Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO

Lời mở đầu 1. Tính tất yếu của đề tài: “ Cơn lũ WTO đang vào nước ta”, “Nông nghiệp Việt Nam và sân chơi WTO”, “Vào WTO Việt Nam được gì”…Thuật ngữ WTO đã trở thành chủ để nóng trên các phương tiện thông tin đại chúng gần đây, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO. Chứng tỏ sức ảnh hưởng sâu rộng của WTO, Bộ trưởng Bộ Thương Mại, Trương Đình Tuyển trong một chương trình truyền hình có kể một câu chuyện vui giữa một người xe ôm và một người bán vé xổ số: “ Người bán vé nói: Việt Nam gia nhập W

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1550 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TO người dân sẽ giàu hơn tôi sẽ bán được nhiều vé hơn. Người xe ôm lo lắng nói: Ô tô, xe máy từ từ rẻ đi, dần dần không còn ai đi xe ôm nữa tôi thất nghiệp mất.”. Gia nhập WTO là bước chuyển mình của toàn bộ nền kinh tế đất nước. Nó tác động tới không chỉ doanh nghiệp, công nhân mà còn tác động tới toàn bộ đời sống của tất cả mọi người dân. Việt Nam còn tới hơn 60% người dân làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp thì không khó hiểu khi nói: nông dân là tầng lớp bị chi phối trực tiếp nhất. Trong thời gian ngắn tới, khi nông sản ngoại tràn vào với mức thuế ưu đãi, một số nông sản của Việt Nam sẽ thua ngay trên sân nhà. Việc làm cần thiết của ngành nông nghiệp bây giờ là củng cố lại thị trường sân nhà và quan trọng hơn tiếp sức cho những nông sản chủ lực ra cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Không còn thời gian để bàn tính được gì và mất gì, việc đánh giá, định hướng các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản sẽ không bị coi là quá sớm nếu như không nói là quá muộn. Xin giới thiệu đề tài: “Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO” 2. Mục đích của đề tài: Thực tế Việt Nam có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu đứng nhất nhì thế giới nhưng vẫn thụ động về thị trường. Giá nông sản của Việt Nam thường thấp hơn giá nông sản cùng loại của các nước khác, do chất lượng thấp, do công tác quảng bá chưa tốt. Mục đích của đề tài là đề xuất những giải pháp mới trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam – tác nhân có vai trò quyết định tới tình hình xuất khẩu nông sản . Hơn thế nữa, đề tài cũng xem xét các chính sách này dưới góc độ Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, để đảm bảo các chính sách đưa ra không vi phạm quy định của WTO. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đề tài lấy các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản làm đối tượng nghiên cứu. Các chính sách này được đánh giá, phân tích từ năm 2001 đến nay (giai đoạn xuất khẩu nông sản của Việt Nam có nhiều khởi sắc). Những chính sách này cũng chủ yếu xem xét dưới góc độ các nhà hoạch định chính sách như: Chính phủ, các sở ban ngành… Bên cạnh đó cũng có một số chính sách, chiến lược xuất khẩu nông sản của phía doanh nghiệp được mổ xẻ, nhằm tạo tính đa dạng của đề tài. 4. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài chủ yếu được nghiên cứu với phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá tổng hợp. Dựa trên những số liệu, hoạt động thực tế rồi so sánh với thị trường thế giới, tiềm năng đất nước để kết luận những mặt hàng, hoạt động xuất khẩu nào là thành công và mặt hàng, hoạt động nào là thất bại. Cuối cùng là bình luận những chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản có đóng góp gì vào thành công, gây ra tác nhân gì cho thất bại. Từ đó ta dễ dàng đưa ra giải pháp thích hợp. 5. Kết cấu của đề tài: Đề tài được trình bày theo trình tự thời gian. Phân tích các chính sách từ giai đoạn trước rồi mới đến hiện nay. Những quy định chung của WTO, cơ hội và thách thức được thể hiện ở phần đầu của đề tài, tiếp theo các hạn chế và thành công của các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam đã triển khai được phân tích. Cuối cùng đề tài đề xuất ra một số giải pháp để khắc phục các hạn chế và đảm bảo sao cho các chính sách phù hợp với khuôn khổ luật pháp của WTO. Đề tài bao gồm: Chương 1. Những vấn đề chung về xuất khẩu nông sản và kinh nghiệm của các nước. Chương 2. Thực trạng chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam. Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Chương 1. Những vấn đề chung về xuất khẩu nông sản và kinh nghiệm của các nước 1.1. Tổng quan về chính sách thúc đẩy xuất khẩu 1.1.1. Khái niệm và vai trò 1.1.1.1. Khái niệm Chính sách thúc đẩy xuất khẩu là một nội dung của chính sách thương mại quốc tế. Nó được hiểu là: Hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp do nhà nước sử dụng để quản lý, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của quốc gia nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó trong một thời gian nhất định. 1.1.1.2. Vai trò Thông qua các công cụ, biện pháp các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản có vai trò: Định hướng cho các sản phẩm cho các sản phẩm: xuất khẩu vào thị trường nào, xuất khẩu mặt hàng nào, với số lượng bao nhiêu. Thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng ra thị trường quốc tế: bằng các biện pháp như ưu đãi thuế, tư vấn, đào tạo…các chính sách này tạo điều kiện tốt nhất để các doanh nghiệp trong nước đưa hàng của mình ra thị trường thế giới. Góp phần xây dựng và phát triển các ngành công nghệ mới cho nền kinh tế. Ngoài ra nó còn có một số vai trò khác như: phân bổ nguồn lực, đảm bảo cân bằng các cân thương mại… 1.1.2. Nội dung Nội dung của chính sách thúc đẩy xuất khẩu chính là các công cụ, biện pháp mà chính sách này áp dụng: Thuế quan: là khoản tiền mà doanh nghiệp phải nộp khi xuất bất kỳ một sản phẩm nào. Thường thì thuế quan cho các hàng hoá xuất khẩu rất nhỏ, thậm chí bằng không để thúc đẩy xuất khẩu. Hạn ngạch: là số lượng, giá trị hàng hoá tối đa mỗi doanh nghiệp được phép xuất khẩu sang một thị trường hay khu vực thị trường nào đó trong thời gian nhất định. Ví dụ: Mỹ áp đặt hạn ngạch nhập khẩu dệt may từ Việt Nam. Từ đó để đảm bảo ổn định nhà nước quy định cho các doanh nghiệp hạn nghạch xuất khẩu dệt may vào Mỹ. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện: là thoả thuận giữa hai quốc gia cắt giảm lượng hàng hoá xuất khẩu. Các chính sách về thuế, hạn ngạch đang dần bị xoá bỏ chính vì vậy các chính sách này ít được coi là động lực để xuất khẩu. Các chính sách mà các quốc gia hay áp dụng để thúc đẩy xuất khẩu: Phát triển khoa học công nghệ. Xúc tiến, nghiên cứu thị trường. Vay tín dụng với lãi suất ưu đãi. 1.2. Cơ hội và thách thức đến sự phát triển nông nghiệp nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng: Sau 11 năm 7 ngày kể từ ngày nộp đơn xin gia nhập (4/1/95) đến ngày 11/1/2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên 150 của WTO. Đây có thể coi là một bước chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam. Nhiều người cho rằng, cơ hội và thách thức khi vao WTO là 50-50 nhưng trước mắt chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì sản phẩm thiếu sức cạnh tranh, trong lúc thuế nhập khẩu giảm. Có lẽ nông nghiệp và đặc biệt các nông sản xuất khẩu sẽ chịu nhiều sức ép hơn cả. Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nông sản Việt Nam tiếp cận với thị trường 149 nước thành viên khác với mức thuế ưu đãi hơn trước. Nông sản Việt Nam sẽ có một sân chơi hơn 5 tỷ người tiêu thụ, kim ngạch buôn bán nông sản lên tới 548 tỷ USD/năm. Trong đó rau quả là mặt hàng nông sản lớn nhất với trị giá 103 tỷ USD. Thị trường về lúa gạo, cà phê, cao su …khoảng gần 10 tỷ USD. Các loại nông sản khác như chè, điều và hồ tiêu thì trên dưới 3 tỷ USD/năm. Có thể thu hút khuyến khích được nhiều thành phần kinh tế kể cả nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam. Với một môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng và minh bạch hơn do yêu cầu của đổi mới thì nông nghiệp có nhiều tiềm năng để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra khi đã là thành viên của WTO trong các vụ kiện như bán phá giá, trợ cấp nông nghiệp thì Việt Nam sẽ có tiếng nói bình đẳng hơn. Tuy vậy Việt Nam vẫn được coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm tới (đối với Mỹ) tức là nguy cơ Việt Nam sẽ vấp phải những điều phi lý trong vụ kiện bán phá giá cá basa không phải là không còn. Song không phải dễ dàng đối với nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Thị trường xuất nhập khẩu nông sản thế giới ngày nay được tổ chức rất chặt chẽ, phần lớn do các siêu thị đa quốc gia khống chế và kiểm soát. Do tri thức tiêu dùng ngày càng cao nên yêu cầu của siêu thị về chất lượng nông sản- vốn dựa trên yêu cầu của giới tiêu thụ của các nước lớn và giàu có- ngày càng khó khăn, trở thành rào cản đối với rất nhiều nước đang phát triển vốn xem xuất khẩu nông sản làm đòn bẩy kinh tê. Có rất nhiều thách thức đối với nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng rõ ràng và trực tiếp nhất đó là 4 luật chơi: 1, Luật quy định về an toàn thực phẩm: Suốt trong quá trình sản xuất, trái cây và rau quả Việt Nam phải có Chứng chỉ “ nông nghiệp an toàn” hay “nông nghiệp tốt” (Good Agricultural Practices. GAP ) để chứng minh mặt hàng này luôn an toàn vệ sinh. 2, Luật quy địnhi về chất lượng: Mặt hàng nông sản Việt Nam phải cần rất nhiều chứng chỉ, chẳng hạn như chứng chỉ xác nhận nguồn gốc giống (chứng chỉ xác nhận giống không thuộc loại cây biến đổi gen, GMO), chứng chỉ báo cáo chất lượng ( hàm lượng protein, chống oxy hóa, vitamine, đồng bộ về giống, độ chín, kích cỡ và màu sắc)… để chứng minh mặt hàng có chất lượng cao và bổ dưỡng. 3, Luật quy định về số lượng: lượng hàng hóa lưu hành trong thị trường nông sản thế giới ngày nay vừa lớn về số (trăm tấn, ngàn tấn, vạn tấn), vừa đồng bộ (giống, kích cỡ, màu sắc, bao bì) và chính xác về thời gian giao hàng (đúng ngày qui định hoặc thứ tư mỗi tuần, tuần đầu mỗi tháng…). 4, Luật quy định về giá cả: để yểm trợ cạnh tranh, giá cả trở nên một yếu tố quyết định. Đây là một thứ luật “ luật bất thành văn” của bất cứ một cơ sở sản xuất hay một quốc gia nào trên thế giới muốn tham dự cuộc chơi. Nông dân Việt Nam phải hết sức quan tâm đến điểm này để mặt hàng luôn có giá rẻ- vốn là một lợi thế của Việt Nam trong mấy năm qua. Theo đánh giá của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cái khó nhất nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là chu trình “nông nghiệp an toàn” hay “nông nghiệp tốt”, GAP. Đây là một chương trình kiểm tra an toàn thực phẩm xuyên suốt từ A đến Z của dây chuyền sản xuất, bắt đầu từ khâu chuẩn bị nông trại, canh tác đến khâu thu hoạch, sau thu hoạch, tồn trữ, kễ cả những yếu tố liên quan đến sản xuất như môi trường, các chất hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, bao bì và ngay cả điều kiện làm việc và phúc lợi của người làm việc trong nông trại. Như vậy, chu trình nông nghiệp an toàn GAP là một bộ hồ sơ trình bày công nghệ sản xuất của nông trại đồng thời cũng là bộ hồ sơ ghi chép chi tiết những hoạt động của nông trại đó. Một số nước ASEAN như Malaysia, Thái Lan, Singapore và Indonesia tuy có biên soạn chương trình GAP cho mình, nhưng việc xuất khẩu rau quả và trái cây của họ vẫn không thuận lợi hơn vì những chu trình này không đáp ứng được các đòi hỏi khắt khe của thị trường châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản- là những thị trường vùng ôn đới có điều kiện khí hậu, khoa học kỹ thuật nông nghiệp và văn hóa ẩm thực khác biệt. Gần đây có chương trình tập huấn về GAP, dự án “GAP cho cây thanh long” …do chính phủ Úc, Canada tài trợ chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, chưa mang tính chất quy mô toàn ngành và toàn quốc. Điều này đòi hỏi chúng ta cần khẩn trương xây dựng cho mình một chương trình VietGap thì nông sản mới có thể xuất khẩu vào thị trường thế giới (chủ yếu các nước thành viên WTO khác 95% GDP, 95% giá trị thương mại thế giới) . 1.3.Các quy tắc của WTO về thương mại nông sản phẩm: Để xây dựng được chương trình VietGap tốt, để nông sản của Việt Nam bước vào sân chơi WTO một cách thành công thì trước hết cần phải tìm hiểu luật lệ của WTO về thương mại nông sản. Trong thương mại, thương mại nông sản là một vấn đề rất nhạy cảm, phức tạp, nó liên quan đến nhiều vấn đề như chiến lược an toàn lương thực, nhân tố chính trị, môi trường địa lý và khí hậu, cơ cấu sản xuất, việc làm, lợi ích xuất khẩu, nhập khẩu của một nước. Dựa trên những nguyên nhân này các nước trên thế giới đều đang thực hiện nhiều chính sách và biện pháp, gây rối nghiêm trọng trật tự thương mại nông phẩm. Trong vòng đàm phán Uruguay, các thành viên WTO đã đàm phán và cuối cùng ký kết được “Hiệp định nông sản phẩm”. Hiệp định nhằm mục tiêu giải quyết vấn đề tự do hóa thương mại nông sản phẩm. “Hiệp định nông sản phẩm” chủ yếu gồm 3 nội dung chủ yếu sau đây: 1.3.1. Mở rộng thị trường cho phép nhập: là xác định rõ, cắt giảm hay loại bỏ về các biện pháp thuế quan gây trở ngại đi vào thị trường mà các bên ký kết hiệp định thực thi trong thương mại nông sản phẩm. Cụ thể gồm: - Thuế quan hóa và các biện pháp phi thuế quan: các biện pháp phi thuế quan thực thi trong thương mại nông sản phẩm như hạn chế số lượng nhập khẩu, các loại thuế chênh lệch giá nhập khẩu, giá nhập khẩu thống nhất cho phép, hạn chế hạn ngạch, các bên thành viên cần phải trước hết chuyển đổi thành những biện pháp thuế quan có mức độ bảo hộ như nhau, sau đó giảm dần tỷ suất thuế nhập khẩu. - Cắt giảm thuế quan nhập khẩu nông sản phẩm: Các thành viên các nước phát triển từ 1995-2001 cắt giảm bình quân 30% thuế quan nhập khẩu và đảm bảo tỷ lệ cắt giảm mỗi một mục thuế không thấp hơn 15%; thành viên nước đang phát triển tử 1995-2001 cắt giảm thuế quan nhập khẩu 24% và đảm bảo mỗi năm tỷ lệ cắt giảm mỗi hạng mục thuế không thấp hơn 10%. Mỗi năm cắt giảm với số lượng bằng nhau. - Hạn ngạch thuế quan sau khi thuế quan hóa biện pháp phi thuế quan: Có loại thuế quan vẫn ở mức rất cao, nó cũng sẽ gây trở ngại cho sự phát triển thương mại nông sản phẩm. Hiệp định nông sản phẩm quy định, với sản phẩm thuế quan hóa thực hiện quata thuế quan để quản lý. Thành viên thực hiện quota hàng năm. Nhập khẩu quá lượng cho phép nhập, thu thuế quan theo tỷ suất thuế của thuế quan hóa. - Biện pháp tự vệ đặc thù: Sau khi thuế quan hóa biện pháp của nông sản phẩm, nếu nhập khẩu phát triển rất mạnh và gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước, thành viên WTO có thể sử dung điều khoản tự bảo vệ của “GATT năm 1994” biện pháp tự vệ đặc thù được quy tính trong “Hiệp định về biện pháp tự vệ” và “Hiệp định nông sản phẩm” để bảo hộ lợi ích bản thân mình. Nhưng chỉ chon một trong những biện pháp được quy định trong hiệp định trên không thể đồng thời sử dụng cả hai. Hơn nữa, các thành viên khi vận dụng biện pháp tự vệ đặc thù, cần báo trước hoặc trong 10 ngày khi sử dụng hành động, thông báo cho ủy ban nông nghiệp WTO. 1.3.2. Cắt bỏ trợ giá sản xuất nông sản phẩm: “Hiệp định nông sản phẩm” phân chia sự trợ giá đối với nông sản phẩm làm 2 loại lớn là trợ giá đèn xanh và trợ giá đèn vàng và quy định tương đối tỉ mỉ phạm vi mỗi loại. Trợ giá đèn xanh: Loại trừ sự trợ giúp giá cả đối với người sản xuất, không có trợ giá hoặc chỉ trợ giá một ít đối với thương mại nông sản phẩm chủ yếu gồm: Một là: quỹ cộng đồng hoặc chi ngân sách cung cấp dịch vụ sản xuất nông nghiệp nói chung: Bao gồm nghiên cứu hạng mục môi trường và nghiêm cấm sản phẩm đặc biệt, kiểm soát sâu bọ phá hoại, việc bồi dưỡng nhân viên, khoa học kỹ thuật nông nghiệp và thao tác sản xuất, phổ biến kỹ thuật và dịch vụ tư vấn, dich vụ giám định, dịch vụ thúc đẩy bán trên thị