Chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong thời kỳ CNH và kinh nghiệm đối với Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Từ một nước có cơ sở kinh tế yếu kém, tích luỹ tư bản và trình độ kỹ thuật rất thấp, trải qua vài thập niên bằng con đường công nghiệp hoá, Hàn Quốc đã trở thành một trong những quốc gia mạnh, có trình độ phát triển cao ở vùng Đông Á. Hàn Quốc có thể đạt được những thành tựu to lớn trong sự phát triển kinh tế chính một phần lớn là nhờ những thành công của chính sách công nghiệp hoá Để thực hiện chiến lược tăng trưởng dựa vào công nghiệp và hướng ngoại,

doc138 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong thời kỳ CNH và kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính phủ Hàn Quốc đã sử dụng các công cụ chính sách như chính sách tín dụng, chính sách thuế, chính sách tỷ giá hối đoái, v.v... Các chính sách này, đặc biệt là chính sách tín dụng, đã có những tác dụng tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời cũng gây những ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế đưa Hàn Quốc đến cuộc khủng hoảng tài chính và sau đó là khủng hoảng kinh tế cuối năm 1997. Vì vậy, nghiên cứu chính sách tín dụng của Hàn Quốc và tác dụng của nó đến việc xúc tiến công nghiệp hoá và sự tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc là vấn đề có ý nghĩa trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn không chỉ đối với Hàn Quốc mà còn đối với tất cả các nước kém phát triển cần phải tiến hành công nghiệp hoá để phát triển kinh tế trong đó có Việt Nam.Việt Nam bắt đầu tiến hành công nghiệp hoá trong những điều kiện có nhiều điểm tương đồng với Hàn Quốc như cùng một điểm xuất phát, sự thiếu hụt về nguồn vốn. Việt nam đang rất cần học hỏi các kinh nghiệm từ bên ngoài đặc biệt là từ những nước có hoàn cảnh giống mình như Hàn Quốc để phục vụ cho việc thực hiện công nghiệp hoá thành công ở Việt Nam. Nghiên cứu kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc sử dụng chính sách tín dụng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá nhằm rút ra những bài học có ý nghĩa đối với Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hoá là cần thiết. Do vậy, chúng tôi chọn đề tài này để làm luận án thạc sỹ kinh tế . 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Ở Việt Nam, trong vài năm trở lại đây, cùng với việc thành lập Ban nghiên cứu Hàn Quốc thuộc Trung tâm Khoa học và Nhân văn Quốc gia, một số vấn đề về kinh tế Hàn Quốc như chính sách xuất khẩu, chính sách công nghiệp hoá, chương trình cải tổ nền kinh tế Hàn Quốc sau khủng hoảng kinh tế 1997 đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu. Vấn đề chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá cũng đã được một số học giả của Viện Kinh tế thế giới nghiên cứu và công bố trên một số tạp chí kinh tế. Nhưng cho đến nay, ở Việt Nam, chưa có một công trình nào đề cập một cách có hệ thống về chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc trong những giai đoạn cụ thể của tiến trình công nghiệp hoá và những tác dụng tích cực cũng như những hạn chế của nó đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo tốt cho Việt Nam. Tại Hàn Quốc, chính sách tín dụng và sự nghiệp công nghiệp hoá của Hàn Quốc đã được một số học giả thuộc Viện phát triển Hàn Quốc như Yoon Je Cho và Joon Kyung Kim nghiên cứu. Đặc biệt, từ sau khủng hoảng kinh tế năm 1997, khi sự can thiệp sâu của chính phủ vào lĩnh vực tài chính và công ty được xem là những nguyên nhân của khủng hoảng thì vấn đề này cũng được nhiều học giả bàn đến trên những góc độ khác nhau trong những công trình nghiên cứu về nguyên nhân của khủng hoảng và các chính sách cải tổ kinh tế của chính phủ Hàn Quốc. Tuy nhiên, nghiên cứu chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong sự nghiệp công nghiệp hoá để từ đó rút ra những bài học cụ thể vai trò của nhà nước trong việc huy động và sử dụng nguồn lực cho tiến trình công nghiệp hoá ở Việt nam thì cũng chưa cũng được các tác giả Hàn Quốc quan tâm nghiên cứu. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Luận giải trên phương diện lý luận và thực tiễn về sự cần thiết khách quan của những can thiệp của chính phủ thông qua chính sách tín dụng đối với quá trình thực hiện chiến lược công nghiệp hoá ở Hàn Quốc Nghiên cứu thực chất của chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá và phân tích các tác động của nó đối với việc xúc tiến công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc. Trên cơ sở đánh giá chung về chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá rút ra những bài học cho Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hoá . 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Luận văn nghiên cứu chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc đối với các tổ chức kinh doanh thuộc khu vực tư nhân của Hàn Quốc đặc biệt là đối với các tập đoàn kinh doanh có quy mô lớn được lựa chọn là các công ty trọng điểm thực hiện chương trình phát triển các ngành công nghiệp mục tiêu trong tiến trình công nghiệp hoá 5. Phương pháp nghiên cứu. Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, xem xét chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc trong trạng thái phát triển qua các thời kỳ và đặt nó trong mối quan hệ với các giải pháp kinh tế vĩ mô khác. Các phương pháp khác như phương pháp so sánh, phương pháp thống kê cũng được sử dụng phục vụ cho mục đích của đề tài. 6.Những đóng góp chính của luận án Khẳng định sự cần thiết khách quan và vai trò quan trọng của chính phủ đối với việc tạo nguồn lực và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc. Luận giải vai trò của chính sách tín dụng như là một công cụ có hiệu quả mà chính phủ có thể sử dụng phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế. Làm rõ thực chất của chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá và những tác động tích cực cũng như những hậu quả xấu của nó đôí với quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc. Tổng kết những bài học mà Việt Nam có thể học hỏi được từ kinh nghiệm của Hàn Quốc nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá Chương 2: Phân tích thực trạng chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá Chương 3: Chính sách tín dụng của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá và khả năng áp dụng kinh nghiệm của Hàn Quốc CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG CỦA HÀN QUỐC TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA MỖI QUỐC GIA. 1.1.1. Khái niệm tín dụng và chính sách tín dụng. Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định người sở hữu thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Thực chất, tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng rằng lượng vốn cho vay sẽ được hoàn trả lại trong tương lai cùng với chi phí của khoản tín dụng đó. Tín dụng theo nghĩa rộng bao gồm hai mặt là huy động vốn và cho vay vốn. Nguyên nhân khách quan của sự tồn tại và phát triển quan hệ tín dụng là mâu thuẫn vốn có của quá trình tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội. Đó là, tại cùng một thời điểm, có chủ thể kinh tế tạm thời dư thừa một khoản vốn tiền tệ trong khi các chủ thể kinh tế khác lại có nhu cầu cần bổ sung vốn. Nếu tình trạng này không được giải quyết thì quá trình sản xuất có thể bị ngưng trệ ở chủ thể này trong khi vốn lại đang nằm im không được sử dụng ở một chủ thể khác. Kết quả là nguồn lực của xã hội không được sử dụng một cách có hiệu quả nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Tín dụng thực chất là chiếc cầu nối liền nhu cầu tiết kiệm với nhu cầu đầu tư của xã hội. Tín dụng tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của những quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Mục đích và tính chất của tín dụng do mục đích và tính chất của nền sản xuất hàng hoá quyết định. Sự vận động của tín dụng luôn luôn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế của phương thức sản xuất trong xã hội đó. Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, tín dụng đã trải qua một quá trình phát triển từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, từ đơn giản đến phức tạp về kĩ thuật và nghiệp vụ. Các hình thức tín dụng cũng ngày càng phong phú hơn. Căn cứ vào thời hạn tín dụng, người ta chia tín dụng ra thành ba loại, đó là: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. Căn cứ vào tính chất luân chuyển vốn, tín dụng gồm hai loại là tín dụng trực tiếp và tín dụng gián tiếp. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng, ta có tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa, tín dụng tiêu dùng, v.v… Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nguồn cung cấp tín dụng chính là các tổ chức kinh doanh và các cá nhân trong đó tín dụng do các ngân hàng cung cấp là phổ biến. Khái niệm chính sách tín dụng Thực chất chính sách tín dụng là cung ứng vốn và phương tiện thanh toán cho các tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền gửi của xã hội và một hệ thống lãi suất mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường. Nội dung cơ bản của chính sách tín dụng bao gồm các vấn đề có liên quan đến việc cấp tín dụng như: quy mô của các khoản cho vay, mức lãi xuất và, kỳ hạn cho vay, các yêu cầu đảm bảo cho các khoản vay, phạm vi cho vay, và một số nội dung khác. Chính sách tín dụng được xây dựng trên những cơ sở sau: - Nhu cầu tín dụng của khách hàng, khả năng sinh lời và rủi ro tiềm năng của hoạt động kinh doanh của họ. - Kết quả phân tích những xu hướng trong quá khứ và dự đoán tương lai của các rủi ro tín dụng. - Các chính sách khác của chính phủ như chính sách tỷ giá, chính sách phát triển hệ thống tài chính v.v cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến chính sách tín dụng. 1.1.2. Vai trò của chính sách tín dụng * Chính sách tín dụng đóng vai trò to lớn trong tiến trình thực hiện công nghiệp hoá thông qua tạo nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp hoá. Công cuộc công nghiệp hoá đòi hỏi phải đầu tư một khối lượng vốn lớn cho việc phát triển nguồn nhân lực, phát triển các ngành công nghiệp mới . Nếu chỉ dựa trên nguồn vốn tự có mà không sử dụng tín dụng, các tổ chức kinh doanh sẽ không có khả năng đáp ứng yêu cầu về quy mô vốn để tham gia vào các ngành công nghiệp mới, mở rộng quy mô của hoạt động kinh doanh, đáp ứng những yêu cầu của công nghiệp hoá. Nhờ sử dụng các nguồn cung cấp tín dụng các tổ chức kinh doanh có đủ vốn để đầu tư vào các ngành đòi hỏi quy mô vốn lớn theo yêu cầu của công nghiệp hoá, tạo ra khả năng cạnh tranh cao. * Chính sách tín dụng là công cụ đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Một quốc gia không thể tăng trưởng kinh tế nếu hệ số mức đầu tư (hệ số ICOR) cần có không đạt mức hợp lý. Nguồn vốn đầu tư gắn liền với hệ số ICOR bao gồm nguồn tích luỹ trong nước, nguốn vốn từ nước ngoài với các hình thức viện trợ, tín dụng và đầu tư trực tiếp. Việc huy động các nguồn vốn này gắn liền với chính sách tín dụng của chính phủ. * Chính sách tín dụng góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong tất cả các thành phần kinh tế thông qua “đi vay để cho vay”. * Chính sách tín dụng còn là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế. Hoạt động tín dụng sẽ cung cấp vốn cho các nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu, từ đó, tạo điều kiện để các tổ chức kinh doanh tham gia vào thị trường quốc tế. * Chính sách tín dụng được sử dụng như là một công cụ điều chỉnh nền kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô của nhà nước. Thông qua hoạt động tín dụng làm biến đổi nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ của các chủ thể kinh tế theo hướng tối ưu, góp phần làm cho chu kì hoạt động của tiền tệ rút ngắn về thời gian, nâng cao vòng quay của tiền tệ. Bằng cách đó tín dụng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động và cạnh tranh của kinh tế thị trường. * Chính sách tín dụng có tác dụng chống lạm phát. Thông qua tín dụng chính phủ có thể điều chỉnh sự chuyển động của nền kinh tế thị trường khi quá nóng hoặc quá lạnh, tức là khi tăng trưởng quá mức hoặc khi suy thoái. Thông qua hoạt động nhận gửi và cho vay; huy động tiết kiệm dài hạn, huy động tiết kiệm đảm bảo giá trị bằng vàng, phát hành công trái, kì phiếu , chính sách tín dụng có tác dụng điều chỉnh trong cả hai trường hợp trên. 1.2. QUAN ĐIỂM VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ CỦA CHÍNH PHỦ HÀN QUỐC VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ 1.2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Hàn Quốc thời điểm sau chiến tranh. Triều Tiên đã bị Nhật Bản xâm chiếm từ năm 1910 đến 1945 và đã bị chia cắt thành miền Nam và miền Bắc từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Phía Bắc Triều Tiên cũ trở thành Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và phiá Nam trở thành Hàn Quốc. Sau cuộc chiến tranh Triều Tiên (năm 1950-1953), nền kinh tế