Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa & nhỏ ở Việt Nam

Lời mở đầu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ ra rằng nước ta cần phải "xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, khuyến khích xuất khẩu và đồng thời thay thế hàng hoá nhập khẩu bằng các sản phẩm hữu hiệu sản xuất trong nước". Với tinh thần đó, nước ta đã cam kết thực hiện AFTA, gia nhập APEC và trong tương lai sẽ tham gia WTO khi đủ điều kiện. Để thực hiện đúng định hướng trên cần phải quan tâm tới đầu tư trong nước hay cần chú trọng vào sự phát

doc101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1305 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa & nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển của các chủ thể kinh tế của đất nước, cụ thể là các doanh nghiệp. Là một nước đang phát triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút vốn, làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả lớn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn hiện nay. Song các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp khó khăn như: năng lực quản lý kinh doanh kém, vốn đầu tư hạn chế, công nghệ lạc hậu, bị động trong quan hệ thị trường... Do đó, Đảng và Nhà nước cũng như toàn xã hội đang quan tâm đến những hoạt động hỗ trợ phát triển, đặc biệt là đang tạo ra khung khổ pháp lý, đổi mới hệ thống chính sách, xây dựng cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức hỗ trợ cộng đồng... đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù vậy, hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ở trong môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, làm hạn chế sự phát triển, đặc biệt là các chính sách cho những doanh nghiệp này còn thiếu và chưa đồng bộ. Để góp phần hình thành luận cứ khoa học cho việc tạo môi trường chính sách vĩ mô thuận lợi nhằm thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, được sự giúp đỡ của cô giáo TS. Lê Thị Anh Vân và chuyên viên Bùi Văn Hiền - Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư em đã nghiên cứu đề tài "Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam". Đây là một đề tài mới mẻ ở nước ta, nó rất phong phú, phức tạp và hiện đang có nhiều người nghiên cứu, em muốn nghiên cứu vấn đề này trên góc độ đánh giá sự tác động của chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, trên cơ sở đó hình thành luận chứng khoa học, tìm ra những giải pháp khắc phục khó khăn cho các doanh nghiệp, đồng thời giúp Nhà nước hoàn thiện hơn về chính sách này. Nội dung chính của đề tài là luận chứng về tiêu chí, đặc điểm, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam; phân tích thực trạng các chính sách hỗ trợ và tìm những điểm "tắc nghẽn" của hệ thống chính sách; kiến nghị một số giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc đối với sự hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do thời gian nghiên cứu có hạn, nên khó tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của mọi người. Xin chân thành cảm ơn! Chương I Tổng quan về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam I. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ 1. Tiêu chí phân loại Việc đưa ra khái niệm chuẩn xác về doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghĩa lớn để xác định đối tượng được hỗ trợ. Nếu phạm vi hỗ trợ đối tượng quá rộng sẽ không đủ sức bao quát và tác dụng hỗ trợ sẽ giảm đáng kể. Còn nếu phạm vị quá nhỏ sẽ không có ý nghĩa và ít tác dụng trong nền kinh tế. Vì vậy chúng ta cần chú trọng nghiên cứu tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, không có một tiêu thức thống nhất để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cho tất cả các nước vì điều kiện kinh tế của mỗi nước là khác nhau và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, vùng lãnh thổ. Có hai tiêu chí phổ biến để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí định tính: dựa trên những đặc trưng cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp...Nhóm chỉ tiêu này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, nó thường chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được dùng để phân loại trong thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng: Có thể dùng các tiêu chí như : số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. 1.1. Các yếu tố tác động tới việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa hay nhỏ thì mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : - Trình độ phát triển kinh tế của một nước: Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng. Như vậy, chỉ số về số lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước có trình độ phát triển kinh tế thấp sẽ nhỏ hơn các nước phát triển. Chẳng hạn, ở Nhật Bản, doanh nghiệp có 300 lao động và một triệu USD tiền vốn được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn các doanh nghiệp có quy mô như vậy ở Thái Lan lại là doanh nghiệp lớn. - Tích chất ngành nghề. Do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt, may), có ngành sử dụng nhiều vốn nhưng ít lao động (như hoá chất, điện). Trên thực tế ở nhiều nước, để so sánh đối chứng trong phân loại dựa trên tính chất này, người ta thường phân chia thành 2 -3 nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau hay có thể dùng hệ số ngành (Ib). - Vùng lãnh thổ: Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau, nên số lượng và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó, cần tính đến cả hệ số vùng (Ia) để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau. - Tính lịch sử: Một số doanh nghiệp trước đây được coi là lớn nhưng với quy mô như vậy, hiện tại hoặc trong tương lai có thể coi là nhỏ hoặc vừa. Như vậy, trong việc xác định quy mô doanh nghiệp, cần tính thêm hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp trung bình (Id) trong từng giai đoạn. Hệ số này chỉ được dùng khi xác định quy mô trong các thời kỳ khác nhau. Như vậy, để xác định quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước, trước hết cần xác định quy mô trung bình chung (Sa), sau đó, xác định hệ số Ia, Ib, Id. Cần lưu ý thêm là giữa các yếu tố như vốn lao động có sự thay thế lẫn nhau. Có thể xác định quy mô doanh nghiệp thuộc một ngành và trên một địa bàn cụ thể F (Sba) theo công thức: F(Sba) = Ib.Ia xSa Id Vấn đề hiện nay cần xác định: Sa và các hệ số tương ứng như thế nào? Ngoài ra, mục đích phân loại cũng có tác động tới việc phân loại. Vì việc phân loại để định mức cấp phát hay để hỗ trợ là hoàn toàn khác nhau. 1.2. Tiêu chí và cách phân loại ở nước ta hiện nay. Câu hỏi đầu tiên đặt ra để xác định tiêu chí đó là “cách tiếp cận”. ở Việt Nam, trước đây, khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được dùng để phân loại DNNN với mục đích xác định mức lương cấp phát trong cơ chế bao cấp và định mức lương cho các giám đốc doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lúc này, tiêu thức phân loại chủ yếu là số lao động trong biên chế và theo phân cấp TW-ĐF. Theo văn bản pháp lý mới nhất hiện hành (áp dụng từ 1999 đến nay) thì việc phân loại doanh nghiệp ở Việt Nam theo 5 hạng (hạng đặc biệt, hạng I, II, III, IV, V) dựa trên hai nhóm yếu tố là: độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh và gồm 8 tiêu chí: vốn sản xuất kinh doanh, trình độ công nghệ, phạm vi hoạt động, số lượng lao động, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, lợi nhuận thực hiện, doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên vốn. ( Thông tư liên bộ số 21/LĐTT ngày 17-6-1993 của Bộ lao động - thương binh và xã hội và Bọ Tài chính vè xếp hạng doanh nghiệp. ) Nhược điểm lớn của cách phân loại này là nhiều tiêu chí, đối tượng phân loại giới hạn. Còn mục tiêu chủ yếu nhằm sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp nhà nước, làm căn cứ xếp lương chứ không phục vụ định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và hỗ trợ cho các doanh nghiệp này phát triển. Trong khi, Nhà nước chưa ban hành tiêu chí chung xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ với mục đích hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển của mình, một số tổ chức hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã tự đưa ra tiêu chí phục vụ cho công tác của mình. Ví dụ như: ở thành phố Hồ Chí Minh, những doanh nghiệp có vốn trên 1 tỷ đồng, lao động trên 100 người và doanh thu hàng năm trên 10 tỷ thì được coi là các doanh nghiệp vừa, còn dưới mức trên là các doanh nghiệp nhỏ. Ngân hàng Công thương Việt Nam coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có: + Giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng. + Lao động < 500 người. Theo dự án VIE/US/95/004. Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam do UNIDO tài trợ coi: Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có: + Lao động dưới 30 người. + Vốn đăng ký dưới 1 triệu USD. Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có: + Lao động từ 31-200 người. + Vốn đăng ký dưới 4 triệu USD. Liên Bộ lao động và Bộ Tài chính coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có : + Lao động thường xuyên dưới 100 người. + Doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ đồng. + Vốn pháp định dưới 1 tỷ đồng. Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc chương trình Việt Nam - EU hỗ trợ các doanh nghiệp có số lao động từ 10 - 500 người, vốn điều lệ từ 50 ngàn đến 300 ngàn USD.( Việt nam Economic issue 47, september 1997 ). Quỹ phát triển nông thôn (thuộc Ngân hàng Nông nghiệp). Coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có: - Giá trị tài sản không vượt quá 2 triệu USD. - Lao động không quá 500 người. Một phần nguyên nhân của các tiêu chí rất khác nhau trên là do Nhà nước chưa chính thức ban hành một tiêu chí chung để áp dụng trong tất cả các ngành nhằm xác định đối tượng thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vấn đề thứ hai đặt ra cho việc xác định tiêu chí là đánh giá mức độ quan trọng của các tiêu chí đó. Kết quả điều tra được tiến hành ở các tỉnh phía Bắc là khá thống nhất trong lĩnh vực sản xuất cũng như thương mại, dịch vụ. Đó là: vốn sản xuất được coi là quan trọng nhất (chiếm 55,2% số đối tượng được hỏi), doanh thu đứng vị trí thứ 2 và số lao động thường xuyên xếp thứ 3.