trường, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp. Hai là: Chi phí cất giữ đảm bảo sự cung cấp thực phẩm. Ba là: Trợ giá viện trợ thực phẩm và trợ giá hộ gia đình riêng. Bốn là: Trợ giá đảm bảo sự thu nhập nói chung. Loại trợ cấp này cần phải phù hợp với một số tiêu chuẩn nhất định. Năm là: Trợ giá thiệt hại thiên tai: số lượng trợ giá này không được cao hơn sự thiệt hại thực tế. Sáu là: Trợ giá điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Bảy là: Cung cấp trợ giá phát triển khu vực cho những khu vực có điều kiện sản xuất nông nghiệp rõ ràng không thuận lợi. Trợ giá đèn vàng: Đây là sự bù giá cần phải có nghĩa vụ cắt giảm, chủ yếu bao gồm sự trợ giá thành sự giúp đỡ giá cả trong nước đối với sản phẩm nông sản phẩm. “Hiệp định nông sản phẩm” quy định sự trợ giá đèn vàng của các nước phát triển cần trong thời kỳ thực thi hiệp định (6 năm) dựa theo mức cơ số (mức bình quân trợ giá 86-88) cắt giảm 20% sau khi thực hiện hiệp định; tổng số trợ giá của bên tham gia sẽ từ 19,7 tỷ USD xuống 16,2 tỷ USD, biên độ cắt giảm 18%. Hiệp định quy định những trợ giá sau đây không thuộc trợ giá đèn vàng: Một là: Mỗi năm cấp cho một sản phẩm cụ thể một số trợ giá không cao hơn 5% (nước phát triển) 10% (nước đang phát triển) giá trị sản lượng hàng năm của sản phẩm ấy. Hai là: Sự trợ giá trong nước không dựa theo sự phân chia sản phẩm cụ thể, nếu tổng số lượng trợ giá của họ không cao hơn 5% (nước phát triển) 10% (nước đang phát triển) tổng giá trị sản phẩm nông sản phẩm năm ấy. Cắt giảm trợ giá xuất khẩu nông sản phẩm: Trợ giá xuất khẩu nông sản phẩm gồm có: Một là: Chi phí hay cơ quan quản lý căn cứ vào thành tích thực tế xuất khẩu cung cấp các loại trợ giá trực tiếp cho xí nghiệp, ngành nghề nhất định hay người sản xuất kinh doanh nông sản phẩm. Hai là: Chi phí hay cơ quan quản lý dự trữ nông sản phẩm bán với giá rẻ hàng dự trữ thấp hơn giá trị thị trường dùng cho xuất khẩu. Ba là: Hành động của chính phủ như cung cấp tiền cho vay ưu đãi hay sự đảm bảo miễn giảm thuế nông sản phẩm xuất khẩu có liên quan với hiệu quả xuất khẩu. Bốn là: Cung cấp sự trợ giá để giảm giá thành kinh doanh xuất khẩu bao gồm xử lý phân cấp nông sản phẩm hay các trợ giá cho giá thành chế biên khác, trợ giá cho giá thành vận tải và vận tải trong nước. Hiệp định đối với số lượng và kim ngạch trợ giá nông sản phẩm xuất khẩu dựa trên thời kỳ cơ sở 86-90 cắt giảm theo tỷ lệ. Có 22 loại lớn tiến hành cắt giảm trợ giá. Thành viên nước phát triển trong 6 năm cắt giảm 36% kim ngạch trợ giá xuất khẩu, thành viên nước đang phát triển trong 10 năm cắt giảm 24%. Số lượng trợ giá xuất khẩu: thành viên nước phát triển trong 6 năm cắt giảm 21%, thành viên nước đang phát triển cắt giảm 14%. Nếu nông sản phẩm trong những năm 85-90 chưa được hưởng đối xử trợ giá xuất khẩu sau này không được bất kỳ biện pháp trợ giá xuất khẩu nào nữa. 1.4. Các cam kết của Việt Nam (khi là thành viên của WTO) trong khuôn khổ WTO: Các cam kết về thương mại hàng hóa của Việt Nam nhìn chung là cắt giảm thuế: Việt Nam giảm mức thuế bình quân từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4%, thực hiện dần trong vòng 5-7 năm. Mức thuế bình quân hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9%, thực hiện trong khoảng 5 năm. Mức thuế bình quân hàng công nghiệp  giảm từ 16,8% xuống 12,6%, thực hiện trong vòng từ 5 đến 7 năm (mức giảm thuế chi tiết từng mặt hàng xem biểu thuế). Trong đó đáng chú ý có một số mặt hàng liên quan đến nông sản xuất khẩu như: phân bón giảm từ 6,5% xuống 6,4%; xe tải giảm từ 80% xuống 50%...việc giảm thuế các dòng hàng này góp phần làm cho chi phí sản xuất vận chuyển cũng giảm đi phần nào. Các cam kết về trợ cấp thì Việt Nam cam kết từ bỏ ngay trợ cấp xuất khẩu. Đối với hỗ trợ trong nước đối với nông nghiệp Việt Nam vẫn được hưởng mức hỗ trợ là 10%. Cụ thể các mức trợ cấp cam kết ràng buộc hàng năm và mức trợ cấp cam kết cuối cùng là 3961,59 tỷ VND. 1.5. Những cam kết trên sẽ gây ra nhiều tác động đối với nông sản xuất khẩu của Việt Nam: Rõ ràng khi hàng loạt các dòng thuế nhập khẩu (bao gồm cả hàng nông sản) giảm xuống, nông sản ngoại có sức cạnh tranh hơn thì có một số mặt hàng nông sản Việt Nam lao đao ngay tại thị trường trong nước. Tuy nhiên, đối với các mặt hàng nông sản xuất khẩu thì đây là cơ hội có một không hai. Một số mặt hàng như phân bón, ô tô tải … giảm thuế sẽ làm cho giá cả nông sản giảm đi . Mặt khác nước ta giảm thuế thì các mặt hàng nông sản nước ta cũng được tiếp cận với mức thuế thấp hơn trước ở thị trường các thành viên khác của WTO (theo quy định của hiệp định nông sản phẩm). Còn về cam kết cắt bỏ trợ cấp xuất khẩu sẽ không gây tác động quá lớn. Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cũng không quá lo lắng về cam kết này. Bởi vì một số trợ cấp bị coi là trợ cấp xuất khẩu nông sản theo quy định của hiệp định nông sản phẩm của WTO ở Việt Nam thì hầu như không có hoặc rất nhỏ bé. Giai đoạn 1998-2004: tổng số tiền thưởng đạt 29,4 tỷ đồng gần bằng 2 triệu USD có 349 doanh nghiệp được thưởng (trong đó doanh nghiệp xuất khẩu nông sản thì rất ít) nhỏ hơn rất nhiều mức 30 triệu USD hàng năm. Giai đoạn 1999-2001 Việt Nam trợ cấp dưới hình thức thưởng đối với 7 mặt hàng là: gạo, cà phê, chè, rau quả, thịt lợn, hạt tiêu…Hỗ trợ lãi suất mua tạm trữ xuất khẩu đối với cà phê bù lỗ xuất khẩu một số mặt hàng khác nhưng giai đoạn 2003-2005 những hỗ trợ bị loại bỏ dần. Hay theo ông Nguyễn Văn Lãng, Tổng thư kí Hiệp hội Cây điều Việt Nam cho biết: “Mặt hàng điều xuất khẩu mỗi năm mang về hàng trăm triệu USD nhưng có được Nhà nước hỗ trợ gì đâu, chỉ có đầu năm 2006 là được nhà nước phê duyệt chương trình xúc tiến thương mai trị giá 600 triệu đồng” Như vậy mặc dù cam kết bỏ ngay trợ cấp xuất khẩu nhưng trợ cấp trong nước-loại trợ cấp gián tiếp cho xuất khẩu- thì chúng ta lại chưa đạt tới mức cam kết tới gần 4000 tỷ. Đây là dịp để chúng ta nhìn lại và làm cho cơ bản hơn. Chúng ta cần tận dụng những trợ cấp được phép áp dụng. Sự hỗ trợ cho nông sản của Việt Nam nên tập trung vào các hình thức: Thứ nhất, dịch vụ chung, phù hợp với quy định của WTO chính phủ VN cung cấp dịch vụ và phúc lợi cho nông nghiệp dưới hình thức: - Nghiên cứu khoa học: chính phủ Việt Nam cung cấp kinh phí cho các Viện nghiên cứu thực hiện các đề tài khoa học có liên quan đến nông nghiệp như: giống cây trồng và gia súc, kỹ thuật canh tác, nghiên cứu kinh tế vv... - Đào tạo: Nhà nước cấp kinh phí cho các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung học dạy nghề để đào tạo cán bộ kỹ thuật, kinh tế, công nhân lành nghề phục vụ sản xuất nông nghiệp; - Công tác khuyến nông: Một hệ thống khuyến nông từ Trung Ương đến làng bản được thành lập. Nhà nước cấp kinh phí để hệ thống khuyến nông hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác khuyên nông được nhà nước hỗ trợ. Thứ hai, dự trữ công vì mục đích an ninh lương thực; chính phủ Việt Nam thực hiện một số chương trình dự trữ quốc gia như:lúa gạo, giống lúa, ngô, rau, thuốc bảo vệ thực vật vv... Thứ ba, hỗ trợ lương thực,thực phẩm trong nước; chính phủ áp dụng một số chương trình hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp cho các vùng khó khăn về sản xuất nông nghiệp ( vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai vv...) Thứ tư, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu, chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương chuyển dịch cơ câú kinh tế thông qua các hình thức ưu đãi thuế, đầu tư, tín dụng của chính phủ. Thứ năm,Việt Nam áp dụng biện pháp phi thuế quan thuộc dạng này bằng các “Chương trình phát triển”. Dạng hỗ trợ này của chính phủ bao gồm : - Trợ cấp đầu tư của chính phủ, hiện nay trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của Việt Nam đang có phong trào chuyển dịch mô hình sản xuất từ hộ nông nghiệp sang kinh tế trang trại. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện trợ cấp đầu tư phát triển dưới hình thức hỗ trợ tài chính, cho vay với lãi xuất ưu đãi để phát triển kinh tế trang trại. Bên cạnh đó với những khoản nợ xấu chính phủ có thẻ thực hiện khoanh nợ hoặc xóa nợ. - Trợ cấp đầu vào cho ngưòi sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp. Chính phủ Việt Nam thành lập hệ thống ngân hàng người nghèo nhằm cung cấp vốn ưu đãi cho người nghèo đẻ họ có khả năng phát triển sản xuất. Khi ngưòi nghèo gặp khó khăn trong việc thanh toán vốn vay thì chính phủ cấp bù chênh lệch lãi suất, khoanh nợ, xóa nợ. Hiện nay người nghèo vay từ Ngân hàng phục vụ người nghèo lãi suất là 5,4% năm cho khu vực vùng núi cao, hải đảo và 6,0% năm cho các vùng còn lại thấp rất nhiều so với lãi suất vay vốn tại các ngân hàng thương mại. - Trợ cấp dành cho sản xuất nhằm khuyến khích các hộ nông dân từ bỏ cây thuốc phiện chuyển sang sản phẩm nông nghiệp khác với các hình thức hỗ trợ giống cây trồng và gia súc. 1.6. Kinh nghiệm các nước: Việt Nam là một nước sản xuất nông nghiệp vậy mà các nông sản của ta trên thị trường quốc tế không có tiếng nói tên tuổi gì. Ngoài việc nhìn lại mình thì việc tìm ra kinh nghiệm của các nước xuất khẩu nông sản mạnh là việc rất nên. Mà không phải đi đâu xa chúng ta có thể học tập được một vài kinh nghiệm của Trung Quốc, Ấn Độ xa hơn một chút là Braxin. Còn nhớ 5-6 năm về trước, khi mà gia nhập WTO nền nông nghiệp Trung Quốc được dự báo là sẽ bị đè bẹp nhanh chóng. Vậy mà gần đây, nông sản, trái cây Trung Quốc không chỉ “làm mưa làm gió” ở thị trường châu Á cũng đang gây “náo loạn” ở châu Âu. Tại sao, nông sản Trung Quốc có chất lượng tốt vượt qua các rào cản kỹ thuật khắt khe ở châu Âu giá lại rẻ hơn nông sản châu Âu (các loại sản phẩm được trợ cấp rất lớn). Người ta đánh giá sở dĩ nông sản Trung Quốc có sức cạnh tranh ghê gớm như vậy là do: Điều chỉnh mang tính chiến lược kết cấu nông nghiệp: thực chất là ưu hóa sự bố trí sản xuất nông nghiệp. Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh mang tính chiến lược kết cấu nông nghiệp, tạo cho nông nghiệp có được những kết quả kinh tế như mong muốn. Tổ chức nông dân đi vào con đường sản nghiệp hóa nông thôn: nông dân thành lập hợp tác xã của riêng mình, tổ chức nông hộ thực hiện việc kinh doanh sản xuất, gia công và tiêu thụ được nhất thể hóa. Hoặc hợp tác xã, nông dân liên hợp với công ty, với mô thức “ Công ty +hợp tác xã + nông hộ” để làm việc kinh doanh sản nghiệp hóa nông nghiệp. Thực hiện thâm canh theo hướng hiện đại: Trung Quốc đã có hàng ngàn khu nông nghiệp công nghệ cao. Làm cho năng suất, chất lượng nông sản vượt trội. Ví dụ như giống lúa cao sản ( lúa siêu năng suất 12 tấn/ha ) có mang gen kháng bệnh; các giống cà chua năng suất 140 tấn/ha; rau cải ngọt 60 tấn/ha… với chất lượng cao và đồng nhất. Trung Quốc đã tận dụng tốt lượng Hoa kiều đông đảo của mình làm hệ thống tiêu thụ, quảng bá nghiên cứu thị trường. Ở Braxin chính sách thu hút và sử dụng vốn trong lĩnh vực nông nghiệp khá linh hoạt. Người nông dân được nhận vốn ưu đãi của chính phủ với lãi suất ưu đãi. Chính phủ cho phép và kêu gọi mọi thành phần kinh tế: tư nhân, nước ngoài đầu tư, kinh doanh, sản xuất, dịch vụ trong nông nghiệp. Đặc biệt trong nông nghiệp yếu tố rủi ro là một yếu tố thường trực, Braxin là một trong ít quốc gia thành công trong lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm xuất khẩu. Do vậy nông dân Braxin luôn yên tâm sản xuất, nếu có rủi ro xảy ra thì họ vẫn không mất trắng, có sự trợ giúp phần nào từ bảo hiểm. Trong khi đó nghiệp vụ bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam hầu như chưa được triển khai, có triển khai thì hoạt động không hiệu quả. Như vậy bảo hiểm, bảo hiểm xuất khẩu là cũng điểm chúng ta nên nghiên cứu và phát triển. Kinh nghiệm ở Ấn Độ là: Đầu tư cho khoa học kỹ thuật mạnh. Đặc biệt là nghiên cứu về lúa, bảo quản và chế biến nông sản. Các loại cây biến đổi gen được ứng dụng mạnh ở Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ cũng đầu tư lớn vào các công trình thủy lợi. Ví dụ tổng chi phí xây dựng hệ thống kênh mương đưa nước từ phía Bắc xuống Tây Nam lên tới hơn 40 tỷ USD. Hiện nay, thu nhập của nông dân Ấn Độ rất khác nhau. Để đảm bảo thu nhập bình đẳng nông dân chính phủ Ấn Độ triển khai hai chính sách: Trợ cấp cho nông nghiệp như các nước phương Tây; cơ cấu giá cả. 1.7. Những bài học rút ra đối với Việt Nam: Điều đầu tiên đối với Việt Nam là phải điều chỉnh lại chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam theo khuôn khổ luật pháp của WTO. Khi mà Việt Nam đã cam kết thực thi khuôn khổ luật của WTO mà không thực hiện thì ngay lập tức sẽ bị vấp phải các trừng phạt đáng tiếc. Đồng thời, qua những kinh nghiệm từ các nước ở trên, họ đã tận dụng rất tốt những trợ cấp, chính sách được phép áp dụng: tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các dịch vụ nông nghiệp ( bảo hiểm )… Tuy nhiên, việc trợ cấp cho nông nghiệp hay coi trọng cây biến đổi gen như ở Ấn Độ là cần phải cẩn thận. Trợ cấp cho nông nghiệp gây ra nhiều phức tạp. Nó có thể gây tâm lý ỷ lại, trông chờ và mất đi tính năng động của người nông dân. Các loại cây biến đổi gen có thể vấp phải các quy định về chất lượng từ các nước phát triển. Như vậy các loại cây này có thể bị loại ngay từ khi kiểm dịch chất lượng, nguồn gốc giống. Chương 2. Thực trạng chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam Sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua đã đạt nhiều thành tựu to lớn, đóng góp tích cực cho thời kỳ đầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong thành tích chung đó, phải kể tới đóng góp của chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản Việt Nam hiện vẫn đang gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Những hạn chế trong chính sách xuất khẩu nông sản hiện hành của Việt Nam, trong nhiều trường hợp, là một trong những nguyên nhân hạn chế sản xuất và xuất khẩu nông sản phát triển vững chắc. 2.1. Về thành công: Chính sách xuất khẩu nông sản gần đây có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng tự do hóa từng bước thị trường hàng nông sản, khuyến khích xuất khẩu nông sản. Điều đó thể hiện ở sự thay đổi, cắt giảm, miễn thuế xuất khẩu nông sản, mở rộng từng bước, tiến tới tự do hóa đối tượng xuất khẩu giảm dần rồi xóa bỏ giấy phép xuất khẩu, từng bước thu hẹp việc sử dụng hạn ngạch xuất khẩu nông sản cũng được xóa bỏ. Cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu nông sản được chuyển dần từ chỗ quản lý chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính sang quản lý bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, thông qua việc sử dụng linh hoạt các biện pháp kinh tế, các công cụ chính sách thương mại, như thuế, hạn ngạch, hỗ trợ xuất khẩu, tỷ giá hối đoái…Việc tăng dần sử dụng các công cụ chính sách kinh tế thay vì các công cụ hành chính trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản thể hiện đặc điểm chuyển đổi của chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Đã có nhiều đổi mới trong chính sách xuất khẩu theo hướng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, chuẩn bị tích cực cho sản xuất nông nghiệp Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Ví dụ như trong công tác quản lý đất đai. Trong quyết định số 150/2005 QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 20/6/2005 phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông- lâm nghiệp, thủy sản của cả nước tới năm 2010, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu “sớm hoàn thành việc dồn điền đổi thửa. Đã có một số địa phương triển khai chính sách này khá sớm và bước đầu thu được hiệu quả tích cực từ việc áp dụng chính sách này. Bắc Ninh là một trong những địa phương đi đầu trong công tác dồn điền đổi thửa. Hiện đã hoàn thành chuyển đổi ở 