Chính sách kinh tế mới của Lênin (NEP) và sự vận dụng nó ở Việt Nam

Đề tài: chính sách kinh tế mới của lênin và sự vận dụng nó ở việt nam. a.phần mở đầu. Trong lịch sử ra đời và phát triển chủ nghĩa xã hội thế giới, chính sách kinh tế mới (NEP) của Lênin, xuất hiện vào những năm đầu tiên, ở nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới . Chính sách kinh tế mới của Lênin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, trước hết nó khôi phục được nền kinh tế Xô viết sau chiến tranh. Chỉ trong một thời gian ngắn đã tạo ra một bước phát triển quan trọng biến "nước Nga đói" t

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Chính sách kinh tế mới của Lênin (NEP) và sự vận dụng nó ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành một nước có nguồn lực dồi dào. Từ đó, nó khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin cho nhân dân và sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội theo những nguyên lý mà Lênin vạch ra. Chính sách kinh tế mới của Lênin còn đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo tư tưởng này nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân là những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình nền kinh tế xã hội chủ nghĩa . Tiềm năng tư duy lý luận, chính trị và nghệ thuật lãnh đạo tổ chức thực tiễn của Lênin trong thời kỳ chính sách kinh tế mới, vẫn luôn là cội nguồn của sự sáng tạo của những người cộng sản đang trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội mới ở các giai đoạn khác nhau. ở nước ta, nhiều người đã nói tới chính sách kinh tế mới của Lênin từ nhiều năm trước. Nhưng hiện nay, thực tiễn cách mạng nước ta là đặt ra nhiều vấn đề, mức độ khó khăn và cụ thể hơn, như sử dụng cơ cấu nhiều thành phần kinh tế với vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, qui luật giá trị với vai trò kế hoạch hoá, vận dụng nguyên tắc quản lý tập trung dân chủ trong việc phát huy mạnh mẽ tính chủ động, sáng tạo của sơ sở và địa phương....Không có một chính sách chủ trương nào có hiệu quả nếu không nhận thức và giải quyết đúng đắn các vấn đề cơ bản đó. Nhận thức và vận dụng kinh nghiệm về chính sách kinh tế mới của Lênin sẽ góp phần quan trọng vào suy nghĩ giải quyết những vấn đề nói trên. Những quan điểm kinh tế của Đảng ta nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay đã thể hiện sự vận dụng quan điểm của Lênin trong chính sách kinh tế mới . Tất nhiên, do thời gian và không gian cách xa nhau, nên nhận thức và vận dụng nó có sự khác nhau về bước đi, nội dung và biện pháp cụ thể trong khi tiến hành ở nước ta. Chính vì vậy em chọn đề tài này với mục đích làm sáng tỏ vấn đề trên qua việc nghiên cứu về lý luận của Lênin trong chính sách kinh tế mới để từ đó vận dụng vào điều kiện nước ta. Do trình độ và hiểu biết có hạn, bài viết này không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Em rất mong nhận ý kiến phê bình góp ý của thầy cô để hoàn thiện bài viết, nhân đây em thành thật cám ơn thầy giáo Nguyễn Tiến Long đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn! b. phần nội dung. i. cơ sở lý luận: 1. Hoàn cảnh ra đời của NEP: Như ta đã biết, chính sách kinh tế mới ra đời không chỉ gắn với bối cảnh lịch sử nước Nga đầu những năm 20 mà còn gắn liền với tình hình quốc tế có những thay đổi mang tính bước ngoặt. Về tình hình quốc tế, NEP ra đời trong bối cảnh quốc tế hết sức đặc biệt - đó là bối cảnh mà triển vọng của cách mạng thế giới đầy hứa hẹn được hình thành vào năm1918 sau thắng lợi mang ý nghĩa vạch thời đại nhưng trong bối cảnh đó đã khiến nước Nga xô viết trẻ tuổi phải tồn tại ở trạng thái biệt lập, đơn độc trong một thời gian dài với các nước tư bản chủ nghĩa. Không bao lâu sau cách mạng tháng mười, việc thực hiện xây dựng kế hoạch chủ nghĩa xã hội của Lênin bị gián đoạn bởi cuộc nội chiến 1918 - 1920 . Để đối đầu với một nền kinh tế thối nát ở trong nước và sự tấn công của các nước tư bản chủ nghĩa, Lênin đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến. Nội dung cơ bản của chính sách cộng sản thời chiến là trưng thu lương thực thừa của nông dân sau khi dành lại cho họ mức ăn tối thiểu. Đồng thời xoá bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tệ, xoá bỏ việc mua bán lương thực tự do trên thị trường, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy nhà nước. Chính sách cộng sản thời chiến đã đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của nhà nước Xô viết. Nhờ đó mà quân đội đủ sức chiến thắng kẻ thù, bảo vệ được nhà nước Xô viết. Tuy nhiên, khi hoà bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp. Nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển sản xuất, thêm vào đó hậu quả của chiến tranh đối với nền kinh tế rất nặng nề. Nền kinh tế Nga bị lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, cụ thể: 1/4 tài sản quốc gia bị pha huỷ, nông nghiệp rơi vào tình trạng đình trệ, nước Nga có năm triệu người bị chết đói. Lưu thông phân phối cực kỳ rối ren, đồng rúp giảm giá 13 nghìn đồng, ngân hàng không còn lý do để tồn tại. Năm 1920 so với năm 1913 sản lượng nông nghiệp chỉ còn một nửa, đại công nghiệp còn 1/7, giao thông vận tải bị tê liệt vì thiếu nguyên liệu, tài chính - tín dụng thì lâm vào tình trạng rối loạn. Chính sách cộng sản thời chiến đã xoá bỏ những kích thích kinh tế, những thứ này bị coi là tàn dư của chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp thì bị kìm hãm bởi " chế độ trưng thu không trả lại sản phẩm thặng dư của nông dân, nông dân không còn hứng thú để sản xuất với ý nghĩ sản xuất để làm gì nếu họ cứ lấy hết sản phẩm thừa. Cả sự phân phối bình quân theo chế độ tem phiếu trong khi đồng tiền mất giá cũng là trở ngại đối với sự phát triển kinh tế. Như vậy đã vi phạm nguyên tắc phân phối bình quân theo lao động và điều đó dẫn tới chỗ phá vỡ kỷ luật lao động ở trong nước, năng suất lao động giảm sút, sản xuất đình đốn...tình trạng nền kinh tế nước Nga lúc này được Lênin ví như một người bị đánh thập tử nhất sinh chỉ có thể đi lại bằng đôi nạng của mình. Đứng trước hoàn cảnh đó, Đại hội X của Đảng cộng sản Bônsêvích Nga (họp từ 8 đến 16 – 3 – 1921) đã chủ trương thay chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến” bằng chính sách “Kinh tế mới” _ NEP. 2. Nội dung của NEP: Các nội dung của NEP là một hệ thống gồm nhiều mắt khâu liên hoàn, có mối liên hệ bên trong như một dây chuyền, không thể thiếu khâu nào. Tất cả các khâu tạo thành cơ chế kinh tế cho phép nhà nước tháo gỡ khó khăn, điều hành sự vận động kinh tế - xã hội. Cơ chế kinh tế của NEP gồm mấy khâu sau đây: 2.1. Khâu thứ nhất của cơ chế NEP: Thuế lương thực. Có thể coi đây là khâu đầu, là bước quá độ từ trạng thái hỗn loạn sang cơ chế kinh tế mới. Thuế lương thực lại là khâu đầu tiên vì trong điều kiện nước Nga lúc ấy, giai cấp nông dân và nông nghiệp là nguồn nuôi sống xã hội. Sản xuất và đời sống xã hội phụ thuộc vào nông nghiệp. Khó khăn lớn nhất mà nhà nước vấp phải là thiếu lương thực. Nạn đói năm 1921 càng làm tăng khó khăn đó. Vì vậy mục đích trực tiếp của thuế lương thực là một trong những "biện pháp cấp tốc cương quyết nhất để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ". Thực hiện thuế lương thực, xoá bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa có nghĩa là chuyển từ biện pháp hành chính thuần tuý sang biện pháp kinh tế, thuế lương thực có vai trò của bước quá độ đó. Theo chính sách thuế lương thực, người nông dân chỉ nộp thuế lương thực với một mức cố định trong nhiều năm. Mức thuế này căn cứ vào điều kiện tự nhiên của đất đai canh tác. Nói cách khác thuế nông nghiệp chính là địa tô mà người nông dân canh tác trên ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân phải trả cho Nhà nước. Số lương thực còn lại, người nông dân được tự do trao đổi, mua bán trên thị trường. Nói tóm lại thuế lương thực là đòn xeo mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luật đầu tiên của quá trình khôi phục kinh tế, bởi vì: "Thuế lương thực sẽ giúp vào việc cải thiện nền kinh tế nông dân. Bây giờ, nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm và hăng hái hơn". 