Hàn Quốc ở mức độ phát triển thấp và Hàn Quốc là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Các cơ sở công nghiệp của đất nước được xây dựng trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng đã bị phá hủy gần hết. Là nước nông nghiệp với 2/3 dân số trong độ tuổi lao động sống bằng nghề nông nên trình độ kỹ thuật của Hàn Quốc là rất thấp. Mặc dù vậy, so với một số quốc gia khác như Malaixia và Indônêxia thì Hàn Quốc đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm hơn trong một số ngành công nghiệp như công nghiệp chế tạo do đã trải qua thời kỳ phát triển công nghiệp khi còn là thuộc địa của Nhật Bản. Nền kinh tế nằm trong tình trạng lạm phát kinh niên và không có khả năng đáp ứng những nhu cầu cơ bản của người tiêu dùng. Quy mô của thị trường nội địa là nhỏ bé. Dân số tăng nhanh chóng, tốc độ đô thị hoá ồ ạt và nạn thất nghiệp càng làm trầm trọng thêm các vấn đề kinh tế - xã hội sau chiến tranh. Ra khỏi cuộc chiến tranh, Hàn Quốc hoàn toàn không có tích luỹ nên đã rơi vào tình trạng khan hiếm vốn nghiêm trọng. Nền kinh tế ở giai đoạn này phụ thuộc hoàn toàn vào viện trợ kinh tế của Mỹ và các khoản vay tín dụng nước ngoài chủ yếu là của Mỹ và Nhật Bản. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Hàn Quốc có ý nghĩa quan trọng về mặt chiến lược đối với Mỹ trong cuộc đối đầu với các lực lượng cộng sản nên Hàn Quốc đã nhận được những khoản hỗ trợ không lồ của Mỹ. Sau cuộc cải cách ruộng đất đầu những năm 50 và việc quy tụ tầng lớp nông dân có đất, đã xuất hiện thêm các doanh gia mới. Do thiếu nguồn vốn , các tổ chức kinh doanh ở Hàn Quốc trong thời kỳ này tài trợ cho các hoạt động của mình chủ yếu bằng các khoản vay từ nước ngoài và từ các ngân hàng của nhà nước. Mức thu nhập đầu người rất thấp, sự thay đổi giá cả bất thường, mức độ lạm phát cao của Hàn Quốc khiến cho hầu hết các nhà nghiên cứu về kinh tế Hàn Quốc đều cho rằng giai đoạn này là thời kỳ ảm đạm nhất của nền kinh tế Hàn Quốc. Trong thời kỳ những năm 50, chính phủ Hàn Quốc - dưới sự lãnh đạo của tổng thống đầu tiên Rhee Syng Man - đã không có một chiến lược phát triển kinh tế toàn diện và chính sách kinh tế trong thời gian này được đặc trưng bởi hàng loạt các giải pháp điều tiết thiếu mục đích rõ ràng của chính phủ. Thời kỳ này, chính phủ Hàn Quốc không có một ý tưởng rõ ràng về phát triển kinh tế và mục tiêu phát triển bị ảnh hưởng bởi ý thức chính trị về việc xây dựng một quốc gia được bảo đảm bởi lực lượng quân sự Mỹ với những lời hứa bảo vệ an toàn cho Hàn Quốc, ổn định lạm phát sau chiến tranh và tìm kiếm những hỗ trợ của Mỹ cho nền kinh tế bị phá huỷ sau chiến tranh . 1.2.2. Quan điểm về công nghiệp hoá của chính phủ Hàn Quốc và các công cụ phát triển công nghiệp hoá 1.2.1.1. Quan điểm về công nghiệp hoá của chính phủ Hàn Quốc * Công nghiệp hoá là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để phát triển kinh tế. Sau khi Park Chung Hee trở thành tổng thống đầu tiên do dân bầu, Hàn Quốc đã có những thay đổi lớn trong việc lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia. Được đào tạo tại Học viện quân sự của Nhật Bản, ông Park Chung Hee đã chịu ảnh hưởng rất lớn của Nhật Bản, coi Nhật Bản như một khuôn mẫu về sự phát triển kinh tế và mơ tưởng đến việc xây dựng các ngành công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp nặng ở Hàn Quốc. Chính phủ Park Chung Hee cho rằng sự giàu có của một quốc gia là một nền công nghiệp vững mạnh và an ninh quốc gia. Hàn Quốc là quốc gia nghèo về tài nguyên, nền kinh tế dựa trên nông nghiệp là chủ yếu nên nếu muốn trở thành quốc gia giàu có thì cần thiết phải phát triển công nghiệp, đặt công nghiệp hoá là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Sự phát triển kinh tế, là phải gắn với công nghiệp hoá, thực hiện công nghiệp hoá để thoát khỏi sự nghèo đói. Theo quan điểm của Park Chung Hee, an ninh quốc gia và phúc lợi của xã hội tuỳ thuộc vào sự giàu có của quốc gia và sức mạnh của quân đội. Nếu sự phát triển của công nghiệp tạo ra sự giàu có của quốc gia thì đến lượt mình, sự giàu có của quốc gia sẽ là yếu tố đảm bảo cho an ninh của quốc gia. * Nguồn vốn để phát triển công nghiệp được huy động chủ yếu từ các khoản vay nước ngoài. Trong suy nghĩ của ông Park, hình ảnh biên giới quốc gia và quan niệm “chúng ta đối lập ”với họ đã ăn sâu vào tâm khảm và điều này làm nảy sinh thái độ baì ngoại và tư tưởng độc lập, không phụ thuộc của người Hàn Quốc. Tổng thống Park Chung Hee cũng cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài không có tác dụng gì đối với sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc. Ông ta cũng lo ngại rằng một khi đầu tư nước ngoài được khuyến khích thì sự kiểm soát của nước ngoài sẽ sâu hơn và tài sản của quốc gia sẽ bị di chuyển ra nước ngoài. Do đó, để tạo nguồn tài chính cho sự phát triển kinh tế, chính quyền Park chủ trương huy động vốn chủ yếu là từ các khoản viện trợ của Mỹ và Nhật Bản và các khoản vay nợ nước ngoài chứ không cho phép đầu tư nước ngoài trực tiếp. * Lựa chọn các doanh nghiệp có quy mô lớn thuộc khu vực kinh tế tư nhân là người thực hiện chính sách phát triển công nghiệp. Theo quan điểm của Park, sự cạnh tranh quá mức sẽ xâm hại đến phúc lợi quốc gia, vì vậy, chính quyền Park đã lựa chọn trước người chiến thắng trong những ngành công nghiệp đặc biệt. Đó chính là những tổ chức kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân có quy mô lớn. Để thực hiện công nghiệp hoá thành công, chính quyền Park cho rằng cần có các chính sách để khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá. Nếu không có sự tham gia của khu vực này thì mục tiêu của công nghiệp hoá và mục tiêu tăng trưởng kinh tế sẽ khó thành công. Các nhà chính trị và các nhà hoạch định chính sách kinh tế của Hàn Quốc đã lựa chọn công cụ tài chính như là một công cụ chủ yếu để quản lý các nhà công nghiệp thuộc lĩnh vực kinh tế tư nhân. Thông qua kiểm soát tài chính mà bắt buộc họ phải phục vụ cho lợi ích của quốc gia. * Hy sinh tiêu dùng và phúc lợi xã hội để dành nguồn vốn cho công ngiệp hoá Có thể nói rằng chính sách kinh tế của chính quyền Park Chung Hee nhằm bảo vệ người sản xuất chứ không bảo vệ cho lợi ích của người tiêu dùng. Trong điều kiện Hàn Quốc phải tập trung vốn để đầu tư cho phát cho phát triển triển công nghiệp và trả nợ các khoản vay nước ngoài, tiết kiệm tiêu dùng được xem là quốc sách. Các phúc lợi xã hội cũng bị thu hẹp lại để tập trung nguồn vốn vào phát triển công nghiệp. Các tư