Chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động xuất khẩu

Mục Lục Lời nói đầu Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Cùng với sự đi lên của các ngành, các thành phần kinh tế trong xã hội, DNVVN đang dần khẳng định mình và tạo được chỗ đứng vững chắc. Hàng năm các DNVVN đều có đóng góp tích cực vào chương trình xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người lao động, đồng thời đóng góp khoảng 80% khối lượng hàng hoá phục vụ xuất khẩu. Phát triển các DNVVN là một trong những vấn đề được quan tâm tr

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Trước đây, ở Việt nam các DNVVN chưa thực sự được chú ý và quan tâm đúng mức. Toàn bộ nền kinh tế chủ yếu tập trung vào xây dựng những doanh nghiệp lớn trong các ngành công nghiệp mũi nhọn như: ngành điện, khai khoáng, cơ khí chế tạo ...……… Từ sau khi thực hiện cải cách đến nay và nhất là sau khi có một loạt các Luật và văn bản liên quan ra đời như: Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước…đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các DNVVN phát triển. Tuy nhiên trong nỗ lực mở rộng thị trường của mình ra thế giới, các DNVVN đang phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thách thức như năng lực quản lý kém, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành sản phẩm cao, sức cạnh tranh khốc liệt trên thị trường… Để khắc phục được những trở ngại trên, các DNVVN cần có sự hỗ trợ to lớn trong việc xuất khẩu từ các cơ quan, Bộ ngành, các tổ chức có liên quan. Hội đồng Trung ương Hợp tác xã Việt nam là một trong những tổ chức đầu tiên nêu lên vấn đề hỗ trợ phát triển cho các DNVVN và các Hợp tác xã. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN. Đây thực sự là một đòi hỏi khách quan, bức thiết trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, em xin mạnh dạn lấy đề tài luận văn tốt nghiệp của mình là:" Chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động xuất khẩu". Nội dung của đề tài gồm 3 chương: Chương I: Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Chương II: Thực trạng chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chương III: Một số kiến nghị nhằm thực hiện thành công chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong quá trình thực hiện, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, đề tài có thể chưa đầy đủ và còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự thông cảm, góp ý xây dựng của quý thầy cô cùng các bạn sinh viên. Qua đây, em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn, Thạc sĩ Bùi Liên Hà, người đã nhiệt tình giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Chương I DNVVN trong nền kinh tế thị trường hiện nay I. Khái niệm và tiêu thức xác định 1. Khái niệm Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về Doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNVVN). Việc đưa ra khái niệm chuẩn xác về DNVVN có ý nghĩa lớn để xác định đúng đối tượng được hỗ trợ. Trong luật doanh nghiệp và luật công ty nước ta có quy định rõ về doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các loại công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã….nhưng lại chưa có một định nghĩa chính xác hay hệ thống những chỉ tiêu để phân loại thế nào là DNVVN. Trong thực tế, DNVVN tồn tại cả trong khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong đó khu vực kinh tế ngoài quốc doanh các DNVVN chiếm đa số. Trong một số nghiên cứu gần đây của các tổ chức kinh tế thế giới về các DNVVN ở VN, người ta thường dựa trên những phân tích do phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam và Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư cùng tiến hành đưa ra trên cơ sở định nghĩa về các DNVVN đang được sử dụng trước khi thông qua một định nghĩa chính thức. Người ta sử dụng 2 tiêu thức về số lao động thường xuyên và vốn sản xuất để phân loại doanh nghiệp. Đây là 2 tiêu thức được sử dụng rộng rãi và có thể xác định được hai tiêu thức này ở mọi cấp. Từ cách hiểu này có thể đưa ra được định nghĩa về DNVVN như sau: "DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân với mục đích chính là kiếm lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp (tính theo các tiêu thức khác nhau) trong giới hạn nhất định đối với từng thời kì cụ thể".* kỷ yếu khoa học, dự án chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở VN ( Trang 18 -22 ) 2. Tiêu thức xác định Hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại DNVVN. Tuynhiên, không có tiêu thức để phân loại DNVVN cho tất cả các nước và ngay trong một nước việc phân loại cũng có sự khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, địa bàn… Có 2 nhóm tiêu chí phổ biến dùng để phân loại đó là: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Tiêu chí định tính: Tiêu chí này dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNVVN như: trình độ chuyên môn hoá, mức độ phức tạp của quản lý….Sử dụng các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định. Tiêu chí định lượng: Tiêu chí có thể sử dụng các tiêu thức như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. a. Tiêu thức xác định DNVVN của Việt Nam: Để xác định tiêu chí DNVVN ở Việt Nam một cách phù hợp, cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam (là một nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, năng lực quản lý hạn chế, thị trường còn thiếu, chưa có thước đo quy mô doanh nghiệp một cách đích thực) và tính đến các yếu tố tác động tới việc phân loại nêu trên như mục đích phân loại, tính chất ngành nghề, địa bàn. Việc phân loại DNVVN chủ yếu dựa theo 2 tiêu thức là: lao động thường xuyên và vốn sản xuất, vì lý do sau: Tất cả các doanh nghiệp đều có số liệu về 2 tiêu thức này (tính phổ dụng); có thể xác định được 2 tiêu thức này ở mọi cấp độ, toàn bộ nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp (tính khả thi). Trong điều kiện của Việt Nam đây là 2 tiêu thức có thể xác định được chính xác trị số của chúng ( tính chuẩn xác). Tuy vậy 2 tiêu thức này mới chỉ thể hiện được quy mô đầu vào mà chưa phản ánh được kết quả tổng hợp thông qua kết quả kinh doanh. Các tiêu thức khác như doanh thu, vốn pháp định, vốn cố định, vốn lưu động, lợi nhuận… đều có hạn chế là rất khó xác định hoặc không có nhiều ý nghĩa. Tiêu thức doanh thu (hoặc giá trị gia tăng) có nhiều ý nghĩa vì nó phản ánh qui mô doanh nghiệp qua kết quả hoạt động của nó (gắn với hiệu quả). Tuy nhiên trong điều kiện của Việt Nam, tiêu thức này rất khó xác định và không có số liệu chính xác (chẳng hạn do việc giấu doanh thu để trốn thuế). Các tiêu thức khác như vốn pháp định, vốn cố định hay số dư vốn lưu động không phản ánh đầy đủ và thực chất quy mô của doanh nghiệp trong các ngành khác nhau. Vốn pháp định thường khác xa vốn thực tế và chỉ mang tính hình thức. Vốn cố định có sự khác biệt lớn giữa các ngành sản xuất và thương mại, vốn lưu động cũng khác biệt rất lớn giữa các lĩnh vực, ngành nghề. Trên cơ sở những luận giải đó, có thể đi đến ước lượng tiêu thức để phân loại DNVVN ở bảng 1 dưới đây. Bảng 1: Tiêu thức phân loại DNVVN ở Việt Nam Lĩnh vực Tiêu thức Công nghiệp Thương mại, dịch vụ DNVVN Doanh nghiệp nhỏ DNVVN Doanh nghiệp nhỏ Vốn sản xuất (VND) Dưới 5 tỷ Dưới 1 tỷ Dưới 2 tỷ Dưới 1 tỷ Lao động thường xuyên(người) Dưới 300 Dưới 50 Dưới 200 Dưới 30 (Nguồn: Học viện chính trị quốc gia và Viện Friedrich Ebert- Đức) b. Tiêu thức xác định DNVVN ở một số nước trên thế giới. Có nhiều yếu tố tác động đến phân loại DNVVN. Sự phân loại hoàn toàn mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Trình độ phát triển kinh tế của một nước Tính chất ngành nghề Vùng lãnh thổ Tính chất lịch sử Mục đích phân loại Bảng 2: Tiêu chí phân loại DNVVN ở các nước APEC. Tên nước Tiêu chí phân loại Australia Số lao động Canada Số lao động, doanh thu Hongkong Số lao động Indonesia Số lao động, tổng giá trị tài sản, doanh thu Nhật Bản Số lao động, vốn đầu tư Malaysia Doanh thu, tỷ lệ góp vốn Philipine Số lao động, tổng giá trị tài sản, doanh thu Singapore Số lao động, tổng giá trị tài sản Đài Loan Vốn đầu tư, tổng giá ỷ trị tài sản Thái Lan Số lao động, vốn đầu tư Mỹ Số lao động ( Nguồn: Ban Thương mại và Đầu tư, tiểu ban kinh doanh vừa và nhỏ của các nước APEC) Bảng 3: Tiêu chí xác định DNVVN ở một số nước Nước Loại doanh nghiệp Số lao động (người) Tổng số vốn hoặc giá trị tài sản Doanh số/ năm CHLB Đức DNVVN trong đó Doanh nghiệp nhỏ < 500 Ê 9 < 100 triệu Dm <1 triệu DM Australia Canada DNVVN < 500 Riêng Canada < 20 triệu đô la canada Nhật bản DNVVN trong CN DNVVN trong bán buôn DNVVN trong bán lẻ < 300 < 100 < 50 <100 triệu yên < 30 triệu yên < 10 triệu yên Hàn Quốc DNVVN trong CN DNVVN trong dịch vụ( trừ giao thông vận tải) < 100 < 20 Hồng Kông DNVVN trong CN DNVVN trong DV < 100 < 50 Đài Loan DNVVN < 120 triệu đô la Hồng Kông < 100 triệu đôla Hồng Kông Singapore DNVVN < 100 < 500 triệu đô la Singapore Thái Lan DNVVN trong đó: công nghiệp gia đình Doanh nghiệp nhỏ < 200 <10 10- 49 < 50 triệu bath < 1 triệu bath < 10 triệu bath Indonesia DNVVN trong đó doanh nghiệp cực nhỏ Doanh nghiệp nhỏ < 200 < 20 < 2 triệu rupia < 600 triệu rupia < 2 tỷ rupia < 50 triệu rupia < 1tỷ rupia (Nguồn: Đỗ Đức Định: kinh nghiệm và cẩm nang phát triển xí nghiệp vừa và nhỏ một số nước trên thế giới- NXB thống kê, Hà Nội, 2000) II. Đặc điểm các DNVVN ở Việt Nam hiện nay 1. Quá trình hình thành và phát triển của DNVVN ở Việt Nam Sự hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt Nam theo nhiều xuất xứ khác nhau: Các DNVVN được hình thành từ Sở thủ công nghiệp có từ lâu đời, tồn tại và phát triển qua cả thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hoặc từ các doanh nghiệp của Nhà nước thành lập trong cơ chế cũ (các DNNN trung ương và địa phương) Hiện nay có thêm một số lượng lớn các DNVVN mới được thành lập trong thời kỳ đổi mới kinh tế, do sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh, thành lập theo các văn bản quy phạm pháp luật ban hành từ năm 1990 đến nay. Từ năm 1988 đến năm 1995, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quy định chế độ, chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, DNNN. Đáng chú ý là Nghị quyết 16 của Bộ Chính Trị Đảng cộng sản Việt Nam (1988), Nghị định 27, 28, 29 của Hội đồng Bộ trưởng (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình… và một loạt các luật như Luật Công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật HTX, Luật DNNN… đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các DNVVN phát triển. Nhiều cơ quan quản lý, cơ quan khoa học và nhiều địa phương nghiên cứu về DNVVN như: Bộ khoa học và đầu tư, Viện nghiên cứu quản lý trung ương, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hội đồng Liên minh các HTX Việt Nam…Đã có nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế bàn về chính sách hỗ trợ các DNVVN. Nhiều tổ chức quốc tế hỗ trợ về tài chính khoa học cho các DNVVN, trong đó có Viện Fredrich Ebert (FES) của Đức. Trước những kết quả to lớn cũng như những khó khăn, vướng mắc của các DNVVN. Nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế đất nước, Chính phủ đã có Công văn số 681/ CP-KTN ngày 20-06-1998 định hướng chiến lược và chính sách phát triển DNVVN. Trong thời kỳ đổi mới, số lượng DNVVN của các thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lượng các DNNN giảm liên tục. Riêng trong ngành công nghiệp từ 3.141 đơn vị (năm 1986) xuống còn 2.002 đơn vị (năm 1995), số lượng HTX trong công nghiệp giảm mạnh từ 37.649 cơ sở (năm 1986) xuống còn 1.199 cơ sở (năm 1995). Khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp (doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, từ 567 doanh nghiệp (năm 1986) lên 959 doanh nghiệp (năm 1991) và 6.311 doanh