2.2. Khâu thứ hai của cơ chế NEP: Khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp. Trong thời kỳ áp dụng chính sách cộng sản thời chiến xu hướng hiện vật hoá nền nông nghiệp được duy trì và tăng lên, xu hướng kinh tế hàng hoá bị kìm hãm. ý nghĩa và các tác dụng cần có của thuế lương thực không thể phát huy được trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp, vì số nông sản thừa tăng lên một mức độ nào đó nếu không có trao đổi thì nó mất tác dụng kích thích. Do vậy, muốn cải thiện đời sống nông dân và công dân thì không thể dựa vào nền nông nghiệp gia trưởng mang tính chất tự cung tự cấp mà chỉ có thể dựa vào một nền nông nghiệp hàng hoá. Khác với cơ chế giao nộp, trưng thu dựa trên mệnh lệnh trong thời kỳ thực hiện chính sách cộng sản thời chiến, cơ chế kinh tế hàng hoá cho phép đạt được các mục tiêu như: - Đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng của nông dân và xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp khuyến khích sản xuất nông nghiệp vừa đi vào chuyên canh vừa phát triển kinh doanh tổng hợp, nhờ đó các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp được khôi phục và phát triển. - Đó là con đường để nhà nước giải quyết vấn đề lương thực một cách vững chắc. Sản xuất lương thực ngày càng mang tích chất hàng hoá thì nông dân có lợi hơn, nên vừa mở rộng diện tích canh tác, vừa thâm canh nhờ đầu tư thêm vốn và lao động. Kết quả là tổng số lương thực của xã hội tăng lên, khối lượng lương thực vào tay nhà nước qua con đường trao đổi và thu thuế cũng ngày càng tăng. - Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp làm sống lại các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội ở thành thị và nông thôn. Như vậy chính sách thuế lương thực của Lênin còn bao hàm tư tưởng chuyển sang kinh doanh lương thực, được coi như một đòn bẩy quan trọng cho sự phát triển sản xuất lương thực và sản xuất nông nghiệp nói chung. Theo hướng đó nhà nước đã đem lại sự giúp đỡ to lớn về tài chính và kỹ thuật cho nông dân. 2.3. Khâu thứ ba của cơ chế NEP: Khôi phục và tổ chức lại nền sản xuấtt công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp và nông dân. Một trong những điều kiện để thực hiện trao đổi hàng hoá là cần quỹ hàng công nghiệp có cơ cấu phù hợp với yêu cầu nông thôn. Nhưng trong lúc này sản xuất công nghiệp đang sa sút vì thiếu lương thực và nguyên liệu. Vì vậy, phải xem xét một cách thiết thực yêu cầu và khả năng khôi phục công nghiệp. Quá trình khôi phục sản xuất công nghiệp có những đặc điểm và tính quy luật sau : Một là, khôi phục công nghiệp trên cơ sở kỹ thuật cũ: Đây là một tất yếu về hai phương diện kinh tế và xã hội vì trong điều kiện khó khăn lúc bấy giờ nhà nước có rất ít vốn đầu tư cho công nghiệp, còn về mặt xã hội thì thu hút công nhân trở về xí nghiệp, tạo thêm công việc làm, nhờ đó củng cố kỷ luật lao động, tập hợp lại giai cấp công nhân, nhanh chóng ổn định sản xuất. Hai là, phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cân đối với nguồn tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu: Do khôi phục công nghiệp dựa trên khả năng cân đối thực tế, nên nhà nước thực hiện được sự tập trung sản xuất trong công nghiệp. Đây không phải là sự tập trung hoá tạo ra xí nghiệp lớn mới, mà là tập trung những cơ sở đã bảo đảm được nguyên liệu, dự trữ vật chất và tài chính. Đó là những xí nghiệp trong kế hoạch nhà nước được cung ứng toàn bộ hay một phần các điều kiện sản xuất. Tập trung sản xuất như vậy cho phép tạo ra sản phẩm thặng dư, dù chỉ là của một bộ phận công nghiệp và tạo điều kiện cho hạch toán kinh tế. Ba là, bước đi của quá trình khôi phục công nghiệp: Xuất phát từ nhu cầu nông nghiệp và nông thôn, có