tưởng này về chính sách công nghiệp của tổng thống Park Chung Hee được các tổng thống như Chun Doo Whan, Roh Woo Tae, tiếp tục thực hiện trong những nhiệm kỳ tiếp theo. 1.2.2.2. Quá trình tiến hoá của chính sách công nghiệp hoá của Hàn Quốc. + Công nghiệp hoá trên cơ sở định hướng xuất khẩu (thời kỳ những năm 60) Giai đoạn đầu của chính sách công nghiệp hoá của Hàn Quốc được đặc trưng bởi định hướng khuyến khích xuất khẩu từ năm 1962 đến 1971 khi chính quyền Park thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và kế hoạh 5 năm lần thứ 2. Thời kỳ đầu những năm 60, sau khi Tổng thống Park Chung Hee lên nắm quyền điều hành đất nước, chính quyền Park đã nhấn mạnh rằng phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu để hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu của giai đoạn này là tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhanh về số lượng trên cơ sở xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp cơ bản, xây dựng cơ sở cho các ngành công nghiệp tự lực cánh sinh, thay thế nhập khẩu thiết bị và xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp nhẹ. Lý do khiến chính quyền của Tổng thống Park lựa chọn định hướng đẩy mạnh xuất khẩu đó là quan điểm cho rằng một nước đang phát triển trong điều kiện thiếu nguồn lực nội tại, không có tích luỹ vốn ngoài lao động, sức mua trên thị trường trong nước rất nhỏ bé thì chỉ có thể tạo ra sản phẩm giá trị gia tăng bằng cách nhằm vào thị trường người tiêu dùng ở các nước phát triển hay thực hiện định hướng hướng ngoại. Tổng thống Park Chung Hee đã lập ra 2 kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm nhằm thực hiện công nghiệp hoá, góp phần đưa Hàn Quốc trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, với chủ trương thay thế nhập khẩu, chính phủ tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống đường giao thông, thuỷ điện. Đồng thời, các ngành công nghiệp nhẹ hướng về xuất khẩu như dệt , may, da, giầy v v .. cũng được chú trọng phát triển mạnh nhằm tận dụng tối đa ưu thế lao động rẻ, chuẩn bị các cơ sở cho quá trình đẩy mạnh xuất khẩu. Bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất cũng là quá trình công nghiệp hoá được thực hiện từ công nghiệp nhẹ. Các lĩnh vực phát triển chủ yếu trong công nghiệp là điện phân bón, sợi hoá học, sợi ny lông, lọc dầu và ximăng, trong đó sợi hoá học, lọc dầu phát triển thông qua liên doanh chủ yếu là dựa vào vốn của Mỹ. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã được những thành tựu đáng kể. Tốc độ tăng trưởng GNP bình quân năm 1962-1967 là 8,5% ( kế hoạch đề ra là 7,1%) trong đó tốc độ ngành khai khoáng và ngành công nghiệp chế tạo tăng 14,2%. Vào năm 1965, cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp trong GNP chiếm 38,4%, ngành khai khoáng và chế tạo chiếm 19,8%. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1967-1971), chính phủ đặt ra mục tiêu chủ yếu là hiện đại hoá cơ cấu công nghiệp hướng ngoại. Chính sách thay thế nhập khẩu trong kế hoạch 5 năm đầu được thay bằng chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở sử dụng nhiều lao động, có lợi thế cạnh tranh với nước ngoài. Các ngành sợi nhân tạo, hoá dầu, thiết bị điện và các ngành công nghiệp nhẹ như vải, cao su, gỗ dán được coi là những ngành xuất khẩu chủ yếu. Trong giai đoạn này, chính phủ lấy mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu làm thước đo cho mọi hoạt động kinh doanh. Tốc độ tăng GNP bình quân năm thời kỳ 1966-1971 là 9,7% trong đó tốc độ của của nghành chế tác 19,8%, tốc độ xuất khẩu đạt cao trên 40%. Kết thúc 2 kế hoạch 5 năm nền kinh tế Hàn Quốc đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Do biết tận dụng nguồn lao động dư thừa, có kỹ năng và chi phí rẻ cho quá trình sản xuất các sản phẩm hướng về xuất khẩu, Hàn quốc trong những năm 1960 đã khắc phục được sự thiếu thốn nghiêm trọng về mặt tài nguyên, vượt qua được những sức ép về giới hạn thị trường nhỏ bé trong nước để hướng ra xuất khẩu, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn từ 1962 đến 1971 được coi là một giai đoạn quan trọng nhất trong phát triển kinh tế hiện đại của Hàn Quốc bởi vì nó đạt được những tiến bộ quan trọng trong xây dựng và phát triển cơ sở công nghiệp, đạt được những thay đổi cơ bản trong các chiến lược phát triển của quốc gia thông qua cải cách chính sách và thay đổi thể chế. Tỷ lệ xuất khẩu trong GNP đã tăng từ 2,4% năm 1961 lên 6,8% vào năm 1966 và 11,2% vào năm 1971. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn này đạt trên 40%. Sự phát triển của các nhành công nghiệp phục vụ xuất khẩu kéo theo tỷ lệ việc làm tăng nhanh. Quá trình đô thị hoá đất nước diễn ra nhanh chóng. GNP đầu người đã tăng hơn gấp ba trong giai đoạn 1962-1971( từ 87 USD lên 289 USD). * Công nghiệp hoá trên cơ sở ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp hoá chất và công nghiệp nặng (thời kỳ những năm 70) Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, khi những hỗ trợ của chính phủ được thực hiện trên cơ sở quy mô sản lượng xuất khẩu của các ngành công nghiệp thì hai ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất cũng đã nhận được những hố trợ của chính phủ trong khuôn khổ đóng góp của chúng vào sản lượng xuất khẩu. Điều này có nghĩa là ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất (HCI) chỉ có thể nhận được những hỗ trợ của chính phủ nếu chúng có đóng góp vào xuất khẩu. Sự tập trung tạo động lực khuyến khích một số ít doanh nghiệp có quy mô lớn của chính phủ tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của một số ngành như sản xuất thép, hoá dầu, đóng tàu, công nghiệp ôtô. Sự thay đổi căn bản trong chính sách công nghiệp của Hàn Quốc từ khuyến khích xuất khẩu sang phát triển các ngành công nghiệp được xem là những ngành công nghiệp chiến lược như công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất được công bố vào tháng 1 năm 1972. Chính sách mới này được thực hiện trong thời kỳ 1972-1979. Đây là sự thay đổi căn bản từ định hướng tăng trưởng bằng xuất khẩu sang tập trung ưu tiên phát triển chỉ hai ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất. Có thể nói đây bước thay đổi của cơ cấu công nghiệp. Sự thay đổi về chính sách này được giải thích bởi nhiều lý do khác nhau. Đó là: Thứ nhất nó liên quan đến những tác động từ phía bên ngoài như cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973. Cú sốc dầu mỏ năm 1973-1974 đã tác động mạnh và làm nền kinh tế Hàn Quốc bị khủng