(xem thêm bảng) Bảng 1: Mức độ quan trọng của các tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ theo kết quả điều tra. Tiêu chí Tỷ lệ % theo mức độ quan trọng giảm dần. 1 2 3 Vốn sản xuất 55.2 34.5 4.6 Doanh thu 33.3 29.9 29.9 Lao động thường xuyên 4.6 29.9 10.3 Nguồn: Báo cáo điều tra doanh nghiệp vừa và nhỏ ở 5 tỉnh vùng ĐB Sông Hồng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tháng 10 -2002. Vấn đề thứ 3 là xác định trị số của các tiêu chí, bao gồm các yếu tố: - Theo số liệu thống kê, quy mô trung bình của các doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hiện nay trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam như sau: + Vốn bình quân một doanh nghiệp đăng ký kinh doanh là 2,2 tỷ đồng (trong sản xuất là 2,97, trong thương mại là 1,2 tỷ). + Lao động trung bình là 210 người. (trong công nghiệp là 280 người, và thương mại là 150 người) ( Niên giám thống kê 1995, NXB Thống kê, Hà Nội 1996. ) Như vậy, quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thể cao hơn mức trung bình một ít. Mức hợp lý nhất để xây dựng doanh nghiệp vừa và nhỏ chung cho tất cả nền kinh tế ở Việt Nam là: Trong công nghiệp: Vốn sản xuất < 5 tỷ, lao động <300 người. Trong thương mại, dịch vụ: Vốn sản xuất < 2 tỷ, lao động < 100 người. - Theo kiểm chứng cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên các tiêu chí định tính như: mức độ phức tạp của quản lý, vị thế của chúng trên thị trường, trình độ công nghệ... Kết quả của một số công trình nghiên cứu cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp có mức vốn và lao động như trên hoặc thấp hơn đều có công nghệ lạc hậu, mức độ phức tạp của quản lý thấp, vị thế hạn chế trên thị trường. Như vậy trị số phân loại trên là khá phù hợp. - Tiêu chí tạm thời xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Ngày 20/6/2002 tại thông báo số 681/CP-KTN Thủ tướng Chính phủ đã tạm thời quy định thống nhất tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ và số lao động thường xuyên dưới 200 người. Quy định cũng nêu rõ, tuỳ điều kiện quá trình kinh tế-xã hội mà áp dụng đồng thời cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí nói trên. Tiêu chí này chỉ là quy ước hành chính để xác định cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xét về định hướng lâu dài, quy định trên là phù hợp. Tuy nhiên trong giai đoạn trước mắt, cần tiếp tục nghiên cứu khả thi chi tiết hơn các tiêu chí. Chẳng hạn, chúng ta có thể tách tiêu chí áp dụng riêng cho lĩnh vực thương mại , lĩnh vực xây dựng công nghiệp... như phần trên đã trình bày. - Theo tham khảo phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước trong khu vực và trong thời kỳ có trình độ phát triển tương ứng với Việt Nam hiện nay (chẳng hạn thời kỳ những năm 70 của Đài Loan, Hàn Quốc). Trên cơ sở những luận giải đó, có thể đi đến ước lượng tiêu chí để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ như bảng sau: Bảng 2: Các tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Tiêu chí Công nghiệp Thương mại , dịch vụ DNV&N DN nhỏ DNV&N DN nhỏ Vốn sản xuất (tỷ đồng) <5 < 1 < 2 < 1 Lao động thường xuyên < 300 <50 <200 < 30 2. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ. 2.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới. Như trên đã nêu, việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các tiêu chí phụ thuộc vào nhiều yếu tố: phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện và mục đích của mỗi nước. Nhìn chung, cách phân loại ở mỗi nước có nhiều điểm khác nhau. Tuy vậy, vẫn có một số điểm giống nhau. Chẳng hạn, việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước nhằm hỗ trợ doanh nghiệp này phát triển để thực hiện các mục đích như: - Huy động mọi tiềm năng vào sản xuất. - Đáp ứng nhu cầu, đa dạng phong phú của xã hội. - Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của mỗi nước. - Tăng sự năng động, hiệu quả của nền kinh tế, giảm tối đa mức rủi ro trong kinh doanh, giảm bớt độc quyền nhờ tăng số lượng doanh nghiệp, thiết lập quan hệ kinh doanh giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp lớn. Chúng ta có thể tham khảo cách phân loại của một số nước trong khu vực và trên thế giới như sau: Đài Loan: Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ bắt đầu từ năm 1967, được phân làm hai nhóm ngành: công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, thương mại, vận tải và các dịch vụ khác. Năm 1977, họ lại thêm nhóm ngành thứ 3 là ngành khai khoáng. Trong công nghiệp chế biến và khai khoáng người ta dùng chỉ tiêu vốn góp và lao động. Trong Thương mại và dịch vụ khác dùng chỉ tiêu doanh thu và lao động. Trong thời gian 30 năm qua, tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan đã được điều chỉnh 6 lần. Sự thay đổi của khái niệm theo hướng tăng dần trị số các tiêu chí (trong sản xuất, số vốn góp từ 5 triệu lên đến 40 triệu đô la Đài Loan) và phân ngành hẹp hơn nhưng bao quát nhiêù lĩnh vực hơn. Hiện nay, ở Đài Loan, doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có: - Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: có vốn góp dưới 40 triệu đô la Đài Loan (khoảng 1,4 triệu USD) số lao động thường xuyên dưới 300 người. - Trong khai khoáng: Có vốn góp dưới 40 triệu đô la Đài Loan lao động thường xuyên dưới 500 người. Trong thương mại, vận tải và dịch vụ khác: Có tổng doanh thu hàng năm dưới 40 triệu đô la Đài Loan, lao động dưới 50 người. Hàn Quốc: Theo sắc lệnh cơ bản của Hàn Quốc về doanh nghiệp vừa và nhỏ việc phân loại quy mô doanh nghiệp được thực hiện theo hai nhóm ngành: - Trong ngành chế tạo, khai thác, xây dựng: Doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 600.000 USD và số lao động thường xuyên từ 20 - 300 người là doanh nghiệp vừa, số lao động thường xuyên dưới 20 người là doanh nghiệp nhỏ. - Trong thương mại: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có doanh thu dưới 250.000 USD/năm, số lao động dưới 20 người. 2.2. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Như đã nghiên cứu ở mục 1.2, mặc dù việc xác định các tiêu chí được thực hiện rất có hệ thống nhưng có nhiều chỗ vận còn mang tính ước lệ và còn phải đưa ra nhiều trường hợp ngoại lệ. Có rất nhiều điểm khác nhau về các đối tượng, các chủ thể kinh doanh được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thí dụ, có ý kiến cho rằng hộ sản xuất nông nghiệp cũng cần được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ vì nó thoả mãn các tiêu chí đặt ra. Khung pháp luật kinh doanh ở nước ta hiện được coi là vừa thiếu vừa không rõ ràng. Đây chỉ là một thực tế khách quan, chưa thể khắc phục ngay được. Theo pháp luật hiện hành thì nhiều chủ thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn chưa được coi là một doanh nghiệp. Có nghĩa là thuật ngữ doanh nghiệp được dùng để chỉ các chủ thể có đăng ký kinh doanh, tức là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Khi các văn bản quy phạm pháp luật dùng thuật ngữ doanh nghiệp là để chi doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, tức là có đăng ký với cơ quan nhà nước theo quy định. Như vậy, có thể nói, doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất có tư cách pháp nhân, có quy mô doanh nghiệp (tính theo các tiêu thức khác nhau) trong giới hạn nhất định đối với từng giai đoạn cụ thể. Theo định nghĩa này thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam không phân biệt các thành phần kinh tế. Các thành phân kinh tế bao gồm: - Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước. - Công ty cổ phần, công ty TNHH, các doanh nghiệp tư nhân được thành lập và đăng ký hoạt động theo Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ được thành lập và hoạt động và đăng ký hoạt động theo Luật Hợp tác xã. - Các hộ tư nhân và nhóm sản xuất kinh doanh dưới vốn pháp định đăng ký theo Nghị định 66 - HĐBT. Hiện nay trong khu vực DNNN có các tổng công ty 90-91. Các tổng công ty này có các công ty đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập và cũng có thể có quy mô thuộc loại vừa và nhỏ. Vậy có thể coi các công ty thành viên loại này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay không? Xung quanh vấn đề này hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo đa số thì đều cho rằng các công ty đơn vị thành viên này không được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ mặc dù phù hợp với quy định của Chính phủ. Hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng và có lao động dưới 300 người; trong thương mại dịch vụ là những doanh nghiệp có số vốn sản xuất dưới 3 tỷ và số lao động dưới 200 người. Trong đó doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ và lao động dưới 50 người (trong công nghiệp) và dưới 30 người trong thương mại, dịch vụ) là doanh nghiệp nhỏ. Có thể tóm tắt cách phân loại cũng như khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam như sau: Bảng 3: Bảng tóm tắt cách phân loại và khả khái niệm nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Tiêu chí Các yếu tố tác động đến phân loại * Định tính: + Trình độ phát triển kinh tế. - Không có vị thế độc quyền + Giai đoạn phát triển (tính lịch sử) - Chuyên môn hoá thấp + Tính chất ngành nghề - Độ phức tạp của quản lý thấp + Vùng lãnh thổ * Định lượng + Mục đích phân loại - Vốn sản xuất + Vùng lãnh thổ - Lao động + Mục đích phân loại - Doanh thu Doanh nghiệp vừa và nhỏ Lĩnh vực Tiêu chí phân loại Sản xuất công nghiệp + Vốn: dưới 5 tỷ đồng (doanh nghiệp nhỏ dưới 1 tỷ). + Lao động: dưới 300 người ( doanh nghiệp nhỏ dưới 50 người) Thương mại, dịch vụ + Vốn: dưới 3 tỷ đồng (doanh nghiệp nhỏ dưới 1 tỷ đồng). +Lao động: dưới 200 người (doanh nghiệp nhỏ dưới 30 người) Theo cách xác định trên, ở Việt Nam có 88,2% số các doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mọi hình thức, theo tổng điều tra các cơ sở kinh tế năm 2001. Khái niệm nêu trên mới chỉ là những ý kiến bước đầu, nó sẽ hoàn chỉnh hơn cùng với sự phát triển của nền kinh tế. 3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các nghiên cứu gần đây thường nhấn mạnh tầm quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế mỗi quốc gia. Trong thực tế, không ít ngành công nghiệp lớn được hỗ trợ đắc lực bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những sự đóng góp đó thể hiện qua những vai trò sau: 3.1. Đóng góp vào kết quả hoạt động kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Giá trị sản lượng công nghiệp do các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra năm 1999 là 5.315 tỷ đồng, chiếm 26% giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 1999 đạt 29.000 tỷ bằng 78% tổng mức bán lẻ của thị trường xã hội. Theo thống kê, giá trị hàng hoá luân chuyển năm 1999, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã vận chuyển hàng hoá với khối lượng 32,2 triệu tấn chiếm 64% tổng khối lượng hàng hoá lưu chuyển của các địa phương. Kết quả điều tra cho thấy, 51,7% số ý kiến cho rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần tăng trưởng kinh tế. 3.2. Tạo việc làm cho người lao động. Việc làm là vấn đề cấp bách hiện nay ở Việt Nam. Với tốc độ tăng dần số trên 2% hàng năm, năm cả nước có thêm 1 triệu người đến tuổi lao động có nhu cầu việc làm. Đó là chưa kể số người thất nghiệp và bán thất nghiệp do cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Thực tế trong nền kinh tế vừa qua cho thấy, toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước cao nhất cũng chỉ thu hút được khoảng 1,6( Niêm giám thống kê năm 1995 - NXB Thống kê, Hà Nội 1996 ) triệu lao động. Trong khi đó, chỉ riêng kinh tế cá thể trong công nghiệp và thương mại năm 2001 đã thu hút 3,5 triệu lao động, các công ty và doanh nghiệp tư nhân thu hút gần nửa triệu lao động. Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ khoảng 740 ngàn đồng chỉ bằng 3% so với các doanh nghiệp lớn. Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là tạo việc làm và thu hút nhiều lao động với chi phí thấp. Tuy vậy, số lượng lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ chiếm 12% đến 15% lực lượng lao động, so với các nước trong khu vực chỉ tiêu này là 50 - 60%. Như vậy tỷ lệ thu hút lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn quá thấp, tiềm năng của các doanh nghiệp này chưa được phát huy đầy đủ. 3.3. Thu hút vốn. Vốn là nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế của cả nước cũng như với từng doanh nghiệp. Nhờ có vốn mới có thể kết hợp được với các yếu tố khác như lao động, đất đai, công nghệ và quản lý. Thực tế cho thấy, để đầu tư một chỗ làm việc ở Việt Nam trung bình phải mất 5-10 triệu đồng tiền vốn. Vốn có vai trò lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề... cũng như trong việc mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên, một nghịch lý hiện nay là các doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng trong khi vốn trong dân còn tiềm ẩn nhưng không huy động được. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đầu tư chưa thật thuận lợi và không ổn định. Trong tình hình đó, chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ là người trực tiếp tiếp xúc với người cho vay, gây được niềm tin nên có thể huy động được vốn. Mặt khác chính chủ của các nguồn vốn tiềm ẩn đó cũng chính là chủ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 3.4. Làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn. Do số doanh nghiệp tăng lên rất lớn, nên làm tăng tính cạnh tranh giảm bớt rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời làm tăng số lượng và chủng loại hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế. Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tác dụng làm tăng hiệu quả của các doanh nghiệp lớn: làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn giúp tiêu thụ hàng hoá cung cấp các đầu vào, thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà các doanh nghiệp lớn không với tới được. Một điều quan trọng là, vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó phần lớn là khu vực tư nhân, chủ yếu chỉ đầu tư vào các ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao. Do vậy việc tăng các cơ sở này càng làm tăng hiệu quả hơn cho nền kinh tế trong tương lai gần. Tuy nhiên, cần lưu ý nếu những doanh nghiệp có quy mô quá nhỏ thì hiệu quả kinh tế khó tăng lên được. 3.5. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này có ý nghĩa lớn đối với khu vực nông thôn. Nó giúp phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xoá dần tình trạng thuần nông và độc canh, chuyển dịch cơ cấu nông thôn. Hơn nữa, sự phát triển mạnh của các doanh nghiệp này cũng làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi: Các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp và củng cố lại. - Cơ cấu ngành: Phát triển nhiều ngành nghề da dạng, phong phú (cả ngành nghề hiện đại lẫn truyền thống) theo hướng lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. - Cơ cấu lãnh thổ: Các doanh nghiệp phân bổ đều hơn về lãnh thổ. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong vấn đề hoạch định chính sách. 4. Đặc điểm của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ có ảnh hưởng đến quá trình hoạch định chính sách đối với các doanh nghiệp này. Tình trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay có nguyên nhân sâu xa từ lịch sử cũng như mô hình kinh tế cũ tác động. Dưới đây là một số đặc điểm cần tính đến trong việc hoạch định chính sách: 4.1. Về số lượng và cơ cấu theo ngành của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo tiêu chí về vốn nêu ở phần trên (doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có tổng số vốn dưới 5 tỷ đồng) thì có 20916 trên tổng số 23708 doanh nghiệp được điều tra trong cuộc Tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp tiến hành năm 2001, là loại doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 88,2% tổng số doanh nghiệp. Trong đó đối với khu vực doanh nghiệp trong nước thì tỷ lệ này là 89,5% và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 33,6%. Như vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là doanh nghiệp có nguồn vốn trong nước. Xu hướng này nhìn chung cũng không có thay đổi gì lớn trong các năm 2002 trở lại đây. Theo tiêu chí về tổng vốn kinh doanh thì số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ theo các loại hình và thành phần kinh tế như sau: Bảng 4: Tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các loại hình doanh nghiệp. Loại hình doanh nghiệp Tỷ lệ (%) 1. Khu vực doanh nghiệp nhà nước 65.9 2. Khu vực doanh nghiệp nhà nước địa phương 74.6 3. Khu vực doanh nghiệp nhà nước trung ương 47.8 4. Khu vực kinh tế tập thể 97.4 5. Khu vực doanh nghiệp tư nhân 99.4 6. Khu vực công ty cổ phần 42.3 7. Khu vực công ty TNHH 94.6 8. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 33.6 9. Tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong toàn bộ số lượng doanh nghiệp 88.2 Nguồn: Tính toán theo kết quả Tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2001. NXB thống kê, Hà nội 2002. Trên đây là phân loại theo tổng vốn. Nếu lấy quy mô lao động dưới 200 người để xác định thì 96% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam (kể cả doanh nghiệp có vốn nước ngoài) đều thuộc loại vừa và nhỏ. Như vậy có thể nói một cách tổng quát là khoảng 80-90% doanh nghiệp ở Việt Nam thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ xét theo cả hai tiêu chí. Tỷ lệ này trong các ngành và cá thành phần kinh tế không giống nhau. Mặc dù số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số doanh nghiệp, nhưng theo tính toán dựa theo số liệu của cuộc tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp thì toàn bộ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ của cả nước chỉ chiếm 20% tổng số vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh chỉ chiếm 52% tổng vốn kinh doanh của cả khu vực này. 4.2. Vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay gặp phải khó khăn thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, tình trạng thiếu vốn không phải mọi doanh nghiệp đều giống nhau và đều được phản ánh chính xác. Nhiều doanh nghiệp phản ánh là thiếu vốn nhưng khi được yêu cầu trình bày sử dụng vốn cho mục đích cụ thể nào thì doanh nghiệp không thể giải đáp được. Việc cung ứng vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay được đánh giá là chủ yếu được thực hiện qua thị trường tài chính phi chính thức. Các chủ doanh nghiệp thường vay vốn của nhân thân, bạn bè và vay của những người chuyên cho vay lấy lãi. Hầu như các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, không tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân trong đó có thể nêu ra một số nguyên nhân sau: - Hệ thống ngân hàng kể cả hệ thống tài chính trung gian, kém phát triển không tiếp cận được với cầu tín dụng. - Bản thân doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng đáp ứng được đòi hỏi của ngân hàng về các thủ tục như lập dự án, thủ tục thế chấp. 4.3. Về phân bố doanh nghiệp vừa và nhỏ theo vùng lãnh thổ. Trong những năm đổi mới, hàng loạt doanh nghiệp mới ra đời, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại thông qua sáp nhập, giải thể hoặc đóng cửa. Tình hình này tác động rất lớn đến tình trạng phân bổ các doanh nghiệp trong cả nước trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Các vùng đô thị, gần thị trường tiêu thụ và các trung tâm công nghiệp là những nơi thuận tiện cho việc ra đời các doanh nghiệp mới. ở các vùng nông thôn nơi các làng nghề bị mai một trong những năm qua, nay được chính sách đổi mới tác động nên nhiều doanh nghiệp với các loại hình khác nhau ra đời góp phần duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động thừa ở địa phương. - Nhờ vào chính sách mở cửa đối với đầu tư nước ngoài nên có nhiều doanh nghiệp liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam. Các doanh nghiệp này chủ yếu tập trung ở nơi có điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật tốt hơn và lực lượng lao động có trình độ cao hơn. (Xem bảng sau). Bảng 5: Phân bố doanh nghiệp theo vùng: Đơn vị: số doanh nghiệp. Vùng Số DNNN địa phương Số DN ngoài quốc doanh ( Chỉ kể 3 loại hình doanh nghiệp là hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, và Công ty ) Số DN có vốn nước ngoài Ước tính số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong từng khu vực Khu vực DNNN địa phương Khu vực ngoài quốc doanh Khu vực có vốn nước ngoài Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ Tổng % 1. Vùng núi và trung du 653 909 17 487 885 6 1378 7.0 2.Đồng bằng Sông Hồng 996 2928 202 743 2771 68 3582 18.1 3. Khu bốn cũ 522 690 7 389 671 2 1062 5.4 4. Duyên hải miền trung 452 1685 45 337 1648 15 2000 10.1 5. Tây Nguyên 175 501 13 130 490 4 624 3.2 6. Đông Nam Bộ 684 5803 380 510 5549 128 6187 31.3 7. Đồng bằng Sông Cửu Long 451 4627 28 336 4579 9 4924 24.9 Tổng 19757 100 Nguồn: tính toán dựa theo kết quả Tổng điề._.u tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2001. NXB Thống kê 2002. 4.4. Về công nghệ thiết bị của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trình độ công nghệ, thiết bị máy móc của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ không nằm ngoài tình trạng chung về công nghệ, trang thiết bị máy móc của khu vực doanh nghiệp nhà nước, thậm chí chúng còn lạc hậu hơn. Mặt khác, tỷ lệ đổi mới trong thiết bị này cũng rất thấp, ngay cả trong những năm tăng trưởng cao. Nói tóm lại, trang thiết bị và công nghệ rất lạc hậu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho giá thành cao, chất lượng và năng suất thấp, hạn chế tới khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là đối với thị trường hàng hoá nhập khẩu. 4.5. Về thị trường và khả năng cạnh tranh. Việt Nam là một thị trường lớn, mức độ yêu cầu về chất lượng và dịch vụ chưa cao, nhất là ở nông thôn nơi cư trú khoảng 80% dân số cả nước. Đó là thị trường tiềm năng rất lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, hiện tại thị trường Việt Nam đang bị ảnh hưởng rất lớn của hàng hoá nhập lậu. Nạn nhập lậu hàng hoá nhất là hàng hoá tiêu dùng, tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì đó là thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khác với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ nhìn chung không thể đủ lực để hạ giá hàng nhằm cạnh tranh lại với hàng nhập lậu trong thời gian ngắn để giành lại thị trường. Mặt khác, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ta còn rất yếu do nhiều nguyên nhân do cả công nghệ, thiết bị lạc hậu, lẫn do sự hạn chế về trình độ quản lý và kinh doanh trên thị trường. 4.6. Về lao động và đội ngũ cán bộ quản lý của doanh nghiệp vừa và nhỏ. ( Trong mục này không có dầy đủ số liệu đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực ngoài quốc doanh, nên số liệu dùng sau đây sẽ không ảnh hưởng tới kết quả phân tích. ) Lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là kinh doanh phổ thông, ít được đào tạo thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Số liệu điều tra cho thấy: chỉ có 5,13% ( Kinh tế quốc doanh thời mở cửa 1991 - 1995. NXB Thống kê, Hà Nội ) lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong đó chủ yếu tập trung vào các Công ty TNHH, Công ty cổ phần (hơn 80%). Phần lớn các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh các doanh nghiệp mới được thành lập trong những năm gần đây chưa được đào tạo. Trong số các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì 42,7% là những người đã từng là cán bộ công nhân viên chức nhà nước. Trên 60 % số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tuổi trên 40. Khoảng 48,4% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có bằng cấp chuyên môn và chỉ có 31,2% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có trình độ từ cao đẳng trở lên. Có thể nói, con số nêu trên là rất thấp so với các nước trong khu vực, nên tình hình quản lý nói chung là hạn chế, thiếu kiến thức quản trị kinh doanh và luật pháp, thiếu kinh nghiệm là điều không thể tránh khỏi. II. Tổng quan về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. 1. Lý luận chung về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong phần này ta xem xét chính sách theo góc độ là một công cụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm mục tiêu ổn định phát triển kinh tế hay là một công cụ quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. Vậy, chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một trong những chính sách kinh tế - xã hội (chính sách công). Theo quan điểm phổ biến, chính sách là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Xét theo nghĩa rộng, chính sách kinh tế xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế xã hội nhằm giải quyết các vấn đề chính sách, nhằm mục tiêu phát triển lâu dài của đất nước. 1.1. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là tổng thể các quan điểm tư tưởng mục tiêu và giải pháp của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế lâu dài của đất nước ( Trường đại học KTQD - Khoa Khoa học quản lý - Giáo trình chính sách kinh tế xã hội, H.2000 ). Các quan điểm tư tưởng phát triển đất nước ta hiện nay là: - Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội. - Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. - Tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. - Tiến hành đa dạng hoá, đa phương hoá cá mối quan hệ đối ngoại. - Lấy giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ làm quốc sách hàng đầu. - Gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. - Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách công bằng xã hội. Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng cũng như chính sách kinh tế xã hội nói chung đều có mục tiêu tổng quát là: từ nay đến khoảng năm 2020 là căn bản trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh ( Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII cuả Đảng CSVN - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1996 ). Đây là khái niệm khá cơ bản về chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các giải pháp cụ thể của chính sách này sẽ được nghiên cứu ở phần sau. 1.2. Nội dung của chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xét về lâu dài, chính sách có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các chính sách tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm: - Các chính sách vĩ mô (tài chính tiền tệ, đầu tư, công nghiệp, thương mại, việc làm thu nhập) tác động tới toàn bộ nền kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Các chính sách đặc thù hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ như: + Tín dụng. + Hỗ trợ kỹ thuật công nghệ thiết bị. + Đào tạo nguồn nhân lực. + Chính sách thị trường lao động, thị trường sản phẩm. + Liên kết với các công ty lớn. + Phát triển có sở hạ tầng. + Hỗ trợ xuất khẩu. + Chính sách về bảo vệ môi trường. Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết này “chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ” chủ yếu tập trung vào chính sách thuế, vốn, đào tạo, công nghệ. Các chính sách này sẽ được đánh giá xem xét kỹ hơn ở chương sau: 2. Cơ chế và mô hình hỗ trợ ở Việt Nam. 2.1. Một số vấn đề chung về cơ chế và mô hình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi nói đến chính sách thì không thể nói tới cơ chế và mô hình hỗ trợ vì chính sách là một trong những công cụ hỗ trợ rất đắc lực về dài hạn. Nói đến cơ chế và mô hình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói đến mục đích, nội dung, phương pháp và công cụ hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ này. ở nhiều nước, cơ chế và mô hình có một số điểm giống nhau, nhưng có nhiều điểm rất khác nhau do điều kiện, mục tiêu, trình độ phát triển của các nước là khác nhau. Những điểm chung đó là: * Mục tiêu hỗ trợ: chủ yếu là nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát huy được vai trò, tiềm năng vốn có của chúng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội mà nếu chỉ riêng các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì không thể giải quyết nổi. * Nội dung hỗ trợ: bao gồm những vấn đề hết sức thiết thực đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh nghiệp này tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi như: - Có quan điểm, chiến lược, chính sách cởi mở để khuyến khích các doanh nghiệp này phát triển. - Hỗ trợ tạo lập môi trường kinh doanh: Thông tin, cơ sở hạ tầng, thị trường, môi trường xã hội an toàn. - Hỗ trợ cac yếu tố đầu vào như vốn, công nghệ, lao động quản lý. - Hỗ trợ các yếu tố đầu ra liên quan đến tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. * Phương pháp hỗ trợ: có thể bằng phương pháp hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua môi trường. - Phương pháp hỗ trợ trực tiếp: Đơn giản hoá các thủ tục cấp giấy phép, cấp vốn trực tiếp, cung cấp mặt bằng sản xuất kinh doanh, cung cấp thông tin, cơ sở hạ tầng... - Phương pháp gián tiếp: Chủ yếu là hỗ trợ gián tiếp thông qua cơ chế chính sách tác động vào môi trường kinh doanh để điều chỉnh hoạt động doanh nghiệp: ổn định chính trị xã hội, tạo lập thị trường, khuyến khích thành lập các hội nghề nghiệp, các trung tâm hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân lực, miễn giảm thuế, hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới thành lập được vay vốn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hợp tác liên doanh với nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước... * Công cụ hỗ trợ: thông qua các công cụ quản lý nhà nước như chiến lược, pháp luật, kế hoạch quy hoạch, chính sách, bộ máy... Hiện nay, cơ chế và mô hình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nhiều nước theo các hướng chính sau: - Hỗ trợ theo cơ chế kinh doanh (có vay có trả) hơn là cho không, vì việc bao cấp cho không thường gây ra tâm lý trông chờ, ỷ lại và đặc biệt là dùng các nguồn vốn đó kém hiệu quả. Chẳng hạn, áp dụng cho vay vốn lãi suất thấp hoặc trợ cấp lãi suất thay cho việc cấp vốn không lãi suất, hoặc cấp vốn không hoàn lại. - Hỗ trợ gián tiếp nhiều hơn trực tiếp: Nhằm tạo lập cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng xử theo cơ chế thị trường. - Hỗ trợ công khai và rõ ràng, tránh độc đoán, sách nhiễu, hối lộ. - Phân quyền công khai cho địa phương nhiều hơn là tập trung vào nhà nước trung ương, tăng cường các tổ chức phi chính phủ (hội nghề nghiệp, các công ty tư vấn tư nhân) v.v... - Bao quát tất cả nền kinh tế hơn là chính sách theo thành phần, nhóm doanh nghiệp. Chỉ nên có một số chính sách riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng đặt trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. - Đề cao vai trò của cộng đồng và chính sách đào tạo nguồn nhân lực. 2.2. Cơ chế và mô hình hỗ trợ ở Việt Nam. ở Việt Nam, cơ chế và mô hình được đổi mới cùng với việc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. So với trước đây, nhiều vấn đề về cơ chế hỗ trợ đã thay đổi căn bản. Dưới đây là một số khác biệt giữa cơ chế hỗ trợ trong mô hình kinh tế cũ và cơ chế hiện nay. Bảng 6: Sự khác biệt giữa cơ chế hỗ trợ trong mô hình kinh tế cũ và cơ chế hiện nay. Cơ chế hỗ trợ hiện nay Cơ chế bảo hộ trước đây Mục tiêu Khai thác mọi tiềm năng của các thành phân kinh tế để phát triển kinh tế xã hội đất nước. Phát triển khu vực DNNN quy mô vừa và lớn Đối tượng Các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế Các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã Nội dung Hỗ trợ một số khâu quan trọng mà doanh nghiệp cần Hỗ trợ mọi mặt từ đầu vào đến đầu ra Phương pháp Kết hợp cả phương pháp trực tiếp và gián tiếp nhưng gián tiếp là chủ yếu thông qua môi trường Cung cáp các đầu vào một cách trực tiếp, giúp tiêu thụ các sản phẩm đầu ra Công cụ Chiến lược, chính sách và bộ máy điều hành Chủ yếu bằng kế hoạch phân bổ vật tư Tuy nhiên, do mới chuyển sang kinh tế thị trường, nên cơ chế và mô hình hỗ trợ một mặt chịu ảnh hưởng lớn của tư duy theo cơ chế cũ, mặt khác, chưa thật phù hợp với điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Quy trình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo các bước: trên cơ sở quan điểm, đường lối (trong một số trường hợp cả chiến lược phát triển) của Đảng, Nhà nước thể chế hoá thành luật và các văn bản dưới luật (tạo khung pháp lý, chính quyền các cấp triển khai thực hiện. Điểm khác biệt lớn trong cơ chế và mô hình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là có sự phân biệt giữa hai nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ: doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài khu vực quốc doanh. * Quan điểm chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Từ đại hội VI của Đảng (1986) đến nay, với việc xoá bỏ cơ chế cũ, hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước heo định hướng XHCN đã thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển mạnh, nhất là khu vực kinh tế tư nhân. Nhờ đó, đối tượng quản lý của Nhà nước đã thay đổi căn bản. Hay việc hỗ trợ các doanh nghiệp không chỉ các doanh nghiệp nhà nước mà còn cả các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Hơn nữa, trong chính sách kinh tế đã chú ý tới hiệu quả kinh tế, không quá chú trọng tới quy mô doanh nghiệp lớn như trước đây và việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là chiến lược kinh tế lâu dài trong sự đan xen với doanh nghiệp lớn. Nghị quyết 16 (1988) của Bộ Chính trị nêu rõ: “Nhà nước và xã hội ủng hộ và khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả và hợp pháp”. Điều quan trọng nhất trong quan điểm hỗ trợ ở thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới là “cởi trói” cho các doanh nghiệp để cho các doanh nghiệp được phép kinh doanh. Hiện nay, quan điểm hỗ trợ chủ yếu là làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển ngày càng tiên tiến, hiện đại và kinh doanh có hiệu quả. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khoá VII) chủ trương: “Phát triển các loại hình doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư ít, tỷ suất sinh lời cao, thời gian thu hồi vốn nhanh”. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khoáVII). Tuy vậy, trong quan điểm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ và việc thực hiện các quan điểm này trên thực tế còn một số hạn chế: - Trong các quy định chính thức, quan điểm hỗ trợ khẳng định việc bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhưng trên thực tế việc triển khai các quyết định đó ở các địa phương vẫn còn sự phân biệt đối xử thiếu bình đẳng. - Chưa xác định rõ đối tượng cần hỗ trợ trong số các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn. - Mặc dù đã chú ý đến hỗ trợ theo ngành nghề và địa phương, nhưng vẫn còn thiếu những giải pháp cụ thể. - Chưa có quan điểm rõ nét về hỗ trợ theo quy mô: giúp các doanh nghiệp yếu vươn lên. * Khung pháp lý: Trên cơ sở những định hướng lớn của Đảng, trong thời gian qua, Nhà nước dã tiến hành tạo lập khung pháp lý cần thiết cho các doanh nghiệp hoạt động. Mới đầu là một số Nghị định của Chính phủ nhằm khuyến khích các khu vực ngoài quốc doanh (chủ yêú là quy mô nhỏ) như các Nghị định 27, 28, 29/HĐBT về kinh tế tư nhân, cá thể, hợp tác xã và kinh tế gia đình; Nghị định 66/HĐBT về hộ kinh doanh dưới vốn pháp lý. Nhà nước đã ban hành các luật liên quan tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ như Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Hợp tác xã, Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp nhà nước, các luật thuế...Tuy còn thiếu nhiều luật đặc biệt là các luật bảo vệ lợi ích và khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động. Tuy nhiên, khung pháp lý đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế: - Hệ thống pháp luật đang trong quá trình đổi mới nên chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu những đạo luật quan trọng để tạo khung pháp lý cần thiết cho hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. - Trong các luật đã ban hành vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Ví