tính đến khả năng tích luỹ ngay trong quá trình khôi phục, nền công nghiệp được khôi phục theo bước đi như sau: Trước hết là khôi phục công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, là những ngành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Tiếp đó khôi phục công nghiệp than. Các ngành công nghiệp nặng được khôi phục chậm hơn. Vốn đầu tư phần lớn được nhà nước hướng vào phát triển cơ sở năng lượng. Công nghiệp dầu khí được khôi phục và cải tạo cơ bản, cùng với các cơ sở năng lượng khác. Bốn là, sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp: Hình thức kinh tế cơ bản trong việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước như hình thức tô nhượng trong công nghiệp, hình thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ, hình thức tư nhân làm đại lý cho nhà nước trong thương nghiệp, hình thức nhà nước cho tư nhân thuê xí nghiệp, vùng mỏ, khu rừng, khu đất... Thực chất của các hình thức đó là "những mắt xích trung gian có thể tạo điều kiện thuận lợi cho bước chuyển từ chế độ gia trưởng, từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội". Năm là, chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hạch toán kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ: Trong điều kiện thực hiện NEP, công nghiệp không thể tiếp tục sống dựa vào ngân sách nhà nước, không thể quản lý tập trung bằng mệnh lệnh như trước, phương phápquản lý bằng chỉ thị thẳng được thay bằng sự kết hợp tối ưu, phương pháp hành chính với phương pháp kinh tế. Sự chuyển biến trong quản lý công nghiệp bao gồm mấy nội dung chủ yếu: Trước tiên, tiến hành hạch toán kinh tế ở các xí nghiệp. Các xí nghiệp hạch toán kinh tế được quyền tổ chức cung ứng, quyền tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường.Muốn chuyển sang hạch toán kinh tế, không những phải bảo đảm quyền tự chủ của xí nghiệp về sản xuất mà còn thực hiện quyền tự chủ tài chính, nhất là về phân phối lợi nhuận và tiền lương. Số lợi nhuận do xí nghiệp tạo ra được dành 20% để trang trải các chi phí và mở rộng sản xuất, phần còn lại nộp vào ngân sách nhà nước. Như vậy do phải tính toán đến chi phí lỗ lãi nên các xí nghiệp đã thực hiện được tiết kiệm, đồng thời nhờ phát huy quyền tự chủ, khuyến khích bằng tiền thưởng đã phát huy khả năng sáng tạo, nâng cao năng suất lao động. Trong thời kỳ này, nhờ có chính sách điều tiết giá cả thích hợp mà nhà nước đã giành được thị trường nông thôn. Điều cần chú ý trong quá trình phấn đấu để thiết lập quan hệ kinh tế và tỷ giá hợp lý giữa hai ngành là những biện pháp cho kinh tế hai ngành tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau trong sự phát triển, chứ không phải kìm hãm nhau. Khi các xí nghiệp chuyển sang hạch toán kinh tế sử dụng ngày càng rộng rãi quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thì đòi hỏi phải đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô trong công nghiệp: Trong quá trình thực hiện NEP, nhiều hình thức quản lý phong phú đã được thực hiện và vận dụng. Sự thay đổi trong các hình thức quản lý gắn liền với sự thay đổi trong nền kinh tế nhiều thành phần, với sự thay đổi về cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội. Nhưng khuynh hướng chủ đạo của sự thay đổi đó là khuynh hướng hoàn thiện và mở rộng phạm vi áp dụng các nguyên tắc quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, dựa trên quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ. Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô, về thực chất là tăng cường công tác phối hợp (phân công và hợp tác) giữa các ngành, các yếu tố của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt hiệu quả kinh tế tối ưu. Do đó vai trò của công tác kế hoạch hoá trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần được củng cố, chứ không phải là xoá bỏ. Lênin đã chỉ rõ: "Chính sách kinh tế mới không thay đổi kế hoạch kinh tế thống nhất của nhà nước và không vượt ra ngoài giới hạn của kế hoạch đó, nhưng thay đổi biện pháp thực hiện kế hoạch đó". Dân chủ hoá quản lý kinh tế: Một trong những đặc trưng của cơ chế quản lý cũ và cơ chế quản lý thời kỳ NEP là sự tham gia của quần chúng vào hoạt động quản lý. Lênin coi việc lôi cuốn quần chúng vào việc quản lý là một vấn đề nguyên tắc, thể hiện đòi hỏi cả về mặt dân chủ lẫn mặt tập trung. Trong giai đoạn tực hiện NEP, dân chủ hoá trong quản lý kinh tế được thực hiện có kết quả trên mấy mặt sau: * Tổ chức hội nghị sản xuất với sự tham gia của đại diện công đoàn và chính quyền để giải quyết các vấn đề cụ thể về cải tiến sản xuất và quản lý mà theo Lênin: công đoàn tham gia vào quản lý còn quan trọng hơn nhiều so với tuyên truyền sản xuất. * Thực hiện chế độ phân phối theo lao động, xoá bỏ dần tình trạng bình quân hoá trong thu nhập, đi đôi với củng cố kỷ luật lao động, phát triển phong trào thi đua. * Hình thức công khai và dân chủ trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo - quản lý. Trong việc lựa chọn cán bộ quản lý các cấp, Lênin quan tâm đặc biệt đến những người có tài, trung thực, không phân biệt là đảng viên hay ngoài đảng và đặt vấn đề "duy trì sự kiểm soát và sự lãnh đạo của những người cộng sản. Mặt khác, những người ngoài dảng cũng phải kiểm soát các đảng viên". * Thực hiện nguyên tắc và sự kiểm soát của công nhân trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế. 2.4. Khâu thứ tư của cơ chế NEP: Tổ chức quá trình lưu thông theo quan điểm NEP. Hội nghị Đảng lần thứ XI tháng 12 năm 1921 đã nêu ra phương hướng quản lý lĩnh vực lưu thông là "Căn cứ vào thị trường hiện có và tính toán đến các quy luật của nó, chiếm lĩnh thị trường và bằng những biện pháp kinh tế thường xuyên, có cân nhắc và được xây dựng trên sự kiểm kê chính xác quá trình của thị trường mà nắm vững việc điều tiết thị trường và lưu thông tiền tệ". Quan điểm của NEP với việc đổi mới lĩnh vực lưu thông hoàn toàn khác với quan điểm trong thời kỳ trước là quan điểm đòi xoá bỏ thương nghiệp và lưu thông hàng hoá. Nó phù hợp với yêu cầu chuyển nền kinh tế từ trạng thái hỗn loạn sang quỹ đạo tái sản xuất bình thường, từ phân phối trực tiếp và bao cấp sang kinh tế hàng hoá. Do đó, nội thương trở thành cái mắt xích đặc biệt cần nắm vững trong dây truyền quản lý, điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Lênin đã chỉ ra rằng thương nghiệp là mắt xích trong triển khai NEP, bởi vì: Mục đích cao nhất của NEP ở bước ngoạt cách mạng là thiết lập liên minh kinh tế giữa hai giai cấp công nhân và nông dân trong điều kiện nông nghiệp lạc hậu, phân tán thì thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất có thể có giữa hàng chục triệu tiểu nông với giai cấp vô sản, là điều kiện để cho công nghiệp và nông nghiệp có thể tái sản xuất được. Hơn nữa, không có hoạt động thương nghiệp thì không thể sử dụng các hình thức quá độ trong sản xuất và lưu thông. Để hướng quá trình lưu thông hàng hoá đi thẳng tới nhu cầu, nhà nước đã sử dụng nhiều hình thức thương nghiệp với một cơ cấu thương nghiệp bảo đảm phát huy vai trò của thương nghiệp nhà nước. Trong quá trình tổ chức lưu thông hàng hoá theo tinh thần NEP, Nhà nước Xô viết đã nắm vững tính quy luật liên kết giữa thương nghiệp với tài chính và ngân hàng như một chỉnh thể. Tổ chức quá trình lưu thông, ngoài thương nghiệp ra, giao thông vận tải là khâu quan trọng vì khi nền kinh tế chuyển sang quỹ đạo NEP, tổng sản lượng xã hội tăng lên nhanh chóng, khối lượng vận chuyển tăng nhiều và đa dạng, trong khi ngành giao thông vận tải đang gặp khó khăn do bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh và bị đặt trong cơ chế tập trung hoá cao mà nay đã không còn phù hợp. Để khắc phục những khó khăn đó, một mặt nhà nước đầu tư khôi phục giao thông vận tải. Mặt khác, nhà nước chủ trương cải thiện tình hình tài chính của giao thông vận tải bằng cách chuyển ngành này sang hạch toán kinh tế. 2.5. Khâu thứ năm của cơ chế NEP: ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô viết. Việc ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính là hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau, nhất là trong bối cảnh: nước Nga trải qua mấy năm thi hành chính sách cộng sản thời chiến và những hậu quả của chiến tranh, nền kinh tế bị xáo trộn, bị tàn phá, kinh tế hàng hoá bị thu hẹp, xu hướng hiện vật hoá ngày càng tăng. Bước vào khôi phục kinh tế trong tình trạng lạm phát nặng nề, ngân sách bội chi ngày càng lớn, đồng rúp mất giá.Ta sẽ xét từng vấn đề: Chấn chỉnh công tác tài chính, củng cố nền tài chính Xô viết. Lênin đã chỉ ra nhiều biện pháp để chấn chỉnh công tác tài chính, như biện pháp kiểm kê, kiểm soát có tác dụng tính toán nhu cầu thực tế về tài chính của xí nghiệp, kiểm soát việc chi tiêu, hạn chế các chi phí sản xuất và chi phí cho bộ máy. Ngay trong thời kỳ thực hiện chính sách cộng sản thời chiến, Lênin đã chỉ ra rằng trong thời đại chuyên chính vô sản và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tài chính của nhà nước phải trực tiếp dựa trên cơ sở lưu thôngcủa một bộ phận thu nhập nhất địnhcủa các độc quyền nhà nước. Sự cân đối thu chi chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở tổ chức việc trao đổi hàng hoá đúng đắn. Bước vào thực hiện NEP, công tác tài chính của nhà nước đứng trước những khó khăn lớn: Ngân sách nhà nước bội chi 21.937 tỉ rúp, trong khi công tác quản lý tài chính quá yếu kém. Do vậy cần tăng thu, giảm chi. * Để giảm chi chính quyền Xô viết đã thực hiện mấy biện pháp chủ yếu: - Giảm biên chế nhà nước một cách kiên quyết để giảm nhẹ cho ngân sách, đi đôi với tìm công việc làm cho lao động dôi ra. - Thi hành quy định về các khoản chi tiêu ở mức tối thiểu, theo nguyên tắc tiết kiệm, cắt giảm những khâu chi không cần thiết trong bộ máy hành chínhquản lý kinh tế. - Không cấp ngân sách cho các xí nghiệp, thực hiện chế độ tự trang trải, tự chịu trách nhiệm về tài chính trên cơ sở đưa các xí nghiệp vào chế độ hạch toán kinh tế. * Để tăng thu, đã thực hiện các biện pháp sau đây: - Các cơ sở kinh tế nhà nước chuyển sang hạch toán kinh tế, phải trích nộp lợi nhuận và khấu hao cho ngân sách. Cùng với sự khôi phục sản xuất, nguồn thu này ngày càng tăng và dần trở thành nguồn thu chủ yếu. - Xây dựng lại hệ thống thuế, bao gồm: thuế công thương nghiệp, thuế thu nhập, thuế tài sản, thuế nông nghiệp... - Nhà nước tiến hành phát hành công trái và tín phiếu để góp phần tăng thêm ngân sách quốc gia. - Ngoài ra, sự phục hồi của ngoại thương càng bổ sung được một số dự trữ vàng cho nhà nước. ổn định tiền tệ. Trong ba tháng ngắn ngủi thực hiện một số chính sách và biện pháp quan trọng của những khâu đầu trong cơ chế NEP như áp dụng chính sách thuế lương thực, xoá bỏ chính sách trưng thu lương thực thừa, chính sách trao đổi hàng hoá, củng cố chính sách thương nghiệp... Nếu xét theo góc độ của việc ổn định đồng tiền thì những kết quả bước đầu của các biện pháp đó đã có tác động tích cực nhất trên lĩnh vực tài chính, tiền tệ, mà kết quả rõ rệt nhất là đã góp phần vào việc ổn định đồng rúp được 3 tháng trong năm 1921. Đó chính là tín hiệu về sự đúng đắn của cơ chế NEP, có thể vững tâm tiến hành đến khâu cuối cùng các cơ chế đó. Để ổn định tiền tệ phải tiến hành cải cách tiền tệ thông qua các bước tuần tự: Bước thứ nhất là tiến hành thay đổi đơn vị tiền tệ, bước thứ hai là bước quá độ của cải cách tiền tệ, bước cuối cùng là hoàn thành cải cách tiền tệ cùng với củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng như ngân hàng nhà nước, ngân hàng công thương nghiệp, ngân hàng chuyên nghiệp và năng lượng, ngân hàng ngoại thương... Như vậy, các nội dung cơ bản của NEP tạo thành một hệ thống gồm năm khâu liên hoàn kể trên, chúng có mối quan hệ bên trong như một dây chuyền, không thể thiếu khâu nào. Những nội dung này không dừng lại ở tư tưởng, ở lý thuyết mà ý nghĩa lớn lao của nó đã được lịch sử chứng minh. Nhờ thực hiện NEP đã đem lại những thành công không thể phủ nhận trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế ở Nga đầu những năm 20. ii. cơ sở lý luận: 1. Thực trạng kinh tế nước Nga sau khi thực hiện NEP: Nhờ việc thực hiện chính sách kinh tế mới mà chỉ trong một thời gian ngắn nhà nước Xô viết đã khôi phục được nền kinh ttế quốc dân, trong đó phải kể đến một số thành tựu sau: Thứ nhất, do quán triệt đầy đủ quan điểm Lênin trong chính sách lương thực nên ngay sau đó, vụ thuế lương thực đầu tiên đạt 96% (mặc dù tỷ xuất thuế đã hạ thấp và năm 1921 là năm bị hạn hans ghê gớm và nạn đói kinh khủng). Còn sau đó, giữa năm 1922 đến năm 1925, nông nghiệp phát triển mạnh. Đến năm 1925 sản xuất nông nghiệp nước Nga đã đạt mức trước chiến tranh(1913), trong khi các nước tư bản chủ nghĩa tham gia chiến tranh thế giới lần thứ nhất phải trải qua mười năm mới khôi phục xong sản xuất nông nghiệp.Nông nghiệp được phục hồi và phát triển kéo theo sự khôi phục công nghiệp và thương nghiệp. Đời sống nhân dân lao động được ổn định trở lại sau một năm thi hành NEP. Sau 4,5 năm thi hành NEP, nước Nga Xô viết không chỉ khắc phục được hậu quả chiến tranh và nạn đói, mà sản xuất còn vượt mức trước chiến tranh.. Thứ hai, nhờ khôi phục và tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp cân đối nên trong 4 năm(1921 - 1924), tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh tăng hơn hai lần. Đến năm 1926, mức tăng sản phẩm trung bình hàng năm là 41%, công nghiệp nặng đã vượt mức trước chiến tranh. Thứ ba, nhờ sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, thực hiện hạch toán kinh tế ở các xí nghiệp quốc doanh đã nâng cao năng xuất lao động. Mức sản xuất của một công nhân trong năm 1921 - 1924 đã tăng 14%, trong năm 1924 - 1925 đã tăng đến 168%, giá thành sản phẩm công nghiệp quốc doanh giảm xuống nhiều. Lợi nhuận của công nghiệp quốc doanh tăng lên 4 lần từ năm 1924 đến năm 1926. Thứ tư, nhờ tổ chức lại quá trình lưu thông nên thương nghiệp được phát triển mạnh mẽ, tổng mức lưu chuyển hàng hoá năm 1926 bằng hai lần năm 1924. Thứ năm, nhờ củng cố nền tài chính, ổn định tiền tệ mà cán cân thu chi được cải thiện nhanh chóng, nếu tháng 9 - 1922, sự thiếu hụt đối với các khoản chi phí ngân sách quốc gia là 43,4%, trong năm 1922 - 1923 là 27,1% thì năm 1923 - 1924 sự thiếu hụt ngân sách đã giảm tới mức tối thiểu(tổng số thu là 2026 triệu rúp, tổng số chi là 2022 triệu rúp ). Còn về ổn định tiền tệ đã thu được những thắng lợi cơ bản, điều chỉnh lại thu nhập quốc dân. Năm 1925 - 1926, thu nhập quốc dân đã thay đổi hẳn: 82% thu nhập thuộc công nhân, nông dân; 10% thuộc tư sản thành thị và nông thôn; thu nhập thuộc gia đình nghèo và trung bình vượt mức 1913, đời sống người dân được ổn định và cải thiện. Cũng trong thực hiện NEP, nhờ tăng cường phát huy vai trò của hợp tác xã, coi hợp tác xã là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, là liên minh kinh tế giữa công nhân và nông dân mà nhà nước Xô viết đã tiến được một bước dài trong củng cố khối liên minh này và đã lập nên một nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới đó là liên bang cộng hoà XHCN Xô viết. Trước những thành tựu to lớn đạt được ở nước Nga khi thực hiện NEP, nó còn mang ý nghĩa lịch sử to lớn và những bài học kinh nghiệm quý báu cho công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. 2. ýnghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm và sự vận dụng của NEP vào nước ta: 2.1.ýnghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm của NEP: 2.1.1 ýnghĩa lịch sử của NEP: Cách mạng tháng mười mở ra thời đại mới cho xã hội loài người, không chỉ vì đó là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên, mà còn vì chính sách kinh tế mới đặt nền móng cho toàn bộ thắng lợi sau này trong bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của chính sách kinh tế mới ngay từ những tháng năm đầu cách mạng xã hội chủ nghĩa đã có ý nghĩa lịch sử vĩ đại. Nó đã và đang là một nhân tố chủ yếu phát huy ảnh hưởng sâu rộng của cách mạng tháng mười trong tư tưởng và tình cảm của giai cấp công nhân, nông dân và trí thức trên toàn thế giới. Hiện nay, trong quá trình cải tổ ở các nước xã hội chủ nghĩa, mỗi bước tiến lên về chất của chủ nghĩa xã hội lại càng làm nổi bật thêm những giá trị của chính sách kinh tế có tầm vóc lịch sử đó. Nhờ có NEP, nên lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học lần đầu tiên trở thành hiện thực. Lênin không những dẫ đặt nền móng lý luận, mà còn nêu ra mẫu mực về chiến lược và sách lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa từ điểm xuất phát khác nhau. Phản ánh đúng đắn đòi hỏi của quy luật ra đời và phát triển chủ nghĩa xã hội trong điều kiện thời đại mới, tư tưởng kinh tế Lênin và toàn bộ học thuyết của Người đang soi sáng, hướng dẫn mỗi bước tiến lên của các quá trình cách mạng ở các nước ở trình độ khác nhau. 2.1.2. Bài học kinh nghiệm của NEP: Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam cho thấy rằng, không thể giải quyết được những vấn đề cấp bách trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế bằng các chủ trương, biện pháp dựa trên tư duy kinh tế cũ, mang đầy tính bị động và đối phó với tình hình. Bởi vậy, đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, là bước chuyển có ý nghĩa cách mạng, đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu kinh tế tronh thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ một nước phải đi theo con đường "rút ngắn", với hình thức quá độ "gián tiếp" mà lịch sử đã quy định. Trong một bối cảnh lịch sử cụ thể không bình thường, nhiều biến động, đương nhiên chúng ta phải xây dựng không chỉ đường lối chiến lược, mà cả những giải pháp tình thế, vừa có khả năng đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa tạo nền móng cho sự phát triển lâu bền. Chiến lược và sách lược đó phải dựa trên một nền tảng lý luận vững chắc và được hình thành trên cơ sở thực tiễn đầy đủ, kết hợp kinh nghiệm trong nước và kinh nghiệm quốc tế. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay cho thấy rõ, chính sách kinh tế mới của Lênin là mẫu mực về một giải pháp tình thế, và còn là đường lối mang tính chiến lược, là cái đem lại cho chúng ta cơ sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm thực hiện chính sách kinh tế mới ở nước Nga đầu những năm 20 vẫn còn là bài học bổ ích cho đất nước chúng ta trong bối cảnh hiện nay. Thật vậy, những tư tưởng cơ bản trong chính sách kinh tế mới của Lênin về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, thi hành chế độ hợp tác xã, cho phép tự do buôn bán, tự do trao đổi hàng hoá, kinh doanh tư nhân trên cơ sở điều tiết của nhà nước vẫn có giá trị và ý nghĩa lớn lao trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 2.2. Sự vận dụng của NEP vào nước ta: 2.2.1 Những điểm khác biệt giữa thực trạng nước ta hiện nay và thực trạng nước Nga giai đoạn thực hiện NEP: Thời kỳ thực hiện NEP ở Liên Xô cách xa chúng ta về mặt thời gian, nhưng nhiều vấn đề kinh tế - xã hội mà NEP đã giải quyết thành công lúc bấy giờ như đã nói ở trên là rất gần gũi với những vấn đề chúng ta đang tập trung suy nghĩ giải quyết ở nước ta. Tuy nhiên, những điều kiện lịch sử cụ thể của Liên Xô lúc đó, cũng như tình hình quốc tế thời kỳ đó không giống với điều kiện nước ta và hoàn cảnh thời đại hiện nay. Tính đến sự khác nhau ấy trong việc vận dụng NEP vào nước ta là rất quan trọng và cần thiết, nhất là phải chú ý những đặc điểm chủ yếu sau đây: Thứ nhất, điểm xuất phát về kinh tế - xã hội của nước Nga lúc đó khác với điểm xuất phát của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nước Nga đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đã có nền đại công nghiệp bên cạch nền nông nghiệp sản xuất cho hàng hoá. Sự quyện chặ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29541.doc
Tài liệu liên quan