hoảng nghiêm trọng. Kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc hoàn toàn vào dầu mỏ nhập khẩu từ thị trường bên ngoài. Do vậy chính phủ Hàn Quốc đã quyết định chuyển hướng chiến lược cải thiện cơ cấu ngành công nghiệp tập trung vào phát triển công nghiệp nặng và hoá chất nhằm cung cấp nguyên vật liệu và thiết bị cho các ngành công nghiệp mới, loại dần sự phụ thuộc vào nước ngoài đối với ngành công nghiệp mới. Tại thời điểm này, tình hình cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu quốc tế giữa các nước phát triển cũng trở nên ngày càng gay gắt. Khi Mỹ rút ra khỏi Đông Nam Á, Hàn Quốc không còn được viện trợ ưu đãi của Mỹ, công nghiệp Hàn Quốc lệ thuộc nhiều vào Nhật Bản. Hàn Quốc đang mất dần lợi thế cạnh tranh trong các ngành công nghiệp cần nhiều lao động không kỹ năng như giầy da, dệt, gỗ dán, do đó, cần phát triển chuyên sâu các ngành công nghiệp cần sự tinh xảo hơn, có giá trị gia tăng và lợi thế cạnh tranh cao hơn. Với những điều kiện ngày càng xấu đi của thị trường quốc tế, Hàn Quốc cần phải giảm bớt sự phụ thuộc của nó vào nguyên liệu và máy móc nhập khẩu để duy trì được sự ổn định của các lợi thế cạnh tranh. Nếu Hàn Quốc tiếp tục phải nhập nhiều máy móc thiết bị và nguyên liệu trên thị trường quốc tế như ở giai đoạn trước thì sản phẩm của Hàn Quốc sẽ khó có khả năng đạt được lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Mặt khác những thành tích của Nhật Bản trong các ngành như sản xuất thép, chế tạo ôtô, công nghiệp điện tử đã khuyến khích Hàn Quốc chú ý hơn đến sự phát triển của các ngành công nghiệp chiến lược. Thứ hai, sự rút bớt một phần lực lượng quân đội Mỹ đặt ra yêu cầu là chính phủ cần phải thiết lập một cơ sở công nghiệp cho việc bảo vệ quyền tự chủ và an ninh quốc gia của mình. Và vì thế, chính phủ xác định rằng cần sử dụng các công cụ tài chính và thuế để hướng việc sử dụng nguồn lực tập trung vào các ngành công nghiệp trọng tâm như hoá dầu, sắt, thép, điện tử. Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật, sự tăng trưởng mức tiền lương trong nước, nhu cầu đối với các sản phẩm của HCI cùng với sự tăng trưởng dần dần mức thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh mãnh liệt trên thị trường quốc tế đã bắt buộc Hàn Quốc phải sắp xếp lại cơ cấu công nghiệp của mình để có thể mở rộng phát triển kinh tế. Đối mặt với những biến đổi kinh tế và chính trị này, chính phủ Hàn Quốc đã đặt ra mục tiêu mới cho chính sách công nghiệp cho thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ ba và lần thứ tư ( 1972-1981). Đó là tiếp tục duy trì phát triển công nghiệp tốc độ cao, thay đổi cơ cấu công nghiệp, xây dựng các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất có khả năng cạnh tranh cao, nhằm cung cấp nguyên vật liệu và thiết bị cho các ngành công nghiệp mới, loại dần sự phụ thuộc vào nước ngoài đối với ngành công nghiệp mới, thực hiện tự cung cấp về lương thực, cân đối thanh toán. Các ngành công nghiệp mới chủ yếu trong kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1972-1976) gồm: thép, hoá dầu, đóng tầu , thiết bị vận tải, đồ dùng điện dân dụng. Xét về mặt kinh tế, sự chuyển đổi cơ cấu công nghiệp ở Hàn Quốc làm tăng năng xuất lao động, bù đắp tiền lương ngày càng tăng ở Hàn Quốc và đáp ứng những thách thức cạnh tranh toàn cầu. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1976-1981) chính phủ tiếp tục theo đuổi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo cơ cấu kinh tế tự lực, cải thiện công nghệ và tăng cường hiệu quả. Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ các ngành chế tạo máy móc, thiết bị điện tử, đóng tàu, luyện kim màu, coi đây là ngành công nghiệp mới có công nghệ sử dụng nhiều lao động. Để hỗ trợ cho công nghiệp nặng, chính phủ đã ban sắc lệnh phát triển các ngành công nghiệp nặng và hoá chất vào tháng 1-1973, với mục tiêu đạt 50% xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nặng và hoá chất trong tổng kim ngạch xuất khẩu công nghiệp năm 1980. Luật thúc đẩy phát triển công nghệ cũng được đưa vào thực hiện năm 1972 và các biện pháp tự do hoá bước một về nhập khẩu công nghệ nước ngoài được chính phủ thực hiện năm 1978 đã đem lại sự phát triển công nghệ vượt bậc cho ngành công nghiệp. Quá trình công nghiệp hoá của Hàn Quốc được xem là kết thúc sau khi hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ 4. Những kết qủa đạt được của 4 kế hoạch năm 5 là rất đáng kể, tuy nhiên chúng cũng để lại một số vấn đề như lạm phát tăng ( tỷ lệ lạm phát vào cuối những năm 1970 là 28,7%), đặc biệt là thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, sự phát triển thiếu cân đối, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm Hàn Quốc trên thị trường quốc tế. Do vậy, sau khi kết thúc giai đoạn công nghiệp hoá, từ 1980, chính phủ đã có những thay đổi cơ bản trong chính sách công nghiệp của mình. Trong phạm vi có giới hạn của luận văn, những thay đổi trong chính sách công nghiệp của chính phủ từ sau 1980 như chính sách tự do hoá và mở cửa (giai đoạn 80-89), chính sách toàn cầu hoá ( giai đoạn 90-96) không được đề cập. 1.2.2.3. Các công cụ công nghiệp hoá * Kiểm soát tín dụng. Kiểm soát hoạt động của các nhà công nghiệp bằng tín dụng được xem là công cụ có hiệu lực nhất và là công cụ chủ yếu nhất của các công cụ nhằm thực hiện chính sách công nghiệp hoá. Sự kiểm soát tín dụng được thực hiện thông qua kiểm soát lãi xuất vay vốn ưu đãi, thực hiện các khoản cho vay hỗ trợ theo chỉ định và kiểm soát các khoản vốn vay nước ngoài. Do tiết kiệm trong nước có giới hạn, sự thiếu vắng thị trường vốn nên các chủ doanh._. nghiệp ở Hàn Quốc đã buộc phải dựa vào các khoản vay ngân hàng để đầu tư mở rộng các công ty của mình. Khi chính phủ nắm quyền sở hữu hoặc quản lý các ngân hàng thì thực ra đã đặt các chủ doanh nghiệp dưới sự quản lý chặt chẽ của chính phủ. Và như vậy, việc quản lý tín dụng ngân hàng trở thành một công cụ chính sách rất quan trọng mà chính phủ có thể sử dụng . David Cole và Yung Chul Park đã nói rằng: “sự quản lý của Chính phủ đối với các tổ chức ngân hàng là biện pháp chủ yếu để hướng dẫn và chỉnh đốn xí nghiệp tư nhân”. Tỷ lệ lãi suất thực quá thấp đối với các khoản vay ngân hàng do nhà nước quản lý đảm bảo rằng luôn luôn có dư cầu về tín dụng ngân hàng. Điều này đã tạo ra nhu cầu phân phối tín dụng và tạo điều kiện để chính phủ thực thi các phương thức chỉ huy thông qua sự kiểm soát của mình đối với các khoản vay, tỷ lệ lãi suất và thời hạn vay. Một