nghiệp (năm 1995). Theo tính toán của nhóm nghiên cứu của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì nếu xét cả tiêu chí lao động thì ở Việt Nam hiện nay có 98,9% số doanh nghiệp là DNVVN, trong đó có 84,8% DNNN và 99,1% doanh nghiệp ngoài quốc doanh là DNVVN. Trong năm 2000 có 14.000 DNVVN được thành lập, năm 2001 là 21.000 và ước tính trong năm 2002 là 23.000 DNVVN. Như vậy sau 3 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp đã có thêm 58.000 DNVVN, đưa tổng số DNVVN của cả nước ta lên gần 80.000 DNVVN. Con số này rất đáng khuyến khích nhưng chưa thể gọi là nhiều như một số ý kiến nhận định mà đang còn là quá ít so với yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống nhân dân. ở các nước phát triển như Pháp, Đức …hàng năm có tới 100.000 đến 200.000 doanh nghiệp mới thành lập mà Chính phủ các nước này vẫn thúc đẩy thành lập thêm với các chương trình khởi sự doanh nghiệp. Trong năm 2001 vừa qua Chính phủ Việt nam đã ban hành Nghị Định 90/2001/ NĐ-CP về hỗ trợ phát triển DNVVN. Tuy nhiên, tính đến nay việc triển khai Nghị Định còn chậm so với tốc độ phát triển của các DNVVN. Hiện nay, DNVVN ở Việt Nam có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế. Trong đó phần lớn tập trung ở 3 lĩnh vực chính: Thương mại, dịch vụ sửa chữa chiếm tỷ trọng lớn (46,2%); công nghiệp và xây dựng (18%), vận tải, dịch vụ kho bãi (10%). Riêng trong lĩnh vực công nghiệp đã có tới 37,3% số DNVVN hoạt động trong ngành chế biến thực phẩm, 11% trong ngành dệt, may, da và 18,6% trong ngành sản xuất các sản phẩm kim loại. Sự phân bố DNVVN tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm50% tổng số doanh nghiệp cả nước, Đồng Bằng Sông Hồng là 20%, duyên hải miền Trung chiếm 12%. Hiện nay, DNNN đang từng bước xử lý, củng cố lại và tiến hành cổ phần hoá, cho thuê và bán cho các thành phần khác. Đồng thời thực hiện Nghị Quyết hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) theo hướng phát huy nội lực, đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, DNVVN sẽ có xu hướng và điều kiện phát triển mạnh hơn nữa. 2. Đặc điểm chung của các DNVVN ở Việt Nam Với tốc độ phát triển nhanh chóng, các DNVVN ở Việt Nam đã có những đóng góp tích cực cho nền kinh tế quốc dân. Phần lớn các DNVVN đều mang những đặc điểm dưới đây: - Về số lượng và cơ cấu theo ngành nghề: Tính đến nay cả nước có khoảng 50% DNNN trung ương và khoảng 70-80% số DNNN địa phương thuộc loại doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ. Nếu xét đến khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì các DNVVN chiếm hơn 90% doanh nghiệp ngoài quốc doanh có qui mô vừa và nhỏ, trừ loại hình công ty cổ phần. - Về phân bổ DNVVN theo vùng lãnh thổ: Đồng Bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ đã chiếm gần 50% tổng số DNVVN cả nước. Hai vùng tiếp theo là Đồng Bằng Sông Hồng (22%), Duyên hải miền trung (12%). Các vùng còn lại chiếm gần 16% - Về vốn: DNVVN hiện nay gặp phải khó khăn về vốn để sản xuất kinh doanh ở những mức độ khác nhau. Theo thống kê của nhóm nghiên cứu Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tính đến năm 1999 vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm 11,9% tổng số vốn của doanh nghiệp Nhà nước. Thời điểm năm 2000 con số này là 12,8%. Trong khu vực kinh tế Nhà nước, vốn bình quân mỗi doanh nghiệp là khoảng 8 tỷ VND so với vốn bình quân mỗi doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân là 340 triệu VND. Như vậy, qui mô vốn của doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta đã nhỏ thì quy mô vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại càng nhỏ hơn. - Về công nghệ, thiết bị cho DNVVN: + Lạc hậu từ hai đến ba thế hệ + Chậm đổi mới: tỷ lệ đổi mới máy móc thiết bị là 5 -10%/ năm tính theo vốn đầu tư. - Thị trường và khả năng cạnh tranh: + 80 triệu dân số VN có mức độ yêu cầu về chất lượng hàng hoá và dịch vụ chưa cao, nhất là ở nông thôn (80% dân số cả nước) là thị trường tiềm năng rất lớn cho các DNVVN. Tuy nhiên thị trường VN đang bị ảnh hưởng rất lớn của hàng hoá nhập lậu và tác động đến DNVVN . +Khả năng cạnh tranh của các DNVVN rất yếu: do công nghệ, thiết bị lạc hậu, trình độ quản lý và kinh doanh trên thị trường còn hạn chế, thông tin thị trường kém. - Về lao động và đội ngũ quản lý của DNVVN . + Chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp. + 6% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học chủ yếu tập trung vào các công ty Trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần (hơn 80%) + 44% chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh là cán bộ, công nhân viên chức nhà nước chuyển ngành. + 48,4% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có bằng chuyên môn. 3. Ưu điểm và những điểm còn hạn chế a. Ưu điểm Nếu xét hiệu quả kinh tế đơn thuần trên một số tiêu thức truyền thống thì hiệu quả hoạt động của các DNVVN lớn hơn nhiều. Điều đó thể hiện qua các vấn đề sau: - Các DNVVN thu hút được một lượng vốn nhàn rỗi rất lớn trong nhân dân (số tiền này dân giữ không sinh lãi hoặc sinh lãi rất thấp) và đưa vào hoạt động kinh doanh, sinh lãi cao hơn. - Tạo ra nhiều việc làm với chi phí chủ yếu bằng vốn của dân mà lẽ ra Nhà nước phải tốn rất nhiều vốn đầu tư để giải quyết việc làm (trung bình Nhà nước phải đầu tư hơn 10 triệu đồng để tạo ra một chỗ làm việc). - Làm cho nền kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn hoạt động hiệu quả hơn. Các DNVVN có thể hoạt động như những cơ sở phụ trợ, cung cấp nguyên vật liệu cho các nghành công nghiệp lớn phát triển. Các DNVVN sẽ làm tăng khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp, đảm bảo tăng cường năng lực sản xuất, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá. - Tăng cường khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế vì số lượng, chủng loại sản phẩm do DNVVN sản xuất tăng lên rất lớn. - Tăng mức độ an toàn, giảm bớt rủi ro trong nền kinh tế thị trường đầy biến động, đó là do tính linh hoạt ứng biến trong các DNVVN trước sự biến động của thị trường, khả năng thay đổi mặt hàng…. - Đáp ứng tốt hơn những nhu cầu của người tiêu dùng với giá rẻ hơn và thuận tiện hơn. - Góp phần phân phối đồng đều hơn, xoá đói giảm nghèo rất thiết thực ở Việt Nam. - Trình độ hoạt động của các DNVVN dựa trên phân tích các yếu tố: trình độ lao động và quản lý, trang thiết bị, công nghệ v..v…. - Một ưu điểm nữa là sự phát triển của các DNVVN ít chịu sự tác động trực tiếp của các cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực và quốc tế vì sản phẩm của nó hầu hết thuộc loại thiết yếu. b. Các hạn chế Bên cạnh những ưu điểm trên, các DNVVN của các nước còn có những hạn chế như sau: - Khả năng thâm nhập thị trường kém. Môi trường kinh doanh là một yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp. Khái niệm về môi trường kinh doanh thì rất rộng và có nhiều cách phân loại khác nhau. Theo cách phân loại phổ biến hiện nay thì môi trường kinh doanh bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường khoa học công nghệ, môi trường chính trị- xã hội… Đối với các DNVVN thì môi trường kinh tế có ý nghĩa quan trọng hơn cả, trong đó phải kể đến yếu tố thị trường.Thị trường nước ta còn kém phát triển, thiếu đồng bộ và bị chia cắt. Hiện nay mới chỉ có thị trường hàng hoá và dịch vụ là chủ yếu còn các thị trường khác chưa có hoặc mới bắt đầu phát triển. Thị trường còn bị độc quyền nặng nề làm cho các DNVVN ngay từ khi mới ra đời đã phải cạnh tranh không cân sức. Khó khăn lớn nhất của thị trường trong nước là sức mua thấp, đặc biệt là ở nông thôn. Phần lớn các DNVVN vươn ra thị trường ngoại tỉnh và nước ngoài. Về thị trường ngoài nước: Do bị hạn chế về công nghệ, chất lượng, mẫu mã, thiếu thông tin và ít có điều kiện tiếp xúc với thị trường nước ngoài nên khó xuất khẩu. Trên thực tế, các DNVVN nước ta chủ yếu làm gia công cho các tổ chức trung gian trong và ngoài nước, xuất khẩu uỷ thác qua các doanh nghiệp lớn. Như vậy khó khăn về thị trường là do cả hai phía. Một mặt do năng lực, trình độ của các DNVVN, chất lượng hàng hoá thấp, trình độ quản lý kém. Mặt khác do môi trường thị trường chưa tốt, giá đầu vào cao, sức mua thấp, thiếu thông tin và bị hàng ngoại chèn ép. Đây là một khó khăn lớn đối với các DNVVN nước ta. - Thiếu nguồn vốn và cơ cấu vốn kém. "Vốn" là vấn đề tài chính đáng quan tâm nhất của các DNVVN nước ta hiện nay. Vốn kinh doanh được huy động bằng nhiều cách. Cụ thể, trong khu vực kinh tế tư nhân, vốn đầu tư được huy động bằng các cách sau đây: + Chủ doanh nghiệp đầu tư bằng vốn tự có của mình. Đây là nguồn chủ yếu, nó chiếm đến hơn 70% số doanh nghiệp. + Huy động vốn từ các thân hữu, bạn bè bằng hình thức vay mượn với lợi tức thoả thuận. Hoặc là góp vốn thành một khoản ngay từ đầu và người góp vốn sẽ cùng sở hữu doanh nghiệp. Hình thức này thường được áp dụng cho loại công ty TNHH. Hình thức này thường được áp dụng ở khoảng 28-30% số doanh nghiệp. + Bán cổ phiếu: Người mua cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp đó là dạng huy động vốn trong các công ty cổ phần. Loại này chỉ chiếm 0,5-1% tổng số doanh nghiệp. + Vay ngân hàng: Hình thức này phải qua các thủ tục nghiêm ngặt phiền hà và thế chấp chặt chẽ, phải có luận chứng phương án kinh doanh cụ thể. Trên thực tế có khoảng 30-40% số chủ doanh nghiệp có nhu cầu được vay. Tuy nhiên lãi suất vay vốn của ngân hàng vẫn chưa ưu đãi đối với các doanh nghiệp này. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, DNVVN chịu cơ chế quản lý vốn của nhà nước. Thứ nhất, doanh nghiệp được giao và bảo toàn vốn. Thứ hai, khả năng tăng vốn được thực hiện thông qua quĩ khấu hao cơ bản, qua lợi nhuận trích lại để sản xuất. Thứ ba là vay ngân hàng. Thế nhưng khả năng vay vốn từ ngân hàng của doanh nghiệp quốc doanh cũng chỉ có thể thực hiện được nếu triển vọng doanh thu của doanh nghiệp có khả năng trả nợ được trong hai năm. Vì vậy, phần lớn các DNVVN huy động vốn phi chính thức với lãi suất cao và không ổn định. Hiện nay các doanh nghiệp này chưa có thị trường vốn đặc biệt là thị trường vốn dài hạn. Mặt khác, hiệu qủa sử dụng vốn còn thấp, chưa có sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian như các tổ chức bảo lãnh tín dụng. - Khả năng tiếp cận công nghệ bị hạn chế. Như đã đề cập ở phần trên, hiện nay các DNVVN vẫn còn đang sử dụng máy móc, thiết bị lạc hậu từ hai đến ba thế hệ. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu vốn để nhập khẩu những loại máy móc này, đồng thời cũng do trình độ tay nghề của cán bộ còn yếu chưa bắt kịp với những thay đổi tiến bộ của khoa học công nghệ. - Yếu kém trong công tác quản lý và tổ chức: Trình độ của các cán bộ còn thiếu nhiều kinh nghiệm, lúng túng. Đặc biệt khi nền kinh tế đang chuyển dịch cơ cấu gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý và tổ chức. - Yếu kém trong quan hệ kinh doanh và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Đối với các DNVVN thì những yếu kém này cũng rất phổ biến. Những khó khăn mà các doanh nghiệp thường gặp là: Tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong nước, đặc biệt là tiêu thụ hàng xuất khẩu trên thị trường nước ngoài. Thiếu khả năng nghiên cứu và phát triển (R&D) để đáp ứng những thay đổi trong sản xuất hàng xuất khẩu (mặt hàng mới, chất lượng…) thường diễn ra trong nền kinh tế thị trường. ít hoặc không có điều kiện tổ chức bôi dưỡng nâng cao kỹ thuật, tay nghề cho nhân viên, nhất là nghiệp vụ marketing- xuất khẩu cho cán bộ làm công tác xuất khẩu. Hiểu biết về luật pháp còn yếu, đăc biệt những thông lệ quốc tế. - Một trong những khó khăn của các DNVVN là trong hoạt động xuất khẩu là những hạn chế về thông tin, thiếu hiểu biết về thị trường do vậy còn tạo ra những hàng hoá với mẫu mã, chất lượng chưa đáp ứng với yêu cầu thị trường. Ngoài ra các doanh nghiệp này ít có điều kiện và khả năng xuất khẩu trực tiếp nên dễ bị thụ động. III. Sự cần thiết khách quan phải có chiến lược hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động xuất khẩu Như đã phân tích ở các phần trên các DNVVN hiện đang gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt trong việc đẩy mạnh hoạt động sản xuất, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Vì vậy việc đưa ra một chiến lược hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động xuất khẩu là một tất yếu khách quan. 1. Hỗ trợ các DNVVN là sự cần thiết khách quan Cùng với các căn cứ khách quan đã xét chung cho nhiều nước, ở nước ta hiện nay, ngoài ý nghĩa giúp cho các DNVVN trong cả nước nhanh chóng hội nhập khu vực và thế giới, cần thiết phải có một chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN. Có hai lí do chính cần thiết phải hỗ trợ các DNVVN đó là: các DNVVN đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và việc hỗ trợ các DNVVN không chỉ có lợi cho bản thân doanh nghiệp mà cho cả Nhà nước và xã hội. Vai trò, vị trí của DNVVN trong nền kinh tế. + Các DNVVN có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế. Họ góp phần vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 70% GDP mỗi nước. ở Việt Nam hiện nay, khu vực DNVVN chiếm khoảng 32 % GDP. Ngoài ra, các DNVVN góp phần không nhỏ vào quá trình tích luỹ kinh tế. Các DNVVN hoạt động không cần nhiều vốn, vì vậy dễ quản lý và vốn quay vòng nhanh. Sự phát triển có hiệu quả các DNVVN đã dẫn đến quá trình tích luỹ của cải không ngừng của nhân dân. Nguồn vốn quay vòng nhanh của các DNVVN không những đã nâng cao tích luỹ tài sản trong nước mà nguồn ngoại hối tích luỹ do xuất khẩu hàng hoá cũng tăng đều qua các năm. Kim ngạch xuất khẩu chủ yếu thuộc về DNVVN. + Các DNVVN góp phần giải quyết một số lượng lớn chỗ làm cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần làm giảm đói nghèo, giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. + Hàng năm các doanh nghiệp này thu hút được khá nhiều vốn trong dân. Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào khu vực dân cư và yêu cầu lượng vốn ban đầu không nhiều, cho nên các DNVVN dễ dàng thu hút các nguồn vốn nhỏ, lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. + Các DNVVN góp phần tích cực trong việc lưu thông hàng hoá và xuất khẩu. Trong những năm 1950 các Doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ lấy mục tiêu phục vụ thị trường trong nước làm chính, đáp ứng nhu cầu trong nước và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Khi nền kinh tế phát triển, sức mua tăng lên, nhu cầu lớn hơn, các DNVVN rất nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu. Điều này rất khó thực hiện ở các doanh nghiệp lớn khi muốn đa dạng hoá các mặt hàng sản xuất . Khi các DNVVN số lượng đông đảo và hoạt động có hiệu quả, họ có thể tự sản xuất, thay thế nhập khẩu. Đầu thập kỷ 60, Chính phủ nhiều nước đã quyết định phát triển DNVVN theo định hướng xuất khẩu. Bên cạnh việc góp phần lưu thông hàng hoá trong nước, các doanh nghiệp đều lấy thị trưòng quốc tế làm thị trường chính. Trước đây, việc tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài phải do trung gian ngoại thưong làm môi giới, nhưng trong những năm gần đây các DNVVN đã có khả năng tự thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá trên thế giới. Đây cũng là sự tương đồng ở Việt Nam, các DNVVN do có quy mô nhỏ, khả năng lưu thông trong nước lẫn ngoài nước đều hết sức khó khăn, đặc biệt là lưu thông trong nước( do bị ép giá). Nhưng với các cơ sở doanh nghiệp tổ chức xuất khẩu, giá thu mua dù sao cũng tốt hơn so với thị trường trong nước đã buộc các DNVVN phải tính tới các hoạt động xuất khẩu. + Các DNVVN có vai trò to lớn trong vấn đề chuyển giao công nghệ. Chuyển giao công nghệ phải ưu tiên cho các kỹ thuật có tính phổ biến mà xí nghiệp, công ty có thể tiếp thu được. Kỹ thuật hiện đại nhất chưa chắc đã là thích hợp và có hiệu quả nhất đối với các nước đang phát triển. Đi từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn hơn, Doanh nghiệp của nhiều nước đã đáp ứng được vấn đề đó. DNVVN hoạt động trong mọi lĩnh vực, các kỹ thuật nhập khẩu mang tính quảng đại, tránh sự phát triển mất cân bằng, phiến diện của nền kinh tế. Với đặc tính hoạt động đa dạng nhưng lại liên kết với nhau theo một hệ thống liên hoàn, các DNVVN rất thích nghi với kỹ thuật nhập khẩu. Nó đã đứng vững, tồn tại và liên tục phát triển cho đến trình độ như ngày nay. + Các DNVVN dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh. Sự tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phat huy tiềm lực vốn có của các doanh nghiệp. Một quốc gia nào muốn tạo nên các DNVVN đều phải có chế độ tư hữu và tự do cạnh tranh. Các Doanh nghiệp lớn thường cần những thị trường lớn, đòi hỏi phải có sự bảo hộ của Chính Phủ và phải có sự độc quyền. Còn ở các DNVVN, tình trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. So với các doanh nghiệp lớn, các DNVVN có tính tự chủ cao độ. Họ không ỷ lại sự giúp đỡ của nhà nước. Vì mưu lợi, họ sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro. ở các nước trong khu vực, mỗi năm bình quân có khoảng 2- 3% số DNVVN bị phá sản và cũng có khoảng 3% loại doanh nghiệp này mới được hình thành. Loại hình DNVVN có điều kiện thuận lợi trong việc tập trung vốn, tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Sự phát triển của các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao không chỉ cho phép các DNVVN cạnh tranh dễ dàng mà còn cho phép chúng chiếm ưu thế trong một số ngành sản xuất. + Các DNVVN có khả năng ứng biến nhanh nhạy. Những biến động kinh tế xã hội trên trường quốc tế và trong nước đã nhiều lần gây cú sốc lớn cho nền kinh tế nhiều nước, như hai cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thập niên 80, 90, nạn lạm phát, ô nhiễm…Nhưng các DNVVN đã thích nghi nhanh chóng, thay đổi hoàn cảnh, tự điều chỉnh tổ chức sản xuất. Với tư thế nhỏ gọn, năng động, dễ quản lý, không cần thiết quá nhiều vốn, các DNVVN rất linh hoạt trong việc đòi hỏi, phát triển và tránh những thiệt hại to lớn do môi trương khách quan tác động. Trong những năm gần đây, các DNVVN của các nước phải ứng phó với sự tăng giá của đồng tiền trong nước, sự thiếu lao động tạm thời và vấn đề ô nhiễm môi trường. Do dễ dàng quản lý, các DNVVN rất linh hoạt trong việc điều chỉnh kết cấu sản xuất, chuyển kênh tiêu thụ ở nước ngoài để tránh sự mất mát ngoại hối do đồng tiền trong nước tăng giá. Khả năng ứng biến của các DNVVN đối với sự đột biến của hoàn cảnh không thể không kể đến vai trò trợ giúp tích cực của các Chính Phủ. + Các DNVVN dễ dàng tạo nên sự phát triển cân đối giữa các vùng và góp phần giảm bớt nạn thất nghiệp. Vấn đề phát triển cân đối giữa các vùng không thể thành công nếu nước đó chỉ chú trọng đến việc phát triển các doanh nghiệp đaị quy mô. ở nhiều nước, tính phổ biến các DNVVN rất có lợi thế trong việc tuyển dụng nhân công tại địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sẵn có của địa phương. Lợi nhuận của các DNVVN góp phần tái sản xuất đầu tư cho địa phương, do đó hiệu quả kinh tế của các DNVVN cũng là hiệu quả về ổn định và phát triển kinh tế ở địa phương. Các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ là khu vực kinh tế thu hút nhiều lao động, có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm, góp phần giảm bớt nạn thất nghiệp của mỗi địa phương nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Theo tư liệu mấy năm gần đây, các DNVVN trong ngành thương nghiệp là các doanh nghiệp tạo việc làm nhiều nhất cho công nhân. Bởi vì số lượng các doanh nghiệp loại này rất lớn, phân bố rộng rãi khắp các vùng nên có vai trò rất lớn trong việc phát triển công bằng giữa thành thị và nông th._.ôn. + Các DNVVN là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp. Thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh trong các DNVVN nhiều nhà quản lý cấp thấp khi thấy mình đã có đầy đủ kinh nghiệm liền tự mình tạo lập nên một cơ nghiệp khác, bỏ doanh nghiệp mình đã từng làm việc. Nguồn gốc của sự thành công là ở chỗ: họ sẵn sàng học hỏi, chịu gian khổ trong thời gian còn là công nhân làm thuê để tích luỹ thành quả cho riêng mình. Chính Phủ nhiều nước đã khuyến khích quá trình tự lập sáng tạo của mỗi cá nhân. Khác với doanh nghiệp lớn, các nhà doanh nghiệp thường là những người có học vị cao, đào tạo chính quy để trở thành các nhà doanh nghiệp. Các DNVVN là một nơi sàng lọc đào luyện các nhà doanh nghiệp thông qua kinh nghiệm kinh doanh và kinh nghiệm tiếp thu lĩnh vực có thể phát triển được của mỗi doanh nhân. Hỗ trợ cho các DNVVN không chỉ có lợi cho doanh nghiệp mà cho cả nhà nước và xã hội. Đó là các lợi ích cơ bản sau: + Hỗ trợ các DNVVN là cách thức để nuôi dưỡng những nguồn thu cho ngân sách Nhà nước bởi vì thực tế số lượng DNVVN chiếm chủ yếu trong các doanh nghiệp. + Hỗ trợ các DNVVN là một hình thức đầu tư gián tiếp của Nhà nước. Bởi vì, thay vì Nhà nước đầu tư trực tiếp để thành lập các doanh nghiệp nhà nước thì nay chuyển sang hỗ trợ các doanh nghiệp đã có, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. + Bằng việc hỗ trợ các DNVVN, Nhà nước cũng có thể giải quyết những vấn đề xã hội mà bất cứ Nhà nước nào cũng phải đương đầu. Đó là giải quyết nạn thất nghiệp, tạo việc làm rất hiệu quả với nguồn vốn rất hạn hẹp của Nhà nước (thay vì thành lập các doanh nghiệp Nhà nước, thì số vốn đó có thể hỗ trợ cho rất nhiều các doanh nghiệp đã có sẵn - điều đó rõ ràng là hiệu quả hơn). + Thông qua các chính sách hỗ trợ của nhà nước, việc đầu tư phát triển sản xuất sẽ hiệu quả hơn vì huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân, vừa thực hiện tốt chức năng quản lý của nhà nước. Kết quả điều tra cho thấy các chuyên gia đánh giá cao vai trò cuả việc hỗ trợ các DNVVN. 100% số người được hỏi ý kiến đều cho rằng hỗ trợ cho các DNVVN là cần thiết và cấp bách. 2. Nội dung chiến lược hỗ trợ a. Khái niệm chiến lược hỗ trợ các DNVVN Chiến lựơc hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN ở VN là hệ thống các quan điểm, các đường lối, cơ chế, chính sách, các mục tiêu lớn và các biện pháp chủ yếu mà Nhà nước sử dụng nhằm giúp các hoạt động xuất khẩu của các DNVVN ở VN được phát triển một cách nhanh chóng ổn định và bền vững; góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam trong các giai đoạn. Vì vậy đối tượng chịu tác động của chiến lược này chính là các DNVVN của VN. b. Mục tiêu của chiến lược Chính Phủ các nước hỗ trợ DNVVN hầu hết đều nhăm mục tiêu là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát huy được vai trò, tiềm năng vốn có của chúng. Hỗ trợ làm sao để nâng cao hiệu quả sản xuất, giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội mà nếu chỉ riêng doanh nghiệp lớn thì không làm nổi. c. Nội dung chiến lược hỗ trợ xuất khẩu Nói đến chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN thì điều mà người ta quan tâm nhất đó chính là nội dung của chiến lược đó. Chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN bao gồm những nội dung sau: + Tạo thị trường: Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi đơn vị thì điều kiện để tồn tại và phát triển đầu tiên là nhân tố thị trường. Thị trường là yếu tố mang tính tổng hợp nhất, là nhân tố quan trọng hàng đầu tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Trong đó, điều kiện về thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường đầu ra là yếu tố quan trọng bậc nhất quyết định sự thành bại, sự tồn tại, phát triển thịnh vượng hay thua lỗ phá sản của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Khó khăn lớn nhất của các DNVVN nước ta hiện nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Với đặc điểm và ưu thế của mình, nếu định hướng chiến lược ngắn hạn trước mắt của các DNVVN là tập trung vào các thị trường nhỏ lẻ, địa phương và đặt trọng tâm vào những sản phẩm hàng hoá có giá bán thấp thì định hướng chiến lược dài hạn cần phải chú ý đến thị trường của các địa phương khác và tới các thị trường quốc tế, hướng vào những sản phẩm hàng hoá có chất lượng và giá trị kinh tế cao. Theo nghĩa đầy đủ, thị trường phải bao hàm cả thị trường các yếu tố đầu vào. Trong đó thị trường các yếu tố đầu vào bao gồm: thị trường cung ứng nguyên liệu, thiết bị, công nghệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động và thậm chí còn bao hàm cả thị trường bất động sản. Hiện nay, các DNVVN cũng dang gặp khó khăn đối với thị trường các yếu tố đầu vào, cản trở không ít tới quá trình phát triển của các DNVVN. Khắc phục khó khăn này cũng là những đòi hỏi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh mạnh của các DNVVN ở nước ta hiện nay. + Tạo nguồn vốn cho hoạt động xuất khẩu. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần có vốn tài chính. Điều kiện về vốn của các DNVVN hiên đang rất hạn hẹp và gặp khó khăn lớn. Sự thiếu vốn của họ đã và đang diễn ra trên bình diện khá rộng. Bởi vì quy mô vốn tự có của họ đều rất nhỏ, không đủ sức tài trợ cho cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có chất lượng và hiệu quả, đặc biệt đối với các doanh nghiệp muốn mở rộng, phát triển qui mô và đổi mới nâng cấp thiết bị công nghệ, sản phẩm. Đồng thời, khả năng và điều kiện tiếp cận các nguồn vốn trên thị trường tín dụng của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay còn bị hạn chế và gặp khó khăn lớn đó là do không đủ tài sản thế chấp, mức lãi suất cho vay quá cao so với mức lợi nhuận thu được, khoản tiền cho vay ít, thời hạn cho vay quá ngắn, hình thức và thể chế tín dụng còn đơn điệu. + Đầu tư công nghệ: Công nghệ luôn là vấn đề cốt lõi của mọi doanh nghiệp trong đó có DNVVN. Điều kiện thiết bị công nghệ sẽ quyết định tới năng suất, chất lượng của sản phẩm từ đó giúp cho các DNVVN nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Trong những năm gần đây, do sức ép của thị trường và những tác động của cơ chế quản lý kinh tế, các DNVVN ở nước ta đã có sự đổi mới công nghệ ở mức độ nhất định. Ví dụ như việc các DNVVN đã thực hiện cơ khí hoá từng phần hoặc toàn bộ quá trình sản xuất. Song nhìn chung, thiết bị công nghệ của các DNVVN hiện vẫn còn lạc hậu và ở trình độ thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao. Hiện nay các DNVVN đang gặp nhiều khó khăn đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, điều kiện vốn tài chính và các điều kiện khác không cho phép các DNVVN tự tài trợ để đổi mới, áp dụng mạnh mẽ các loại thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại. Vì vậy, bên cạnh sự nỗ lực, phấn đấu của bản thân các doanh nghiệp còn cần tới sự hỗ trợ giúp đỡ tích cực của từ phía chính quyền Nhà nước các cấp để nhanh chóng và thường xuyên cải thiện điều kiện thiết bị công nghệ. Sự hỗ trợ thể hiện ở việc như: giảm thuế nhập khẩu công nghệ, giảm lãi suất cho vay vốn nhập khẩu thiết bị công nghệ, ưu tiên cho những dự án chuyển giao công nghệ… + Đào tạo, nâng cao năng lực quản lý kinh nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Hoạt động sản xuất- kinh doanh trên thương trường với sự cạnh tranh khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải có trình độ kiến thức cao, năng lực quản lý giỏi mới có thể thành đạt trong kinh doanh, đưa doanh nghiệp của mình ngày một đi lên. Mỗi chủ doanh nghiệp phải thu thập, tổng hợp, phân tích, đánh giá các loại thông tin kinh tế, kỹ thuật, biết đề ra những chiến lược đúng đắn và đưa ra những quyết định sáng suốt, kịp thời. Đồng thời chủ doanh nghiệp phải biết quản lý, giám sát,điều khiển công việc của những người lao động làm việc cho mình một cách hợp lý, có hiệu quả, biết đánh giá, động viên, khuyến khích, thưởng phạt và trả công chính xác, tương xứng với những đóng góp của họ vào kết quả chung của doanh nghiệp. Nhìn lại đội ngũ các chủ DNVVN ở nước ta hiện nay cho thấy, họ có nhiều bất cập với đòi hỏi của kinh doanh trong thương trường hiện đại. Chỉ có rất ít chủ doanh nghiệp của các DNVVN được đào tạo kiến thức quản lý chính quy, một số được tập huấn, đào tạo ngắn hạn, còn đại bộ phận quản lý doanh nghiệp của mình bằng kinh nghiệm. Đây là một yếu điểm rất lớn và là một điều kiện khó khăn quan trọng đối với các DNVVN, họ cần có sự giúp đỡ tích cực của Nhà nước và các tổ chức phi Chính Phủ. + Nâng cao kiến thức nghiệp vụ xuất nhập khẩu và trình độ tay nghề của người lao động. Trình độ tri thức và tay nghề của người lao động làm việc trong các DNVVN cũng rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của những doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu. Những người có tri thức, tay nghề cao, kỹ năng thành thạo, lao động lành nghề sẽ sử dụng tốt các loại thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại. Có như vậy sản phẩm đẹp, có chất lượng với năng suất và hiệu quả cao để cạnh tranh với hàng ngoại. Đội ngũ lao động hiện có trong các DNVVN có trình độ văn hoá phổ thông cơ sở chiếm 40- 50%, số có trình độ văn hoá phổ thông trung học chiếm 10-25% và số chưa biết chữ chiếm 20-25%. Những con số này cho thấy đây cũng chính là một trong những khó khăn đối với các DNVVN. + Mở rộng khả năng tiếp cận thông tin kinh tế, thị trường quốc tế. Hệ thống thông tin kinh tế và khả năng tiếp cận thông tin về thị trường, giá cả, công nghệ, sản phẩm là hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống thông tin ở nước ta hiện nay mặc dù so với trước đã được phổ biến khá rộng rãi. Các phương tiện thông tin tương đối phong phú và hiện đại, phương pháp thu thập và cung cấp thông tin có nhiều tiến bộ….Song nhìn chung, tính chất thương mại, kịp thời, chính xác và đầy đủ của hệ thống thông tin chưa đáp ứng được những yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thị trường và cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại. Các DNVVN do tính chất qui mô nên thường không có bộ phận chuyên trách về thu thập và xử lý thông tin. Nguồn tài chính có hạn, không đủ kinh phí để mua sắm các thiết bị phục vụ cho công tác thông tin được nhanh chóng, kịp thời. Chi phí cho hoạt động tiếp cận, thu thập, xử lý thông tin còn hạn hẹp. Cho nên, khả năng tiếp cận thông tin của các doanh nghiệp rất cần sự giúp đỡ đắc lực để cải thiện tình hình. + Đổi mới quan điểm hỗ trợ Để có thể đổi mới quan điểm hỗ trợ các DNVVN trước hết cần nhận thức rõ vai trò quan trọng của các DNVVN trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Đồng thời cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường và chiến lược kết hợp quy mô lớn trong sự đan xen với quy mô vừa và nhỏ. Đây là một quan điểm chiến lược rất quan trọng vừa có ý nghĩa định hướng cho DNVVN phát triển đúng đắn, vừa định hướng hoạt động hỗ trợ cho các doanh nghiệp này từ các ngành, các cấp. Như vậy, hỗ trợ các DNVVN nói chung và xuất khẩu nói riêng không phải là sự ban ơn mà là trách nhiệm của các tổ chức Đảng, chính quyền và toàn xã hội trong đó có doanh nghiệp lớn. + Hình thành khung khổ pháp lý hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN. Việc hình thành khung khổ pháp lý rõ ràng và chuẩn xác là điều kiện quan trọng đầu tiên làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ. Khung khổ pháp lý bao gồm những quy định có liên quan tới các DNVVN và những quy định riêng cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Chương II Thực trạng chiến lược hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động xuất khẩu I. Hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu của các DNVVN ở VN hiện nay 1. Tình hình sản xuất kinh doanh của các DNVVN Đánh giá về tình hình hình sản xuất kinh doanh của các DNVVN hiện nay cần phải đặt các doanh nghiệp này vào bối cảnh chung của nền kinh tế Việt Nam. Để phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của các DNVVN cần xem xét các khía cạnh sau đây: - Giá trị tổng sản lượng - Về chất lượng sản phẩm - Về tốc độ phát triển sản xuất - Hiệu quả hoạt động - Mức độ đóng góp, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh a. Về giá trị tổng sản lượng Theo đánh giá của một số chuyên gia, sản lượng của các DNVVN chiếm tỷ trọng khoảng 80-90% trong giá trị tổng sản lượng, tuỳ thuộc vào lĩnh vực và thành phần kinh tế. Trong lĩnh vực công nghiệp, sản lượng của các DNNN quy mô vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng khoảng 60% tổng sản lượng khu vực DNNN. Còn khu vực ngoài quốc doanh (kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể), tỷ trọng của các DNVVN trong tổng sản lượng công nghiệp do khu vực này sản xuất chiếm khoảng 99%. Bảng 4: Giá trị tổng sản lượng theo hình thức doanh nghiệp Đơn vị: tỷ VNĐ Hình thức doanh nghiệp 1995 1996 1997 1998 1999 Toàn ngành công nghiệp 14.011,1 15.417,1 18.116,9 20.412 26.463 Doanh nghiệp Nhà nước 9.475,8 10.599,5 12.778,9 14.642,8 19.146 Kinh tế tập thể 1.279,3 746,8 514,8 434,3 255 Doanh nghiệp và công ty tư nhân 136,3 228,5 513,3 826 1192 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000 - NXB Thống Kê Hà nội) Qua bảng trên ta thấy giá trị tổng sản lượng của các doanh nghiệp và công ty tư nhân ngày càng chiếm tỷ trọng tăng dần giữa các năm. Năm 1995 con số này là 136,3 tỷ VND so với toàn ngành công nghiệp là 14.011,1 tỷ VND nhưng đến năm 1999 các con số tương ứng đã tăng lên 1192 tỷ VND và 26.463 tỷ VND. b. Về chất lượng sản phẩm Đánh giá về chất lượng sản phẩm của các DNVVN, đa số ý kiến cho rằng các sản phẩm này nhìn chung có chất lượng chưa cao, nhất là chưa đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Mặc dù vậy nếu xét về khía cạnh riêng các DNVVN ở Việt Nam thì trong thời gian qua chất lượng và mẫu mã sản phẩm của các doanh nghiệp này dần dần được nâng cao cải thiện hơn. Đó là sự phát triển tất yếu vì tất cả các doanh nghiệp này đang hoạt động theo cơ chế thị trường, trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Có một số doanh nghiệp đã đặt ra khẩu hiệu cho mình là " Chất lượng hay là chết". Có thể khẳng định thị trường và chất lượng sản phẩm có mối quan hệ sống còn với nhau. Thiếu chất lượng thì không có thị trường và ngược lại không có thị trường thì chất lượng là cái gì đó trừu tượng, không có nhu cầu thực sự để đáp ứng. Trong số 2010 doanh nghiệp công nghiệp nhà nước chỉ có khoảng 20-30% doanh nghiệp có bộ phận và tổ chức công tác quản lý chất lượng đạt yêu cầu. Còn tuyệt đại đa số bộ phận, đặc biệt là những doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ đều thiếu khâu này theo đúng nghĩa của "quản lý chất lượng". Lý do thì có nhiều nhưng chủ yếu là do qui mô nhỏ, sử dụng công nghệ lạc hậu, vốn ít, doanh số không nhiều, lãi không lớn, các DNVVN quản lý chất lượng không tốt. Nói đến chất lượng sản phẩm không thể không nói đến các tiêu chuẩn, điều kiện kỹ thuật …Nhưng ở Việt Nam, khi mua hàng rất ít người biết và nghĩ tới sản phẩm có phù hợp với tiêu chuẩn tiêu chuẩn Việt Nam hay ISO…không. Một thực tế cần thừa nhận là hiện nay các DNVVN của Việt Nam sản xuất chủ yếu dựa vào phản ứng của thị trường để thực hiện công tác quản lý chất lượng theo kiểu vừa và nhỏ của mình. Nhưng bên cạnh đó, không thể phủ nhận được bước tiến bộ của một số bộ phận các DNVVN trong khâu cải tiến mẫu mã nâng cao chất lượng sản phẩm. Thực tế là chúng ta đã có giày da xuất khẩu sang thị trường Châu Âu, Châu á, sản phẩm bánh kẹo Hải Hà đã cạnh tranh được với sản phẩm của các nước Châu á do có bao bì đẹp, chất lượng cao. Sản phẩm đồ hộp của nhà máy đồ hộp Hạ Long đã xuất sang EU, thuỷ sản xuất khẩu sang Nhật Bản, ASEAN, EU, Mỹ. Sản phẩm giầy