87 xã (71,1%), 382 thôn (58,3%) có 95,922 hộ chuyển đổi ruộng đất (50%) được 16,414 ha (37%). Nhờ đó, tỉnh đã khắc phục được tình trạng ruộng đất manh mún, bước đầu hình thành vùng chuyên canh các loại cây trồng có giá trị kinh tế. Hiện số thửa giảm từ 12 thửa/hộ giảm còn 7 thửa/hộ diện tích tăng từ 180 m2 lên 297 m2/thửa, việc đầu tư thâm canh áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất cũng dễ dàng, thuận lợi hơn. Cũng từ._. phong trào này, nhiều mô hình kinh tế mới đã xuất hiện, không chỉ khai thác tốt tiềm năng mà còn góp phần nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho người nông dân. Hiện Bắc Ninh đã chuyển được 2500 ha ruộng trũng cấy lúa năng suất thấp sang nuôi thủy sản, đưa diện tích mặt nước nuôi thả lên 5220 ha. Tỉnh đã hình thành 13 vùng sản xuất lúa hàng hóa với quy mô 50-100 ha/vùng, hiệu quả kinh tế gấp 1,5-2 lần trước đây; 24 vùng sản xuất khoai tây, 26 vùng sản xuất rau xuất khẩu và một số vùng trồng hoa cây cảnh. Điển hình như vùng khoai tây ở Việt Hùng, Quế Tân (Quế Võ) đạt doanh thu 45-55 trđồng/ha/vụ; đặc biệt mô hình trồng hoa công nghệ cao ở Đình Bảng (Từ Sơn) cho doanh thu khoảng 500 trđồng/ha/năm.(Nguồn: Dương Thanh, Dồn điền đổi thửa bước đệm để hình thành vùng sản xuất hàng hóa, Báo Kinh tế nông thôn 8/1/2007) Chính phủ, Bộ Tài chính và ngành ngân hàng có nhiều chính sách và biện pháp hỗ trợ cho người nông dân. Ngân sách nhà nước chi ngành nông nghiệp tới 130 000 tỷ đồng (giai đoạn 2001-2005) chiếm tới 13% tổng vốn huy động của toàn xã hội. Chính phủ có nhiều ưu đãi như về thuế, tiền thuê đất để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tính đến hết năm 2005 có khoảng 746 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp còn hiệu lực, với số vốn hàng chục triệu USD. Ngoài ra, Chính phủ cũng kí kết hơn 70 dự án ODA (hết năm 2005) đầu tư hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn; ký được 3 dự án tín dụng với một số tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế với số vốn lên tới 343 triệu USD. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện cho vay giảm tới 15% lãi suất đối với vùng 2; giảm 30% lãi suất đối với vùng 3.(Nguồn:TS Hoàng Xuân Quế, Chính sách tài chính - tiền tệ thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Nghiên cứu kinh tế số 335) Những nỗ lực đổi mới chính sách của Nhà nước đã có tác động mạnh mẽ tới xuất khẩu thể hiện ở thành tích cao về xuất khẩu nông sản của nước ta trong giai đoạn này.( chủ yếu xét giai đoạn 2001-2005) Bảng 2.1. Kim ngạch và tỷ trọng của xuất khẩu nông sản so với xuất khẩu của cả nước giai đoạn 2001-2005: Năm Kim ngạch xuất khẩu cả nước(tr USD) Kim ngạch xuất khẩu nông sản(tr USD) Tỷ trọng 2001 15 029 2421,3 16,1 2002 16 707 2396,6 14,3 2003 20 149 2672 13,2 2004 26 504 4550 17,1 2005 32 442 5663,8 17,5 (Nguồn: Biểu30, sách Xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 20 năm đổi mới, NXB Thống kê, năm 2005; tr: triệu) Nhìn vào bảng có thể thấy xuất khẩu nông sản đã có sự chuyển biến rõ rệt. Năm 2005 kim ngạch xuất khẩu nông sản đã gấp tới 2,34 lần năm 2001. Trung bình mỗi năm kim ngạch xuất khẩu tăng tới 26%. Mặc dù có sự giảm nhẹ xuất khẩu vào năm 2002 do xuất khẩu rau quả giảm từ 344,2 (tr USD) xuống 221,5 (tr USD) và cà phê giảm từ 391,2 (tr USD) xuống 321,6 (tr USD). Song có sự tăng trưởng mạnh vào năm 2004 tăng tới 70% so với năm 2003. Điều này là do sự ổn đinh giá cà phê năm 2002 chỉ có 0.445 tr USD/ngàntấn năm 2003 tăng tới 0.67 và năm 2004 ổn định tại mức 0.65 tr USD/ngàn tấn thêm vào đó sản lượng xuất khẩu cũng tăng thêm. Đồng thời có sự phục hồi của rất nhiều mặt hàng như rau quả hay chè do mất thị trường chiến lược Irac vào năm 2003 cũng tìm được thị trường mới vào năm 2004. (nguồn biểu 31, sách Xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 20 năm đổi mới, NXB Thống kê, năm 2005; tr: triệu) Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy là tỷ trọng hàng nông sản trong các mặt hàng xuất khẩu của cả nước khá cao tới 17% chứng tỏ nông sản xuất khẩu vẫn là một nguồn thu quan trọng của đất nước. Bảng 2.2. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu giai đoạn 2001-2005: Mặt hàng Giá trị (tr USD) Cơ cấu Gạo 4427 25% Cà phê 2594 14,65% Hàng cói ngô dừa 687 3.88% Cao su 2216 12,51% Hàng rau quả 1131 6,39% Hạt tiêu 608 3,43% Hạt điều 1576 8,9% Chè 412 2,33% Lạc nhân 188 1% Các mặt hàng khác 3879 21,91% (Nguồn: Biểu 27, sách Xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 20 năm đổi mới, NXB Thống kê, năm 2005) Rõ ràng là gạo và cà phê vẫn là 2 mặt hàng nông sản đem về nhiều tiền nhất cho Việt Nam. Đáng chú ý vào năm 2006 khi mà xuất khẩu nông sản lên tới 6,6 tỷ USD thì cao su nhờ sự tăng cao nhu cầu từ thị trường Trung Quốc cũng vươn lên cùng cà phê và gạo gia nhập câu lạc bộ xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Cụ thể là cao su 1,3 tỷ USD, cà phê 1,1 tỷ USD, gạo 1.38 tỷ USD. Như vậy số lượng mặt hàng nông sản chủ lực của chúng ta quá ít. Rất nhiều mặt hàng có tiềm năng chưa được khai thác hết như rau quả hay đậu tương chẳng hạn.( Nguồn Nguyễn Văn Ngộ, Nông nghiệp Việt Nam 2007 vui và lo, Báo Kinh tế nông thôn, ngày 12/1/2007 ) Đồng thời ta cũng thấy kim ngạch xuất khẩu của chúng ta tăng lên một phần là do số lượng xuất khẩu song phần nhiều là do giá cả. Chẳng hạn như so sánh năm 2005 với năm 2004 một số mặt hàng như cà phê (974,8 xuống 892 nghìn tấn), cao su (513 tới 587 ngàn tấn) và hạt tiêu (11,9 xuống 104 ngàn tấn) mặc dù sản lượng có giảm hoặc tăng không đáng kể song giá trị vẫn tăng. Chính là do giá cà phê tăng đột biến từ 0,65 đến 0,82 tr USD/ngàn tấn hay cao su 1,162 đến 1.369 tr USD/ngàn tấn. (Nguồn: Biểu 28, sách Xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 20 năm đổi mới, NXB Thống kê, năm 2005) Giá trị xuất khẩu các mặt hàng của chúng ta không cao là do tỷ lệ các mặt hàng đã qua chế biến xuất khẩu chỉ chiếm 20%. Các mặt hàng của chúng ta chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô sang các thị trường sau: Gao: Philippin, Pháp, Iran, Nhật Bản, Cu ba, Đức, Thụy Sỹ, Nam Phi... Cà phê: Đức, Pháp, Ôtraylia, các nước đông Âu… Hạt điều: Xingapo, Canada, Hà Lan, Đài Loan… Cao su: Trung Quốc, Nga, Anbanni, Hungari, Ba lan… Lạc nhân: Pháp, Canada, Đức, Nhật, Thái Lan, Malaixia… … Có thể nói nông sản Việt Nam đã có mặt trên hầu hết các thị trường trên thế giới. 2.2. Những tồn tại, hạn chế trong chính sách xuất khẩu nông sản: Nếu chỉ nhìn vào những con số ở trên thì có thể nói nông sản xuất khẩu của Việt Nam đang trong tình trạng rất ổn. Song nếu để ý tới một vài sự việc xảy ra gần đây như: sự việc người nông dân trồng dứa phục vụ xuất khẩu được mùa hơn một tấn mà dở khóc dở cười bên đống dứa vị không có ai đến mua hay vụ hàng chục chiếc xe tải chở dưa hấu xuất khẩu sang Trung Quốc phải đổ dưa ở lại cửa khẩu do chất lượng dưa không đồng đều thì chính sách xuât khẩu nông sản của ta còn nhiều việc phải bàn: Thứ nhất, Việt Nam chưa có một chính sách phát triển nông sản xuất khẩu dài hạn; hầu hết các biện pháp chính sách chủ yếu mang tính chất tình thế, chắp vá. Qua từng thời kỳ, từng năm, các cơ quan nhà nước thường mới dừng ở việc đánh giá kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng bao nhiêu so với thời kỳ trước, chiếm tỷ trọng bao nhiêu phần trăm, trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước mà thiếu sự đánh giá hiệu quả xuất khẩu nông sản đạt được như thế nào. Có thể thấy, dường như đối với một số mặt hàng đang có tình trạng “xuất khẩu lấy được” để giải quyết vấn đề ứ thừa nông sản chứ chưa tính tới hiệu quả lâu dài. Như vậy, chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam chưa trả lời được một số câu hỏi: Những mặt hàng nông sản xuất khẩu nào là chủ lực mang tính dài hạn đòi hỏi phải tập trung nỗ lực lớn hơn; Hiệu quả xuất khẩu từng