tình trạng tương tự cũng xuất hiện trong việc phân phối tín dụng nước ngoài, đặt chính phủ vào vị trí thuận lợi để kiểm soát các công ty theo ý mình. * Chính sách thuế. Đối với phần lớn các quốc gia, chính sách thuế có lẽ là một công cụ có tính thực tiễn nhất của chính sách công nghiệp. Các điều khoản về thuế phân biệt giữa các khu vực hay việc miễn giảm thuế tạo ra những công cụ có tác dụng ngay lập tức cho việc khuyến khích các lĩnh vực công nghiệp ưu tiên. Đồng thời với việc miễn thuế, quyền thực hiện các vụ thanh tra thuế cần thiết để thực thi các chỉ thị của chính phủ cũng được xem là công cụ quan trọng bằng hoặc hơn công cụ miễn thuế. Trên quan điểm chính trị, hiệu lực của thuế là ở chỗ nó không đòi hỏi sự rút bớt trực tiếp hoặc gián tiếp ngân sách quốc gia. Điều này có nghĩa là nó có thể được che đậy khỏi sự giám sát của công chúng và được tách biệt một cách có hiệu quả hơn khỏi những áp lực chính trị. * Chính sách tỷ giá hối đoái Bên cạnh chính sách tín dụng được xem là công cụ chính sách vĩ mô chủ yếu để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá thì chính sách tỷ giá hối đoái cũng được sử dụng như là một công cụ phổ biển. Ảnh hưởng của chính sách tỷ giá hối đoái được thực hiện thông qua việc tăng giá và phá gía đồng Won. Nếu chính phủ phá giá đồng tiền dưới mức cân bằng hợp lý thì xuất khẩu của quốc gia sẽ gia tăng và dẫn đến kết quả là sản xuất và việc làm trong các ngành công nghiệp xuất khẩu sẽ gia tăng. Mặt khác, khi giá bán các mặt hàng nhập khẩu gia tăng do kết quả của việc phá gía đồng tiền, hoạt động nhập khẩu sẽ giảm sút và mức độ lạm phát trên thị trường nội địa sẽ gia tăng. Ngay cả khi việc phá giá đồng tiền dẫn đến sự gia tăng xuất khẩu thì nó cũng làm cho các công ty nhập khẩu nguyên liệu tự nhiên có mức doanh lợi thấp và chịu thêm gánh nặng về chi phí tài chính. Hơn thế nữa, khi việc phá giá đồng tiền bảo vệ được khả năng cạnh tranh về giá, thì chính sách này cũng làm trở ngại nhưng cố gắng cải tổ cơ cấu công nghiệp, sự sáng tạo kỹ thuật và tăng trưởng năng xuất. Không giống như việc phá giá đồng tiền, sự tăng giá sẽ dẫn đến tăng trưỏng nhập khẩu và suy giảm xuất khẩu. Hơn nữa, chính sách này sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định giá cả trên thị trường quốc gia và khó khăn trong việc tạo nguồn trả các món nợ. Do chính sách tỷ giá hối đoái có những tác dụng khác nhau đối với các ngành công nghiệp nên nó được sử dụng như là một công cụ của chính sách công nghiệp. 1.2.3. Quan điểm của chính phủ về vai trò của nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá và về việc sử dụng công cụ tín dụng 1.2.3.1. Quan điểm của chính phủ Hàn Quốc về vai trò của nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá: Khi xây dựng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ( năm 1962) chính quyền Park đã đưa ra một chương trình 5 điểm. Một là: chính sách kinh tế tập trung hướng vào người sản xuất chứ không phải hướng vào ngươì tiêu dùng. Hai là: Chính phủ có quyền lực tuyệt đối trong việc xây dựng các chính sách kinh tế. Ba là: Chính sách phát triển kinh tế hướng vào xuất khẩu được xây dựng trên cơ sở hy sinh nhu cầu và sự tiêu dùng trong nước. Bốn là: Mọi yếu tố bất ngờ và không chắc chắn được loại bỏ khỏi thị trường. Năm là: Để cung cấp nguồn tài chính cho sự phát triển kinh tế và tránh khỏi sự kiểm soát của nước ngoài đối với những ngành công nghiệp then chốt của quốc gia, chính phủ chủ trương vay vốn nước ngoài chứ không cho phép các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư trực tiếp. Chương trình này của chính quyền Park cho thấy mọi quyết định đều được tập trung trong tay chính phủ chứ không phải do thị trường điều khiển. Có thể nói rằng không tin tưởng vào thị trường và thực hiện một chế độ độc tài để đưa đất nước ra khỏi sự nghèo khó chính là nét đặc trưng nổi bật của chính quyền Park. Park Chung Hee đã thừa kế văn hoá của đạo Khổng và tập trung quyền lực được ông đánh giá là một hành vi của cuộc sống. Tập trung quyền lực được duy trì và phát triển phục vụ cho việc đạt được mục tiêu của quốc gia trong suốt thời kỳ Park cầm quyền và sau này vẫn được duy trì dưới thời tổng thống Chun Doo Whan và tổng thống Roh Woo Tae. Chỉ khi Kim Yuong Sam và sau này là Kim Dae Jung lên nắm chính quyền, chế độ độc quyền mới được chấm dứt. Tin tưởng rằng dân chủ và sự phát triển kinh tế có thể hoà hợp với nhau, chính quyền Kim đã chuyển nền kinh tế Hàn Quốc sang một mô hình khác – mô hình Anh - Mỹ – hoàn toàn đối lập với mô hình của chính quyền Park. Chính phủ Hàn Quốc, trong thực tế, đã thể hiện thành công vai trò của mình trong việc lựa chọn, hoạch định và chỉ đạo thực thi hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế chung của đất nước, trong đó chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu - được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển đạt tới kỳ tích hoá rồng của Hàn Quốc. Chiến lược công nghiệp hoá của Hàn Quốc được cụ thể hóa trong các kế hoạch 5 năm. Trên cơ sở mục tiêu chung của sự phát triển công nghiệp trong mỗi giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá, tuỳ theo tình huống cụ thể, chính phủ đã cụ thể hoá mục tiêu , địng hướng và nhiệm vụ cụ thể của các kế hoạch 5 năm. Trong suốt thời kỳ công nghiệp hoá, Hàn Quốc đã thực hiện 7 kế hoạch 5 năm và chính phủ luôn luôn có những điều chỉnh thích hợp các ngành công nghiệp trọng điểm, cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm đảm bảo cho công nghiệp hoá mang lại kết quả tăng trưởng kinh tế. Nhằm tạo những điều kiện thuận lợi, tìm kiếm các động lực để các tổ chức kinh doanh được lựa chọn tham gia vào các chương trình phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn trong từng giai đoạn công nghiệp hoá, chính phủ đã sử dụng những công cụ chính sách khác nhau như chính sách cụ thể như thuế, chính sách tín dụng. Các chính sách này có tác dụng định hướng phát triển các ngành sản xuất, bảo hộ sản xuất, tìm kiếm nguồn vốn đầu tư trong nước và ngoài nước. Trong quá trình thực hiện các chính sách này chính phủ luôn có các giải pháp kiểm tra giám sát và khuyến khích việc tuân thủ các chính sách của giới kinh doanh. Sự mềm dẻo và linh hoạt trong hoạch định chính sách và kiểm soát thực hiện chính sách một cách chặt chẽ chính là yếu tố đảm bảo thành công của chính sách đối với quá trình công nghiệp hoá. Ví dụ như khi cần bảo hộ công ty trong nước, chính phủ đã sử dụng chính sách thuế nhập khẩu, đồng thời trợ cấp việc