Chính sách kinh tế mới của Lênin (NEP)

Phần I: Đặt vấn đề Trong qúa trình đấu tranh cách mạng chống chế độ chuyên chế Nga Hoàng và giai cấp tư sản, phản động cùng các trào lưu tư tưởng cơ hội hữu, tả khuynh và chủ nghĩa xét lại, lãnh đạo giai cấp công nhân Nga, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, và xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I Lênin chẳng những là một nhà lý luận lội lạc mà còn là một nhà tổ chức thực tiễn vĩ đại. V.I Lênin nhắc lại quan điểm của C.mac rằng “Vũ khí của sự phê phán không thể thay thế dược sự phê phán bằng

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chính sách kinh tế mới của Lênin (NEP), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lí luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất khi nó xâm nhập vào quần chúng”. Theo V.I Lênin, để tư tưởng lý luận thâm nhập vào quần chúng phải thông qua tổ chức và các biện pháp tổ chức thực tiễn.V.I Lênin nói răng: hãy cho tôi một tổ chức của những người cách mạng, tôi sẽ đảo lộn cả nước Nga, rằng vũ khí đấu tranh của giai cấp công nhân không có gì khác hơn là tổ chức. Chính vì vậy mà V.I Lênin đã tiến hành một cuộc dấu tranh không khoan nhượng trong việc xây dựng một chính Đảng kiểu mới, đội tiên phong của giai cáp công nhân - Đảng cộng sản. Tám mươi năm trước, ngày 21 tháng giêng năm 1924, V.I Lênin vĩ lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản Nga và giai cấp vô sản toàn thế giới đã vĩnh viễn ra đi. Sự ra đi của người là một tổn thất lớn lao cho phong trào xã hội chủ nghĩa, nhưng sự nghiệp cách mạng và di sản lí luận của người vẫn sống maic với thời đại. Một trong những di sản lí luận mà Người để lại cho chúng ta hôm nay là “ Chính sách kinh tế mới". “Chính sách kinh tế mới của V.I Lênin gắn liền hoạt động thức tiễn của người, là sự khái quát kinh nghiệm lãnh đạo điều hành nền kinh tế nhiều thành phần nhằm xúc tiến cách mạng xã hội chủ nghĩa vào những năm đầu thời kì quá độ nước Nga. Từ đó đến nay đã hơn 83 năm trôi qua, nhưng sự phát triên của lý luận và thực tiễn kinh nghiệm ở các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng chứng minh tính cách mạng, khoa học, sáng tạo và tính thời sự sâu sắc của nhưng luận đIểm do Lênin đề ra trong chính sách kinh tế mới, trong đó có tư tưởng tự do trao đổi (hay thực chất là tư tưởng phát triển hàng hóa nhiều thành phần). Nhiều đảng và nhiều nước anh em đã và đang tiếp tục tìm hiểu nhằm nhận thức sâu thêm và vận dụng sáng tạo những lý luận ấy. Phần II Giải quyết vấn đề I/Điều kiện ra đời.Nội dung của chính sách “kinh tế mới”. Biện pháp thực hiện. 1/.Điều kiện ra đời Trong hòan cảnh có nội chiến và can thiệp,cùng với việc kéo dài thực hiện chính sách “Cộng sản thời chiến”( thưc hiện việc trưng thu lương thực thừa của nông dân để cung cấp cho nhu cầu của quốc phòng) nền kinh tế của nước Nga bị lâm vào tình trạng khủng hỏang trầm trọng. Trong năm 1920 so với năm 1913,tổng sản lượng nông nghiệp chỉ còn 1/2 đại công nghiệp còn 1/7,ngành giao thông vận tảI bị tê liệt vì thiếu than thiếu phương tiện,nhân dân nhiều nơi bị đói và rất thiếu thốn.Lênin đã ví nền kinh tế nước Nga lúc này như một người bị đánh thập tử nhất sinh chỉ có thể đi lại bằng đôi nạng. Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc ,nước Nga chuyển sang thời kỳ kiến thiết hòa bình.Do dó chính sách “Cộng sản thời chiến” đã làm xong vai trò lịch sử bất đắc dĩ của nó,giờ đây không cho phép dẫn nó đi xa hơn nữa,vì nông dân nhiều nơi đã tỏ ra bất mãn với chính sách kinh tế “Cộng sản thời chiến”( thể hiện ở cuộc bạo loạn Cron-xtat gần Lêningrat); khối liên minh công nông có nguy cơ tan vỡ.Do đó,cần thiết phải trở lại thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội do Lênin đề ra năm 1918- phải trở lại nhưng quan hệ kinh tế khách quan giữa