dép của Biti's đã chiếm được sự tin tưởng của thị trường Mỹ…Nhiều mặt hàng có tính dân tộc truyền thống như thổ cẩm, hàng thủ công mỹ nghệ, mây tre đan đã có vị trí xứng đáng trên thị trường quốc tế. Hơn nữa, ở thị trường trong nước một số DNVVN đã có sản phẩm cạnh tranh được với hàng ngoại nhập, chiếm được lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam do có chất lượng phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng trong nước. c. Về tốc độ phát triển sản xuất Đánh giá về tốc độ phát triển sản xuất trong khu vực DNVVN, các chuyên gia đều đánh giá rất cao kết quả sản xuất kinh doanh của các DNVVN. Bảng dưới đây thể hiện tốc độ phát triển sản xuất của DNVVN theo hình thức doanh nghiệp. Bảng 5: Tốc độ phát triển sản xuất của DNVVN theo hình thức doanh nghiệp Đơn vị: % 1996 1997 1998 1999 2000 Toàn ngành công nghiệp 102,3 110,4 129,3 145,7 188,9 Doanh nghiệp Nhà nước 111,7 118,6 134,9 154,5 202,1 Kinh tế tập thể 64,6 58,4 40,2 33,9 20,0 Doanh nghiệp và công ty tư nhân 98,7 167,4 376,0 605,1 873,0 (Nguồn: "Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ các DNVVN đến năm 2010" - PGS,TS. Nguyễn Cúc) Tốc độ phát triển sản xuất của toàn ngành công nghiệp nói chung là tăng đều qua các năm. Tốc độ phát triển sản xuất của khu vực kinh tế tập thể lại giảm đáng kể, khu vực doanh nghiệp và công ty tư nhân (trong đó có cả các DNVVN) đạt tốc độ phát triển sản xuất khá cao. Tuy nhiên, sự phát triển của các DNVVN chủ yếu là tăng theo chiều rộng. Điều đó có nghĩa là do tăng số lượng doanh nghiệp nên dẫn đến tăng giá trị sản lượng. Sự đầu tư phát triển chiều sâu còn nhiều hạn chế. Theo số liệu thống kê, mức độ phát triển các DNVVN trong nền kinh tế chưa phải là cao: 59% số doanh nghiệp không tăng quy mô sản xuất, chỉ có 6,2% số doanh nghiệp tăng quy mô vốn gấp đôi. Mức độ phát triển chiều sâu của khu vực quốc doanh (chủ yếu là DNVVN ) lại càng thấp hơn: gần 70% doanh nghiệp tư nhân và 61% số HTX không tăng quy mô vốn. Con số doanh nghiệp mở rộng vốn được gấp hai lần là rất ít. d. Về hiệu quả hoạt động Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN còn nhiều hạn chế. Doanh thu bình quân trên một lao động mỗi năm của các DNNN là 59,7 triệu VND, tiền lãi là 1,8 triệu VND. Nếu chỉ tính riêng các DNNN quy mô vừa và nhỏ thì các chỉ số trên thấp hơn nhiều. Doanh thu bình là 23 triệu VND (đối với doanh nghiệp nhỏ), 40,5 triệu VND (đối với doanh nghiệp vừa). Trong công nghiệp, trung bình 1 năm mỗi lao động trong DNNN quy mô nhỏ tạo ra 14,6 triệu VND doanh thu và 0,4 triệu VND tiền lãi. Số liệu tương ứng đối với DNNN quy mô vừa là 23 triệu VND doanh thu và 0,7 triệu VND tiền lãi. Như vậy doanh thu và lãi bình quân trên một lao động của doanh nghiệp chỉ bằng tương ứng là 37,4% và 26,7% so với toàn bộ doanh nghiệp quốc doanh. Số liệu tương ứng của một lao động ở doanh nghiệp vừa là 59,5% và 46,7%. Trong thương mại, bình quân một lao động trong các doanh nghiệp nhỏ tạo ra 236,7 triệu VND doanh thu và 3,9 triệu VND lãi, tức là chỉ bằng 32% về doanh thu và 12,8% về tiền lãi so với toàn bộ thương nghiệp quốc doanh. Đối với doanh nghiệp quy mô vừa, số liệu tương ứng là 148,8 triệu VND doanh thu và 1,3 triệu tiền lãi, bằng 62,9% về doanh thu và 33,3% về lãi so với toàn bộ thương nghiệp quốc doanh. Và nếu so riêng với các doanh nghiệp lớn trong thương mại thì các chỉ số trên còn thấp hơn. Về khu vực doanh nghiệp tư nhân, theo kết quả điều tra năm 2000 của Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội, năm 1999 bình quân mỗi doanh nghiệp nhỏ ngoài quốc doanh ở vùng thành thị tạo việc làm cho 15,5 người. Trong đó lao động thuê ngoài là 13,1 người; tổng giá trị tăng thêm là 10.260 USD; bình quân là 1755 USD trên một lao động. Đối với các doanh nghiệp tư nhân vùng thành thị, bình quân một doanh nghiệp đã tạo ra việc làm cho 13,6 lao động. Trong đó có 11,06 lao động làm thuê và tạo ra giá trị tăng thêm là 12590 USD. Cũng ở thành thị các doanh nghiệp hộ gia đình có bình quân 4,77 lao động trên một hộ doanh nghiệp gia đình. Trong đó có 0,95 lao động làm thuê và 3,8 lao động là thành viên của hộ gia đình. Giá trị tăng thêm bình quân là 3952 USD hay 648 USD trên một lao động. e. Mức độ đóng góp và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh - Mức độ đóng góp cho nền kinh tế quốc dân Bảng 6: Mức độ đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong 8 tháng đầu năm 2002 Đơn vị: Tỷ đồng Thực hiện ( Tỷ đồng) Tháng 8/2002 so với tháng 8/2001 8 tháng đầu năm 2002 so với cùng kỳ 2001(%) 7 tháng đầu năm 2000 Ước tính tháng 8/2002 Cộng dồn 8 tháng đầu năm 2002 Tổng số 149.219 23.636 172.855 114,2 114,0 Phân theo khu vực và thành phần kinh tế KV DNNN 59.798 9.379 69.177 111,1 111,7 KV ngoài QD 35.846 5.792 41.638 119,6 119,2 KV có vốn ĐTNN 53.575 8.465 62.040 114,2 113,1 (Nguồn: www.smenet.com.vn) Nhìn vào bảng trên, ta có thể thấy trong 7 tháng đầu năm 2002 khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã đóng góp được 35.846 tỷ đồng (chiếm khoảng 24%) trong tổng số 149.219 tỷ đồng (100%) của nền kinh tế quốc dân. Nếu cộng dồn kết quả ước tính của tháng 8 thì con số này còn cao hơn nhiều. Kết quả của toàn nền kinh tế quốc dân sẽ là 172.855 tỷ đồng, còn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là 41.638 tỷ đồng. - Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Nhìn tổng thể qua các chỉ tiêu bình quân thì kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN tư nhân ở thành thị có xu hướng tăng. Nhưng các số tuyệt đối về doanh thu và lợi nhuận thì quá bé nhỏ. Hiện nay có tới 46-59,3% số doanh nghiệp có mức doanh thu nhỏ hơn 5000 USD. Cũng ở giai đoạn hiện nay có tới 43-57,5% doanh nghiệp làm ăn không có lãi hoặc lãi ở mức thấp. Song, đến năm 2000 trở đi tình trạng làm ăn kém hiệu quả đó đã được khắc phục từng bước, nhưng vẫn có tới 4-14,7% doanh nghiệp làm ăn không có lãi hoặc lãi dưới 1000USD/ năm. Cũng theo kết quả của cuộc điều tra trên, năm 1999 các DNVVN tư nhân ở nông thôn nhỏ hơn rất nhiều so với thành thị. Doanh thu bình quân của một doanh nghiệp là 13.548 USD, nhưng tỉnh thấp nhất chỉ đạt bình quân 1883 USD ( tỉnh Phú Thọ) và cao nhất là 3111USD (Cửu Long). Giá trị tăng thêm hàng năm còn thấp, bình quân một doanh nghiệp là 3306 USD, nhưng tỉnh thấp nhất là 947 USD, tỉnh cao nhất là 5994 USD. Lợi nhuận bình quân là 2122 USD, tỉnh thấp nhất 471 USD và cao nhất là 4448 USD. Nhìn chung ở vùng nông thôn, các chỉ tiêu về vốn, doanh thu, lợi nhuận có mối quan hệ khá chặt chẽ. Tỷ lệ khá chặt chẽ đáng lưu ý là tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp nông thôn cao hơn thành thị. Có thể giải thích điều này là do thành viên hộ gia đình ở nông thôn lao động không hưởng lương lớn hơn ở thành thị, dẫn đến tính gộp và lợi nhuận làm tỷ suất lợi nhuận cao. Mặt khác điều đó cũng nói nên tiềm năng tạo ra lợi nhuận ở vùng nông thôn còn lớn. Như vậy, nếu xét hiệu qủa kinh tế đơn thuần trên một tiêu thức truyền thống thì hiệu qủa các DNVVN còn thấp. Tuy nhiên nếu tính hiệu qủa kinh tế xã hội trong tổng thể thì hiệu quả kinh doanh của khu vực DNVVN là đáng kể. Điều đó thể hiện qua vai trò ngày càng to lớn của các doanh nghiệp này như đã trình bày ở chương I. 2. Tình hình xuất khẩu của các DNVVN Với tốc độ phát triển như vũ bão, các DNVVN ngày càng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đất nước đồng thời khẳng định được vị trí của mình. Phát triển DNVVN chính là phát triển nội lực của đất nước. Theo tổ công tác thi hành Luật Doanh Nghiệp tính đến nay cả nước có gần 80.000 DNVVN. Các Doanh nghiệp này hoạt động khá hiệu quả và mang lại nguồn lợi lớn cho đất nước thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Việt Nam đã ban hành chiến lược phát triển xuất khẩu từ năm 2001 đến năm 2010. Những nội dung chính của chiến lược này là: - Đảm bảo tốc độ tăng trưởng bình quân của xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là 13% mỗi năm. Đưa kim nghạch xuất khẩu hàng hoá ở mức 13,5 tỷ USD vào năm 2000 lên đên mức trên 50tỷ USD vào năm 2010 và giá trị dịch vụ ở mức 2 tỷ USD vaò năm 2000 lên đến mức gần 7 tỷ USD vào năm 2010. - Cải tiến cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo hướng tăng các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao chú trọng các sảm phẩm có hàm lượng công nghệ và trí thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Nhóm hàng chế biến sẽ chiếm trên 52% đến 53% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhóm hàng nguyên liệu và nông sản chiếm 19- 20%; hàng hoá khác chiếm 23-25%. Xuất khẩu dịch vụ bao gồm: xuất khẩu lao động, du lịch vận tải và một số ngành khác như Ngân hàng, Bưu chính viễn thông… cũng sẽ tăng lên. - Chiến lược thị trường của Việt Nam là củng cố thị trường đã có, mở rộng thị trường mới, chú ý các thi trường có sức mua lớn như: khu vực Châu á, bao gồm: Nhật Bản, Trung Quốc và ASEAN. Đây là những thị trường có những thuận lợi, cự ly vận tải gần. Thị trường Châu á bao gồm EU, các nước Đông âu và các nước Liên Xô cũ, thị trường Bắc Mỹ, trong đó chủ yếu là thị trường Mỹ. Biểu đồ1: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời kỳ 2000-2010. (Nguồn: Kỷ yếu xuất khẩu 2001 - Export directory - Saigon times weekly) Các DNVVN chiếm bộ phận đại đa số trong tổng số các Doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam vì vậy chính các doanh nghiệp này sẽ là đối tượng cần quan tâm tới chiến lược xuất khẩu nói chung ở Việt Nam. Trong hệ thống thống kê của Việt Nam chưa có thống kê chi tiết các hoạt động của các DNVVN trong nền kinh tế nói chung cũng như là trong hoạt động ngoại thương nói riêng. Thống kê ngoại thương của Việt Nam hiện nay chỉ phân loại xuất nhập khẩu trung ương và địa phương. Số liệu xuất nhập khẩu trung ương phân chia chi tiết ra làm xuất nhập khẩu trực tiếp và uỷ thác. Xuất nhập khẩu địa phương bao gồm cả xuất nhập khẩu của các DNVVN, các DNVVN và các hợp tác xã, không phân chia ra xuất khẩu uỷ thác hay trực tiếp. Mặc dù số liệu thống kê không cho phép tách riêng hoạt động thương mại giữa hai khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh (chủ yếu là các DNVVN và các hợp tác xã) nhưng thực tế cho thấy các DNNN được ưu tiên cấp phần lớn giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như là trị giá xuất nhập khẩu. Tình hình xuất khẩu nói chung của cả nước trong 8 tháng đầu năm nay đạt kết quả rất khả quan, thể hiện ở mức độ đóng góp của các thành phần kinh tế. Bảng 7: Tình hình xuất khẩu của các thành phần kinh tế trong tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2002 Đơn vị tính: triệu USD Thực hiện 7 tháng đầu năm 2002 Ước tính tháng 8 năm 2002 Cộng dồn 8 tháng đầu năm 2002 8 tháng đầu năm 2002 so với cùng kỳ năm 2001(%) Tổng giá trị 5830 1420 7250 94.1 Khu vực kinh tế trong nước 3023 760 3783 89.2 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 2807 660 3467 100.0 ( Nguồn: Tổng cục Thống kê) Mặc dù chưa có số liệu cụ về thể tình xuất khẩu nói chung của tất cả các DNVVN hiện nay, song qua các số liệu điều tra tại một số DNVVN cũng phản ánh được hoạt động và mức độ đóng góp của các doanh nghiệp này trong lĩnh vực xuất khẩu. Theo kết quả điều tra 52 DNVVN ngoài quốc doanh ở 19 tỉnh, thành phố mới đây của Liên minh HTX Việt Nam, trị giá xuất khẩu của các doanh nghiệp này năm 2000 lên tới 76.736.000 USD. Nếu thống kê đầy đủ thì trị giá xuất khẩu của các DNVVN ngoài quốc doanh không phải là nhỏ. Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu của các DNVVN và các HTX năm 1999-2000 (22 HTX và 30 DNVVN ) Đơn vị tính: nghìn USD, % Chỉ tiêu Năm Tổng kim ngạch Trực tiếp ủy thác Gia công Tại chỗ 1999(nghìn USD) (%) 69.254 100 29.331 42,35 37.821 54,61 988 1,43 1.114 1,61 2000(nghìn USD) (%) 76.736 100 29.413 38,33 35.719 46,54 993 1,92 10.611 13,21 (Nguồn: Kết quả điều tra của HĐTW Liên minh HTX Việt Nam) Chính nhờ hoạt động xuất khẩu mà mức độ đóng góp của các DNVVN cho nền kinh tế nói chung ngày một tăng. * Mặt hàng xuất khẩu Xuất phát từ cơ cấu của các thành phần kinh tế trong GDP, các mặt hàng xuất nhập khẩu chính của các DNVVN hiện nay bao gồm chủ yếu các loại hàng, nhóm hàng sau: - Hàng nông lâm, thuỷ sản chế biến và chưa chế biến - Hàng thủ công, mỹ nghệ (đồ gỗ trạm, khắc, hàng thêu ren, mây tre, hàng mỹ nghệ, lụa tơ tằm…) - Hàng công nghiệp nhẹ (giầy dép, may mặc, thảm…) Nhìn chung hàng hoá mà các DNVVN kinh doanh xuất khẩu hiện nay chủ yếu là những mặt hàng cần ít vốn và công nghệ đơn giản nhưng nhiều lao động. Giá trị gia tăng của một số mặt hàng không thật cao. Nhưng điều quan trọng là việc sản xuất và tiêu thụ những mặt hàng này đã mang lại công ăn việc làm và thu nhập cho những người sản xuất. Những mặt hàng do các DNVVN sản xuất có đặc điểm chung đều là sản phẩm của qui trình sản xuất qui mô nhỏ, manh mún, sử dụng máy móc, kỹ thuật lạc hậu, thô sơ, tốn nhiều sức lao động. Gần đây do quá trình cải cách kinh tế và mở cửa, các DNVVN đã có một số mặt hàng sản xuất mang tính chất công nghiệp nhưng vẫn thuộc loại công nghệ chưa cao và sử dụng nhiều lao động. Nhưng số doanh nghiệp có khả năng tiếp cận với những ngành này rất ít. Do vậy, trừ những mặt hàng sản xuất theo qui trình công nghiệp như hàng dệt may, giầy dép… qui cách, phẩm chất của hàng hoá nhìn chung không đồng đều, không ổn định, đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ, hàng mang tính chất nghệ thuật dân gian. Chính do những đặc điểm của hàng hoá, sản phẩm của khu vực DNVVN thường là kém sức cạnh tranh trên thị trường. Chi phí sản xuất cao, khó có thể thay đổi mẫu mã thường xuyên. Bản thân các DNVVN cũng khó thu nhận thông tin về hàng hoá trên thị trường vì chúng là những loại hàng hoá có đặc tính riêng. Còn đối với hàng sản xuất công nghiệp như dệt may, giầy dép thì hàng hoá có mẫu mã thay đổi nhanh theo mốt và theo thị hiếu của người tiêu dùng. Trong khi đó các doanh nghiệp này lại rất thiếu những kĩ năng thiết kế mẫu mã hàng hoá hiện đại. Đối với những loại hàng này, họ thường thụ động sản xuất theo mẫu mã, quy cách phẩm chất do khách hàng đưa ra. Theo nhận định của các chuyên gia thương mại, triển vọng lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong năm 2002 sẽ tăng mạnh. Đây là cơ hội lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Nếu nắm bắt và đáp ứng tốt nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ làm đồ lưu niệm cho khách du lịch, thì giá trị "xuất khẩu tại chỗ" hàng thủ công mỹ nghệ trong năm nay sẽ không nhỏ. Tuy nhiên, để ngày càng có nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ được chấp nhận và ưa chuộng trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp sản xuất loại mặt hàng này cần áp dụng công nghệ mới để có sản phẩm chất lượng cao, kiểu dáng đa dạng, độc đáo, hấp dẫn, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Đồng thời các nhà kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ phải mạnh dạn " xông ra" thị trường nước ngoài, trực tiếp giao dịch với khách hàng để xuất khẩu đạt hiệu quả cao. Trong năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đạt khoảng 210 triệu USD, cao gấp hơn 3 lần kim ngạch xuất khẩu chè. Trong năm qua có 44 nước và khu vực nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Trong đó có 10 nước và khu vực dẫn đầu. Bảng 9: 10 nước và khu vực dẫn đầu về nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam Đơn vị tính: triệu USD Nư._.ạn do các chuyên gia Việt Nam và nước ngoài giảng dạy. + Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp để sản xuất hàng xuất khẩu với chất lượng tốt, việc này có thể thực hiện được thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xuất khẩu Nhà nước và nhân dân cùng làm. + Tạo điều kiện cho các DNVVN tìm hiểu thị trường ngoài nước. + Sử dụng Quỹ đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu cho các DNVVN. + Khuyến khích các DNVVN tự đào tạo, Nhà nước có thể trích một phần thuế trong nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp giữ lại làm thuế đào tạo như ở một số nước; giảm phần chi phí đào tạo trong tổng thu nhập chịu thuế cho các doanh nghiệp. b. Chương trình hỗ trợ cung cấp thông tin cho các DNVVN Các DNVVN và các hợp tác xã đang rất thiếu thông tin về thị trường, công nghệ, luật pháp, khách hàng… do đó Nhà nước cần thiết phải hỗ trợ, thiết lập hệ thống thông tin cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng như kinh nghiệm ở một số nước: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản… Các giải pháp hỗ trợ thông tin có thể là: - Thành lập các ngân hàng dữ liệu về các DNVVN để cung cấp hoặc bán cho các doanh nghiệp với giá hợp lý. - Phổ biến kinh nghiệm sản xuất , kinh doanh hàng xuất khẩu bằng nhiều hình thức. - Tạo điều kiện cho các DNVVN sản xuất hàng xuất khẩu tham gia các hội chợ, triển lãm ở trong và ngoài nước, ký kết hợp đồng kinh tế với các đối tác trong và ngoài nước. - Tổ chức các câu lạc bộ để các DNVVN có cơ hội trao đổi học tập kinh nghiệm của nhau trong sản xuất - kinh doanh hàng xuất khẩu . - Khuyến khích các DNVVN đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu và sử dụng các phương tiện quản lý thông tin hiện đại như máy vi tính, mạng thông tin… để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với các cơ sở dữ liệu hiện đại trong và ngoài nước. - Các cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần phải chuyển động theo hướng tạo những điều kiện thông thoáng nhất cho hoạt động xuất khẩu, trong đó cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế - thương mại, dự báo kịp thời, chính xác quan hệ cung cầu, thị trường và giá cả các mặt hàng chủ yếu để cung cấp cho các doanh nghiệp thông qua việc chấn chỉnh và tăng cường mạng lưới thường vụ ở nước ngoài. c. Chương trình hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng kinh tế là điều kiện cơ bản, là tiền đề rất quan trọng thúc đẩy phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp . ở nhiều vùng trong cả nước, cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, nước kém phát triển. Đó là trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp, đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất tốn kém, chậm thu hồi vốn và ít sinh lãi nên các doanh nghiệp không muốn đầu tư. Hơn nữa, các DNVVN không đủ sức đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Do đó, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước. Theo kinh nghiệm của các nước thì đây là một trong những lĩnh vực hỗ trợ chủ yếu của Nhà nước. Tuy nhiên, do ngân sách Nhà nước ở Trung ương và địa phương còn hạn chế nên cần: - Đầu tư theo trọng điểm, tập trung vào những công trình mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. - Kết hợp giữa nhà nước, địa phương và nhân dân cùng làm, ở một số địa phương đã có một số mô hình có hiệu quả: kết hợp giữa vốn của nhà nước, một phần vốn và quản lý của địa phương với một phần vốn và lao động của nhân dân, của các doanh nghiệp . d. Chương trình hỗ trợ chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu Kinh tế DNVVN là của đông đảo những người lao động, ít vốn sẽ được phát triển mạnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá khi có sự hỗ trợ của Nhà nước để tạo ra thị trường rộng lớn, tạo ra thiết bị công nghệ tiên tiến thích hợp để sản xuất hàng xuất khẩu với chất lượng cao. Khi toàn cầu hóa, kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng, sự cạnh tranh trong công nghiệp trên cơ sở công nghệ cao đóng vai trò quan trọng trong sự cạnh tranh quốc tế khốc liệt. Các DNVVN tiếp tục cải tiến công nghệ là điều cần thiết để tăng cường không chỉ là cạnh tranh của chính bản thân họ mà còn cạnh tranh trong tổng thể nền công nghiệp quốc gia trên thế giới, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là hàng xuất khẩu . Ngoài ra Nhà nước cần hỗ trợ các DNVVN đẩy mạnh nghiên cứu khoa học - công nghệ và các hoạt động phát triển kỹ thuật khác như kinh nghiệm của nhiều nước : Hàn Quốc, Đài Loan… e. Chương trình hỗ trợ về tài chính, tín dụng cho các DNVVN để có vốn tham gia xuất khẩu Một trong những khó khăn của các DNVVN là thiếu vốn, liên quan đến vấn đề này Nhà nước cần có các biện pháp đặc biệt để giúp các DNVVN đảm bảo được tiền vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu như cho vay dài hạn, cho vay ưu đãi… Kinh nghiệm như ở Hàn Quốc, Chính phủ đã quy định các tổ chức tài chính dành riêng một tỷ lệ trong toàn bộ khoản vay với lãi suất ưu đãi cho các DNVVN nói chung và sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng. Để hỗ trợ cho sự an toàn về tín dụng của các DNVVN, nhà nước nên sớm thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu để hỗ trợ cho các tổ chức xuất khẩu phát triển. Các quỹ này được sử dụng cho các DNVVN vay để có vốn đầu tư công nghệ, tự động hóa trang thiết bị, phát triển công nghệ cao nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành xuất khẩu để đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. f. Chương trình hỗ trợ xúc tiến tiếp thị, hợp tác quốc tế và đầu tư nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu của các DNVVN Trong giai đoạn hiện nay, ngoài phương pháp tiếp thị truyền thống (đi khảo sát, nghiên cứu thị trường ở nước ngoài…) đã xuất hiện phương pháp tiếp thị hiện đại qua Internet, Nhà nước cần quan tâm hỗ trợ các DNVVN lập chương trình hệ thống thông tin quản lý bằng máy tính hóa. Sự phát triển nhanh chóng toàn cầu hoá và sự mở cửa nền kinh tế thế giới đã khuyến khích các DNVVN các nước mở rộng sự hợp tác đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu của các DNVVN Việt Nam, đồng thời là cơ hội thuận tiện để các DNVVN Việt Nam học tập, trao đổi kinh nghiệm với các bạn quỗc tế. Nhằm đẩy mạnh các hoạt động giao lưu kinh tế - thương mại trong các năm tới.Theo Bộ Thương mại cho biết thì mọi thương nhân kinh doanh cung cấp mặt hàng sẽ đều được phép thành lập Hiệp hội các ngành hàng xuất khẩu, được phép gia công cho thương nhân nước ngoài không hạn chế số lượng, chủng loại, được quyền đặt gia công ở nước ngoài các loại hàng hóa được phép lưu thông tại Việt Nam, được phép làm đại lý mua, bán hàng hóa cho thương nhân nước ngoài. Để tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam, các doanh nghiệp cần phải chú trọng chuyển dịch cơ cấu thị trường tiêu thụ trực tiếp và có dung lượng lớn như Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Mỹ…, giảm dần các thị trường trung gian, từng bước khôi phục các thị trường truyền thống như Nga và các nước trước đây thuộc SNG khác, Đông Âu, tích cực tìm kiếm thị trường mới. II. Một số kiến nghị nhằm thực hiện thành công phương hướng chiến lược trên 1. Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi về hỗ trợ xuất khẩu đối với các DNVVN * Đối xử công bằng giữa các khu vực kinh tế Do vai trò to lớn của các các DNVVN nên Nhà nước Việt Nam cũng như Chính phủ nhiều nước rất quan tâm khuyến khích, có các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển các DNVVN rất đa dạng, phong phú. Mặc dù đã tạo ra khối lượng GDP lớn hơn, tạo tăng trưởng tốc độ kinh tế của đất nước, nhưng khu vực kinh tế tư nhân chưa được đối xử bình đẳng so với khu vực kinh tế quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đâù tư nước ngoài, vẫn bị kỳ thị, phân biệt đối xử nên chưa giải toả được tâm lý e ngại, không phát huy được năng lực của khu vực kinh tế này. Điều này thể hiện rất rõ khi nhiều doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa được tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp mà phải uỷ thác qua các công ty khác. Luật lệ đối với khu vực kinh tế tư nhân không rõ ràng, không ổn định, không đồng bộ, thiếu tính thực tế đang là trở ngại to lớn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân, tạo cơ hội cho những tiêu cực nảy sinh. Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân muốn vay vốn trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại hết sức khó khăn do không đủ tài sản thế chấp hoặc bị đánh giá thấp hơn thực tế, dù cho các ngân hàng thương mại đang ứ tiền. Đối với các chương trình tín dụng ưu đãi, các doanh nghiệp khu vực này cũng khó vay được vốn do những điều kiện khắt khe, thủ tục phức tạp trong xét duyệt. Chẳng hạn Quỹ hỗ trợ phát triển DNVVN với thời hạn vay từ 3-5 năm, lãi suất ưu đãi 0,8%/ tháng (trong khi lãi suất Ngân hàng thương mại cùng thời điểm là 1,2% - 1,25%/ tháng), tuy vậy hơn một năm mới giải ngân được khoảng 34 tỷ đồng so với tổng nguồn vốn 275 tỷ đồng của quỹ. Về tín dụng, theo qui định về 5 điều kiện bắt buộc để vay được vốn tại Quyết định 324/ 1998/ QĐNHNN ngày 30/9/1998 của Ngân hàng Nhà nước, điều kiện thứ 5 về đảm bảo tiền vay dưới ba hình thức: thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh, là rất khó áp dụng đối với DNVVN do năng lực tài chính quá thấp. Quá trình thực hiện tín dụng còn nhiều bất hợp lý: thủ tục hành chính phê duyệt phức tạp, khả năng thẩm định dự án của cán bộ ngân hàng còn thấp. Hiện tại ở Việt Nam chưa có tổ chức tài chính riêng chuyên trách DNVVN. Do những đặc điểm của DNVVN, chính sách tín dụng cần có những qui định thích hợp. Biện pháp cơ bản là phải cải cách hoạt động của Ngân hàng, tăng cường khả năng tham dự của Ngân hàng vào các hoạt động của DNVVN. Chỉ riêng biện pháp giảm lãi suất trong thời gian qua chưa đủ để hỗ trợ DNVVN tiếp cận với nguồn vốn. Đồng thời cần đa dạng hoá các hình thức tín dụng, đẩy mạnh tín dụng dựa vào kiểm soát. Hình thành cơ chế đảm bảo an toàn vốn vay và dự phòng rủi ro như hình thành quỹ bảo hiểm tiền gửi, quy chế đảm bảo tiền vay…Cần ban hành sớm Nghị định về bảo đảm tiền vay hiện đang được chuẩn bị để thay cho các quy định về cầm cố và thế chấp trước đây. Thành lập tổ chức tín dụng chuyên cho các DNVVN, đặc biệt dưới hình thức công ty đầu tư tài chính, có thể hoạt động chuyên ngành, lĩnh vực cụ thể, được quyền tự chủ và linh hoạt trong quyết định lãi suất, thời gian cho vay đa dạng tuỳ theo yêu cầu đầu tư hoặc lĩnh vực kinh doanh phù hợp với đặc điểm của các DNVVN. Năng lực thẩm định và giám sát cao trong thời gian ngắn. ở Việt Nam, cơ chế và mô hình hỗ trợ được đổi mới cùng với việc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo nền kinh tế thị trường. So với trước đây, nhiều vấn đề về cơ chế hỗ trợ đã thay đổi căn bản. Tuy nhiên, do mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên cơ chế và mô hình hỗ trợ một mặt, chịu ảnh hưởng của tư duy theo cơ chế cũ, mặt khác chưa thật phù hợp với điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Điểm khác biệt lớn nhất trong cơ chế và mô hình hỗ trợ các DNVVN là có sự phân biệt giữa hai nhóm doanh nghiệp này: hỗ trợ doanh nghiệp Nhà nước khác với khác với hỗ trợ khu vực DNVVN. Trước khi đưa ra cơ chế toàn diện khuyến khích phát triển DNVVN, cần phải xoá bỏ sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Đó là kiến nghị chung của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trình độ công nghệ, trang thiết bị máy móc của doanh nghiệp nhìn chung còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Bên cạnh đó, do thiếu sự định hướng và hỗ trợ đúng mức của Nhà nước, sự phát triển của các DNVVN trong thời gian qua có xu hướng tự phát, manh mún, rất thiếu thông tin và gặp nhiều khó khăn trong mở rộng thị trường, làm hạn chế việc giải phóng nguồn lực cho sản xuất. Các chuyên gia nhấn mạnh rằng, chỉ khi nào xác định rõ vai trò, vị trí của DNVVN trong nền kinh tế thì các chính sách khuyến khích hỗ trợ mới thực sự có hiệu quả. Lâu nay do quan điểm không thông suốt về vấn đề này mà hàng loạt các vướng mắc kéo dài về cơ chế, vốn, đất đai, thuế, đào tạo của DNVVN chưa được giải quyết thấu đáo, gây tâm lý thân phận " con nuôi" đối với các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vì thế cần khắc phục ngay cả trong nhận thức, cách đặt vấn đề cũng như trong các văn bản pháp luật và hoạt động thực tiễn của bộ máy hành chính Nhà nước. Để hỗ trợ các DNVVN tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, hàng năm các cơ quan Nhà nước cần công bố công khai nhu cầu và kế hoạch sử dụng hàng hoá, dịch vụ của mình thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần ưu tiên sử dụng Quỹ khen thưởng xuất khẩu cho các DNVVN đạt thành tích trong xuất khẩu và khai thác thị trường mới. Từ Đại hội VI của Đảng ( 1986) đến nay, với việc xoá bỏ cơ chế cũ, hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng XHCN đã thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển mạnh, nhất là khu vực các DNVVN. Nhờ đó, đối tượng quản lý của Nhà nước đã thay đổi căn bản. Do vậy, việc hỗ trợ các doanh nghiệp không chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước mà cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Hơn nữa, trong các chính sách kinh tế đã chú ý tới hiệu quả kinh tế, không quá chú trọng vào qui mô doanh nghiệp lớn như trước đây và việc phát triển DNVVN là chiến lược kinh tế lâu dài trong sự đan xen với doanh nghiệp lớn. Nhiều văn kiện của Đảng đã đề cập vấn đề này như Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và các Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương Đảng "Nhà nước và xã hội ủng hộ và khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả và hợp pháp". * Đổi mới quan điểm hỗ trợ, " cởi trói" cho các DNVVN hoạt động Điều quan trọng nhất trong quan điểm hỗ trợ ở thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới là "cởi trói" cho các doanh nghiệp để cho các doanh nghiệp này được phép kinh doanh. Hiện nay, quan điểm hỗ trợ các doanh nghiệp chủ yếu là làm cho các DNVVN phát triển ngày càng tiên tiến, hiện đại và kinh doanh có hiệu qủa. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá VII chủ trương: " Phát triển các loại hình doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư ít, sinh lời cao, thời gian thu hồi vốn nhanh". Tuy vậy, trong quan điểm hỗ trợ các DNVVN ngoài quốc doanh và việc thực hiện các quan điểm này trên thực tế còn một số hạn chế cần được khắc phục: - Trong các quy định chính thức, quan điểm hỗ trợ khẳng định việc bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhưng trên thực tế việc triển khai các quan điểm đó ở các địa phương vẫn còn sự phân biệt, đối xử thiếu bình đẳng giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các DNVVN ngoài quốc doanh. - Chưa xác định rõ đối tượng cần hỗ trợ trong số các DNVVN vì số lượng các doanh nghiệp này là rất lớn. - Bước đầu đã chú ý đến hỗ trợ theo ngành nghề và địa bàn nhưng vẫn còn thiếu những giải pháp cụ thể để hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu. - Chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN có vai trò quan trọng trong việc định hướng cho họ sản xuất hàng xuất khẩu phát triển theo hướng kinh doanh ngày càng văn minh, hiện đại, đạt hiệu quả cao, mở rộng quy mô doanh nghiệp… - Hiện nay ở ta chỉ mới có chiến lược phát triển kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế, chưa có chiến lược phát triển tổng thể cho các DNVVN, đặc biệt là chiến lược hỗ trợ xuất khẩu. Trong chiến lược chung, việc xác định các ưu tiên (ngành, nghề, sản phẩm, địa bàn…) chưa thực sự dựa trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế và lợi thế so sánh của từng vùng làm căn cứ. - Việc thực hiện chiến lược và qui hoạch còn chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng bao cấp. Điều đó được thể hiện rõ nét qua chiến lược đầu tư mà trước hết là cơ cấu đầu tư. Cơ cấu đầu tư đã có đổi mới, nhưng vẫn chú trọng vào công nghiệp nặng hoặc vẫn dồn vào những ngành, công trình, dự án mang lại hiệu qủa kinh tế - xã hội thấp. Nhà nước vẫn còn bao cấp nhiều lĩnh vực trong đầu tư vốn mà lẽ ra phải để cho nhân dân tự làm. - Chưa kết hợp đúng đắn giữa chiến lược (định hướng lớn) với kế hoạch ( bước đi và giải pháp cho từng thời kỳ) và chính sách (các biện pháp cụ thể thực hiện các đường lối đó). Hiện đang có xu hướng coi nhẹ kế hoạch, quy hoạch, dự báo…khi chuyển sang kinh tế thị trường. ở các địa phương, tình hình còn khó khăn hơn. Kết qủa khảo sát ở một số địa phương cho thấy chính quyền còn lúng túng trong việc hoạch định chiến lược phát triển chung và hầu như chưa có chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN. * Tạo lập khung khổ pháp lý ổn định, chặt chẽ, tạo điều kiện cho các DNVVN tiến hành xuất khẩu có hiệu quả Khung khổ pháp lý đối với các DNVVN ở Việt Nam còn rất hạn chế. Dưới đây là một số điểm cần được khắc phục: - Hệ thống pháp luật đang trong quá trình đổi mới nên chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu những đạo luật quan trọng để tạo ra khuôn khổ pháp lý cần thiết cho hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, đặc biệt làm sản xuất hàng xuất khẩu. - Chưa có cơ sở pháp lý quy định khung khổ, tiêu chí DNVVN, do đó có nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho quản lý và thực hiện chính sách hỗ trợ. - Còn thiếu những điều khoản thiết yếu và khuyến khích hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN (một số điều khoản khuyến khích các DNVVN trong luật khuyến khích đầu tư trong nước và một số luật thuế). Các văn bản phải đảm bảo tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ, thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Tính ổn định lâu dài trước hết thể hiện ở quan điểm nhất quán của Nhà nước đối với các DNVVN thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử trong các văn bản pháp luật cũng như tổ chức thực hiện. Khi ban hành hoặc sửa đổi văn bản, không chỉ tính đến đòi hỏi hiện tại mà phải tính đến cả những đòi hỏi của sự phát triển trong tương lai. - Ban hành luật riêng hoặc các văn bản dưới Luật (Nghị định…) đối với các DNVVN - tương tự như đối với Luật hợp tác và các Nghị định của chính phủ. Việc ban hành các văn bản đối với các DNVVN nhằm mục đích sau: - Xác định rõ đối tượng điều chỉnh (doanh nghiệp cần hỗ trợ), tiêu chí phân loại DNVVN, địa vị pháp lý của DNVVN … - Có giải pháp khung cho việc hỗ trợ các DNVVN - Các giải pháp khung để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các DNVVN - Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và toàn xã hội trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này. * Thành lập các cơ quan quản lý chuyên trách Hiện nay, việc quản lý các DNVVN có khác nhau tuỳ thuộc loại hình doanh nghiệp . Các DNNN quy mô vừa và nhỏ do các Bộ, các ngành, các địa phương hoặc do một số cơ quan (doanh nghiệp đoàn thể) quản lý. Trong khi đó, các DNVVN ngoài quốc doanh chưa có cơ quan quản lý đích thực mà mới chỉ thực hiện cấp giấy phép kinh doanh, đăng ký kinh doanh, và thực hiện các chức năng rất hạn chế như thu thuế, kiểm tra về ô nhiễm môi trường … Tuy nhiên, trên thực tế, các DNVVN lại có quá nhiều đầu mối "quản ", các cơ quan chính quyền, các tổ chức xã hội, thậm chí cả các tổ chức đoàn thể …, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất , kinh doanh của các doanh nghiệp . Do đó, đã đến lúc cần thành lập cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước đối với DNVVN ngoài quốc doanh, cơ quan này là cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp , có chức năng chủ yếu giúp nhà nước hoạch định chiến lược và chính sách phát triển các DNVVN. Một trong những yếu tố quan trọng nhất và có tính chất quyết định trong chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN là sớm ban hành các văn bản thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu của các DNVVN (về tài chính, tín dụng, thuế, đất đai, đào tạo, chuyển giao công nghệ, thông tin…) Theo Báo Diễn đàn doanh nghiệp số ra ngày 16/3/2000 thống kê thì hiện nay cả nước có khoảng hơn 20 Trung tâm hỗ trợ DNVVN . Việc ra đời các trung tâm hỗ trợ này là một hướng đi đúng cần được nhân rộng và phát triển, các trung tâm này bao gồm cả những tổ chức trong và ngoài nước như Trung tâm hỗ trợ DNVVN của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) của Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Chương trình phát triển dự án Mê Kông (MPDF), Quỹ phát triển DNVVN Việt Nam (SMEDF) … có thể nói hoạt động của các trung tâm hỗ trợ này thông qua việc cho vay vốn, hỗ trợ về mặt đào tạo đã thực sự tạo cho nhiều doanh nghiệp những cơ hội mới để mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị kỹ thuật, nâng cao kỹ năng quản lý kinh doanh. Nhưng bên cạnh những kết quả đạt được đáng khích lệ thì mảng dịch vụ thông tin, tìm kiếm thị trường còn đạt kết quả thấp. Số lượng doanh nghiệp nhận được hỗ trợ còn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số DNVVN trên cả nước. Một số hoạt động trợ giúp các doanh nghiệp dự Hội chợ quốc tế vẫn có giá thành chi phí lớn… Nguyên nhân sâu xa là ở chỗ các trung tâm này phần lớn phải dựa vào nguồn tài chính tự có và hoạt động trên cơ sở tự trang trải. Hầu như chưa có sự hỗ trợ tài chính nào cho các trung tâm này từ phía nhà nước . 