dụ: Pháp nhân trong Luật Công ty được quy định chưa rõ. Luật Doanh nghiệp tư nhân quy định thủ tục thành lập quá rườm rà, phải qua nhiều khâu. - Chưa có cơ sở pháp lý quy định khuôn khổ tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ do đó có nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho quản lý và thực hiện chính sách hỗ trợ. - Luật và các văn bản dưới luật còn mang nặng tính hành chính hơn là tạo ra một hành lang rộng để khuyến khích các doanh nghiệp phát huy hết khả năng sáng tạo trong kinh doanh. - Quy trình soạn thảo luật chưa hợp lý: Chủ yếu do các cơ quan chức năng của Chính phủ soạn thảo chưa quan tâm đúng mức tới việc trưng cầu ý kiến của các doanh nghiệp. Việc soạn thảo các văn bản pháp lý chưa thực sự gắn với thực tế của doanh nghiệp và chưa kiểm nghiệm đầy đủ trước khi đưa ra thi hành. Do đó có nhiều luật vừa ban hành thì đã phải sửa đổi. - Còn thiếu những điều khoản thiết yếu về khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số các văn bản pháp lý nói trên, chỉ mới có một số điều khoản khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong luật khuyến khích đầu tư trong nước và một số luật thuế. - Mức độ khuyến khích còn rất hạn chế (chẳng hạn mức độ miễn thuế trong Luật Khuyến khích đầu tư trong nước chỉ có 1 - 2 năm đối với các doanh nghiệp mới thành lập, trong khi ở nhiều nước có thể tới 5 - 7 năm); đối tượng được miễn giảm thuế còn rất hạn chế (chỉ có các doanh nghiệp mới thành lập ở vùng xa, các doanh nghiệp chế biến nông sản...). - Hiện có nhiều luật cùng điều chỉnh một nhóm đối tượng giống nhau. Nhiều văn bản luật không còn phù hợp nhưng chưa được rà soát sửa đổi kịp thời, nhất là Luật Thuế, Luật Đất đai, nhiều văn bản trái pháp luật (nhất là văn bản của các địa phương). Việc thực thi pháp luật chưa nghiêm và xử lý vi phạm còn thiếu nghiêm minh đã dẫn tới tình trạng kinh doanh thiếu lành mạnh, rối loạn. Kết quả điều tra cho thấy: 52,9% những người được hỏi ý kiến cho rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chấp hành pháp luật không nghiêm. 3. Những lợi ích của chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sở dĩ Nhà nước cần phải hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ là xuất phát từ vai trò của các doanh nghiệp này cũng như những lợi ích của chính sách hỗ trợ đem lại là rất lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như cho chính Nhà nước và xã hội. 3.1. Những lợi ích của chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lý do chính để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trước hết là do vai trò to lớn của chúng trong nền kinh tế. Đó là: - Thu hút nhiều lao động, tăng cơ hội tìm việc làm với chi phí thấp. - Tăng thu nhập dân cư, góp phần giảm khoảng cách giàu nghèo. - Thu hút vốn nhàn rỗi trong dân vào sản xuất kinh doanh. - Gieo mầm cho các tài năng kinh doanh. - Làm cho nền kinh tế hiệu quả và năng động. Các doanh nghiệp này quá yếu ớt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khố liệt với những hạn chế: năng lực quản lý yếu, công nghệ lạc hậu, vốn ít... Do đó, để các doanh nghiệp này phát huy được vai trò của mình, cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Hơn nữa có nhiều vấn đề mà các doanh nghiệp không thể tự giải quyết được như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường, đào tạo nhân lực... Ngoài ra còn nhiều ưu điểm khác nếu được sự hỗ trợ của nhà nước sẽ làm giảm bớt những khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và phát triển thuận lợi. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ đứng vững vươn lên, Nhà nước cần có chính sách và các giải pháp hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp này. 3.2. Lợi ích của chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với Nhà nước và xã hội. Thực tế của nhiều nước cho thấy, sự hỗ trợ không chỉ có lợi đối với các doanh nghiệp mà còn có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó thể hiện trên các mặt: - Trước hết, sự hỗ trợ các doanh nghiệp là cách thức để nuôi dưỡng các nguồn thu cho ngân sách nhà nước. - Hỗ trợ doanh nghiệp là một cách thức đầu tư gián tiếp của nhà nước. Thay vì Nhà nước phải đầu tư trực tiếp để thành lập mới các doanh nghiệp nhà nước (như mô hình kinh tế hiện vật trước đây) bằng việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp đã thành lập từ trước, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh). - Thông qua chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển sản xuất sẽ hiệu quả hơn vì nó vừa huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân, vừa thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước. - Bằng việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước cũng có thể giải quyết được những vấn đề xã hội như thất nghiệp (bất kỳ đất nước nào cũng phải đương đầu), tạo việc làm rất hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của Nhà nước (thay vì thành lập mới các DNNN, thì với số vốn đó có thể hỗ trợ cho rất nhiều doanh nghiệp đã có sẵn). - Ngoài ra, Nhà nước có thể thông qua chính sách hỗ trợ để định hướng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tóm lại, việc Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như chính Nhà nước. Chương II Thực trạng chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam I. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. 1. Quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam theo nhiều nguồn khác nhau: - Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, tồn tại và phát triển từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung. - Các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập trong cơ chế cũ (các doanh nghiệp nhà nước Trung ương và địa phương). - Mới thành lập trong thời kỳ đổi mới cơ chế: do sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh, thành lập theo các luật ban hành từ 1996,... Quá trình phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ diễn ra theo nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau. Thời kỳ khôi phục kinh tế trước 1960, Việt Nam thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, nhưng số doanh nghiệp lúc bấy giờ còn rất ít, chủ yếu là các cơ sở tiểu thủ công nghiệp. Từ đầu năm 1960 đến 1986, hình thức doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và hộ kinh tế cá thể. Trong đó có các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã được khuyến khích phát triển. Sau khi thống nhất đất nước (1975), riêng trong công nghiệp, cả nước có 1.913 xí nghiệp và công tư hợp doanh (miền Bắc có 1.279, niềm Nam có 634 xí nghiệp) với 520 ngàn cán bộ, công nhân, trong số đó phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sau hơn 10 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, đến 1985, số xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh trong công nghiệp lên tới 3.220 xí nghiệp, số hợp tác xã và tổ hợp tiểu thủ công nghiệp lên tới 29.971 cơ sở, khu vực tư nhân, cá thể chỉ còn 1.951 cơ sở. Từ 1986 đến nay, với chính sách đổi mới kinh tế, các thành phần kinh tế chính thức được thừa nhận và được hoạt động lâu dài. Tiếp đó, một loạt văn kiện ra đời: Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị (1988), Nghị định 27, 28, 29/HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình, Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định; và các luật: Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước... đã tạo cơ sở pháp lý và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực sự được quan tâm và khuyến khích phát triển. Thời gian qua, mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã giảm mạnh, nhưng tính chung trong toàn nền kinh tế, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên nhanh chóng. Tính riêng trong công nghiệp, số doanh nghiệp nhà nước giảm liên tục từ 3.141 (1986) xuống 2.002 (2000). Số lượng hợp tác xã giảm mạnh, từ 37.649 cơ sở (1986) xuống còn 13.086 (1996) và 1.199 cơ sở (2001) . Trong khi đó, khu vực tư nhân trong công nghiệp (cả hình thức doanh nghiệp và công ty) tăng rất nhanh: từ 567 doanh nghiệp (1986) trên 959 doanh nghiệp (1997) và 6.311 doanh nghiệp (2001). (Xem bảng) Bảng 7: Số lượng các doanh nghiệp công nghiệp Năm Doanh nghiệp quốc doanh Ngoài quốc doanh Trung ương HTX Tư nhân Hộ cá thể 1996 2.762 589 13.086 770 376.900 1997 2.599 546 8.829 959 446.771 1998 2.268 537 5.723 1.114 368.000 1999 2.030 522 5.287 3.322 452.866 2000 2.002 528 1.648 4.909 493.046 Nguồn: Niên giám thống kê 2001. NXB Thống kê, Hà Nội 2002 tr 196, 389. Cùng theo xu hướng dịch chuyển như trên, từ năm 2001 trở lại đây, số doanh nghiệp nhà nước cũng giảm liên tục từ 1.973 doanh nghiệp xuống còn 1.786 doanh nghiệp (2005). Số lượng doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh tăng từ 612.977 doanh nghiệp (2001) lên tới 615.453 doanh nghiệp (2005). Còn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh hơn từ 239 doanh nghiệp (2001) lên đến 959 doanh nghiệp (2005). (Xem số liệu) Bảng số 8: Số cơ sở sản xuất công nghiệp phân theo khu vực và thành phần kinh tế Năm Tổng số Chia ra Khu vực DNNN Ngoài quốc doanh Đầu tư trực tiếp nước ngoài 2001 615.389 1.973 612.977 439 2002 626.129 1.879 623.710 540 2003 617.805 1.843 615.296 666 2004 592.948 1.821 590.240 881 2005 618.198 1.768 615.453 959 Nguồn: Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1997 - 2006. Tổng cục thống kê, Hà Nội 2/2007 tr 140. Trong toàn bộ nền kinh tế, số lượng doanh nghiệp phân theo hình thức tổ chức sản xuất thuộc các thành phần kinh tế. (Xem bảng sau) Bảng 9: Số doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế đến 1 - 7 -2001 Loại hình doanh nghiệp Trong toàn bộ nền kinh tế Chia ra CN, XD Thương nghiệp, KS Ngành khác Tổng số doanh nghiệp 23.411 11.299 10.277 1.905 Doanh nghiệp nhà nước 5.962 3.291 1.849 822 Doanh nghiệp tập thể 1.810 1.199 282 329 Doanh nghiệp tư nhân 10.818 4.568 5.918 332 Công ty cổ phần 138 51 30 57 Công ty TNHH 4.015 1.697 2.063 260 Doanh nghiệp vốn nước ngoài 668 428 135 105 Kinh tế cá thể 1.882.798 707.053 940.994 243.751 Nguồn: Niên giám thống kê, 2001, NXB Thống kê, Hà Nội 2001, tr 389. Số liệu thống kê 2001 cho thấy, trong tất cả nền kinh tế quốc dân, bình quân một doanh nghiệp có 434 triệu đồng vốn, 87 lao động. Đối với kinh tế cá thể, lao động bình quân một cơ sở là 1,7 người. Nếu xét theo ngành nghề, hình thức tổ chức, sở hữu thì tình hình các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thể hiện như sau: (Xem thêm bảng sau) Bảng 10: Một số chỉ tiêu của doanh nghiệp nhà nước theo quy mô vừa và nhỏ năm 2001. Phân theo nguồn vốn Số doanh nghiệp Bình quân một doanh nghiệp Số lượng Tỷ lệ (%) Vốn (tỷ đồng) Lao động (người) Tổng số 6.544 100 6,9 278 <1 tỷ 3.266 49,9 0,4 96 1-5tỷ 2.281 34,9 2,3 239 Tổng số 2.271 100 9,6 327 <1 tỷ 1.055 46,4 0,4 101 1-5tỷ 845 37,2 2,3 247 Tổng số 1.774 100 5,3 149 <1 tỷ 844 47,6 0,4 59 1-5tỷ 582 32,8 2,4 150 Nguồn: Tổng cục thống kê. - Doanh nghiệp nhà nước: vốn bình quân một doanh nghiệp là 6,9 tỷ đồng, lao động bình quân một doanh nghiệp là 279 người. Số liệu thống kê cho thấy hơn 84,8% doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ, riêng quy mô nhỏ là 49,9%. - Khu vực kinh tế tư nhân: Các chỉ số nói trên thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp nhà nước. Số liệu thống kê bảng sau của Tổng cục thống kê cho thấy: Quy mô trung bình của một doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh (công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã) là 31,3 lao động, 1.116,5 triệu đồng vốn kinh doanh. Trong đó, số lao động bình quân một doanh nghiệp cao nhất là hợp tác xã (102 người), thấp nhất là doanh nghiệp tư nhân (gần 112 người). Vốn kinh doanh thực tế bình quân một doanh nghiệp: cao nhất là công ty cổ phần (32,2 tỷ đồng) và thấp nhất là doanh nghiệp tư nhân (211 triệu đồng). Bảng 11: Lao động, vốn trung bình một doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh 2000 Tính chung Công ty TNHH Công ty cổ phần Doanh nghiệp tư nhân Hợp tác xã Số lao động (người) 31,3 33 56 10,6 102 Vốn thực tế (triệu đồng) 1.165,5 1.498,1 32.177 211,1 757,2 Nguồn: Tổng cục thống kê. 2. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ. 2.1. Về sản lượng. Theo đánh giá của một số chuyên gia, sản lượng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng khoảng 60 - 99% trong giá trị tổng sản lượng trong tất cả các lĩnh vực và thành phần kinh tế. Trong công nghiệp, tỷ trọng sản lượng của các doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và nhỏ chiếm khoảng 60% tổng sản lượng công nghiệp. Đối với khu vực ngoài quốc doanh, con số này khoảng 99%. 2.2. Tốc độ phát triển sản xuất. Tốc độ phát triển sản xuất thể hiện bằng tốc độ phát triển giá trị tổng sản lượng. Riêng trong công nghiệp, tốc độ phát triển sản xuất mỗi năm từ 2001 đến 2006 tăng 13,5%. (Xem bảng). Bảng 12: Chỉ số phát triển giá trị sản xuất công nghiệp phân theo khu vực và thành phần kinh tế. Năm Tính chung Chia ra Khu vực DNNN Ngoài quốc doanh Đầu tư trực tiếp nước ngoài 2001 114,5 114,9 116,9 108,8 2002 141,1 111,6 111,5 121,7 2003 113,8 110,8 109,5 123,2 2004 112,5 107,7 107,5 124,4 2005 111,6 105,4 110,9 121,6 2006 115,7 112,1 118,3 118,6 2002-2006 113,5 109,5 111,5 121,8 Nguồn: Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1997 - 2006. Tổng cục thống kê, Hà Nội 2/2007 tr 152. Tuy sản lượng các doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh, nhưng giá trị tổng sản lượng của chúng lại tăng 9,5% mỗi năm. Còn các khu vực khác thì tăng mạnh hơn, đặc biệt là khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhìn chung, sự phát triển của các khu vực kinh tế vẫn chủ yếu theo chiều rộng (tăng giá trị chủ yếu là tăng số doanh nghiệp). Sự đầu tư phát triển theo chiều sâu còn nhiều hạn chế. Theo số liệu thống kê, mức độ phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế không cao: 59% số doanh nghiệp không tăng quy mô vốn sản xuất, chỉ có 6,2% số doanh nghiệp tăng quy mô vốn gấp đôi. Mức độ phát triển theo chiều sâu của khu vực ngoài quốc doanh (chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) lại càng thấp hơn. Gần 70% doanh nghiệp tư nhân và 61% số hợp tác xã không tăng quy mô vốn. (Xem bảng sau) Bảng 13: Mức độ tăng quy mô vốn theo loại doanh nghiệp những năm 2001 - 2002. Đơn vị: % Tổng số Mức độ phát triển so với trước Như cũ Mở rộng dưới 1,5 lần Mở rộng dưới 1,5-2 lần Mở rộng > 2 lần Toàn bộ nền KT 100 59 27,7 8,7 4,6 Công nghiệp 100 51,6 30,0 12,2 6,2 Ngoài quốc doanh Công ty TNHH 100 44,79 35,31 12,38 7,51 Công ty cổ phần 100 22,45 24,49 33,67 19,39 Doanh nghiệp tư nhân 100 69,95 22,39 5,49 2,17 Hợp tác xã 100 61,09 26,51 7,96 4,44 Nguồn: Kinh tế ngoài quốc doanh thời mở cửa 1997 - 2001. NXB Thống kê. Hà Nội, 2002. 2.3. Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế so với với các doanh nghiệp quy mô lớn. Nó được thể hiện trong tất cả các ngành kể cả công nghiệp hay thương mại và trong tất cả các thành phần kinh tế từ khu vực nhà nước đến khu._. thực hiện các chức năng rất hạn chế như thu thuế, kiểm tra ô nhiễm môi trường... Tuy nhiên, trên thực tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại có quá nhiều đầu mối "quản": các cơ quan chính quyền, các tổ chức xã hội, thậm chí cả cá tổ chức đoàn thể ... gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó đã đến lúc cần thành lập cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, cơ quan này là đầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp, có chức năng chủ yếu là : - Giúp Nhà nước hoạch định chiến lược và chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Nắm bắt tình hình nguyện vọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, dự báo xu hướng phát triển. - Cung cấp thông tin cần thiết về chính sách, thị trường, công nghệ, lao động... cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Thực hiện các chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về các mặt như chuyển giao công nghệ, đào tạo chủ doanh nghiệp, hỗ trợ vốn... - Xúc tiến hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tìm kiếm các đối tác trong nước và ngoài nước, giúp các doanh nghiệp ký kết các hợp đồng kinh tế. - Thực hiện việc kiểm tra chất lượng sản phẩm. - Quản lý môi trường. - Đào tạo chủ doanh nghiệp. - Kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Hợp tác quốc tế về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước hoạch định chiến lược và chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một trong những yếu tố quan trọng nhất có tính chất quyết định trong chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là sớm ban hành các văn bản thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (về tài chính, tín dụng, thuế, đất đai, đào tạo, chuyển giao công nghệ, thông tin...) II. Các giải pháp cụ thể mang tính cấp bách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cùng với chính sách của Nhà nước, Chính phủ cần tiến hành đồng bộ các chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chẳng hạn như: 1. Chương trình hỗ trợ đào tào. Cần thiết phải đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ vì họ có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Họ là những người trực tiếp sử dụng các nguồn lực để tạo ra của cải và vật chất, trực tiếp quản lý người lao động. ở Việt Nam, đội ngũ các nhà kinh doanh hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập. Việc đào tạo nhằm củng cố cung cấp kiến thức về luật pháp, kinh tế, công nghệ, quản lý... Các hình thức đào tạo chủ yếu là: - Mở các lớp đào tạo ngắn hạn, dài hạn cho các chuyên gia Việt Nam và nước ngoài giảng dạy. - Khuyến khích và hỗ trợ hoạt động đào tạo nghề công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp để sản xuất hàng xuất khẩu với chất lượng tốt. - Hướng dẫn các doanh nghiệp vừa và nhỏ phương thức, kinh nghiệm tìm hiểu, thâm nhập thị trường ngoài nước. - Sử dụng quỹ đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp. - Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tự đào tạo, Nhà nước có thể trích một phần thuế trong nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp giữ lại làm quỹ đào tạo, giảm phần chi phí đào tạo trong tổng thu nhập chịu thuế cho các doanh nghiệp. 2. Chương trình cung cấp thông tin. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang rất thiếu thông tin về thị trường, công nghệ, luật pháp, kinh tế, khách hàng, đối tác kinh doanh... do đó Nhà nước cần thiết phải hỗ trợ, thiết lập hệ thống thông tin cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các giải pháp thông tin hỗ trợ có thể là: + Thành lập các ngân hàng dữ liệu về các doanh nghiệp vừa và nhỏ về thị trường, công nghệ... để cung cấp hoặc bán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ với giá hợp lý. + Phổ biến kinh nghiệm sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất khẩu bằng nhiều hình thức. + Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu, tham gia các chợ triển lãm ở trong và ngoài nước, ký kết hợp đồng kinh tế với các đối tác trong và ngoài nước. + Tổ chức các câu lạc bộ, các hiệp hội ngành nghề để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể trao đổi học tập kinh nghiệm của nhau trong sản xuất kinh doanh. + Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu và sử dụng phương tiện quản lý thông tin hiện đại như: mạng thông tin... để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với các cơ sở dữ liệu hiện đại trong và ngoài nước. 3. Chương trình hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng. Xây dựng cơ sở hạ tầng là điều kiện cơ bản, là tiền đề rất quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. ở nhiều vùng trong nước, cơ sở hạ tầng như giao thông, điện nước kém phát triển, đó là trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất tốn kém, chậm thu hồi vốn và sinh lãi nên các doanh nghiệp không muốn đầu tư hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ sức đầu tư vào cơ sở hạ tầng, do đó rất cần sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước. Đây là một trong những lĩnh vực hỗ trợ chủ yếu của Nhà nước. Tuy nhiên, do ngân sách nhà nước Trung ương và địa phương còn hạn chế, nên cần: + Đầu tư theo trọng điểm, tập trung vào những công trình mang hiệu quả kinh tế - xã hội cao. + Hỗ trợ việc củng cố, nâng cao chất lượng các làng nghề truyền thống và xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ để giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng sản xuất. + Kết hợp với Nhà nước, địa phương và nhân dân cùng làm. ở một số địa phương đã có một số mô hình có hiệu quả. Kết hợp giữa vốn của Nhà nước, một phần vốn và quản lý của địa phương với một phần vốn và lao động của nhân dân, của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 4. Chương trình hỗ trợ chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những nơi thu hút đông đảo lao động, ít vốn cần được phát triển mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá khi có sự hỗ trợ của Nhà nước để tạo ra thị trường rộng lớn, có thiết bị công nghệ tiên tiến thích hợp để sản xuất hàng hoá chất lượng cao (có đủ sức cạnh tranh với hàng ngoaị nhập). Trong quá trình toàn cầu hoá, hàng hoá được sản xuất trên cơ sở công nghệ cao đóng vai trò rất quan trọng trong sự cạnh tranh quốc tế khốc liệt, vì vậy Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt động phát triển kỹ thuật khác. Hỗ trợ việc xây dựng hệ thống tổ chức sản xuất cho các doanh nghiệp này theo tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000 và các mô hình quản lý chất lượng khác. 5. Chương trình hỗ trợ về tài chính, tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có vốn sản xuất kinh doanh. Một trong những khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là thiếu vốn. ở Hàn Quốc, Chính phủ đã quy định các tổ chức tài chính dành một tỷ lệ nhất định trong toàn bộ khoản cho vay với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, Nhà nước nên sớm thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ hỗ trợ kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các quỹ này được sử dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay ưu đãi để có vốn đầu tư công nghệ, tự động hoá trang thiết bị, phát triển công nghệ cao để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành xuất khẩu để có đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nhà nước và các địa phương cần quy định mức thưởng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất các mặt hàng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. 