công nghiệp và nông nghiệp,giữa thành thị và nông thôn.Do những yêu cầu đó,đại hội X của Đảng Cộng sản Bônsêvich Nga(họp từ 8 đến 16/3/1921 đã chủ trương thay chính sách “Kinh tế cộng san thời chiến” bằng chính sách “Kinh tế mới”—NEP. 2/. Nội dung chủ yếu của chính sách kinh tế mới. Chính sách “Kinh tế mới” băt đầu từ viêc thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa của nông dân bằng chế độ thu thuế lương thực.Sau khi nông dân đã nộp đủ thuế,nông dân được tự do mua bán số lương thực thừa của mình.Sự tự do mua bán tất nhiên sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản phục hồi lại; chúng ta không chỉ sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước mà còn có thể sử dụng cả chủ nghĩa tư bản tư nhân để xúc tiến chủ nghĩa xã hội. Người chỉ ra rằng, trong điều kiện chính sách “Kinh tế mới” thì thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất có thể có giữa hàng chục triệu tiểu nông với nền đại công nghiệp.chính quyền xô viết có thể nắm vững được thương nghiệp,chỉ đạo nó,và đặt nó vào những khuôn khổ nhất định. Lênin còn chỉ rõ,thực chất của chính sách “Kinh tế mới” là sự thiết lập khối liên minh công nông về kinh tế nhằm khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp,cải thiện đời sống của nông dân và công nhân, tạo đIều kiện cho việc phục hồi và phát triển nền đại công nghiệp cơ khí, thực hiện đIện khí hóa nước Nga. Chỉ có vậy mới có thể cải tạo được nền kinh tế tiểu nông và nông dân theo chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chính sách “Kinh tế mới”theo Người, là cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội trên mặt trận kinh tế,cần có sự kiểm soát và giám sát chặt chẽ của Nhà nước xô viết và nhân dân để đưa chủ nghĩa tư bản đi vào quỹ đạo chủ nghĩa xã hội. Nội dung tiếp theo:Những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hóa, nay cho tư nhân thuê hay mua lại để kinh doanh tự do(chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng). Ba là cho phép mở rộng trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp,cho thương nhân được tự do hoạt động (chủ yếu trên lĩng vực bán lẻ) để góp phần khôi phục kinh tế, củng cố lại lưu thông tiền tệ trong nước. Bốn là thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp quốc doanh. 3/. Biện pháp thực hiện Chính sách “Kinh tế mới” là kết quả của tư duy lý luận sáng tạo của V.I.Lênin- vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chẳng những ở nước Nga lúc bấy giờ mà kể cả các nước kém phát triển sau khi giai cấp công nhân giành chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Để biến tư duy lý luận của Người thành hiện thực, V.I.Lênin đã đề ra và thực hiện nhiều biện pháp tổ chức rất quan trọng, xin nêu một số sau đây: a-Đoàn kết và thống nhất tư tưởng Đảng Lênin quan tâm trước hết là phải làm cho tổ chức đảng đoàn kết thống nhất tư tương và hành đông,cấm chia rẽ,bè phái.Theo đề nghị của V.I.Lênin,đại hội lần thứ X của Đang cộng sản Nga thông qua nghị quyết “về sự thống nhất”của Đảng. Nghị quyết bắt phải giải tán ngay các nhóm có tính chất bè phái.caco tổ chức đảng được giao nhiệm vụ theo dõi chặt chẽ không để xảy ra bất kỳ một hoạt động đối lập nào, không thực hiện nghị quyết của Đại hội sẽ bị khai trừ khỏi đảng, V.I.Lênin coi sự thống nhất,đoàn kết nhất trí của Ban chấp hành Trung ương có ý nghĩa to lớn trong việc đoàn kết toàn Đảng. Theo đề nghị của Người,Đại hội đã trao cho Ban chấp hành Trung ương được quyền áp dụng mọi biện pháp ,kể cả việc khai trừ các ủy viên Trung ương nào phá hoại kỷ luật hay để xảy ra tình trạng bè phái.tiếp theo,V.I.Lênin đề nghị Ban chấp hành Trung ương tiến hành công tác thanh Đảng.Người chủ trương kiên quyết đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo,những đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa,không