trả lãi ngân hàng cho các công ty. Nhưng khi công ty đã đủ mạnh thì việc trợ cấp này cũng bị bãi bỏ nếu không thì chính phủ phải phát hành tiền, dễ gây lạm phát cao. Thuế nhập khẩu cũng bỏ từng phần từng thời kỳ. Khi cần phát triển công nghiệp nặng với những công ty quy mô lớn, chính phủ đã chọn một vài công ty mạnh để áp dụng những khuyến khích ưu đãi riêng. Nhưng khi các công ty này đã vững mạnh trong cạnh tranh thì chính phủ một mặt bãi bỏ các ưu đãi đó, mặt khác chuyển sang việc chống các công ty này lũng đoạn , độc quyền thậm chí phải bảo hộ các công ty vừa và nhỏ khi bị các công ty lớn thôn tính. Chính phủ trực tiếp quản lý một số ngành công nghiệp có ảnh hưởng quyết định đến an ninh và lợi ích công cộng, đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế , xã hội có ít hoặc không có lợi nhuận trực tiếp như hạ tầng kinh tế, xã hội, giáo dục , y tế, khoa học… Vai trò của chính phủ cũng được phản ánh qua các chính sách, biện pháp trong việc thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài, tạo lập nguồn vốn cho các doanh nghiệp. Do chiến lược phát triển hướng ra bên ngoài dựa trên đẩy mạnh xuất khẩu, trong khi Hàn Quốc là quốc gia nghèo tài nguyên, vì vậy để phát triển Hàn Quốc phải dựa vào nguồn vốn nước ngoài. Ở Hàn Quốc nhà nước đứng ra vay hoặc bảo lãnh trách nhiệm đối với nguồn vốn vay cho khu vực tư nhân. Điều đáng chú ý trong hoạt động điều chỉnh của Chính phủ Hàn Quốc là những biện pháp, chính sách can thiệp vào thị trường tài chính. Để thực hiện việc kiểm soát, Chính phủ nắm toàn bộ các ngân hàng thương mại (từ 1961). Việc quản lý, phân bổ nguồn vốn được kiểm soát tới từng dự án , từng công ty. Chính vì vậy vai trò và ảnh hưởng của Chính phủ đến đường hướng kinh doanh của khu vực tư nhân là rất lớn. Tóm lại, sự thành công hay không thành công của Hàn Quốc hoàn toàn tuỳ thuộc vào việc Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện vai trò của mình như thế nào đối với việc vượt qua được các nguy cơ, chớp được các thời cơ trong phát triển đất nước, lợi ích của dân tộc trong từng thời kỳ. 1.2.3.2. Vai trò của chính sách tín dụng đối với công nghiệp hoá Chính sách tín dụng được chính phủ Hàn Quốc xem là một công cụ quan ttrọng để thực hiện công nghiệp hoá vì những lý do sau: + Hàn Quốc bắt đầu sự phát triển kinh tế của mình với sự thiếu hụt nguồn vốn và kỹ thuật ở trong nước. Ở Hàn Quốc, tỷ lệ đầu tư / GNP luôn luôn ở mức cao hơn tỷ lệ tiết kiệm. Do đó, quan điểm chỉ đạo là phải làm thế nào để sử dụng chính phủ cho việc huy động vốn và hỗ trợ đầu tư cho công nghiệp hoá. Chính phủ phải sử dụng công cụ tín dụng một cách đắc lực để đáp ứng nhu cầu về vốn của các tôt chức kinh doanh tham gia các chương trình công nghiệp của chính phủ. Các chính sách tín dụng của Hàn Quốc đã có tác dụng rất hiệu quả đối các thay đổi trong chính sách công nghiệp. Chính phủ đã điều chỉnh các chương trình tín dụng có chỉ đạo của mình để đáp ứng các yêu cầu cấp bách của lĩnh vực kinh doanh. Chính phủ đã tạo ra các chương trình tín dụng mới để hướng các nguồn tài chính vào các cơ hội công nghiệp nơi cần một lượng vốn đầu tư rất lớn. + Một nguyên nhân khác dẫn đến sự cần thiết phải sử dụng công cụ chính sách tín dụng đó là nhu cầu kiểm soát hành vi của các nhà công nghiệp, bắt buộc họ phải phục vụ cho lợi ích quốc gia. Trong quá trình công nghiệp hoá, khi lựa chọn các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân là người tham gia thực hiện chương trình phát triển công nghiệp, chính phủ muốn kiểm soát hành vi của các nhà công nghiệp, bắt buộc họ phải phục vụ cho lợi ích quốc gia vì thế chính phủ cần một công cụ quản lý các nhà công nghiệp và công cụ tài chính được lựa chọn là công cụ chủ yếu để thực hiện các ý tưởng công nghiệp hoá của các nhà làm chính sách Hàn Quốc. Về phía các nhà công nghiệp, họ cũng cần sự trợ giúp tín dụng rẻ từ chính phủ để củng cố cấu trúc tài chính đòn bẩy cao của họ. + Hàn Quốc phải huy động vốn chủ yếu từ nguồn tài trợ và các khoản vay tín dụng từ nước ngoài (của Mỹ và Nhật Bản). Hàn Quốc là một trong rất ít nước trên thế giới nhận được một lượng vốn lớn từ nước ngoài. Các khoản vay tư nhân nước ngoài là các khoản then chốt cho phép Hàn Quốc theo đuổi sự phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất của mình. Mặc dù mức độ tiết kiệm nội địa đã tăng nhanh từ những năm 70 nó cũng không đủ chi cho các chi phí khổng lồ cho sự phát triển của công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất. Đầu tư như là một phần của GNP thường giao động trong khoảng 30% trong những năm 70 nhưng tiết kiệm nội địa vẫn rất thấp. Vì vậy, chính phủ phải hỗ trợ các doanh nghiệp khai thác nguồn vốn này thông qua thực hiện việc bảo lãnh cho các khoản vay nước ngoài và kiểm soát việc sử dụng nguồn vốn từ nước ngoài. Hầu hết việc vay mượn nưỡc ngoài cả các khoản vay thương mại và công cộng được chính phủ bảo đảm và nhiều khoản vay đơn lẻ đã được chính phủ phê duyệt. Nhưng sau khi cung cấp các bảo đảm cho việc tái thanh toán chính phủ cũng phải giám sát việc sử dụng vốn vay của các nhà đi vay . + Do các ngân hàng nằm dưới sự kiểm soát của chính phủ nên chính phủ có thể thực hiện được việc kiểm soát tài chính đối với các tổ chức kinh doanh để buộc các tổ chức này thực hiện các kế hoạch của chính phủ trong suốt qua trình công nghiệp hoá . Tổng thống Park Chung Hee đã tăng cường việc kiểm soát của chính phủ với việc sử dụng tài chính. Điều khiển các ngân hàng trong một nền kinh tế dựa vào các khoản tín dụng như Hàn Quốc là công cụ quyền lực nhất để điều khiển các nhà công nghiệp. CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG CỦA HÀN QUỐC TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ. 