6. Chương trình hỗ trợ xúc tiến thương mại, tiếp thị, hợp tác quốc tế và đầu tư . Việc nghiên cứu, nắm bắt các thông tin về thị trường sẽ giúp các bộ quản lý, các nhà hoạch định, các doanh nghiệp vạch ra những chiến lược trong việc giữ vững thị trường hiện có và mở rộng thị trường kinh doanh sang lĩnh vực khác. Trong giai đoạn hiện nay, ngoài phương pháp tiếp thị truyền thống (đi khảo sát ngiên cứu thị trường...) đã đề xuất phương pháp tiếp thị hiện đại qua Intenet, Nhà nước cần quan tâm hỗ trợ lập chương trình hệ thống thông tin quản lý bằng máy tính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự phát triển nhanh chóng của quá trình toàn cầu hoá và của nền kinh tế thế giới đã khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ các nước mở rộng sự hợp tác đầu tư và cạnh tranh với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Đây là một cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn tới. III. Các giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề rất cấp bách hiện nay: - Vì với số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ khá lớn như hiện nay, các giải pháp hỗ trợ trực tiếp rất khó bao quát hết mà chỉ có thông qua chính sách hỗ trợ mới có thể tác động được trên diện rộng. Thực tế công cuộc đổi mới ở Việt Nam cho thấy, việc tháo gỡ trong chính sách có tác động rất nhanh chóng tới toàn bộ nền kinh tế nhờ đó, chỉ trong thời gian ngắn đã làm cho Việt Nam từ một nước thường xuyên phải nhập khẩu gạo thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới. - Mặc dù chính sách có vai trò lớn như vậy, nhưng trong chính sách của Nhà nước hiện nay còn nhiều trở ngại cho phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (như phân tích ở trên), đặc biệt là trong chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Dưới đây là một số đề xuất về đổi mới chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. 1. Hoàn thiện chính sách thuế. Cần đổi mới chính sách thuế theo hai nội dung. * Hệ thống thuế chung đổi mới theo các hướng: - Đơn giản hoá hệ thống thuế suất, hạ mức thuế suất. - Tránh đánh thuế chồng chéo. - Cải cách cơ chế định - thu- kiểm tra thuế theo hướng có sự độc lập giữa các bộ phận này, có thể kiểm tra lẫn nhau. - Thực hiện cơ chế tự khai báo mức thuế, Nhà nước kiểm định và doanh nghiệp tự nộp thuế... - Đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc và thành phần kinh tế, đồng thời ưu tiên các doanh nghiệp trong nước hơn. Hiện nay đang có tình trạng trái ngược: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều ưu thế hơn thì lại nộp thuế lợi tức thấp hơn các doanh nghiệp trong nước. * Chính sách thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ: cần đổi mới theo hướng mở rộng đối tượng được ưu đãi, tăng mức độ ưu đãi... - Mở rộng đối tượng được ưu đãi: đến nay, trong các chính sách thuế của Nhà nước loại đối tượng được ưu đãi về thuế không nhiều, chỉ có các doanh nghiệp mới thành lập sau năm 1999 (mà phần lớn đã qua hạn 2 năm được ưu đãi theo luật định), doanh nghiệp ở vùng núi hải đảo, một dố doanh nghiệp trong ngành nghề chế biến nông sản. Như vậy, trong chính sách ưu đãi thuế chưa quan tâm tới sự phát triển yếu ớt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ các doanh nghiệp này đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đó, trong chính sách ưu đãi thuế cần mở rộng đối tượng hơn nữa, vì có như vậy mới nuôi dưỡng được nguồn thu đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích lũy, phát triển sản xuất, mở rộng quy mô. - Tăng mức độ ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: thời gian qua, mức ưu đãi đã tăng lên nhưng vẫn còn rất dè dặt, chỉ miễn giảm thuế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1 - 2 năm, trong khi mức ưu đãi thuế ở nhiều nước là từ 4 - 5 năm. Hơn nữa mức giảm thuế còn thấp, số đối tượng được miễn thuế còn ít. Do đó, để các doanh nghiệp có tích luỹ ban đầu cho phát triển sản xuất, đứng vững được thì cần phải tăng mức ưu đãi thuế từ 3 - 5 năm. Miễn thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào công nghệ hiện đại, công nghệ sạch. Miễn thuế cho các khâu chi phí đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, cũng như đầu tư vào sản xuất sản phẩm mới. - Có hình thức và mức độ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, huy động nhiều vốn. Hiện nay đang có tình trạng, doanh nghiệp càng huy động nhiều lao động (chi phí biên tăng lên) thì mức thuế càng cao. Như vậy, sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô. Mà các nước khác thì đều có xu hướng mở rộng quy mô doanh nghiệp, vì quy mô quá nhỏ sẽ không hiệu quả. 2. Hoàn thiện chính sách tín dụng. Bao gồm các giải pháp cho việc tạo lập, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các giải pháp tháo gỡ về vốn có vai trò rất lớn đối với các doanh nghiệp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, cần thiết phải có hai nhóm giải pháp tác động tới tình hình vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ: chính sách tín dụng nói chung (tác động tới nền kinh tế, trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ) và các chính sách tín dụng riêng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Chính sách tín dụng chung chính sách này có tác động mạnh tới cải thiện tình hành vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho, các doanh nghiệp huy động vốn an toàn thuận lợi và có hiệu quả, cần thiết phải có đổi mới theo hướng: - Nhà nước chỉ nên điều tiết lãi suất bằng phương pháp thị trường mở và dự trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất trần một cách linh hoạt cần sát với cân bằng cung cầu vốn trên thị trường. Việc khống chế mức lãi suất trần cứng nhắc như hiện nay sẽ làm hoạt động cho vay của ngân hàng bị hạn chế đáng kể. - Mở rộng cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng: giải pháp này nhằm thiết lập thị trường thực sự, ổn định lãi suất, giảm bớt phiền hà cho khách hàng trong việc vay vốn. - Giảm bớt thủ tục vay vốn, mở rộng mạng lưới cho vay và các hình thức huy động, khuyến khích cạnh tranh hợp pháp. - Phát hiện quỹ tín dụng nhân dân. - Phát triển các định chế tài chính cung cấp vốn trung và dài hạn như thị trường chứng khoán, thị trường vốn trung – dài hạn. * Chính sách và các giải pháp về vốn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Như trên đã phân tích, do yếu thế nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận được với các nguồn vốn. Vì vậy, ngoài chính sách vốn chung cho các doanh nghiệp, cần thiết phải có những ưu đãi vốn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp này phát triển bình thường. Để hỗ trợ vốn có hiệu quả cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần thiết phải đổi mới chính sách tín dụng đối với các doanh nghiệp này theo hướng: ưu đãi lãi suất và khuyến khích thành lập các trung tâm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Ưu đãi lãi suất: như đã phân tích, lãi suất tiền vay là khá cao đối với các doanh nghiệp và càng cao hơn nữa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, do số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ khá lớn trong nền kinh tế, mà nguồn tài chính để hỗ trợ thì có hạn, nên không thể ưu đãi được tất cả các doanh nghiệp này. Vì vậy, cần chọn đúng đối tượng thì với nguồn lực ít mới có thể hỗ trợ hiệu quả. Chỉ nên ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiệu quả, các doanh nghiệp gắn với các nhiệm vụ, chiến lược và hỗ trợ cho các hoạt động như đầu tư vào công nghệ mới, sản xuất thử, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ mới, đào tạo nghề...Tuy nhiên, để hỗ trợ được nhiều doanh nghiệp trong điều kiện nguồn lực (nguồn tài chính có hạn) cần có những biện pháp đặc biệt. Một trong những giải pháp đó là trợ cấp lãi suất cho đối tượng được hỗ trợ, tức là bù chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay. - Thành lập các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các nguồn đó có thể là: từ ngân sách nhà nước trung ương và địa phương, từ các doanh nghiệp lớn, thị trường từ các tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ này có thể do Nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách quản lý. Việc sử dụng quỹ này do Nhà nước quản lý với sự nhất trí của người tài trợ thông qua trung gian là người chuyên trách về vốn (thường là ngân hàng). Quỹ này hỗ trợ cho các hoạt động như đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ các trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hoạt động về cung cấp thông tin kinh tế, khoa học công nghệ... cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Thành lập trung tâm bảo lãnh: đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một trong những khó khăn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó rất cần tổ chức trung gian là cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong các hình thức đó là quỹ bão lãnh tín dụng. Thực chất của quỹ bão lãnh tín dụng là giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu vay vốn ở ngân hàng và có dự án khả thi nhưng không đủ tài sản để thế chấp thì quỹ này đứng ra bão lãnh cho các doanh nghiệp này được vay. Quỹ bão lãnh tín dụng vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn, vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ giữa người vay ( doanh nghiệp) người cho vay ( ngân hàng), các tổ chức trung gian (các công ty bão lãnh) và Nhà nước, nhờ đó mà giảm bớt mức độ rũi ro khi vay vốn. Đề án quỹ bão lãnh tín dụng này đã được Hội đồng trung ương liên minh các HTX Việt Nam xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ngày 25 - 12 - 2004 . Cũng do nhiều điều kiện nên quỹ này hoạt động chưa rộng. Tuy vậy , đây là mô hình cần được ngiên cứu để nhân rộng ra cả nước, đặc biệt là các tỉnh phía nam mới có nền kinh tế thị trường phát triển, nhu cầu vốn lớn. - Sớm hình thành thị trường thuê mua: Tín dụng thuê mua là một hình thức của đầu tư cơ bản, là biện pháp thay thế vốn ngân hàng. Tín dụng thuê mua có đặc điểm của hoạt động tín dụng nhưng vì tài sản sử dụng thuộc quyền sử dụng của công ty thuê mua nên thực tế các doanh nghiệp thuê nguồn sử dụng đó đã mang tính thế chấp trong vay mượn, điểm thuận lợi này giúp cho các nhà doanh nghiệp ít vốn hoặc không có tài sản thế chấp dễ dàng có được tài sản để tiến hành sản xuất kinh doanh. Tín dụng thuê mua còn có đặc điểm là: Công ty thuê mua sẽ hỗ trợ đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cho người thuê để đạt được hiệu quả khi sử dụng tài sản cho thuê. Vậy hình thức này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiến hành sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiéu vốn. Những thuận lợi đó là : + Doanh nghiệp có tài sản để tiến hành sản xuất kinh doanh mà không cần vay vốn trung hạn và dài hạn ở ngân hàng. + Doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh doanh. + Thủ tục đơn giản, các hợp đồng cho thuê rõ ràng, có thể giảm được chi phí trong giao dịch. Tuy nhiên, tín dụng thuê mua cũng có những hạn chế đối với người đi thuê. + Giá cả trong nghiệp vụ thuê mua sẽ cao hơn giá cả vay vốn trung và dài hạn. + Hợp đồng cho thuê bắt buộc doanh nghiệp nếu không sử dụng tài sản cho thuê thì cũng phải thanh toán tiền thuê và tiền lãi với người cho thuê đến khi hết hạn hợp đồng. 3. Hoàn thiện chính sách đất đai. Đất đai là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh phổ biến là vừa và nhỏ, phân tán diện tích mặt bằng chật và hẹp, phải tận dụng nhà ở để sản xuất. Các cơ sở này gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng mặt bằng sản xuất nguyên nhân một phần do các doanh nghiệp Việt Nam thiếu vốn, giá đất cao, phần khác do nhiều vướng mắc trong những quy định hiện hành như sau: quyền sở hữu và sử dụng không rõ ràng, dứt khoát... để góp phần tháo gỡ những khó khăn về đất đai tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, cần thiết phải có những biện pháp tháo gỡ như: - Nghiên cứu sửa đổi những quy định hiện hành chưa phù hợp, đặc biệt là vấn đề thời hạn giao đất việc chuyển quyền sử dụng đất. Mở rộng quyền cho chính quyền địa phương trong việc cấp đất sử dụng vào mục đích sản xuất và cho vay đất. - Cho thuê, đấu thầu