trung thực,nhu nhược và những tên Mensơvich tuy “bề ngoài” đã được phủ một lớp sơn mới,nhưng trong tâm hồn vẫn là Mensơvich.Người nhấn mạnh vai trò ngày càng to lớn của Đảng trong lãnh đạo kinh tế,chỉ ra sự cần thiết phảI phân bố lại lực lượng của Đảng, cử một bộ phận ưu tú nhất sang làm kinh tế. Người đòi hỏi các tổ chức đảng phải chú ý đến các vấn đề kinh tế,phát triển sản xuất và thương nghiệp,đảng viên phải học quản lý,học buôn bán.Người coi mặt quan trọng của chính sách “Kinh tế mới” là những phương pháp mới trong tổ chức kinh doanh,trong tổ chức sản xuất và lao động. b- Chấn chỉnh bộ máy kinh tế V.I.Lênin chủ trương chấn chỉnh lại toàn bộ bộ máy Xô viết và bộ máy kinh tế.Người vạch ra một chương trình hoạt động thực tiễn của cac cơ quan Xô viết; nêu lên phương hướng phat triển cụ thể của các ngành kinh tế quốc dân.V.I.Lênin đòi hỏi phải xây dựng lại công tác của Hội đống bộ trưởng dân ủy,Hội đồng lao động và quốc phòng,tiểu Hội đồng bộ trưởng dân ủy,Người phê phán kịch liệt tệ quan liêu,bàn giấy,sa vào những công việc vụn vặt,sự vụ v.v…. của các cơ quan đó.Người yêu cầu phảI xây dựng lại chế độ công tác một cach triệt để.Theo Người,vấn đề là lựa chọn người,thiết lập chế độ trách nhiệm cá nhân đối với công việc đang làm, kiểm tra công việc thực tế.Người nói nếu không làm như thế thì không thể thoát khỏi chủ nghĩa quan liêu và bệnh giấy tờ đang bóp nghẹt chúng ta.Người chủ trương tiến hành sắp xếp lại các cơ quan Xô viết,kiên quyết cắt bỏ những bộ phận dư thưà và những người dư thừa “nhàn rỗi” không đem lại hiệu quả trong công tác. c- Bộ dân ủy tư pháp và ban thanh tra công nông V.I.Lênin đặc biệt quan tâm đến việc chấn chỉnh Bộ dân ủy tư pháp và ban thanh tra công nông,nêu rõ nhiệm vụ của họ trong những đIều kiện của chính sách kinh tế mới.Về Bộ dân ủy tư pháp,V.I.Lênin phê bình Bộ chưa hiểu rõ vai trò chiến đấu đặc biệt của Bộ hiện nay. Người nói rằng trách nhiệm của Bộ dân ủy tư pháp là phảI xây dựng những phiên tòa mẫu chống lại bọn khốn nạn lợi dụng chính sách kinh tế mới,bọn ăn cắp,bọn gian thương,buôn lậu,đầu cơ,trốn thuế v.v….phảI trừng trị nghiêm khắc theo luật pháp xô viết,kể cả xử bắn;răng đối với nhưng cộng sản phải trừng phạt nặng hơn gấp ba lần so với những người ngoài đảng nếu họ phạm pháp.Người phê bình Bộ dân ủy tư pháp chưa hiểu được ý nghĩa giáo dục to lớn của tòa án nên chưa làm tốt nhiệm vụ,Người chủ trương phân công những đảng viên cộng sản xuất sắc nhất làm việc trong cơ quan Bộ dân ủy tư pháp,chịu trách nhiệm về ban pháp luật dân sự mới,Ban pháp luật hình sự ,Ban pháp luật nhà nước và pháp luật chính trị… Về Ban thanh tra công nông,V.I.Lênin chỉ rõ rằng Ban thanh tra công nông không chỉ có nhiệm vụ,thậm chí cũng không phảI nhiệm vụ chủ yếu “tóm bắt” và “vạch mặt”,đó là công việc của tư pháp.Ban thanh tra công-nông có quan hệ mật thiết với tư pháp,nhưng tuyệt nhiên không đồng nhất với nó.Nhiệm vụ chủ yếu của Ban thanh tra công-nông là biết sửa chữa,sửa chữa một cách chính xác và kịp thời.Người nhấn mạnh rằng muốn biết sửa chữa,trước hết phải nghiên cứu và hiểu biết tiến trình công việc của mọt cơ quan,một xí nghiệp,một ban này nọ v.v…; thứ hai là phải tiến hành những sự thay đổi thực tiễn cần thiết,phải thực hiện những thay đổi đó một cách thực tế. d- Tổ chức chế độ báo cáo V.I.Lênin coi việc tổ chức chế độ báo cáo là một đIêù chủ yếu trong công sở và cơ quan.Nhiệm vụ của Ban thanh tra công-nông là phải hiểu biết và nghiên cứu công tác đó;phải tiến hành kiểm tra trong một thời gian hết sức ngắn,xem chế độ báo cáo đã được tổ chức chưa,có làm được đúng đắn không,có những khuyết điểm gì,làm thế nào để sửa chữa khuyêt đIểm đó v.v…Rằng Ban thanh tra công-nông cần có một bản theo dõi hằng ngày,chỉ rõ sự tiến triển của cuộc đấu tranh đó,những thành công và thât bại của