2. Kiến nghị đối với các tổ chức hỗ trợ DNVVN Như đã đề cập ở chương I, việc hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN là một đòi hỏi khách quan mang tính tất yếu ở nước ta trong nhiều năm tới, đặc biệt là giai đoạn 1999 - 2010. Hoạt động của các tổ chức hỗ trợ các DNVVN có thể tập trung theo các hướng sau: - Phát triển nguồn nhân lực, có chương trình đào tạo cho các DNVVN, nâng cao công tác chuyên môn, nghiệp vụ xuất nhập khẩu. - Giúp các DNVVN tiếp cận các nguồn vốn một cách có hiệu quả. - Về thị trường: có các chương trình giúp đỡ về mạng lưới kinh doanh, tiềm hiểu thông tin về thị trường, về các hiệp hội kinh doanh hàng hoá trong và ngoài nước. Mở diễn đàn doanh nghiệp, tổ chức gặp gỡ tiếp xúc giữa các doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp trao đổi thông tin thị trường, hỗ trợ xúc tiến thương mại và triển lãm hàng xuất khẩu. - Về công nghệ: hình thành trung tâm nghiên cứu về mẫu mã, sản phẩm, cách quảng cáo, xây dựng các chương trình chuyển giao công nghệ, các chương trình nghiên cứu và phát triển. - Cung cấp tư vấn thông tin về thị trường, về lĩnh vực xuất khẩu cho các chủ DNVVN. Thông tin cung cấp có thể chia theo chuyên đề về mặt hàng cho một số nhóm doanh nghiệp kinh doanh ngành hàng hoặc thông tin về một số thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp muốn xuất khẩu sang thị trường đó (thông tin về nhu cầu, thị hiếu, luật lệ liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu trên thị trường, những đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường đó). - Trực tiếp quan hệ, giao dịch với các tổ chức quốc tế, các thị trường ở nước ngoài, khách hàng nước ngoài nhằm giới thiệu và hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội, ký kết được các hợp đồng xuất khẩu với khách hàng nước ngoài. - Hỗ trợ các DNVVN tham gia các hội chợ trong nước và quốc tế, lập kế hoạch đi khảo sát và tiếp cận thị trường nước ngoài. - Nghiên cứu đề án liên kết các DNVVN với các tập đoàn lớn theo mô hình vệ tinh, tổ chức sản xuất các chi tiết của sản phẩm cuối cùng (kinh nghiệm này rất phổ biến ở một số nước trong vùng, ngành ô tô Nhật Bản cũng phát triển dựa trên các DNVVN). - Tổ chức quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của các DNVVN ở trong nước và nước ngoài. - Giúp các DNVVN nắm bắt kịp thời những thay đổi về chính sách phát triển thương mại, chính sách xuất nhập khẩu, làm cầu nối giữa các doanh nghiệp và Nhà nước. - Tham gia xây dựng chiến lược xuất nhập khẩu cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thông qua việc xây dựng chiến lược hỗ trợ xuất khẩu của Trung tâm hỗ trợ DNVVN trực thuộc Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. 3. Kiến nghị đối với các nhà quản lý doanh nghiệp Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nhà quản lý nào biết tạo dựng một chiến lược để phát triển lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm, dịch vụ của mình và thực hiện có hiệu quả chiến lược đó thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển, nếu không thì sẽ thất bại. Lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được hiểu là khả năng sản xuất, cung ứng ra thị trường những sản phẩm dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Cụ thể, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được xem xét trên bốn khía cạnh: + Sự linh hoạt: Khả năng đáp ứng nhu cầu khác nhau của khách hàng. Ví dụ: chủng loại, cách thức, cung ứng dịch vụ đi kèm… + Chất lượng của sản phẩm/ dịch vụ: đặc tính kỹ thuật, độ tin cậy, dịch vụ hậu mãi, kiểu dáng … + Tốc độ phản ứng trên thị trường: thời gian từ khi khách đặt hàng cho đến khi được phục vụ, tốc độ phát triển sản phẩm mới… + Chi phí: chi phí sản xuất của doanh nghiệp thấp hơn của đối thủ cạnh tranh Doanh nghiệp muốn đạt được các lợi thế cạnh tranh này cần phải có ba nguồn lực quan trọng: nhân lực, vốn, công nghệ. Nguồn nhân lực tham gia trực tiếp toàn bộ quá trình đánh giá, lựa chọn và phát triển lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp phải đương đầu với sự cạnh tranh trên thị trường thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa, các nhà quản lý doanh nghiệp cần đáp ứng các yêu cầu sau: - Mặt hàng sản xuất ra phải đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, với các DNVVN họ có thế mạnh là mặt hàng phong phú, đa dạng. - Mặt hàng phải có khả năng cạnh tranh để xuất khẩu, đúng quy cách, phẩm chất khi xuất khẩu đòi hỏi cao hơn và giá cả phải hợp lý, đôi khi phải thấp hơn so với các mặt hàng tương tự. - Có kiến thức kinh doanh xuất nhập khẩu, kinh nghiệm quản lý và tổ chức, thiết lập được các mối quan hệ bạn hàng rộng rãi, nắm bắt được những thông tin thiết thực phục vụ cho công tác kinh doanh của mình. -Tránh sự cạnh tranh không bình đẳng, chèn ép lẫn nhau nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong kinh doanh xuất khẩu . Nâng cao sự uy tín và độ tin cậy của doanh nghiệp mình với đối tác. - Các doanh nghiệp có thể tổ chức tạo mẫu hàng mới, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nước ngoài, tạo ra những kết quả cụ thể như tăng số lượng, sản phẩm, tăng doanh số bán hàng trong và ngoài nước, mở thêm thị trường mới hoặc tăng tỷ trọng trên những thị trường đã có. Lời kết Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động ngoại thương nói riêng và của nền kinh tế quốc dân nói chung. Chiến lược hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động xuất khẩu hiện nay thực sự đã giúp cho các doanh nghiệp này khắc phục những khó khăn và phát huy được thế mạnh của mình. Tuy nhiên để thực hiện thành công được chiến lược này đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, sự kết hợp hài hoà giữa các bộ ngành và hơn hết là sự nỗ lực của chính các DNVVN. Qua nghiên cứu đề tài " Chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động xuất khẩu", chúng ta có thể thấy được kết quả khả quan của việc thực hiện chiến lược này. Đồng thời đề tài cũng chỉ rõ những tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới bằng những đề xuất, kiến nghị. Thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá chắc chắn sẽ còn sôi động hơn rất nhiều trong thời gian tới. Liệu các DNVVN có tận dụng được thời cơ và đương đầu với những thách thức phía trước hay không, câu trả lời nằm ngay chính các doanh nghiệp. Hy vọng rằng cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức trong và ngoài nước, các DNVVN sẽ tìm được chỗ đứng vững chắc cho riêng mình. Tài liệu tham khảo A. Sách 1. Giáo trình "Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương" - Trường Đại học Ngoại Thương - Vũ Hữu Tửu - NXB Giáo Dục 2. Giáo trình "Phân tích hoạt động kinh tế trong kinh doanh xuất nhập khẩu" - PTS. Ngô Thế Chi, PTS. Nguyễn Thế Khải, ThS. Vũ Viết Thựu - NXB Giáo Dục 3. Kỷ yếu hội thảo "Chính sách, pháp luật và một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh" - Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Trung Tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý LERES - NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội 4. "Các tổ chức hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh 5. "Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005"- PGS, TS. Nguyễn Cúc - NXB Chính trị Quốc Gia 6. "Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển xí nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới" - NXB Thống Kê Hà Nội, 1999 - PTS. Đỗ Đức Định 7. "Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" - Nguyễn Đình Hương - NXB Chính trị Quốc Gia, 2002 8. "Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam"- Nguyễn Cúc, Hồ Văn Vĩnh, Đặng Ngọc Lợi - NXB Chính trị Quốc Gia 9. "Những quy định pháp luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ" - Trần Nam Sơn - NXB Chính trị Quốc Gia 10. Niên giám thống kê năm 1999, 2000 - NXB Thống Kê Hà Nội B. Báo và tạp chí 1. Báo Đầu Tư số ra ngày 20/3/2001 2. Tạp chí " Kinh tế và Dự báo" số 345, 346, 347 3. Tạp chí " Kinh tế Việt Nam và Thế Giới" - số 1119 ngày 27/10/2002 4. Tạp chí "Thương mại" các năm 2001, 2002 5. Tạp chí "Ngoại Thương" năm 2001 C. Luật và các văn bản pháp luật có liên quan 1. Luật Doanh nghiệp 2. Luật Thương mại 3. Nghị Quyết Hôi Nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá VII 4. Nghị Định số 90/ 2001/ NĐ - CP của Chính phủ, Bộ kế hoạch và đầu tư D. Tin truy cập Internet 1. 2. E. Tài liệu tham khảo nước ngoài 1. "General conditions to stimulate job creation in SMES" - Fifth item on the Agenda Geneva 2. Trade secrets: "The export answer book for SMES" 3. "Export directory" - Saigon times weekly Phụ lục Các tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay 1. Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) 2. Trung tâm hỗ trợ DNVVN (SME- PC) 3. Liên đoàn doanh nghiệp nhỏ và thợ thủ công - ZDH 4. Trung tâm phát triển ngoại thương và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh- FTDC 5. Phòng thương mại và công nghiệp Nhật Bản - JCCI 6. Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản - JETRO 7. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam 8. Chương trình phát triển dự án MeKong - MPDF 9. Trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - NEDCEN 10. Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam - EXIMBANK 11. Chương trình quốc gia của Việt Nam về bảo vệ tầng ozon 12. Chương trình hợp tác kinh tế Việt Nam - Đan Mạch (PSD) 13. Quỹ phát triển DNVVN của cộng đồng Châu Âu - SMEDF 14. Trung tâm hỗ trợ DNVVN tỉnh Bến Tre 15. Trường Đại học công nghệ SWINBURNE thuộc australia 16. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh 17. Trung tâm kỹ năng tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3- Quatest 3 18. Hiệp hội công thương thành phố Hồ Chí Minh - UAIC 19. Dự án hỗ trợ các xí nghiệp công thương vừa và nhỏ ở Việt Nam (MPI - UNIDO) 20. Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh 21. Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ thành phố Hồ Chí Minh (CESTI) 22. Trung tâm đào tạo nghiệp vụ và kỹ thuật ECO/ MTC 23. Dự án ESCAP 24. Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản - JICA 25. Chương trình hợp tác giữa EAB- SIDA 26. Trung tâm tư vấn hỗ trợ DNVVN (SMEDEC) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2033.doc
Tài liệu liên quan