những cơ sở sản xuất bị giải thể. - Tăng thời hạn sử dụng và miễm giảm thuế đối với những phần vốn bỏ vào việc mở mang đất đai, tận dụng đất thừa, ao hồ, đầm lầy,... để đưa vào sản xuất. - Đơn giản hoá thủ tục thuê đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp, khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả kinh tế cao hơn. - Tiến hành cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực ngoài quốc doanh được hưởng những quyền lợi về sử dụng đất như với các doanh nghiệp nhà nước: được Nhà nước giao quyền sử dụng đất, được thuê đất theo giá như doanh nghiệp nhà nước phải trả, được hưởng đầy đủ 5 quyền lợi với người có quyền sử dụng đất như Luật Đất đai (1999) đã quy định. - Hình thành các khu công nghiệp tập trung để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khuyến khích các doanh nghiệp liên kết xây dựng hạ tầng để cho thuê mặt bằng nhà xưởng đó là cách thức xây dựng “khu công nghiệp nội địa” mà Thành phố Hà Nội đang làm. 4. Hoàn thiện chính sách công nghệ. Cần kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới công nghệ và thị trường quan điểm chung là đổi mới công nghệ để phục vụ thị trường và đưa vào thị trường để đổi mới công nghệ, không có thị trường thì không thể đổi mới công nghệ. Thị trường phải là điều kiện tiên quyết để đổi mới công nghệ . Thực tế ở một số nước đã cho thấy sự thất bại của việc đổi mới công nghệ không dựa vào nền tảng thị trường. Nhà nước cần có chính sách rõ ràng như: * Cho phép khấu hao nhanh, thậm chí khuyến khích khấu hao nhanh. * Tăng thời hạn được xét miễn giảm thuế cho các dự án đổi mới công nghệ. * Mở rộng các hình thức kinh doanh tài chính như thuê mua, vay mua nhằm giải quyết việc thiếu vốn tín dụng trung hạn dài hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới công nghệ. Một số kiến nghị: * Trong giai đoạn trước mắt. - Chính phủ cần sớm ban hành các văn bản quy định thống nhất tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam làm cho cơ sở định hướng cho các hoạt động hỗ trợ cũng như các hoạt động khác liên quan đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì hiện nay số văn bản pháp quy liên quan tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế hiện văn bản mới nhất ra ngày 20/6/2004 là thông báo số 618- KTN Thủ tướng Chính phủ đã tạm thời quy định thống nhất tiêu chí sử dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có sô lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Tuy nhiên, cần tiếp tục nghiên cứu khả thi chi tiết hơn tiêu chí, chẳng hạn tách tiêu chí áp dụng riêng cho lĩnh vực thương mại, lĩnh vực xây dựng và công nghiệp... như phần trên đã trình bày. Ngoài ra cũng cần phải giao chức năng nhiệm vụ cụ thể phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho các cơ quan thuộc Chính phủ, các địa phương. - Sau khi các cơ quan chính phủ, địa phương được giao nhiệm vụ cần sớm tổ chức nghiên cứu để tiến hành bước đầu một dự thảo pháp lý về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó có quy định rõ vai trò, vị trí của doanh nghiệp vừa và nhỏ, hệ thống tổ chức và chức năng của các cơ quan quản lý và doanh nghiệp vừa và nhỏ, khung chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Nhà nước cần sớm xây dựng các tổ chức hỗ trợ, các quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ra các địa phương nhằm giải quyết kịp thời những khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các địa phương đó. Đây là biện pháp trực tiếp hữu hiệu có trọng điểm, khắc phục được những nhược điểm của phương pháp gián tiếp thông qua các chính sách hỗ trợ. - Cần quán triệt quan điểm: Không bao cấp về tài chính mà thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ qua biện pháp tài trợ dưới hình thức tín dụng nhà nước có hoàn trả cả vốn lẫn lãi, nhưng với lãi suất thấp (Nhà nước hỗ trợ sự chênh lệch giữa lãi suất ưu đãi và lãi suất thị trường nhằm giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh) . * Về định hướng lâu dài. Để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước ta cần: - Coi trọng vai trò vị trí của doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh. Có nghĩa là phải không có sự phân biệt các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp phi nhà nước, quy mô lớn, nhỏ hay kinh tế gia đình. Vậy, trong việc hoạch định chính sách chiến lược phải xem các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quan hệ đối với các doanh nghiệp lớn hoặc ngược lại, chúng không loại trừ nhau mà bổ sung hỗ trợ cho nhau cùng phát triển, và làm cho nền kinh tế phát triển hợp lý, hiệu quả. - Sớm ban hành luật doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cơ sở pháp lý bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng thời Chính phủ định hướng cho các ngành, các cấp phù hợp với chức năng của mình để quy định rõ những chính sách và biện pháp cụ thể hỗ trợ cho các hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, cần nhận thấy rõ rằng, để ban hành một bộ luật hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam như nhiều nước đã làm, chắc chắn là không thể tiến hành xong trong vài năm trước mắt. - Chú ý tới sức mạnh tổng hợp của Nhà nước, địa phương, các tổ chức, các trường đại học, các doanh nghiệp trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hay sự hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ có hiệu quả khi có sự nổ lực từ 3 phía : Nhà nước, cộng đồng và bản thân doanh nghiệp. -Thành lập tổ chức của Nhà nước để quản lý tập trung các vấn đề về doanh nghiệp vừa và nhỏ chẳng hạn như: “Uỷ ban nhà nước về doanh nghiệp vừa và nhỏ” trực thuộc Chính Phủ tham mưu Chính Phủ về các vấn đề đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Hình thành các khu công nghiệp tập trung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tăng cường sự hỗ trợ theo chiều sâu dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: Thông tin, công nghệ, đào tạo nhân lực, nâng cao năng suất. - Có các biện pháp trợ giúp mạnh mẽ hơn trong khâu đào tạo, dạy nghề cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chú ý đến các đối tượng như công nhân kỹ thuật, thợ lành nghề bậc cao, các loại cán bộ quản lý. Trước mắt quan tâm tới việc giữ được các làng nghề và tiếp tục phát huy khai thác các ngành nghề truyền thống của từng địa phương. - Cần quan tâm đến hoạt động tư vấn, trước hết là các tư vấn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về đổi mới công nghệ bao gồm: chuyển giao, nhập công nghệ và cải tiến công nghệ được chuyển giao. Tiếp đến là tư vấn về thị trường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ kể cả “đầu vào” (mua sắm vật tư, trang thiết bị kỹ thuật, tổ chức dây chuyền sản xuất...) và “đầu ra “ đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra, thiết lập quan hệ với khách hàng... nhằm ổn định thị trường tiêu thụ tránh rủi ro. - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trở thành đối tác của các nhà đầu tư nước ngoài dưới các hình thức được quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài, từ đó các doanh nghiệp này có thể mở rộng hơn thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình. Kết luận. Trong quá trình thực tập, nghiên cứu ở Vụ Công nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư , em nhận thấy rằng một thực tế cho cán bộ quản lý kinh tế quả là rất phong phú và phức tạp và có rất nhiều việc phải làm. Hiện tại, ở Vụ Công nghiệp đang có một nhóm nghiên cứu về dự án chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Được sự gợi ý giúp đỡ của chuyên viên Bùi Văn Hiền và cô giáo T.S Lê Thị Anh Vân cùng với những nỗ lực nghiên cứu của bản thân em đã hoàn thành đề tài trên về cơ bản, nhằm góp ý kiến của mình vào luận chứng khoa học chung về chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù trong quá trình nghiên cứu em đã gặp không ít khó khăn như : Do trong một thời gian dài không có tiêu chí thống nhất và chính thức áp dụng để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên hệ thống số liệu thống kê rất phân tán và khó sử dụng để phân tích đánh giá một cách chính xác, khả quan về vai trò vị trí của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phần lớn các chỉ tiêu thống kê không được phân nhóm theo quy mô doanh nghiệp mà chỉ nhóm theo thành phần kinh tế hoặc loại hình doanh nghiệp. Đây là những khó khăn khách quan trong việc nghiên cứu khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ hai là: Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên cũng có rất nhiều hạn chế. Tuy nhiên, em đã khắc phục khó khăn trên bằng cách sử dụng các số liệu, tư liệu gián tiếp liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời đưa ra một số ước tính mức độ đóng góp của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đối với nền kinh tế. Ngoài ra, cũng có sử dụng số liệu thống kê của khu vực ngoài quốc doanh hay trong ngành công nghiệp để minh hoạ cho thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này trong thực tế là có thể chấp nhận được vì phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và nhỏ cũng như thực trạng của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp cũng là thực trạng chung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Số liệu đưa ra phân tích đánh giá thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ mang tính tương đối nhằm xác định đặc điểm, xu thế phát triển và nhìn nhận đúng mức vị trí vai trò của khu vực này trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Trong khuôn khổ cho phép của chuyên đề em đã cố gắng trình bày sơ lược về thực trạng của chính sách hiện nay và đi kèm với các giải pháp và kiến nghị cụ thể. Tất nhiên, sẽ không tránh khỏi sơ suất trong lý luận và sắp xếp bố cục, em rất mong được sự thông cảm và ý kiến nhận xét của thầy cô cũng như tập thể cơ quan nơi em thực tập. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo Đỗ Đức Thịnh: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005. PGS. PTS. Nguyễn Cúc: Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003. Nguyễn Hải Hữu: Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. PGS. PTS. Nguyễn Đình Phan: Tham luận: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Đỗ Văn Hải - Phó Vụ Công nghiệp - Bộ KH & ĐT: Tham luận: Một số ý kiến về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Vụ Công nghiệp - Bộ KH & ĐT: Báo định hướng chiến lượng và khuyến nghị chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ từ nay đến 2010. Khoa Khoa học quản lý - Đại học KTQD: Giáo trình Chính sách kinh tế - xã hội. NXB Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội 2006 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002. Khoa Khoa học quản lý - Đại học KTQD: Giáo trình Quản lý kinh tế. NXB Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội 2005. Luật Doanh nghiệp: NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2005. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. NXB NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1998. Tạp chí Kinh tế và dự báo, Kinh tế phát triển, Nghiên cứu kinh tế, Việt Nam Đông Nam á - Ngày nay, Thông tin kinh tế kinh tế - kế hoạch. Các báo: Thời báo kinh tế Việt Nam, Thông tin kinh tế - xã hội, Tuần báo quốc tế, đầu tư. Vụ Công nghiệp - Bộ KH & ĐT: Dự thảo: Hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính để thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp ở Việt Nam. S.Rouald: Quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. NXB Thống kê. Hà Nội, 2000. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0047.doc
Tài liệu liên quan