chúng ta trong cuộc đẩu tranh đó.người phê bình nghiêm khắc rằng Ban thanh tra công-nông chưa làm tròn nhiệm vụ và bổn phận của mình,chưa hiểu rõ nhiệm vụ của mình e- Đối với các tổ chức quần chúng: Đối với các tổ chức quần chúng,V.I.Lênin quan tâm trước hết đến tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên cộng sản.Về công đoàn đã được làm rõ trong dự thảo luận cương về vai trò và nhiệm vụ của công đoàn trong dự thảo luận cương về vai trò va nhiệm vụ của công đoàn trong đIều kiện của chính sách kinh tế mới của Lênin,được Đại hội XI của Đảng cộng sản Nga thông qua (có sửa chữa).ở đây chỉ xin nêu lên một số vấn đề,V.I.Lênin chỉ rõ chính sách kinh tế mới đem lại một loat những thay đổi căn bản trong tình hình giai cấp vô sản và do đó cả trong tình hình các công đoàn,cho nên cần quy định lại vai trò và nhiệm vụ của công đoàn.Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của công đoàn từ nay trở đi phải bảo vệ trong mọi lĩnh vực và bằng mọi cách ,những lợi ích của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống tư ban.Nhiệm vụ đó phải được đặt công khai lên hàng đầu ,bộ máy công đoàn do đó phải được tổ chức lại. Về vai trò và sự tham gia của công đoàn vào các cơ quan kinh tế và hành chínhcủa nhà nước vô sản được xác định: công đoàn nói chung là trường học chủ nghĩa cộng sản,nói riêng phải là trường học quản lý công nghiệp xã hội chủ nghĩa(rồi dần dần quản lý nông nghiệp) cho tất cả quần chúng công nhân rồi cho tất cả những người lao động.Do đó: -Công đoàn tham gia việc thành lập tất cả mọi cơ quan kinh tế và mọi cơ quan nhà nước có quan hệ với kinh tế. -Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của công đoàn là đề bạt và đào tạo những người quản trong công nhân và nói chung trong quần chúng lao động. -Một công tác không kém phần quan trọng là sự tham gia của công đoàn vào tất cả những cơ quan kế hoạch của nhà nước vô sản. -Việc thiêt lập những biểu lương và những tiêu chuẩn cung cấp v.v.. là một trong những phần cố hữu và không thể thiếu của hoạt động công đoàn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và của công đòan tham gia quản lý công nghiệp. -Nhiệm vụ liên hệ với quần chúng là điều căn bản của mọi hoạt động công đoàn,công đoàn phảI biết thích ứng với trình đọ hiện thời của quần chúng,mặt khác công đoàn tuyệt đối không được nuông chiều những thành kiến tư tưởng lạc hậu của quần chúng,trái lại không ngừng đưa quần chúng lên một trình độ ngày càng cao hơn. -Đối với vấn đề chuyên gia,nhiệm vụ khó khăn nhất nặng nề nhất đối với các công đoàn là hăng ngày phải tác động đến quảng đại quần chúng lao đọng đẻ tạo ra quan hệ đúng đắn giữa họ với các chuyên gia.Chỉ một công tác như thế mới có thể đem lại những kết quả thực tế và thực sự quan trọng. -Công đoàn cũng có nhiệm vụ đấu tranh chống những ảnh hưởng tiểu tư sản trong giai cấp công nhân.Tất cả những đảng viên công sản trong các công đoàn phảI chú ý nhiều hơn nữa đến cuộc đấu tranh tư tưởng chống những ảnh hưởng,xu hướng và lệch lạc trong các công đoàn,nhất là về chính sách kinh tế mới không thể không làm cho chủ nghĩa tư bản mạnh lên một phần nào. -Đối với Đoàn thanh niên cộng sản,V.I.Lênin chỉ rõ rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng xã hội chủ nghĩa là của thanh niên.Muốn hoàn thành nhiệm vụ to lớn và vẻ vang đó,thanh niên phải ra sức học tập;rằng người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng trí thức mà nhân loại đã tạo ra;rằng người cộng sản nào cậy mình nắm được nhưng kết luận sẵn có mà muốn khoe khoang về chủ nghĩa cộng sản, nhưng lại không làm đựơc một công tác hết sức nghiêm chỉnh hết sức khó khăn và hết sức to lớn, không hề lý giải những việc mà anh ta cần xem xét với tinh thần phê phán,người cộng sản như vậy thật đáng buồn. f-Cải cách giáo dục: Người nhấn mạnh là