơ cho chủ hàng, 01 bộ hồ sơ niêm phong giao chủ hàng trả ngay cho đơn vị Hải quan nơi quản lý hợp đồng gia công để theo dõi và thanh khoản. d. Trừ số sản phẩm do bên thuê gia công thanh toán tiền công, toàn bộ sản phẩm gia công còn lại phải được xuất trả cho bên nước ngoài thuê gia công hoặc khách hàng do bên thuê gia công chỉ định (bao gồm cả khách hàng Việt Nam ký hợp đồng mua bán sản phẩm với bên thuê gia công). Sản phẩm gia công sau khi đã xuất khẩu ra nước ngoài, nếu bên thuê gia công có văn bản trả lại hàng để tái chế, sửa chữa, thì bên nhận gia công được nhận lại để tái chế và phải tái xuất khẩu sau khi tái chế xong. Thời gian tái chế không quá 90 ngày kể từ ngày làm thủ tục tạm nhập để tái chế; trường hợp cá biệt có lý do hợp lý thì Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, thành phố xem xét gia hạn. Trường hợp có lý do hợp lý lô hàng không thể tái chế được, bên thuê gia công có văn bản đề nghị tiêu huỷ số sản phẩm này tại Việt Nam, thì Cục trưởng Hải quan tỉnh, thành phố chỉ đạo kiểm tra cụ thể từng trường hợp. Nếu qua kiểm tra, xác định chính xác hàng doanh nghiệp xin tiêu huỷ là hàng doanh nghiệp đã tạm nhập để tái chế chưa tái xuất thì xem xét giải quyết cho tiêu huỷ như đối với tiêu huỷ phế liệu, phế phẩm gia công. e. Doanh nghiệp được phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng mẫu để làm mẫu gia công. Hàng mẫu trong trường hợp này, về hình thức mặt hàng phải thể hiện rõ là chỉ sử dụng được vào mục đích làm mẫu để gia công sản phẩm (Ví dụ: giầy một bên hoặc cả đôi nhưng đã bị đục lỗ; sản phẩm có in rõ các chữ thể hiện là hàng mẫu hoặc nếu trên sản phẩm không in, thì người gia công hoặc Hải quan phải đóng dấu hoặc viết lên sản phẩm đó chữ "Hàng mẫu" khi kiểm tra hàng) và bộ chứng từ lô hàng khi làm thủ tục hải quan phải thể hiện rõ là hàng mẫu. Số lượng hàng mẫu cho một mã hàng là đơn chiếc. Trường hợp một hợp đồng gia công phải gia công ở nhiều địa điểm khác nhau cần có số lượng hàng mẫu nhiều hơn, thì doanh nghiệp phải có văn bản giải trình gửi Hải quan nơi theo dõi hợp đồng gia công, Hải quan sẽ xem xét giải quyết cho phù hợp nhưng tối đa không quá 05 chiếc cho một mã hàng. Hàng mẫu để làm mẫu gia công không phải nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Nếu hàng mẫu xuất khẩu được sản xuất từ nguyên, phụ liệu, vật tư nhập khẩu của hợp đồng gia công, thì được đưa vào thanh khoản như sản phẩm xuất khẩu. Thông tư số 07/200/TT-TCHQ có bổ sung Thông tư số 03/1998/TT-TCH một số nội dung vào các điều khoản trong các phần I, II vàIII. Riêng phần III có qui định thêm một số thủ tục đối với hàng gia công tái chế; nguyên phụ liệu do bên nhận gia công tự cung ứng để phục vụ hợp đồng gia công; đối với việc mua bán nguyên phụ liệu, vật tư dư thừa, máy móc thiết bị mượn sau khi kết thúc hợp đồng. 3. Đối với hoạt động của Hải quan tại Khu chế xuất và Khu công nghiệp. 3.1 Công tác quản lý Nhà nước về Hải quan Căn cứ theo Thông tư số 162/1997/TCHQ-TT ngày 14/7/1997 hướng dẫn thi hành Nghị định 36/CP của Chính phủ về ban hành qui chế Khu công nghịêp - Khu chế xuất – Khu công nghệ cao, quyết định số 66/1996/ TCHQ-GSQL ban hành ngày 28/6/1996 qui chế Hải quan Khu chế xuất của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan thì những qui định về công tác quản lý Nhà nước về Hải quan như sau: “ Tất cả những thiết bị, phương tiện vận tải, vật tư, hàng hoá hành lý và ngoại hối của doanh nghiệp Khu công nghiệp – Khu chế xuất – Khu công nghệ cao khi xuất khẩu, nhập khẩu, hàng hoá đưa từ ngoài vào Khu công nghiệp hoặc hàng hóa từ Khu công nghiệp ra ngoài Khu công nghiệp đều phải phù hợp với quyết định chấp thuận đầu tư hoặc giấy phép đầu tư/ văn bản phê duyệt kế hoạch xuất khẩu, nhập khẩu của Bộ Thương Mại cấp hoặc của ban quản lý Khu công nghiệp và phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Hải quan, làm thủ tục và nộp lệ phí Hải quan theo qui định của pháp luật. Hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào Khu chế xuất hoặc từ Khu chế xuất xuất khẩu ra nước ngoài phải phù hợp với giấy phép kinh doanh hoặc đơn xin xuất/ nhập khẩu hàng hoá được Ban quản lý Khu chế xuất phê duyệt và được miễn thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo luật định. Hàng hoá xuất khẩu đã làm thủ tục Hải quan xong nhưng chưa đưa ra cửa khẩu phải chịu sự giám sát, quản lý của Hải quan Khu chế xuất cho đến khi bàn giao cho Hải quan ở cửa khẩu xuất hàng hoá cho đến khi xuất khẩu. Hàng hóa từ nước ngoài nhập khẩu và từ nội địa đưa vào Khu công nghiệp và hàng hoá từ Khu công nghiệp xuất khẩu ra nước ngoài và đưa ra nội địa được làm thủ tục Hải quan tại Hải quan Khu công nghiệp”. 3.2 Hoạt động cụ thể của Hải quan tại Khu chế xuất, Khu công nghiệp Mỗi khu công nghiệp có một đơn vị Hải quan Khu công nghiệp cấp cửa khẩu trực thuộc Hải quan tỉnh, thành phố nơi có Khu công nghiệp. Trường hợp tại một tỉnh, thành phố nơi có cụm Khu công nghiệp bao gồm nhiều Khu công nghiệp ở gần nhau thì chỉ thành lập một đơn vị Hải quan để thực hiện chức năng quản lý của Hải quan đỗi với cụm Khu công nghiệp đó. Tuỳ theo tính chất và điều kiện cuả từng Khu công nghiệp và theo đề nghị của công ty phát triển hạ tầng, cơ quan Hải quan có thể cho phép thành lập các địa điểm kiểm tra chung tại Khu công nghiệp. Trong trường hợp này các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp khi làm thủ tục kiểm hoá hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu phải đưa hàng hoá đến các địa điểm này để làm thủ tục kiểm hoá theo qui định. Qui trình làm thủ tục Hải quan, chế độ giám sát quản lý đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp được áp dụng theo các loại hình kinh doanh tương ứng của doanh nghiệp. Hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu của các doanh nghiệp Khu công nghiệp vận chuyển từ địa điểm kiểm tra của Hải quan Khu công nghiệp đến cửa khẩu và ngược lại thực hiện theo phương thức container. Việc làm thủ tục Hải quan cho các lô hàng này thực hiện theo qui định tại điều 8,9,10 qui chế địa điểm kiểm tra hàng hoá ngoài khu vực cửa khẩu ban hành kèm theo quyết định số 86/QĐ-TCHQ ngày 29/4/1997 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan. Các doanh nghiệp Khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu sản xuất hàng hoá xuất khẩu nếu có nhu cầu và có đủ điều kiện theo qui định tại Thông tư số 111/TCHQ-TT ngày 28/5/1997 của Tổng cục Hải quan hướng dẫn thi hành Nghị định 12/CP được phép thành lập kho bảo thuế tại xí nghiệp hay Thông tư số 06/2000/TT-TCHQ hướng dẫn thực hiện Nghị định 24/CP ( hai Thông tư này đều qui định những điều kiện như nhau). Trong Khu công nghiệp có thể có kho ngoại quan. Thủ tục thành lập và hoạt động Kho ngoại quan trong từng Khu công nghiệp thực hiện theo qui định của Thủ tướng Chính phủ tại quyết định 104/TTg ngày 16/3/1994 và các văn bản hướng dẫn của Tổng cục Hải quan. Hàng hóa của xí nghiệp Khu chế xuất bán vào thị trường nội địa coi như hàng hoá doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu từ nước ngoài và hàng hoá xí nghiệp Khu chế xuất mua từ thị trường nội địa coi như là hàng hoá doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoàI phảI chịu sự đIều chỉnh bởi chính sách xuất nhập khẩu và pháp luật thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Đối với hàng hoá doanh nghiệp Việt Nam được kinh doanh theo phương thức tạm nhập - tái xuất, nếu được phép bán ( tái xuất ) cho xí nghiệp Khu chế xuất thì toàn bộ thủ tục Hải quan cho cả hai lần do Hải quan tỉnh/ thành phố/cửa khẩu liên quan thực hiện. Hải quan Khu chế xuất chỉ giám sát hàng hoá đưa vào Khu chế xuất và xác nhận thực xuất vào tờ khai Hải quan và chứng từ khác. Hàng hoá của xí nghiệp trong Khu chế xuất này trao đổi với xí nghiệp của Khu chế xuất khác ở Việt Nam coi như là hàng hoá trao đổi với nước ngoài. Hàng hoá xí nghiệp Khu chế xuất thuê doanh nghiệp nội địa gia công coi như hàng hoá doanh nghiệp Việt Nam gia công cho nước ngoài; hàng hoá doanh nghiệp nội địa thuê xí nghiệp Khu chế xuất gia công coi như là hàng hoá doanh nghiệp Việt Nam thuê nước ngoài gia công thực hiện theo qui định. Căn cứ theo Thông tư số 3606/TCHQ-GSQL ngày 8/10/1998 về thủ tục Hải quan cho hàng hoá doanh nghiệp Khu chế xuất trao đổi với thị trường nội địa thì đối với những doanh nghiệp có lưu lượng hàng hoá xuất nhập khẩu lớn, thường xuyên thì bố trí một tổ công tác để làm thủ tục tại chỗ cho hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của doanh nghiệp. Vấn đề tạm đưa máy móc vào nội địa sửa chữa: Hải quan không mở tờ khai mà giải quyết trực tiếp trên công văn của doanh nghiệp đã được Ban quản lý cho phép và Hải quan mở sổ theo dõi. Đối với vấn đề định mức nguyên, phụ liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, Hải quan không kiểm tra định mức này mà làm thủ tục theo định mức do doanh nghiệp xây dựng và khai báo. Về vấn đề doanh nghiệp Khu chế xuất, bao gồm cả doanh nghiệp Khu chế xuất không nằm trong Khu chế xuất trao đổi, mua bán với thị trường nội địa một số loai hàng hoá thông thường: đối với nguyên, phụ liệu, vật tư, linh kiện để phục vụ đIều hành, sản xuất của chính doanh nghiệp đó không thuộc danh mục hàng hoá cấm lưu thông có nguồn gốc hợp pháp ( hoá đơn mua hàng hoá do Bộ Tài Chính phát hành), doanh nghiệp được mua từ thị trường nội địa không phải văn bản phê duyệtn của Ban quản lý không chịu sự điều chỉnh chính sách mặt hàng , chính sách thuế áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam. Chương II Tình hình áp dụng chế độ quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. I. Khái quát chung tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua Có thể nói, đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) đã không những đóng vai trò “cú hích” cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam những năm qua mà còn là “chất xúc tác” để thu hút các nguồn vốn nước ngoài khác. Sự có mặt ngày càng đông đảo của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nhiều công ty đa quốc gia của Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Pháp, Đức,..đã giúp các Chính phủ và các tổ chức quốc tế tin tưởng hơn vào chính sách mở cửa, vào cam kết tiếp tục đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. ĐTTTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế. Nó cũng đóng góp tích cực ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế và nguồn thu ngân sách, cung cấp nhiều việc làm cho người lao động, góp phần đào tạo một đội ngũ các nhà doanh nghiệp và công nhân có trình độ, tham gia phát triển nguồn nhân lực. Để rõ hơn, ta có thể xem xét mức đóng góp của các doanh nghiệp FDI trong tổng mức GDP của cả nước vài năm gần đây ( cụ thể là từ năm 1997 đến nay). Có thể thấy con số này đã luôn tăng kể cả về số tương đối và số tuyệt đối. Giá trị tuyệt đối tăng gấp hơn hai lần trong 6 năm và chiếm từ 9% đến 13% trong tổng GDP của cả nước. Đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào GDP của cả nước. Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 GDP của các doanh nghiệp FDI Triệu USD 3815 3910 4600 6167 7400 8940 Tốc độ tăng % 39 2.5 17.6 34 20 20.8 Tỉ lệ trong GDP % 9.07 10.03 12.24 13.25 13.5 13.7 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Tình hình thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua có thể được tóm tắt qua biểu đồ như sau: Biểu đồ thống kê tình hình thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Số vốn thực hiện Tốc độ tăng Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Theo Bộ Kế hoạch và đầu tư, tính đến ngày 24/12/2002, trên địa bàn cả nước có trên 4500 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp Giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng kí và tăng vốn đạt trên 50 tỷ USD. Trừ các dự án giải thể trước thời hạn hoặc đã hết hạn hoạt động, hiện còn trên 3670 dự án đang có hiệu lực, với tổng vốn đăng kí đạt trên 39 tỷ USD. Trong đó có gần 2000 dự án đang triển khai hoạt động kinh doanh, 980 dự án đang trong thời kì xây dựng cơ bản và làm các thủ tục hành chính và gần 700 dự án chưa triển khai do nhiều nguyên nhân. Tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án đã cấp phép khoảng 24 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện của các dự án còn hiệu lực là trên 21 tỷ USD. Điều này cho thấy số dự án tăng nhiều so với năm trước song tổng vốn đăng kí cấp mới của năm 2002 vẫn giảm, do các dự án đầu tư năm nay chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ. Mặt khác, tuy Việt Nam đã cố