loại nông sản như thế nào về quy mô giá trị gia tăng so với quy mô đầu tư, quy mô lợi nhuận so với quy mô đầu tư; Xuất khẩu từng loại nông sản đến mức độ, chất lượng, số lượng nào, tương xứng với quy mô vốn đầu tư bao nhiêu là đạt hiệu quả tối ưu? Nguyên nhân ở chỗ Việt Nam vẫn loay hoay với việc chuyển từ xuất khẩu thô sang tinh chế, tìm thị trường ổn định thay vì trồng, chặt, trồng cây khác rồi chặt… mà chưa tính tới cần phải có chính sách phát triển nông sản xuất khẩu như thế nào cho hiệu quả. Thứ hai, chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam chưa định hướng mạnh sản xuất, xuất khẩu nông sản vào phát triển chất lượng mà vẫn thiên về phát triển số lượng; do đó, sản xuất, xuất khẩu nông sản khó phát triển vững chắc trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường nông sản thế giới ngày càng quyết liệt hơn. Tuy đã có những điều chỉnh nhất định nhưng cách tiếp cận của chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam hiện vẫn thiên về chú trọng tiềm năng đất nước mà chưa quan tâm đúng mức đến yêu cầu thị trường. Các chính sách được xây dựng dường như đều xuất phát từ khả năng sản xuất trong nước mà chưa xuất phát từ thị trường, mặc dù ai cũng nhận thức rằng, hiện nay, sản xuất là phải cho thị trường, bắt đầu từ thị trường. Nhiều chính sách được ban hành không chỉ nhằm giải quyết dư cung nông sản trong nước mà còn hơn thế nữa, vẫn tiếp tục phát tín hiệu định hướng sản xuất và xuất khẩu nông sản phát triển về số lượng hơn là định hướng phát triển chất lượng. Chẳng hạn, chính sách thưởng xuất khẩu cho mặt hàng cà phê, chính sách khuyến khích sản xuất, nhập khẩu giống nông sản năng suất cao, trong khi chưa có chính sách đủ mạnh để định hướng, khuyến khích nghiên cứu, sản xuất, nhập khẩu giống có chất lượng cao, đạt yêu cầu xuất khẩu, chưa có chính sách thay đổi chất lượng nông sản xuất khẩu thông qua chuyển mạnh sang sản xuất nông sản hữu cơ xuất khẩu.. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn tiếp tục khó khăn, trong điều kiện cung nông sản thế giới có xu hướng tăng. Thứ ba, trong chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam còn thiếu quy hoạch sản xuất, chế biến nông sản xuất khẩu một cách bài bản xét về quy mô tổng thể và chất lượng quy hoạch. Chiến lược xây dựng trên những luận cứ, luận chứng chưa đầy đủ, chính xác, nhiều chỉ tiêu cho năm 2010 đã được thực hiện xong trước. Ví dụ, trong chiến lược xác định chỉ tiêu xuất khẩu cho cà phê năm 2010 là 600 ngàn tấn vậy mà năm 2004 xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã là 906 ngàn tấn. Đồng thời do thiếu quy hoạch tổng thể cho sản xuất nên xuất hiện hiện tượng người dân sản xuất nông sản xuất khẩu tự phát theo phong trào. Ví dụ như hiện tượng khi cây cà phê hay hạt tiêu được giá người dân Tây Nguyên đổ xô bỏ vốn bỏ sức chặt rừng trồng cà phê hạt tiêu. Sản xuất một cách ồ ạt thiếu quy hoạch chất lượng không được đảm bảo khi rớt giá người dân lao đao. Khi đó, Nhà nước thì lúng túng tìm biện pháp tháo gỡ cho người dân thì đã quá muộn. Các giải pháp đưa ra chỉ mang tính chất tình thế và tốn kém như hoãn nợ cho nông dân, trợ cấp vốn tái sản xuất mặt hàng mới. Có thể nói thiếu bước quy hoạch tổng thể ban đầu thì nông sản Việt Nam vẫn mãi đi vào vòng luẩn quẩn “được mùa mất giá”. Không thể trách thị trường thế giới luôn biến động mà dẫn tới việc sản xuất trong nước cũng biến động theo. Nông sản của chúng ta chỉ xuất khẩu một cách thụ động nên không chủ động được giá trên thị trường thế giới. Công tác hướng dẫn nông dân trồng cây gì, nuôi con gì của nhà nước vẫn còn hạn chế. Người dân vẫn còn sản xuất tự phát theo nhu cầu, xu hướng. Việt Nam cũng rất lãng phí nguồn vốn ít ỏi đầu tư trong nông nghiêp, khi mà xây dựng các nhà máy chế biến một cách thiếu quy hoạch. Có nơi quá nhiều nhà máy dẫn tới nhà máy thiếu nguyên liệu. Nơi thì người nông dân trồng ra không có người mua. Lấy các nhà máy chế biến chè ở Bảo Lộc – Lâm Đồng làm ví dụ: Ông Trần Việt, Trưởng phòng công thương thị xã Bảo Lộc cho biết: theo thống kê sơ bộ của Phòng công thương Bảo Lộc, trên địa bàn thị xã hiện có 54 nhà máy chế biến chè các loại (28 nhà máy quốc doanh, 18 nhà máy các doanh nghiệp tư nhân, 4 nhà máy của các công ty cổ phần, 3 nhà máy có vốn nước ngoài và 1 nhà máy của khối hợp tác xã) với tổng công suất được thiết kế là 38.000 tấn chè thành phẩm (tương đương khoảng 160.000 tấn chè búp tươi/năm). Ngoài ra số cơ sở chế biến nhỏ, chế biến quy mô hộ gia đình... thì "rất nhiều nhưng không thể nào thống kê được" như lời ông Việt nói. (Nguồn www.vnn.vn) Trong khi công suất chế biến quá lớn thì nguồn nguyên liệu trên địa bàn lại quá ít và tiếp tục có chiều hướng giảm diện tích do tốc độ đô thị hóa. Cụ thế cả thị xã Bảo Lộc chỉ có 9.452 ha chè các loại và tổng sản lượng chè hiện chỉ đạt khoảng 70.000 tấn chè búp tươi/năm (bằng 50% nhu cầu nguyên liệu của 54 nhà máy trên). Theo thực tế thì tỉ lệ này còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu nguyên liệu chế biến thực tế trên địa bàn. Điều đáng lo nữa là hiện nay hệ thống chế biến chè tiếp tục "phình ra", đáng chú ý nhất là nhà máy chế biến chè với quy mô lớn đang được Trung tâm nghiên cứu chuyển giao kỹ thuật chè và cây ăn quả Lâm Đồng đầu tư. Có hiện tượng đáng tiếc đó, một phần là do ngành nông nghiệp không quy hoạch sản xuất một cách rõ ràng. Việt Nam chưa hình thành được các vùng sản xuất chuyên canh lớn, bởi vậy có hiện tượng nguyên liệu mỗi nơi có một tý. Một phần nữa là nhà nước cũng chưa có công tác định hướng, tư vấn cho các doanh nghiệp đầu tư vào chế biến nông sản. Các doanh nghiệp họ chỉ xây dựng nhà máy theo nhận định của họ mà không có thông tin tổng thể về nguyên liệu, các dự án khác từ vùng sản xuất đó. Thứ tư, một số chính sách được áp dụng mang tính bao cấp, giải quyết tình thế cộng với sự thiếu minh bạch, khó tiên liệu gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp và người dân tham gia sản xuất nông sản xuất khẩu. Chẳng hạn, việc phân bổ chi ngân sách cho các dự án khuyến nông hoặc phát triển nông sản xuất khẩu vẫn theo kiểu xin- cho, cách thức phân bổ quota xuất khẩu nông sản hay phân bổ chỉ tiêu định hướng…về thực chất không khác mấy cách phân bổ kế hoạch trước đây. Cơ chế xin – cho cộng với sự khó tiên liệu trong việc thay đổi thuế xuất liên tục mà doanh nghiệp hầu như không biết trước đã làm cho chi phí cơ hội của doanh nghiệp tăng lên, sự thất thường của giá cả, giảm đi sức cạnh tranh rõ rệt. Những chính sách ưu đãi chủ yếu tập trung vào khâu thương mại như ưu đãi về tín dụng, thuế, trợ cấp, thưởng xuất khẩu…chưa tác động mạnh tới khâu quan trọng nhất là sản xuất. Mặt khác những ưu đãi này thường là tiền mặt bởi vậy nhiều khi tham nhũng thì số tiền Nhà nước ưu đãi chưa thực sự đến với tay người dân mà lại rơi vào tay quan chức. Cho dù lợi ích hỗ trợ của Nhà nước có đến tay doanh nghiệp hay người dân tham gia sản xuất nông sản xuất khẩu thì họ hầu như không đầu tư cho sản xuất, nghiên cứu thị trường, mua các giống cây mới…Nói khác đi lợi ích mà người nông dân được chia sẻ từ sự hỗ trợ của Nhà nước là chưa nhiều và chưa hiệu quả. Thứ năm, thiếu sự phối hợp đồng bộ, sự gắn kết giữa các chính sách ở tầm vĩ mô và vi mô; có sự chồng chéo trong việc ban hành chính sách giữa các cơ quan chức năng. Nhiều chính sách ban đầu của Chính phủ rất tốt song khi nó được triển khai dưới các cơ quan quản lý nhiều khi còn gây phiền hà, khó khăn cho các doanh nghiệp. Ví dụ chính sách khen thưởng xuất khẩu thì rất đúng đắn. Song thủ tục để xét thưởng còn mang nặng tính hành chính, phức tạp, thời gian xét duyệt kéo dài làm cho doanh nghiệp cũng nản lòng, không mặn mà, thậm chí bỏ cuộc. Sở dĩ có hiện tượng này là bởi hiện tượng quan liêu cửa quyền của các cán bộ hành chính ở Việt Nam còn phổ biến. Các thủ tục hành chính phiền hà chỉ nhằm mục đích