cần thay thế lối học cũ,lối nhồi sọ cũ, bằng nghệ thuật tiếp thu toàn bộ kiến thức cua nhân loại và tiếp thu nó sao cho chủ nghĩa cộng sản ở trong các đồng chí không còn là những đIều học thuộc lòng, mà là những đIều do chính các đồng chí nghiền ngẫm lại và là những kết luận tât nhiên được rút ra trên quan đIểm giáo dục hiện đại.Phải biết biến chủ nghĩa cộng sản từ những công thức, những lời dạy,những phương pháp những chỉ thị, những cương lĩnh có sẵn và học thuộc lòng thành cái thực tế sinh động,là cái kết hợp với công tác trực tiếp của các đồng chí khi các đồng chí biết lấy chủ nghĩa cộng sản làm kim chỉ nam cho công tác thực tiễn của mình.Người nói rằng phải làm cho toàn bộ sự nghiệp giáo dục rèn luyện và dạy dỗ thanh niên ngày nay trở thành sự nghiệp giáo dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa trong thanh niên.Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là kỷ luật tự giác, đoàn kết giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao động, tổ chức lực lượng của mình trong cuộc đấu tranh chống bọn áp bức, bóc lột, để từ ý chí của hàng triệu, hàng chục triệu người sống lẻ loi rời rạc, phân tán trên khắp đất nước rộng mênh mông, mà xây dựng một ý chí thống nhất, vì không có ý chí thống nhất đó, thì chắc chắn chúng ta sẽ bị đánh bại. Đoàn thanh niên cộng sản phải là đội xung kích, một đội mà trong mọi việc đều biết giúp đỡ, đều có tinh thần chủ động và có sáng kiến của mình.Đoàn thanh niên phảI làm thế nào để cho bất cứ công nhân nào cũng có thể thấy rằng đoàn gồm những người mà học thuyết của họ đối với anh ta còn khó khăn và có lẽ anh ta chưa thể tin ngay được, nhưng công tác thực tế và sự hoạt động của họ chứng minh với anh ta rằng chính họ là những người chỉ cho anh ta con đường đúng đắn. Người nhấn mạnh rằng nếu Đoàn thanh niên cộng sản không biết tổ chức công tác của mình như vậy trong tất cả các lĩnh vực, thì tức là đoàn đã đI lạc vào con đường cũ, con đường tư sản.Phải gắn liền nền giáo dục của chúng ta với cuộc đấu tranh của những người lao động chống bóc lột,để giúp họ giải quyết được những vấn đề do học thuyết cuả chủ nghĩa cộng sản đặt ra Cuối cùng người đặt vấn đề là phải làm thế nào để Đoàn thanh niên giáo dục mọi người từ khi còn nhỏ tuổi, theo tinh thần lao động tự giác và có ky luật.Có như thế chúng ta mới có thể hy vọng rằng những nhiệm vụ đặt ra hiện nay sẽ được giải quyết. II/ Vấn đề sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước.Vận dụng ở Việt Nam 1/ Chủ nghĩa tư bản nhà nước Với tư cách là đường lối phát triển kinh tế, NEP chứa đựng một nội dung hết sức phong phú, trong đó vấn đề sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước là một nội dung căn bản. a- Quan niệm về chủ nghĩa tư bản nhà nước Thực ra, không chỉ đến lúc chính thức tuyên bố NEP, V.I.Lênin mới đưa ra quan niệm về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, mà ngay trước khi Cách mạng Tháng Mười nổ ra, Người đã nói về “vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Người viết; “Biện chứng của lịch sử chính là ở chỗ này; chiến tranh đã thúc đẩy nhanh chóng phi thường sự chuyên hóa của chủ nghĩa tư bản độc quyền thành chủ nghĩa tư bản độc quyền -nhà nước, và chính băng cách đó đã làm cho nhân loại tiến hết sức gần đến chủ nghĩa xã hội”. Rằng, trong các nước dân chủ-cách mạng thực sự ,chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nươc,”tất nhiên và nhất định phải có nghĩa là một bước lớn, hay những bước tiến lên chủ nghĩa xã hội” và là “sự chuẩn bị vạt chất đầy đủ nhất “ cho chủ nghĩa xã hội, là “phòng chờ đivào chủ nghĩa xã hội”, là “nấc thang lịch sử” mà giữa nấc thang này với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội không có bất cứ một nấc thang nào ở giữa chúng. Bởi lẽ, “chủ nghĩa xã hội không phải là cái gì khác hơn là chế