gắng cải thiện môi trường đầu tư, nhưng vẫn còn hạn chế và còn chậm so với một số nước trong khu vực nhất là chi phí đầu tư vào cao, luật pháp chính sách còn đang hoàn thiện và đôi khi chưa nhất quán, thủ tục còn phiền hà, dịch vụ hành chính công chưa hiệu quả. Ngoài ra, đây còn là hệ quả của việc cạnh tranh mạnh mẽ nhằm thu hút ĐTNN của các nước xung quanh, nhất là Trung Quốc sau khi gia nhập WTO. Nguyên nhân của tình trạng này một phần do công tác quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài chưa phù hợp và hiệu quả, còn có sự chồng chéo giữa các bộ ngành. Quản lý Nhà nước về hải quan là một hoạt động chiếm vị trí không phải cốt yếu song không kém phần quan trọng trong công tác này. Thực trạng của việc áp dụng chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan sẽ được phân tích trong phần dưới đây. Tuy vậy, bởi như trên đã nói Hải quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực Hải quan đối với hàng hoá được xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cá nhân trong nước và nước ngoài do vậy để có thể hình dung phần nào vai trò của Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ta nhìn lại tình hình xuất nhập khẩu của cả nước và của khu vực FDI mấy năm qua. Tổng hợp kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước và các doanh nghiệp có vốn FDI Cả nước Doanh nghiệp có vốn FDI Năm Tổng XNK XK NK Tổng XNK XK NK 1997 19,9 8.7 11.2 4,68 1,8 2,9 1998 20,8 9,4 11,4 4,66 1,9 2,66 1999 23,1 11,5 11,6 5,9 2,6 3,4 2000 30,1 14,4 15,6 6,5 2,9 3,6 2001 31,2 15,0 16,2 11,8 6,8 4,9 2002 35,8 16,5 19,3 14,3 7,8 6,6 Nguồn: Tổng cục Hải quan; Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đơn vị tính: tỷ USD Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực FDI so với của cả nước và qua các năm Năm Kim ngạch XNK của khu vực FDI so với của cả nước Tốc độ tăng kim ngạch XNK Cả nước Khu vực FDI 1997 23.5 - - 1998 22.4 4.5 -0.4 1999 25.5 11.2 28.2 2000 21.6 29.9 8.8 2001 27.2 3.7 31.5 2002 30.4 14.9 28.5 Nguồn: Tổng cục Hải quan; Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đơn vị tính: phần trăm (%) Biểu đồ tổng kim ngạch xuất Nhập khẩu của khu vực FDI và cả nước Tỷ trọng Tốc độ tăng Nguồn: Tổng cục Hải quan; Bộ Kế hoạch và Đầu tư II. Thực trạng áp dụng chế độ quản lý Nhà nước về hải quan ở Việt Nam. 1. Hoạt động kiểm tra, giám sát hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kiểm tra giám sát Hải quan là hoạt động mang tính đặc thù của ngành Hải quan. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát đối tượng, cơ quan Hải quan kịp thời phát hiện các thiếu sót, vi phạm để yêu cầu chủ thể chấp hành đúng pháp luật. Đồng thời thông qua kiểm tra giám sát nhằm phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý Nhà nước về Hải quan để kịp thời kiến nghị sửa đổi bổ sung chính sách cho phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước. Công tác kiểm tra giám sát hàng hoá là hai khâu công việc của một chức năng nhiệm vụ đầu tiên quan trọng nhất, luôn đi đôi với nhau trong hoạt động Hải quan. Khởi điểm và kết thúc của công tác giám sát là phục vụ cho công tác kiểm tra quản lý và thu thuế, trong quá trình kiểm tra vẫn phải giám sát liên tục cho đến khi kết thúc thủ tục Hải quan theo qui định. Công tác kiểm tra tốt thì mới làm tròn nhiệm vụ quản lý của giám sát. Mục đích của kiểm tra giám sát hàng hoá xuất nhập khẩu là phải xác định được: tên hàng, số lượng, qui cách phẩm chất, xuất xứ, áp mã, áp giá, áp thuế suất để tính thuế; không để sót lọt số lượng và chất lượng. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu thu đúng, thu đủ thuế và giải quyết chính sách mặt hàng theo đúng qui định của pháp luật. Nhờ các chính sách khuyến khích đầu tư nên một số qui định về kiểm định, giám sát Hải quan đối với các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được đổi mới theo hướng tích cực giảm bớt nhiều thủ tục phiền hà cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài. Công tác thực hiện của hải quan nhìn chung là tốt nhưng cũng vẫn tồn tại một số vướng mắc. 1.1 Về phía các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Nhìn chung các doanh nghiệp không tuân thủ đúng thời gian và địa điểm kiểm hoá qui định do địa điểm kiểm hoá ngoài khu vực cửa khẩu( nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện thuê kho bãi). Một vấn đề đáng nói là việc vi phạm về số lượng, tên hàng, xuất xứ… xảy ra thường xưyên.Việc vi phạm này không chỉ đơn giản gây ra do sự không hiểu biết của doanh nghiệp mà đôi khi còn là sự vi phạm hữu ý nhằm gian lận thương mại, trốn thuế. Một số doanh nghiệp cố tình lợi dụng chính sách thông thoáng mở cửa của Việt Nam thông qua việc cải cách thủ tục hành chính trong ngành bằng các biện pháp đơn giản hóa thủ tục hải quan, tạo điều kiện cho xuất nhập khẩu giải phóng hàng nhanh nhằm thực hiện các hành vi gian lận thương mại như khai man số lượng, giá trị hàng hoá, phụ kiện phụ liệu..xuất xứ. Trong khi biên chế hải quan có hạn tại các cửa khẩu, trình độ cán bộ không đồng đều mà lượng hàng thông qua cửa khẩu rất lớn, việc cân đo đong đếm chi ly là rất khó khăn. Kiểm tra sau thông quan là công tác nghiệp vụ phức tạp và tương đối mới mẻ với các cán bộ hải quan . Công việc càng khó khăn khi hầu hết doanh nghiệp khi bị phát hiện có dấu hiệu vi phạm đều có thái độ bất hợp tác với hải quan. Trong quá trình kiểm tra, xác minh trước khi ra quyết định kiểm tra sau thông quan, các cán bộ nghiệp vụ thường phải nhiều lần mời doanh nghiệp đến để giải thích, làm rõ nghi vấn. Thậm chí có doanh nghiệp viện lý do khác nhau, khất lần và cuối cùng không hợp tác. 1.2 Về phía một số cơ quan, bộ ngành. Nhiều vấn đề tồn tại liên quan đến việc quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài của cơ quan bộ ngành khác. Công văn số 424/TCHQ-GSQL ngày 28-1-2003( hướng dẫn thực hiện Thông tư 16/2002/TT-BKHCN ngày 13-12-2002 của Bộ Khoa học và Công nghệ) quy định về kinh doanh dịch vụ giám định hàng hoá. Tại điểm 2 trong công văn 424 nói trên quy định: “Đối với những mặt hàng không thuộc diện phải kiểm tra Nhà nước về chất lượng nhưng công chức hải quan không thể xác định được thì trước hết phải yêu cầu Trung tâm phân tích, phân loại hàng hoá thuộc TCHQ tiến hành phân tích và kết