tham ô, tham nhũng. Bên cạnh đó, công tác quản lý thu thập số liệu thông tin về xuất khẩu nông sản. Ví dụ chỉ có số liệu về xuất khẩu hoa quả nói chung chứ số liệu của từng loại hoa quả xuất đi bao nhiêu, ở những thị trường nào thì nhà nước không hề nắm rõ. Khi mà xét thưởng lại phải thẩm định, kiểm tra nhiều lần số liệu các doanh nghiệp cung cấp. Tuy vậy chính sách này chỉ đúng với trước kia còn bây giờ hình thức xét thưởng này thuộc về phần trợ cấp xuất khẩu Việt Nam đã cam kết cắt bỏ, nên không thể áp dụng được nữa. Một số chính sách xuất khẩu nông sản có thể gây ra hiệu quả phụ, Chính phủ lường trước được song không có chính sách bổ sung. Chính sách trợ giá đầu vào sản xuất nông sản thông qua giảm thuế nhập khẩu, hoàn trả thuế giá trị gia tăng cho phân bón, thuốc trừ sâu được áp dụng đồng thời với việc sử dụng hạn ngạch để bảo hộ sản xuất trong nước là một trong những chính sách như vậy. Kết quả là có trường hợp xảy ra “sốt nóng” trên thị trường phân bón, doanh nghiệp được lợi nhưng nông dân bị thiệt. Khi đó Nhà nước lại không có chính sách bổ sung làm cho mục tiêu hỗ trợ giá đầu vào cho nông dân bị triệt tiêu. Có trường hợp hạn ngạch nhập khẩu làm giảm giá phân bón, nông dân được lợi nhưng mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước không thực hiện được. Chính sách cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất khẩu nông sản nhằm tạo sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, đảm bảo nông sản được xuất khẩu được xuất khẩu bởi những doanh nghiệp có năng lực nhất. Nhưng Chính phủ lại thiếu những chính sách hỗ trợ bổ sung, nên đã không ngăn chặn được tình trạng tranh giành khách hàng giữa các doanh nghiệp, gây thiệt hại cho người sản xuất, làm giảm lợi ích quốc gia, hạn chế hiệu quả chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản. Chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu, chính sách thị trường nông sản xuất khẩu không được phối kết hợp chặt chẽ với chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông sản xuất khẩu trong nước, chưa trở thành công cụ dẫn dắt định hướng cho chính sách phát triển nông sản xuất khẩu. Theo đó, chính sách đầu tư phục vụ cho nghiên cứu khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất nông sản xuất khẩu, chính sách đầu tư cho thâm canh, mở rộng quy mô sản xuất nông sản xuất khẩu, đầu tư cho công nghiệp chế biến đã không có sự tương thích với yêu cầu của thị trường thế giới mà lẽ ra chính sách mặt hàng, chính sách thị trường phải xác định rõ. Chính sách thị trường thì do Bộ thương mại ban hành, chính sách khoa học công nghệ thì do Bộ Khoa học và công nghệ ban hành…Mặt hàng nông sản chịu sự chi phối của nhiều chính sách và đặc biệt nó từ nhiều bộ, ban, ngành khác nhau. Khi mà không có sự thống nhất giữa các cơ quan chức năng này thì việc chồng chéo của các chính sách này không quá khó hiểu.Chế độ “bộ chủ quản” cũng dẫn tới việc thiên vị lợi ích cho các doanh nghiệp thuộc sự quản lý của bộ đó, cản trở việc cạnh tranh bình đẳng. Bên cạnh đó, các chính sách ở tầm vĩ mô không có hướng dẫn cụ thể khi đưa xuống dưới cộng với năng lực của các cán bộ ở tầm vi mô, tham nhũng, tiêu cực sẽ làm cho sự gắn kết giữa việc ban hành và thực thi lỏng lẻo. Thứ sáu, Chính sách x úc tiến thương mại chưa tốt. Đứng trên nhiều giác độ khác nhau, chúng ta có nhiều cách hiểu khác nhau về xúc tiến thương mại. Trong điều kiện môi trường thương mại quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc dưới tác động của hội nhập kinh tế, quan niệm của Trung tâm Thương mại quốc tế: “xúc tiến thương mại là tất cả những biện pháp nhắm khuyến khích phát triển thương mại” đã bao trùm các biện pháp ở tầm vi mô lẫn vĩ mô; cả trước mắt lẫn lâu dài; cả khuyến khích trực tiếp lẫn gián tiếp. Xúc tiến thương mại là đầu mối quan trọng giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa cả trong thị trường trong nước và quốc tế. Trong bài nghiên cứu này đang bàn về nông sản xuất khẩu nên chỉ xem xét xúc tiến thương mại dưới góc độ xúc tiến xuất khẩu nông sản. Tức là đánh giá và đề xuất ý kiến về các hoạt động: thông tin thương mại, tư vấn xuất khẩu, nghiên cứu thị trường, quảng bá sản phẩm nông nghiệp… trên thị trường nước ngoài của Chính phủ, các tổ chức xúc tiến, doanh nghiệp Việt Nam như thế nào. Hiện nay Việt Nam có 42 thương vụ sứ quán ở nước ngoài thực hiện nhiệm vụ xúc tiến xuất khẩu cho các mặt hàng từ trong nước. Ngân sách chi cho xúc tiến thương mại lên tới 321,88 tỷ đồng, ngân sách nhà nước đóng góp 195,12 tỷ đồng. Tuy vậy ngân sách chi cho xúc tiến nông sản chỉ hơn 4 tỷ đồng. Vẫn tồn tại tình trạng vừa thừa vừa thiếu thông tin. Thừa là thừa những thông tin chung chung, thiếu là thiếu những thông tin về thị trường, nhu cầu thực tế. Nhiều người cho rằng sở dĩ có tình trạng này là do kinh phí cung cấp cho hoạt động này quá ít ỏi. Trong khi đó để có những thông tin sâu về thị trường nước bạn ta cần có đội ngũ trình độ tốt nghiên cứu trong một thời gian nhất định, như vậy chi phí rất đắt đỏ. Ngay như cả tổng công ty chè cũng chỉ có một trung tâm ở Nga để khảo sát thị trường. Không hẳn là vậy, thực tế chúng ta có tới 42 thương vụ viện ở nước ngoài thực hiện nhiệm vụ thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp trong nước. Vấn đề là ở chỗ hiệu quả của các trung tâm này ra sao. Đồng thời nông sản là một mặt hàng có rất nhiều hiệp hội: hiệp hội điều, hiệp hội cà phê, hiệp hội chè… Vai trò của các hiệp hội này một phần là liên kết hỗ trợ sản xuất, còn có nhiệm vụ khảo sát, tìm bạn hàng, quảng bá thương hiệu ra nước ngoài. Thế nhưng hiệp hội của Việt Nam dường như chỉ tồn tại mang tính hình thức. Ngay cả Chính phủ cũng có rất ít cơ quan trong nước thực hiện nhiệm vụ tư vấn xuất khẩu may ra chỉ có phòng thương mại và công nghiệp (VCCI). Về phía doanh nghiệp cũng chưa chủ động trong việc tìm thông tin, chưa tận dụng tốt các phương tiện truyền thông. Chúng ta cũng chưa tận dụng tốt những người Việt Nam sông ở nước ngoài. Họ có nhiều thông tin nóng, chính xác trong khi chi phí nhiều khi lại chỉ mang tính tượng trưng. Rõ ràng nguyên nhân của bất cập trong chính sách này bắt nguồn từ nhận thức. Có thể nguyên nhân khách quan là chúng ta thiếu vốn không có tiền nhiều bỏ ra nghiên cứu thị trường. Chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác quảng bá thương hiệu cho các mặt hàng nông sản. Song sâu xa nhất, Chính phủ và ngay cả doanh nghiệp cũng chưa thực sự coi trọng chính sách này. Vẫn có quan niệm cos hàng là bán được, bán ở đâu cũng tốt, không quan tâm mặt hàng nào bán ở đâu, số lượng bao nhiêu, bán như thế nào cho hiệu quả. Thứ bảy, các chính sách đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, thay đổi nhận thức của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Tâm lý của người dân chỉ là thấy lợi trước mắt là họ làm. Thấy cây nào đó, giá tăng là họ trồng; thấy phun thuốc cho năng suất cao thì họ phun. Mặt khác, những tập quán sản xuất lạc hậu tư tưởng sản xuất tiểu nông rất khó thay đổi. Bởi vậy cán bộ khuyến nông vô cùng vất vả mỗi khi muốn người dân thay đổi một cách thức làm ăn mới nào đó. Tiền chi cho công tác đào tạo, chuyển giao kỹ thuật thấp khiến cho số lượng cán bộ khuyến nông vừa thưa, vừa không mặn mà với công việc. Tóm lại, các chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam phần nào đó đã là cú huých mạnh cho nông sản Việt có mặt trên thị trường thế giới. Tuy thế vẫn thiếu sự dài hơi trong định hướng của nhà nước. Vẫn chưa có “cộng hưởng” trong các chính sách để tạo ra sự đảm bảo cho sự chủ động của chúng ta trước những biến động liên tục của thị trường. Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO 3.1. Định hướng hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO: Khi đã là thành viên WTO tức là chúng ta đã tham gia vào sân chơi thương mại thế giới. Đã chơi thì chúng ta phải chơi theo luật, quy định của WTO. Bởi thế, các công cụ chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của chúng ta cần phù hợp, tương thích với “Hiệp định nông sản phẩm”, “Hiệp định trợ cấp”… Việt Nam cần vận dụng và phát huy triệt để các trợ cấp được phép. Chính phủ cần tăng cường đầu tư nghiên cứu, khoa học đặc biệt là về các loại cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao và khả năng kháng bệnh. Đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam ra nước ngoài. Đồng thời cắt giảm các loại trợ cấp theo cam kết, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp. Xây dựng, tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp phù hợp để vừa đảm bảo an ninh lương thực vừa đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu nông sản. 3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO: Thực hiện được định hướng trên Việt Nam cần có những chính sách mang tính dài hơi và đủ mạnh để khắc phục những hạn chế trước đó: Nhà nước cần xây dựng Chiến lược xuất khẩu nông sản quốc gia đến năm 2020 và Chiến lược phát triển hàng nông sản xuất khẩu từ nay đến năm 2010, tầm nhìn 2020: Thực chất xây dựng Chiến lược xuất khẩu nông sản là xây dựng các chính sách định hướng xuất khẩu nông sản. Chiến lược này bao gồm các chính sách: chính sách thị trường, chính sách mặt hàng, chính sách xúc tiến thương mại hàng nông sản xuất khẩu. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là các chính sách này, nhất là chính sách thị trường nông sản xuất khẩu, phải được xây dựng trước tiên và được lấy làm căn cứ định hướng cho các chính sách khác. Trong đó, chính sách mặt hàng được xây dựng trên cơ sở chính sách thị trường. Điều cần lưu ý là cũng như Chiến lược xuất khẩu nông sản, Chiến lược phát triển nông sản xuất khẩu cần được xây dựng trước hết trên cơ sở coi trọng định hướng thị trường xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu chứ không phải trên cơ sở coi trọng tiềm năng sản xuất trong nước. Thành lập một cơ quan tư vấn, nghiên cứu thị trường độc lập, theo dõi thực hiện chính sách: Chức năng của cơ quan này là lập hồ sơ theo dõi những thay đổi chính sách của Nhà nước, kiểm điểm đánh giá tác động của chính sách đối với xuất khẩu nông sản để sớm đưa ra cảnh báo về những mâu thuẫn giữa các văn bản chính sách, hoặc sự không thống nhất giữa chính sách tổng thể và các chính sách cụ thể thực hiện; làm đầu mối tiếp xúc giữa Chính phủ và doanh nghiệp, người sản xuất, thu thập ý kiến của người sản xuất, của người tiêu dùng liên quan đến những thay đổi chính sách xuất khẩu nông sản , phát hiện những vướng mắc, bất cập của các chính sách khi triển khai thực hiện, chuẩn bị và giúp Chính phủ giải quyết những thay đổi chính sách cần thiết… Nhà nước nên tham khảo kinh nghiệm của một số nước: Theo đó, Nhà nước ban hành một hệ thống thống nhất tiêu chuẩn hàng nông sản xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế, đưa ra dấu chất lượng cấp nhà nước để bảo hành cho những sản phẩm thương hiệu quốc gia có chất lượng cao nhất, đồng thời ban hành luật cấm xuất khẩu những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng đã quy định. Để những biện pháp này được thực thi tốt, Nhà nước nên có chính sách thu hút cho phép các công ty tư nhân đầu tư xây dựng các trung tâm kiểm tra chất lượng nông sản xuất khẩu. Có nhiều chính sách thu hút vốn từ các nước trên thế giới nhất là các nước phát triển đầu tư vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ các nông sản xuất khẩu: Các doanh nghiệp của Việt Nam có thể liên doanh “tay ba” với doanh nghiệp các nước phát triển như Mỹ, EU. Liên doanh với các doanh nghiệp của EU chúng ta có thể tránh được các tiêu chuẩn khắt khe khi xuất và thị trường này. Khi mà có đối tác Mỹ làm chủ một phần doanh nghiệp của mình, họ sẽ giúp chúng ta không phải vấp phải những biện pháp tự vệ không công bằng. Cần sử dụng phối hợp nhiều công cụ chính sách để khai thác hết ưu điểm của chúng nhằm khắc phục những hệ quả bất lợi cho xuất khẩu nông sản do chính sách khác gây ra Gấp rút đào tạo, đào tạo lại, có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ, công nhân viên, chuyên gia tham gia tham mưu, tư vấn cho Nhà nước về chính sách xuất khẩu nông sản… Phần tiếp theo của bài nghiên cứu này xin phân tích, định hướng cho một số chính sách mang tính then chốt tới hoạt động xuất khẩu nông sản. Nếu thực hiện tốt các chính sách này thì có thể nói các vướng mắc cơ bản của hoạt động xuất khẩu nông sản sẽ được tháo gỡ. 3.2.1. Xác định sản phẩm chiến lược: Như đã phân tích thì hiện nay chúng ta chỉ bán những gì chúng ta có mà chưa bán những sản phẩm mà thị trường cần trong điều kiện chúng ta có thể đáp ứng. Đã đến lúc chúng ta cần xác định chúng ta có thể cạnh tranh ở những mặt hàng nào để tập trung vốn, nguồn lực và những sản phẩm nào có thể chết ngay trên sân nhà để định hướng cho người dân sản xuất. Một số sản phẩm được đánh giá là rất ít tính cạnh tranh: mía đường, bông, cây có dầu, sữa bò, gà…Minh chứng cho điều đó, chẳng hạn, giá thành mía nguyên liệu cho 1 tấn đường của ta hiện cao hơn 40% so với Ấn Độ, 48,8% so với Thái Lan và gấp 1,6 lần so với mía nguyên liệu ở Australia. Vậy thử hỏi rằng khi mà thuế đường nhập khẩu giảm mà chúng ta không được phép áp dụng các biện pháp bảo hộ thì bằng cách gì đường của Việt Nam tồn tại ngay cả trong thị trường nội địa chưa nói gì đến xuất khẩu. Hay một con bò ở châu Âu được trợ cấp tới 2,63 USD/ngày hơn cả mức thu nhập bình quân của một người nông dân Việt Nam. Hiện nay vấn đề trợ cấp nông nghiệp của các nước phát triển vẫn chưa được giải quyết trong vòng đàm phán Đôha. Vậy khi thị trường sữa bò mở cửa thì những con bò Việt Nam khó cạnh tranh được những con bò “ăn thịt người” ở châu Âu, Mỹ. Tuy vậy vẫn có nhiều mặt hàng Việt Nam có tiềm năng mà chưa khai thác hết: trái cây, hoa tươi, rau…Chúng ta biết rằng rau hoa quả là mặt hành nông sản lớn nhất của sân chơi WTO, trị giá gần 103 tỷ USD. Thị trường về lúa gạo, cà phê, cao su nhỏ hơn; mỗi thứ không quá 10 tỷ USD/năm. Các loại nông sản khác như chè, điều và hồ tiêu lại càng nhỏ; trên dưới 3 tỷ USD/năm. Theo số liệu thống kê thì các nông sản xuất khẩu chủ lực của chúng ta lại là lúa gạo, cà phê, cao su. Trong khi đó rau quả thì chỉ xuất khẩu với giá trị khiêm tốn 226 tr USD (năm 2006). Việt Nam rất có tiềm năng về mặt hàng rau quả do khí hậu phong phú có nơi cung cấp được rau, hoa quả ôn đới như Sapa, Đà Lạt, rau quả nhiệt đới ở Đông Nam Bộ…Thế nhưng mãi đến năm 2005 ta vẫn còn sử dụng hơn 7 tr ha đất để trồng lúa. Chỉ có gần 1 tr ha để trồng dừa, cao su, trà, cà phê và 1,4 tr ha trồng trái cây, rau quả và hoa. Đây là sự phát triển không cân đối vì rõ ràng lúa đã trở nên độc canh, chiếm tới 74% diện tích canh tác của cả nước, trong khi trái cây, rau quả và hoa có thị trường xuất khẩu lớn gấp 10 lần thì lại ít phát triển, chỉ chiếm có 15%.( Nguồn Thuonghieunongsan.org.vn) Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt vốn và nguồn lực của chúng ta ít thì vận xác định tập trung sức vào đâu là một bước đi chính xác. Thậm chí gần đây còn có ý kiến bình luận về việc chúng ta hầu như chỉ xuất khẩu gạo cho rằng: “liệu rằng trong điều kiện hội nhập vấn đề an ninh lương thực có cần thiết phải bàn đến”. 3.2.2. Thực hiện chính sách ruộng đất hợp lý trong điều kiện gia nhập WTO: Để có những cánh đồng đạt 50 tr/ha/năm thậm chí 100 tr/ha/năm, để xuất khẩu với một số lượng hàng lớn, ổn định chúng ta cần có những vùng sản xuất tập trung, trang trại lớn. Để có vùng sản xuất tập trung, trang trại lớn không còn cách nào khác là phải dồn điền đổi thửa. Thực ra chính sách dồn điền đổi thửa không phải là một chính sách mới tinh. Nó đã được triển khai ở một số nơi. Gần đây khi mà tiến t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35854.doc
Tài liệu liên quan