độ độc quyền nhà nước được áp dụng để phục vụ toàn thể nhân dân, va do đó không còn là chế độ độc quyền tư bản chủ nghĩa nữa”. Trên cở sử nhận thức một cách sâu sắc và rõ ràng rằng, khi chúng ta còn “chưa đạt tới” trình độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước, do đó không thể thực hiện được bươc chuyển lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin khẳng định: Chủ nghĩa tư bản dưới quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản và chính đảng của nó là “ngưỡng cửa của chủ nghĩa xã hội, là điều kiện cho thắng lợi chắc chắn của chủ nghĩa xã hội” Với quan niệm chủ nghĩa tư bản nhà nước là chủ nghĩa tư bản hiện đại mà lịch sử nhân loại cho đến lúc đó chưa hề biết tới và vai trò của nó trong việc phát triển lực lượng sản xuất là hết sức to lớn, V.I.Lênin phê phán tất cả những ai đã tự hạn chế ở chỗ đêm chủ nghĩa tư bản đối lập một cách trừu tượng với chủ nghĩa xã hội mà “không nghiên cứu những hình thức cụ thể của nó” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, về phương diện kinh tế, chủ nghĩa tư bản nhà nước hiện đại ở trình độ cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế các nước tiểu nông đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và do vậy, “nếu không trảI qua một cáI gì chung cho chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội” thì chúng ta khó có thể thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu về kinh tế. Những ai không nhận thấy điều đó, theo V.I.Lênin, đó là một sai lầm hết sức nghiêm trọng về phương diện lý luận. Khi khẳng định công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông nhât thiết phải dựa trên cở sở cải biến cơ cấu kinh tế và xã hội cũ “một cách thận trọng và từng bước’ theo phương thức “nhà nước đIều tiết” ở một mức độ nào đó,V.I.Lênin cho rằng, chúng ta phải biết áp dụng các biện pháp quá độ, các hình thức trung gian, “phải biết nghĩ đến các mắt xich trung gian” có thể tạođIều kiện thuận lợi cho bước chuyển từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản(nhất là bằng hướng nó vào con đương chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên. Khẳng định NEP là đường lối chiến lược, là bước đi không thể tránh khỏi đối với một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin luôn trăn trở với câu hỏi: Liệu có thể kết hợp, phối hợp nhà nước do giai cấp vô sản lãnh đạo với chủ nghĩa tư bản nhà nước được không? Và,chỉ qua một thời gian nhắn thực hiện NEP, V.I.Lênin đã trả lời một cách dứt khoát “Tất nhiên là được”. Song, Người cảnh tỉnh rằng, toàn bộ sự phức tạp và khó khăn “về lý luận cũng như trong thực tiễn” của vấn đề này là ở chỗ, phải“tìm ra những phương pháp đúng giúp ta hướng sự phát triển không thể tránh được (đến một trình đọ nào đó và trong một thời gian nào đó) của chủ nghĩa tư bản vào chủ nghĩa tư bản nhà nước; là đặt ra những đIều kiện cần thiết cho công việc ấy và đảm bảo sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản nhà nước sang chủ nghĩa xã hội trong một tương lai gần”. Từ một nước với nền kinh tế tiểu nông là chủ yếu quá độ lên chủ nghĩa xã hội, theo V.I.Lênin, không có con đường nào khác và thích hợp hơn là “phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước…không phảI bằng cách trực tiếp dựa vào nhiệt tình, mà là với sự nhiệt tình do cuộc cách mạng vĩ đại sinh ra, bằng cách khuyến khích lợi ích cá nhân, bằng sự quan tâm thiết thân của cá nhân, bằng cách áp dụng chế độ hạch toán kinh tế” b- Vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước Đánh giá vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước, V.I.Lênin cho rằng, nó là thành phần kinh tế quan trọng, tạo lên một “kết cấu kinh tế- xã hội quá độ”, tạo nên tính chất đan xen của nền kinh tế này; và cần thiết đến mức độ tiến bộ, trình độ phát triển, khả năng hiện