luận”. Hiện tại ở TCHQ mới chỉ có duy nhất Trung tâm phân tích phân loại hàng hoá khu vực phía Bắc bắt đầu đi vào hoạt động( trên cơ sở Viện nghiên cứu khoa học Hải quan trước đây), chính vì vậy sẽ rất khó khăn khi phải phải đảm nhiệm công việc giám định hàng hoá. Sự chậm trễ trong viêc xác định sẽ gây chậm trễ cho viêc thông quan hàng hoá . Ngoài ra, đối với các loại hàng cồng kềnh không thể lấy mẫu để gửi đến Trung tâm phân tích thì các chi cục hải quan sẽ không biết giải quyết thế nào. Các hướng dẫn về việc lấy mẫu hàng hoá để gửi đến Trung tâm cũng chưa hề ._.iêng về tiềm năng, nhưng quan trọng là do Nhà nước đã có những điều chỉnh thích hợp, kịp thời về chính sách, biện pháp khuyến khích đầu tư và do công tác vận động đầu tư ngày càng chủ động hơn.Việt Nam với những tiềm năng về nhân công lao động, các tiềm năng sẵn có đặc biệt là các dự án vào vùng núi phía Bắc hay Tây Nguyên, Chính phủ đã có qui hoạch tổng thể về đầu tư nước ngoài công bố các ngành, lĩnh vực và các dự án đầu tư được hưởng chế độ ưu tiên các vùng được ưu tiên tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Ngành hải quan là một trong những cơ quan hành chính Nhà nước liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì vậy, nhiệm vụ cấp thiết là làm cho ngành hải quan thực sự thành nhịp cầu nối để doanh nghiệp vươn xa ra thị trường thế giới và các nhà đầu tư nước ngoài mở rộng thị trường vào Việt Nam. Định hướng phát triển ngành hải quan Việt Nam chính là xây dựng một lực lượng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt theo hướng thường xuyên đáp ứng được những đòi hỏi thực tế phức tạp của tình hình hiện nay và là nhiệm vụ hàng đầu nhằm đưa hải quan Việt Nam tiến lên chính qui hiện đại, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Lực lượng hải quan chính là lực lưọng thi hành và bảo vệ pháp luật, các chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ nền kinh tế đối ngoại bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia nên công tác xây dựng lực lượng hải quan đóng một vai trò hết sức quan trọng và cần thiết quyết định mức độ và chất lượng công tác quản lý nhà nước về hải quan. II Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.Cải thiện môi trường pháp lý. Chúng ta cần cải thiện tốt hơn môi trường đầu tư pháp lý đối với hoạt động đầu tư. Điều này là cần thiết đối với mọi quốc gia coi trọng hoạt động đầu tư nước ngoài nhằm thu hút nguồn vốn trực tiếp nước ngoài tạo đà cho nền kinh tế phát triển và phát huy nội lực kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo lòng tin của các nhà đầu tư vào Việt Nam. Trước mắt cần hoàn thiện hơn nữa các bộ luật liên quan đến đầu tư nước ngoài nói chung cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng làm căn cứ để theo dõi và quản lý các hoạt động đầu tư nước ngoài cũng như làm căn cứ để thực hiện các hoạt động đó. Cải tiến phương pháp hạch toán kế toán, kiểm toán, hoàn thiện hệ thống ngân hàng trong cả nước để hoà nhập giao lưu với quốc tế và khu vực tạo cơ sở niềm tin cho khách hàng đầu tư nước ngoài. Đồng thời, khi thực hiện ban hành các văn bản, qui định phải nhất quán, rõ ràng cụ thể, tránh những quy định chung chung, thậm chí trái ngược nhau gây lúng túng cho hải quan khi xử lý, bị động trong thực hiện chỉ đạo. Để thống nhất trong chỉ đạo của ngành, cần phải có những văn bản có giá trị hiệu lực cao, có sự phân cấp trách nhiệm quản lý của từng ngành đối với từng nội dung quản lý tránh sự đùn đẩy về những vấn đề phát sinh, thiếu ý kiến chỉ đạo. Ngoài ra, cần có những qui định cụ thể hơn, rõ ràng hơn về việc xử lý các hành vi vi phạm, kể cả những hành vi bao che, dung túng, thông đồng để gian lận thương mại trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy không ít nhà đầu tư, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài đã nhập khẩu nhiều, sử dụng ít nhằm trốn thuế mà không phải chịu một hình phạt nào. Việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực hải quan phải có tác dụng giáo dục răn đe đồng thời thể hiện tính công bằng của pháp luật, tính nghiêm minh trong các qui định của nhà nước, từ đó thực hiện tốt chủ trương khuyến khích đầu tư nước ngoài của Nhà nước ta. Chính phủ cũng cần có những qui định về xử lý khi các bộ ngành ban hành văn bản nào không phù hợp gây khó khăn cho hoạt động đầu tư nước ngoài thì bộ, ngành đó phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ tránh hiện tượng đổ lỗi cho nhau đặc biệt là cho hải quan như hiện nay. Cải tiến mạnh thủ tục hành chính theo hướng tiếp tục đơn giản hoá, giảm bớt các thủ tục không cần thiết, kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ công quyền. Công tác tuyên truyền pháp luật hải quan và pháp luật liên quan đến công tác hải quan cần tiến hành triệt để và sâu rộng đến các nhà đầu tư làm cho họ nắm được những thông tin nhanh chóng về những thay đổi trong lĩnh vực thuế và làm tốt nghĩa vụ đóng thuế. 2. ổn định chính trị, xã hội, môi trường kinh tế. Duy trì và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, ổn định chính trị, xã hội, phát triển nền kinh tế mở, không ngừng mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài và đa dạng hóa hình thức đầu tư nước ngoài. Tiếp tục thực hiện việc điều chỉnh nền kinh tế quốc dân thông qua các chương trình, kế hoạch có tính hướng dẫn và hệ thống chính sách kinh tế điều chỉnh gián tiếp theo các chương trình đó. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường cải tổ cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng mở rộng các quan hệ kinh tế đỗi ngoại. Khi một quốc gia tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, thì quốc gia đó đã trở thành một bộ phận của cơ cấu kinh tế quốc tế. Theo sự phân công lao động quốc tế thì mỗi nước sẽ chuyên môn hoá sản xuất ở một hay một số ngành mà họ có lợi thế hơn và ngành đó sẽ trở thành ngành mũi nhọn của họ. Sau đó thông qua trao đổi và hợp tác với nhau, mỗi nước sẽ phát huy thế mạnh của mình và đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Khi đã hình thành mối liên hệ liên kết, hợp tác và phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia trên thế giới, các nước có thể bố trí cơ cấu kinh tế, không cân đối tức là chỉ tập trung vào phát triển các ngành mũi nhọn, có nhiều tiềm năng và có thể kéo nhanh nền kinh tế đI vào quĩ đạo phát triển. Một cơ cấu kinh tế được coi là có hiệu quả xét trên quan điểm của nền kinh tế mở phảI có khả năng dịch chuyển nhanh và thoả mãn các đòi hỏi của mô thức cạnh tranh hiện đại, bảo hộ mọi hình thức sở hữu hợp pháp và quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, khuyến khích các doanh nghiệp nỗ lực đầu tư phát triển. 3. Xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động hải quan và tổ chức bộ máy hải quan hoạt động có hiệu quả. 3.1 Cơ sở pháp lý. Trước hết, luật hải quan cần tránh chồng chéo mâu thuẫn với các bộ luật khácvà khi ban hành các thông tư nghị định cần phải tránh chồng chéo về mặt trách nhiệm theo dõi, giám sát quản lý giữa các cơ quan bộ ngành tổ chức nhằm tạo điều kiện hợp tác và giúp đỡ ngành hải quan thực hiện tốt công tác của mình vì công tác của ngành liên quan đến rất nhiều cơ quan bộ ngành khác. Ngoài ra, hệ thống cơ sở pháp lý, lý luận công tác hải quan cần phải đảm bảo tính khoa học thực tiễn phục vụ đắc lực cho đường lối kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hoá với nước ngoài góp phần giao lưu và hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích chủ quyền và an ninh quốc gia. Trong tình hình hiện nay cần tiếp tục đầu tư mọi nguồn lực cho việc đưa Luật Hải quan vào cuộc sống, theo dõi, rà soát, kiến nghị hoàn chỉnh việc xây dựng đầy đủ các văn bản hướng dẫn Luật Hải quan, các văn bản, chính sách liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu để trình hoặc kiến nghị các cấp có thẩm quyền ban hành. 3.2 Thể lệ thủ tục và các quy trình nghiệp vụ. Hiện nay thể lệ thủ tụcvà các quy trình nghiệp vụ hải quan cần được cải cách, hoàn thiện, tinh giản hơn nữa.Thể lệ thủ tục hải quan là các qui tắc quản lý nhà nước về hải quan được đặt ra vừa có tính chất hướng dẫn vừa có tính chất bắt buộc phải thi hành đối với các cá nhân, tổ chức tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu. Một quy định thủ tục phù hợp gắn chặt với thực tiễn sẽ đưa lại hiệu quả: vừa đảm bảo thực thi đúng pháp luật, ngăn chặn buôn lậu, gian lận thương mại tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài. Ngược lại sẽ gây tác hại cho các hoạt động này, giảm lòng tin của khách hàng, các nhà đầu tư đối với chính sách luật lệ của Nhà nước Việt Nam.Một ví dụ cụ thể về việc cần thay đổi và hoàn thiện hơn nữa thủ tục và nghiệp vụ hải quan , hải quan các tỉnh, thành phố cần có biện pháp để phát hiện kịp thời những trường hợp gian lận trong việc khai báo định mức của các doanh nghiệp gia công xuất khẩu và sản xuất xuất khẩu, nhất là những mặt hàng có thuế suất thuế nhập khẩu cao như mặt hàng may mặc, kính xây dựng..Những trường hợp nghi vấn doanh nghiệp khai báo định mức không đúng so với thực tế thì phải tiến hành kiểm tra ngay hoặc phối hợp với cơ quan thuế địa phương để tổ chức kiểm tra tại doanh nghiệp hoặc trưng cầu cơ quan giám định chuyên ngành. Trường hợp phát hiện có gian lận thì xử lý truy thu thuế, phạt theo Luật thuế và pháp luật hiện hành. Tiến hành ngay việc kiểm tra sau thông quan đỗi với các trường hợp đủ điểu kiện áp dụng biện pháp kiểm tra sau thông quan. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đảm bảo làm tròn chức năng nhiệm vụ quản lý và đấu tranh, để hoà nhập được với các nước đang phát triển trong khu vực và trên thế giới, ngành hải quan phải hiện đại hoá công tác hải quan cả về phương tiện kỹ thuật và con người. Cần tạo cơ sở hạ tầng phù hợp cho hải quan thực hiện tốt công tác theo dõi hàng hoá trong tình hình ngày một phức tạp hiện nay. Tích cực đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công tác quản lý. Tin học hoá công tác hải quan. Cải cách, đổi mới thủ tục hải quan không thể chung chung mà đòi hỏi phải có trọng tâm , trọng điểm và xuất phát từ tình hình, nhiệm vụ thực tế. Cải cách do vậy cần tập trung thực hiện 3 mục tiêu chủ yếu là: hợp lý hoá có nghĩa là phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành chức năng và cơ quan lập pháp trong việc ban hành các qui định về quản lý xuất nhập khẩu; thống nhất hoá thủ tục hải quan - trách nhiệm của cơ quan hải quan; đơn giản hoá thủ tục hải quan. Công tác hải quan của Việt Nam không chỉ cần tương xứng với tình hình kinh tế phát triển và hội nhập mà còn phải đặt trong sự phát triển của khu vực. Thể lệ thủ tục hải quan biều hiện văn minh của một quốc gia vì vậy cùng với việc gấp rút hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý xuất nhập khẩu và hải quan, cần nhanh chóng ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực hải quan. Trong vấn đề làm thủ tục hải quan cần có một số qui định đặc biệt có thể được coi như những hình phạt đối với những doanh nghiệp đã từng vi phạm pháp luật về hải quan một cách cố ý. Điều này rất cần thiết vì phải có ranh giới rõ ràng giữa những doanh nghiệp làm ăn chân chính với những doanh nghiệp, nhà đầu tư không chân chính tạo điều kiện thông thoáng về thủ tục nhưng không để những kẽ hở cho những kẻ làm ăn gian dối lợi dụng gây rối thị trường Việt Nam. Tăng cường hướng dẫn,kiểm tra, thanh tra việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật hành chính; việc thực hiện các qui trình nghiệp vụ Hải quan tại các đơn vị cơ sở trong ngành, coi đó là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Lãnh đạo các cấp trong ngành; phát hiện và giảI quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết đỗi với những trường hợp vượt quá thẩm quyền của Ngành. Xử lý kiên quyết, kịp thời và nghiêm túc đỗi với các trường hợp cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, làm trái qui trình nghiệp vụ. 3.3 Thủ tục hành chính, công tác tổ chức cán bộ. Cần phải đổi mới công tác cán bộ, cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hoá và tự động hoá công tác hải quan, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan. Tức là phải tinh giảm biên chế, gọn nhẹ tổ chức, tiêu chuẩn hoá cán bộ, dân chủ công khai, công bằng, mạnh dạn trong giao việc và đề bạt cán bộ. Trong hoạt động của guồng máy Nhà nước, thủ tục hành chính là cơ sở và điều kiện cần thiết để cơ quan Nhà nước xem xét, giải quyết công việc của nhân dân theo pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho dân. Tuy nhiên thủ tục