thực và tính hữu ích của chúng đối với công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông, thì chúng ta cần dành một quyền ưu tiên nhất định cho chủ nghĩa tư bản nhà nước. Bởi lẽ, việc phát triển kinh tế tư bản nhà nước trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là cơ sở để tăng nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy công cuộc khôi phục và cảk tạo kinh tế, “ đưa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất” và “bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội được củng cố”. Trong quá trình thực hiện NEP, V.I.Lênin luôn nói về chủ nghĩa tư bản nhà nước và dành nhiều thời gian để nghiên cứu hình thức kinh tế mới mẻ này. Người coi những hình thức kinh tế cơ bản trong việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, như hình thức tô nhượng trong công nghiệp,hình thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ, hình thức tư nhân làm đại lý cho nhà nước trong thương nghiệp, hình thức nhà nước cho tư nhân thuê các xí nghiệp, cơ sở sản xuất, v.v… c-Hình thức xí nghiệp tô nhượng Trong những năm thực hiện NEP, V.I.Lênin đặc biệt chú ý tới hình thức tô nhượng với tư cách là “một sự liên kết với chủ nghĩa tư bản các nước tiên tiến”. Người rất coi trọng loại xí nghiệp tô nhượng theo kiểu cho tư bản nước ngoài thuê lại các xí nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, bởi theo người, hình thức tô nhượng trong công nghiệp chẳng những có khả năng đảm bảo mức sống khá giả cho một bộ phận nào đó, dù là nhỏ,của giai cấp công nhân, mà còn giúp cho giai cấp công nhân học tập cách quản lý hợp lý, đẩy nhanh việc khô, phục kinh tế, củng cố nền hòa bình mà khi đó, đang đòi hỏi bức thiết. Tại Đại hội III Quốc tế Cộng sản, khi nói về “ý nghĩa và điều kiện của Chính quyền Xô-viêt dung nạp chủ nghĩa tư bản và chế độ tô nhượng”, V.I.Lênin khẳng định: “Trong một nước tiểu nông đã bị cực kì tàn phá và quá đỗi lạc hậu, thì sự phát triển của chủ nghĩa tư bản do vô sản kiểm soát và đIều tiết(tức là chủ nghĩa tư bản nhà nước hiểu theo nghĩa ấy) là có lợi và cần thiết( cố nhiên chỉ trong một mức độ nhất định thôi) vì sự phát triển đó có thể đẩy nhanh sự phát triển ngay tức khắc của nền nông nghiệp nông dân.Đối với chế độ tô nhượng lại, càng đúng như thế”. Luận điểm này được V.I.Lênin nhiều lần sử dụng trong các cuộc tranh luận với không ít đảng viên cộng sản có thái độ nghi ngờ hình thức tô nhượng, coi thường các xí nghiệp tô nhượng-nhứng người tỏ ý lo ngại thế lực tự phát đầu cơ trên thị trường sẽ có đIều kiện hoành hành, nền kinh tế đất nước bị phá hoại bởi chủ nghĩa tư bản và theo đó là sự phục hồi chủ nghĩa tư bản.V.I.Lênin cho rằng, việc thực hiện chế độ tô nhượng sẽ “gây ra những nguy cơ mới”, song nếu vì thế mà cho rằng không nên thực hiện chế độ tô nhượng thì “những người chủ chúng ta không thể điều khiển một nhà nước”. Thực hiện chế độ tô nhượng buộc chúng ta phải giải quyết “ những vấn đề cực kỳ khó khăn” nhưng điều đó không có gì đáng sợ bởi chúng ta có đủ khả năng “bắt chúng phải khuất phục và cải tạo chúng”. Rằng tô nhượng là “một hình thái chiến tranh mới”-chiến tranh kinh tế.”một cuộc chiến tranh mà trong đó ta cũng không được nhượng bộ một chút xíu nào”, nhưng đó là cuộc chiến tranh “ có lợi cho chúng ta về mọi mặt” và là “một bảo đảm gián tiếp cho hòa bình”, bởi sự tồn tại của xí nghiệp tô nhượng là “một lý do về kinh tế và chính trị để chống lại chiến tranh”.Hơn nữa, V.I.Lênin còn coi việc “chuyển từ chế độ tô nhượng lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang một hình thức đại sản xuât khác” và một khi thành công, nó sẽ đưa lại cho chúng ta những xí nghiệp lớn kiểu mẫu “ngang trình độ của chủ nghĩa tư bản tiên tiến hiện đại”. Trong số các xí nghiệp tô nhượng, V.I.Lênin luôn dành sự đánh giá cao hơn cho kiểu xí nghiệp tô nhượng theo lối công ty liên doanh mà ở đó, nhà kinh doanh nước ngoài hợp tác với nhà nước xã hội chủ nghĩa “theo cổ phần”.Người coi việc sử dụng rộng rãI các công ty liên doanh sẽ có lợi hơn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc hậu.Hình thức nhà nước cho tư nhân thuê lại các xí nghiệp quốc doanh,hình thức thương nghiệp tư doanh và hình thức hợp tác xãcủa những người sản xuất nhỏ cũng được V.I.Lênin coi là những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước khi chúng phục tùng, phục vụ và chịu sự đIều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là thành phần kinh tế biểu hiện dưới dạng “thuần túy”, nhất là xí nghiệp tô nhượng, mà còn là sự hợp tác của Nhà nước xã hội chủ nghĩa với khu vực tư doanh trên cơ sở của chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất. * Vận dụng lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta Những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP, đặc biệt là về vấn đề sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước và vị trí vai trò của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần ở thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội không chỉ có ý nghĩa đối với nước Nga đầu những năm 20 của thế kỉ XX mà còn mang ý nghĩa quốc tế rộng lớn trong thời đại ngày nay.Những tư tưởng đó hiện vẫn là mẫu mực về một sách lược tình thế, đồng thời mang ý nghĩa của một đường lối chiến lược lâu dài đối với tất cả các nước trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền tiểu sản xuất, trong đó có nước ta. Coi những tư tưởng đó của V.I.Lênin là một trong những cơ sở lý luận cho đường lối đổi mới ở nước ta hiện nay và từ thực tiễn sự nghiệp đổi mới, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, khi khẳng định “chúng ta phảI không ngừng thông qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận mà từng bước hình dung ngày càng sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ những mô hình cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,văn hóa…”, Đảng ta nhấn mạnh: “Phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của V.I.Lênin về chính sách “Kinh tế mới”, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợo với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc”. Tại Đại hội lần thứ VIII, khi một lần nữa khẳng định đường lối đổi mới mà chúng ta đã thực hiện qua 10 năm, Đảng ta chỉ rõ việc kiên định định hướng xã hộichủ nghĩa trong tiến trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay cần phải thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh. Xuất phát từ quan niệm như vậy, Đảng ta đề ra chủ trương đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã; lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo, phát triển kinh tế hợp tác xã để tạo ra những đIều kiện thuận lợi cho chúng dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, phải tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư, làm ăn lâu dài; đồng thời mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. Để thực hiện tốt công việc này, cần “áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước”. Kinh tế tư bản nhà nước với tư cách là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài, như Đảng ta đã khẳng định, “có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý…của các nhà tư bản vì lợi ích bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”. Để kinh tế tư bản nhà nước thực hiện được vai trò quan trọng đó, Đảng ta chủ trương áp dụng nhiều phương thức góp vốn kinh doanh giữa Nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước nhằm “ tạo thế,tạo lực” cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài; cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp củ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21145.doc
Tài liệu liên quan