hải quan cần hết sức chú ý đến vấn đề thủ tục hành chính rườm rà không thống nhất và tệ cửa quyền làm suy giảm lòng tin đối với nhân dân. Cải cách thủ tục hành chính về hải quan chính là đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của nhân viên hải quan, cải tiến các qui trình nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật kiểm tra giám sát nâng cao hiệu quả quản lý. Đây là quá trình đào tạo lâu dài và phức tạp, gắn liền với cải cách bộ máy hành chính quốc gia.Việc cải tiến thủ tục hành chính về hải quan theo hướng đơn giản hoá cần quán triệt ở tất cả các khâu công tác và mang tính thực tế chứ không chỉ chạy theo hình thức chung chung. Mục tiêu tiên quyết là giảm thời gian chờ đợi cho doanh nghiệp, giải phóng nhanh hàng hoá mà vẫn quản lý đúng pháp luật. Để đạt được điều này có thể kết hợp rà soát công tác cải cách thủ tục hành chính với việc áp dụng tin học để bỏ một số khâu không cần thiết trong dây truyền thủ tục Hải quan với việc áp dụng tin học để bỏ một số khâu không cần thiết trong dây truyền thủ tục Hải quan. Phấn đấu thời gian làm thủ tục Hải quan tối đa cho lô hàng xuất khẩu phải kiểm tra còn 1 đến 2 tiếng; lô hàng nhập khẩu phải kiểm tra giảm xuống tối đa chỉ còn 4 đến 6 tiếng. Trong công tác tổ chức cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp tại các đơn vị có ý nghĩa quyết định hiệu quả công tác quản lý hải quan đối với hoạt động hàng hoá đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy ở đơn vị nào, cục hải quan nào cán bộ lãnh đạo chú trọng tới công tác xây dựng lực lượng nâng cao năng lực công tác cho đơn vị, đi sâu, đi sát quan tâm chỉ đạo sâu sát việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao của đơn vị mình thì nơi đó công tác kiểm tra giám sát hải quan càng mang lại hiệu quả, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Ngược lại, ở những đơn vị nào thiếu sự chỉ đạo thường xuyên thì công tác quản lý lỏng lẻo, những trường hợp tiêu cực xảy ra nhiểu, không hoàn thành nhiệm vụ, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhà đầu tư. Ngoài ra, cần kiên quyết sửa đổi bổ sung lề lối làm việc, thay thế các quy trình, quy chế làm việc của Ngành, của các đơn vị đến nay không còn phù hợp, trước hết là ở cơ quan Tổn cục, đảm bảo tuân thủ sự lãnh đạo, điều hành và các qui định của Bộ Tài Chính và của Tổng cục Hải quan; thực hiện việc bỏ cấp Phòng để nâng cao năng lực, hiệu quả công tác tham mưu, hướng dẫn, xử lý của các đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục. 3.4 Vấn đề xây dựng lực lượng. Một vấn đề hết sức quan trọng là nguồn lực con người. Cần coi phát triển và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả là một yếu tố chiến lược then chốt. Rà soát phân loại, tiêu chuẩn hoá lực lượng cán bộ nhân viên hải quan, xây dựng một lực lượng hải quan trong sạch vững mạnh. Tức là không chỉ xây dựng một lực lượng hải quan đủ tài năng, trình độ được đào tạo nghiệp vụ phù hợp đáp ứng yêu cầu của công việc mà còn phải có đủ phẩm chất, lòng yêu nghề và đủ bản lĩnh tránh mọi cám dỗ vật chất và đối phó với những tình huống gặp phải trong nghề nghiệp. Mặt khác, cán bộ ở nhiều địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh tế đối ngoại nhất là về mặt trình độ quản lý kinh tế, ngoại ngữ. Chú trọng ngay từ khi tuyển chọn đội ngũ cán bộ nhân viên theo hướng lựa chọn những người có phẩm chất đạo đức tốt được đào tạo cơ bản tại các trường đại học, những cán bộ có năng lực và chuyên môn thích hợp tăng cường vào các khâu công tác nghiệp vụ. Kiên quyết đưa ra khỏi ngành những “con sâu làm rầu nồi canh” không đủ phẩm chất hay năng lực công tác. Coi trọng công tác đào tạo tập huấn và huấn luyện nghiệp vụ ở các khâu công tác. Đối với việc quản lý hàng hoá đầu tư nước ngoài rất cần những cán bộ hải quan có kiến thức chuyên sâu về thương phẩm học, có tính kiên trì, ý thức trách nhiệm cao với công việc. Có chế độ thưởng phạt vật chất nghiêm minh để khuyến khích động viên những cán bộ nhân viên có hiệu quả công tác cao đồng thời đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực tạo lòng tin trong quần chúng, khách hàng. Do cơ quan hải quan là người đại diện cho Việt Nam làm việc với các tổ chức cá nhân nước ngoài có liên quan tại cửa khẩu nên cần có thái độ đúng đắn ứng xử công việc một cách văn minh trung thực tuân thủ pháp luật tránh gây ảnh hưởng xấu đến uy tín Việt Nam trên trường quốc tế, đảm bảo niềm tin của họ với hải quan. Thêm vào đó, cần quan tâm đúng mức đến quyền lợi kinh tế, chính trị của cán bộ, nhân viên hải quan; thực hiện tốt chính sách cán bộ, chăm sóc chu đáo và tạo điều kiện thuận lợi để ổn định và cải thiện đời sống cán bộ trong toàn ngành.Việc thực hiện tốt chính sách này góp phần quan trọng trong xây dựng lực lượng có tính chất quyết định sự vững mạnh của lực lượng hải quan . Ngoài ra, đây còn là yêu cầu cấp bách đặt ra và còn là trách nhiệm của lãnh đạo trong toàn lực lượng. Trong những năm tới, những công việc cần làm là: Tiếp tục thực hiện quy hoạch cán bộ và bổ nhiệm lại cán bộ lãnh đạo, kết hợp với việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn và năng lực. Đổi mới quan điểm về công tác đào tạo, đào tạo phải có địa chỉ, phải xuất phát từ yêu cầu của công việc kể cả trước mắt cũng như lâu dài. ưu tiên và coi trọng việc đào tạo những công chức có đủ trình độ năng lực điều hành, quản lý và phẩm chất đạo đức đáp ứng các yêu cầu của công cuộc hội nhập, hiện đại hoá và cải cách thủ tục Hải quan. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục danh dự, trách nhiệm nghề nghiệp và công tác thi đua cho cán bộ, công chức Hải quan. Đề cao năng lực điều hành, trách nhiệm quản lý, của các cấp lãnh đạo, đặc biệt coi trọng việc chấp hành và thực hiện chế độ thông tin báo cáo của cấp dưới với cấp trên đi đôi với việc cá thể hoá trách nhiệm thực thi công vụ của qui chế dân chủ, giữ vững mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa thủ trưởng đơn vị với các cấp uỷ Đảng, chấp hành các đoàn thể để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ quan. 3.5 Xây dựng và phát triển mối quan hệ quốc tế về hải quan. Trong thời đại toàn cầu hoá thông tin có sự cạnh tranh thương mại quyết liệt công tác xây dựng và phát triển mối quan hệ quốc tế vể hải quan nhằm phục vụ cho chủ trương của Đảng và Nhà nước là đổi mới cơ cấu kinh tế đối ngoại, đẩy nhanh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để trao đổi, học tập kinh nghiệm, nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức về quy trình quản lý, điều hành và kỹ năng tác nghiệp, nâng cao trình độ lý luận, từng bước hiện đại hoá công tác hải quan xây dựng một lực lượng chính qui trong sạch vững mạnh. Cần tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác với Hải quan các nước, nhất là Hải quan các nước, nhất là Hải quan các nước trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, một số nước công nghiệp phát triển trong việc đào tạo nghiệp vụ Hải quan, trao đổi kinh nghiệm quản lý, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực. Chủ động chuẩn bị để thực hiện cam kết, tham gia các Công ước về lĩnh vực Hải quan trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Đồng thời, xây dựng lực lượng hải quan Việt Nam cần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng lực lượng đồng bộ trên cơ sở kế thừa chọn lọc, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đổi mới và hiện đại hoá công tác hải quan, phấn đấu phát triển ngang tầm các nước tiên tiến trên thế giới, đảm bảo phục vụ tốt lợi ích của nhân dân, lợi ích và chủ quyền quốc gia theo đúng chức năng nhiệm vụ quyền hạn của hải quan. 4.Cụ thể hoá các chính sách đầu tư. Cần có chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư nhưng cũng cần quan tâm đến những qui định chặt chẽ về quản lý đầu tư nói chung cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng nhằm phân định trách nhiệm chức năng, nhiệm vụ của mỗi Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh sự hợp tác giữa các cơ quan liên quan khắc phục sự bất cập trong năng lực quản lý của các cấp đỗi với hoạt động này. Trước mắt cần chú trọng đến rà soát lại các văn bản hiện hành xác định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn và quan hệ công tác giữa các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải quan đỗi với hàng hóa đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó vừa quản lý tập trung thống nhất đỗi với nguồn vốn nước ngoài đồng thời quản lý toàn diện, triệt để từ lúc hình thành, thẩm định đến khâu thực hiện dự án. Ngoài ra, các cơ quan Nhà nước có chức năng còn phải đẩy mạnh kiểm tra định kỳ, kiên quyết xử lý, kể cả kiểm tra rút giấy phép đối với các trường hợp dây dưa không triển khai dự án theo qui định hiện hành. Ví dụ như cần có các văn bản qui định rõ ràng về việc cấp giấy phép đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của Bộ Thương Mại, của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường cùng các văn bản chấp thuận nhập khẩu khác của Thanh tra Nhà nước về an toàn lao động và của cơ quan chuyên ngành khác nhằm giúp các nhà đầu tư, Hải quan trong việc giải quyết các vấn đề liên quan. Mặt khác, về qui hoạch và định hướng thu hút vốn, cần xác định trọng tâm và trọng điểm đầu tư qui hoạch theo ngành, lãnh thổ, cơ cấu kinh tế và mục tiêu dự án phải được đặt lên hàng đầu. Hiện nay, các xí nghiệp liên doanh đầu tư chỉ hầu hết tập trung nhiều ở một số tỉnh, thành phố có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng như điện, nước, đường xá giao thông thuận tiện, mặt bằng đất đai. Các lĩnh vực đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài hầu hết chỉ tập trung ở các mặt hàng có lợi thế về xuất khẩu ( lãi nhiều). Vì vậy hiện tại các mặt hàng ở lĩnh vực gia công chế biến hàng nông sản, các dự án đầu tư ở vùng sâu vùng xa thì chưa có nhà đầu tư nào dám đầu tư vì thu hồi vốn chậm, hiệu quả đầu tư thấp, nguy cơ rủi ro lớn…Do công tác qui hoạch còn chậm, chất lượng qui hoạch không cao nên việc cấp giấy phép cho nhiều dự án chưa chuẩn. Giấy phép được cấp cho các dự án sản xuất cùng một loại sản phẩm có khi vượt quá xa nhu cầu thị trường như: khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, lắp ráp ô tô, sản phẩm nghe nhìn, điện dân dụng, chất tẩy rửa…công suất huy động thực tế trong ngành khách sạn văn phòng cho thuê đạt 25-30%, ô tô đạt 10%.. 5.Đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật. Công tác đào tạo, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật không chỉ dừng lại ở thông báo các chính sách pháp luật mới đưa ra mà còn phải thông báo kịp thời về thời gian thực hiện hay áp dụng, kế hoạch thực hiện nhằm giúp cho các doanh nghiệp thực hiện đúng chính sách chủ trương, theo đúng pháp luật. Việc này không chỉ dừng lại ở những phương tiện thông tin đại chúng mà còn phải có những khoá đào tạo về chính sách mới như về thuế..tổ chức những hội thảo để giải đáp những thắc mắc, những thay đổi cho phù hợp tinh hình mới. Ngoài ra, việc thực hiện công tác tuyên truyền chính là duy trì mối quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp giúp họ hiểu rằng luật pháp và các qui định, chính sách đưa ra là bảo đảm cho lợi ích của chính họ. Tuy nhiên khi thực hiện tuyên truyền cần phải có thời gian cho các doanh nghiệp chuẩn bị trong một khoảng thời gian nhất định để thích nghi dần với chế độ chính sách mới. 6.Tăng cường hợp tác quốc tế. Trong điều kiện đất nước như hiện nay việc thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức nhưng không ngừng phát huy nội lực là hết sức cần thiết. Tăng cường hợp tác quốc tế nói chung và tăng cường hợp tác quốc tế về hải quan nói riêng góp phần tăng cường trao đổi thông tin thương mại quốc tế tạo nguồn cơ sở dữ liệu nghiệp vụ, cũng như tạo những cơ hội học tập và trao đổi kinh nghiệm qua các đợt công tác, hội thảo, tập huấn nghiệp vụ nâng cao trình độ quản lý của hải quan tham gia tích cực vào hoạt động của tổ chức quốc tế, ngày càng nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế Kết luận Từ năm 1988 hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu có ở Việt Nam và đã trở thành một bộ phận quan trọng có tốc độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, góp phần tích cực phát triển kinh tế xã hội, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán và cán cân thương mại của Việt Nam. Có thể nói việc mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo thuận lợi cho việc nâng cao vị thế hội nhập của đất nước với nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên hiện nay, sự cạnh tranh trong thu hút ĐTNN trên thế giới và khu vực gia tăng mạnh mẽ, nhất là sự cạnh tranh của Trung Quốc và các nước ASEAN, trong khi tỷ lệ ĐTNN vào các nước đang phát triển nói chung, vào khu vực ASEAN giảm mạnh. Đồng thời những nền kinh tế có mức ĐTNN lớn vào Việt Nam như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc những năm qua gặp nhiều khó khăn nên sẽ hạn chế việc đầu tư ra nước ngoài của những nước này. Thêm vào đó môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế ảnh hưởng đến sức cạnh tranh thu hút ĐTNN. Trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh tế của khu vực và quốc tế Việt Nam phải có hệ thống chính sách pháp luật phù hợp với tình hình, đáp ứng điều kiện kinh tế của đất nước. Ngành Hải quan là một trong những cơ quan hành chính Nhà nước liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì vậy nhiệm vụ cấp thiết là làm cho ngành Hải quan thực sự thành nhịp cầu nối để doanh nghiệp vươn xa ra thị trường thế giới và các nhà đầu tư nước ngoài mở rộng thị trường vào Việt Nam. Như vậy, để đáp ứng nhiệm vụ khó khăn này cán bộ nhân viên Hải quan phải có kiến thức tổng hợp về kinh tế đối ngoại, ngoại giao, pháp luật, tâm lý, ngoại ngữ, thương phẩm học..đồng thời nắm vững nghiệp vụ. Phải rất coi trọng nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, xây dựng phương pháp làm việc khoa học, tập trung xây dựng lực lượng Hải quan trong sạch vững mạnh Chuyên đề với kết cấu gồm ba chương đã hệ thống hóa một số qui định của nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ đó đề cập đến tình hình quản lý của Hải quan đến hoạt động này và đưa ra một số gợi ý về giải pháp khắc phục những vấn đề còn tồn tại. Những vấn đề được đề cập đến trong chuyên đề, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, còn hẹp và tính khái quát chưa cao. Để giải quyết một cách triệt để và toàn diện vấn đề cần phải có sự nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về cả lý thuyết và thực tiễn từ đó sẽ đóng góp được ít nhiều cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói riêng. Tài liệu tham khảo Báo cáo tổng kết của Tổng cục Hải quan đối với hàng xuất nhập khẩu sau 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ năm của Tổng cục Hải quan Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2002 và những giải pháp chính năm 2003 – Bộ Kế hoạch và Đầu tư Các văn bản pháp luật về Hải quan – NXB chính trị quốc gia ( 1997) Các qui định pháp luật về chế độ chính sách xuất nhập khẩu – NXB chính trị quốc gia ( 1998) Công báo các năm 1997 đến nay Đầu tư nước ngoài với tăng trưởng kinh tế Việt Nam – NXB Thống Kê ( 1997) Pháp lệnh Hải quan ( 1995) Tạp chí Hải quan Việt Nam Tạp chí Đầu tư Website: Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Những vấn đề lý luận chung 3 I. Khái niệm và các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài 3 1. Khái niệm 3 2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 3 II. Khái niệm hải quan và chức năng nhiệm vụ của hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 1. Khái niệm hải quan 4 2. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 2.1. Những nhiệm vụ chủ yếu của hải quan Việt Nam 4 2.2. Quản lý nhà nước về hải quan 5 2.3. Quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 6 III. Sự cần thiết của công tác quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 7 IV. Những quy định của nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 8 1. Đối với hàng hoá dịch vụ phương tiện do chủ đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam để góp vốn 8 1.1. Giám sát quản lý hải quan 8 1.2. Thủ tục hải quan 11 1.3. Chế độ thuế được áp dụng 14 1.3.1. Đối tượng được miễn thuế 14 1.3.2. Thủ tục thuế và giá tính thuế 18 2. Đối với hàng hoá dịch vụ nhập khẩu để sản xuất gia công hàng xuất khẩu 21 3. Đối với hoạt động của hải quan tại Khu chế xuất và Khu công nghiệp 26 3.1. Công tác quản lý nhà nước về hải quan 26 3.2. Hoạt động cụ thể của hải quan tại Khu chế xuất Khu công nghiệp 27 Chương II: Tình hình áp dụng chế độ quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 30 I. Khái quát chung tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua 30 II. Thực trạng áp dụng chế độ quản lý nhà nước về hải quan ở Việt Nam 36 1. Hoạt động kiểm tra, giám sát hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 36 1.1. Về phía các doanh nghiệp, nhà đầu tư 36 1.2. Về phía một số cơ quan, bộ ngành 37 1.3. Về phía ngành hải quan 39 2. Thủ tục hải quan đối với hàng hoá đầu tư trực tiếp nước ngoài 41 2.1. Về phía các doanh nghiệp, nhà đầu tư 41 2.2. Về phía một số cơ quan bộ ngành 42 2.3. Về phía ngành hải quan 44 3. Việc thu thuế hải quan đối với hàng đầu tư trực tiếp nước ngoài 45 3.1. Về phía các doanh nghiệp, nhà đầu tư 45 3.2. Về phía một số cơ quan bộ ngành 47 3.3. Về phía ngành hải quan 50 III. Những điểm thuận lợi và những khó khăn tồn tại trong việc áp dụng chế độ quản lý nhà nước về hải quan ở Việt Nam 54 1. Những thuận lợi 54 2. Những khó khăn 55 Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ quản lý nhà nước về hải quan đôi với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 60 I. Cơ sở của việc hoàn thiện chế độ quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 60 1. Cơ sở về mặt chính sách luật pháp 60 2. Cơ sở về khoa học kỹ thuật 62 3. Cơ sở về điều kiện tự nhiên xã hội 62 II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chế độ quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 63 1. Cải thiện môi trường pháp lý 63 2. ổn định chính trị xã hội, môi trường kinh tế 65 3. Xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động hải quan và tổ chức bộ máy hải quan hoạt động có hiệu quả 65 3.1. Cơ sở pháp lý 65 3.2. Thể lệ thủ tục và các quy trình nghiệp vụ 66 3.3. Thủ tục hành chính công tác tổ chức cán bộ 68 3.4. Vấn đề xây dựng lực lượng 69 3.5. Xây dựng và phát triển mối quan hệ quốc tế về hải quan 71 4. Cụ thể hoá các chính sách đầu tư 72 5. Đẩy mạnh công tác, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật 73 6. Tăng cường hợp tác quốc tế 73 Kết luận 75 Tài liệu tham khảo 77 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29731.doc
Tài liệu liên quan