2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG CỦA HÀN QUỐC. 2.1.1. Sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng Hàn Quốc. Trong thời gian Nhật Bản xâm chiếm Hàn Quốc, một hệ thống tài chính hiện đại đã được xây dựng. Sau khi giành được độc lập năm 1945, chính phủ Hàn Quốc đã tiếp nhận các ngân hàng do Nhật Bản làm chủ. Với sự trợ giúp của các chuyên gia Mỹ, hệ thống tài chính đã được tái cấu trúc lại vào năm 1950. Vào cuối những năm 40, Arthur Bloomfield, một chuyên gia kinh tế cùng với Ngân hàng Dự trữ Liên bang của New York đã tới Hàn Quốc để giúp đỡ chính phủ Hàn Quốc thiết lập một hệ thống tài chính với Ngân hàng Trung ương độc lập na ná với Hệ thống Dự trữ Liên bang của Mỹ. Căn cứ vào các khuyến cáo của Mỹ, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) đã được thành lập. Sau đó một số các ngân hàng khác cũng được thành lập theo luật ngân hàng như Ngân Hàng Nông nghiệp ( năm 1956), Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) v.v. Năm 1957, sau những áp lực của Mỹ, Hàn Quốc đã có bước đi đầu tiên của quá trình tư nhân hoá các ngân hàng thương mại. Một số ngân hàng đẫ đựoc tư nhân hoá. Nhưng đến năm 1961, chính quyền Park đã thực hiện quốc hữu hoá các ngân hàng thương mại. Việc quốc hữu hoá các ngân hàng thương mại được thực hiện bằng cách tịch thu các tài sản phi pháp đã được tích luỹ ở chế độ trước. Hầu hết các nguồn vốn của ngân hàng thương mại mà trước đây thuộc sở hữu của một số ít nhà công nghiệp đã được chuyển cho chính phủ, mở đường cho chính phủ áp dụng việc quản lý trực tiếp các ngân hàng thương mại. Cùng với việc quốc hữu hoá các ngân hàng thương mại, chính phủ cũng thực hiện các giải pháp buộc Ngân hàng Trung ương lệ thuộc vào chính phủ. Việc sửa đổi đối với Luật hoạt động của BOK năm 1962 đã chuyển quyền quyết định về chính sách tiền tệ từ BOK sang Bộ tài chính (MOF). Đây là buớc đi quyết định đối với chiến lược tài chính của chính phủ cho các dự án phát triển công nghiệp khi những dự án này phụ thuộc chủ yếu vào việc mở rộng tiền tệ của BOK. Theo Luật đã được sửa đổi, thống đốc ngân hàng trung ương được Tổng thống chỉ định theo khuyến cáo của Bộ trưởng bộ Tài chính. Thêm vào đó, MOF có quyền yêu cầu xem xét lại các giải pháp do Uỷ ban Tiền tệ là bộ phận làm chính sách của BOK đưa ra. Quyền về chính sách và sự độc lập của BOK đã bị thu hẹp lại. MOF đã nắm lấy việc điều khiển tỷ giá hối đoái từ BOK và thu giữ quyền lực hành chính để vừa giám sát công việc kinh doanh của BOK vừa điều khiển chi phí và ngân sách của BOK. Bản sửa đổi Luật năm 1962 cũng đã cho phép MOF được chỉ thị BOK mua trái khoán có bảo đảm hoàn trả do các cơ quan chính phủ phát hành. Các biện pháp này cho phép kế hoạch phát triển kinh tế sẽ được cấp vốn dễ dàng. Đến năm 1961, toàn bộ hệ thống ngân hàng Hàn Quốc đã trở thành thuộc sở hữu nhà nước. Đây là những biện pháp nhằm đẩy mạnh việc quản lý của nhà nước trong lĩnh vực tài chính của chính phủ. Trong những năm 60, một số ngân hàng chuyên dụng khác cũng được thiết lập để cung cấp các khoản vay chính sách và hỗ trợ các lĩnh vực đặc biệt như: Hiệp hội Liên hiệp Nông nghiệp Quốc gia (NACF) năm 1961; Ngân hàng Công nghiệp Hàn Quốc (IBK) năm 1961 (cho các công ty cỡ vừa và nhỏ), Hiệp hội Quốc gia Liên hiệp Thuỷ sản (NFFC) năm 1962 , Ngân hàng Công dân Quốc gia (CNB) năm 1963 ( cho các khoản vay nhỏ của các hộ dân), Ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc (KEB) năm 1967 và Ngân hàng Nhà đất Hàn Quốc năm 1969. Đầu năm 1967, chính phủ thuyết phục các ngân hàng thuơng mại cấp các khoản vay chính sách dài hạn thông qua chỉ đạo các ngân hàng thương mại gửi các quỹ của họ trong KDB để mua các trái phiếu dài hạn do KDB phát hành và mở rộng các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp có bảo lãnh các khoản vay từ KDB. Tiếp sau đó, luật pháp đã quy định hạn chế cổ phần tư nhân bất kỳ loại hình nào ( mức trần đựoc quy định tối đa là 10%). Từ thời điểm đó đó cho đến những năm 1980, chính phủ vẫn luôn là người giữ cổ phần chính trong các ngân hàng thương mại trong toàn quốc( trung bình khoảng 20% tổng cổ phần của các ngân hàng này). Luật hoạt động của KDB cũng được sửa đổi để đẩy mạnh vai trò của KDB trong phát triển kinh tế. KDB đã tăng cơ sở vốn của mình lên và được phép cung cấp các bảo lãnh thanh toán cho các khoản vay nước ngoài, được phép cung cấp các khoản vốn vay và cấp các khoản vay dài hạn cho chính phủ và các doanh nghiệp thuộc sở hữu của KDB. KDB cũng cho phép mượn các nguồn quỹ của BOK. Đặc điểm chung nhất trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng ở Hàn Quốc là mỗi ngân hàng đều duy trì một tài khoản uỷ thác tách biệt với tài khoản ngân hàng. Kinh doanh uỷ thác của ngân hàng có hai loại: uỷ thác tiền tệ và uỷ thác đầu tư chứng khoán. Uỷ thác tiền tệ là một loại khế ước tương tự như tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không kỳ hạn. Chính phủ Hàn Quốc cho phép ngân hàng kinh doanh uỷ thác tiền tệ để duy trì sức cạnh tranh của chúng trên thị trường. Trong trường hợp uỷ thác đầu tư chứng khoán, các ngân hàng thương mại chỉ có thể hoạt động như người giám sát các khoản tiền trong tay các công ty uỷ thác đầu tư chứng khoán. Hệ thống ngân hàng Hàn Quốc bao gồm các ngân hàng thuộc cấp tỉnh và các ngân hàng thuộc cấp quốc gia. Do nguồn tích lũy vốn trong nước là rất thấp, các ngân hàng huy động vốn chủ yếu từ các khoản vay nước ngoài - phần lớn là các khoản vay ngắn hạn – và thu nhập của ngân hàng chủ yếu được hình thành từ chênh lệch của lãi xuất vay vốn trên thị trường trong nước và lãi xuất vay vốn của nước ngoài. 2.1.2. Vai trò của hệ thống ngân hàng * Vai trò huy động tiết kiệm Cho đến giữa những năm 1960, vai trò huy động tiết kiệm của các ngân hàng thương mại ít có ý nghĩa do tiết kiệm trong nước không đáng kể. Mục đích cơ bản của các ngân hàng là chuyển các nguồn vốn viện trợ đến các dự án khôi phục kinh tế và cho nông dân vay. Có hai ngân hàng chuyên dụng là thực hiện nhiệm vụ này là KDB và Ngân hàng Nông nghiệp. Hai ngân hàng này chiếm 70% số dư nợ của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vai trò của các tổ chức tài chính là huy động tiết kiệm chỉ được thấy rõ sau khi áp dụng chính sách lãi suất cao vào tháng 9/1965. Hiệu quả của cải cách lãi suất năm 1965 đối với việc động viên các nguồn vốn trong nước là rất lớn. Tiền gửi ngân hàng thời kỳ này tăng rất nhanh. Tỷ số M2/GNP tăng từ 18,5% trong giai đoạn 1965-1970 đến 30,2% trong giai đoạn 1971-1973. Trong vòng 5 năm số dư nợ của ngân hàng thương mại tăng từ 27% năm 1964 lên 55%. Tuy nhiên thời gian thực hiện cải cách lãi suất là quá ngắn để duy trì động lực mà cải cách ban đầu đã tạo ra. Sau năm 1968, lãi suất ngân hàng lại hạ xuống theo nhiều giai đoạn và xuống thấp nhất trước khi vào cải cách năm 1972 do đó, chức năng huy động tiền tiết kiệm của hệ thống ngân hàng là rất yếu. *Tạo điều kiện cho các nguồn vay vốn từ nước ngoài chảy vào Hàn Quốc: Một vai trò quan trọng khác của hệ thống ngân hàng Hàn Quốc là tạo điều kiện cho các nguồn vốn vay từ nước ngoài chảy vào bằng cách các ngân hàng phải đứng ra đứng ra bảo lãnh cho các khoản vay. Từ năm 1966, các ngân hàng thương mại đã ra nhập ngân hàng KDB và trở thành thành viên tích cực trong các hoạt động bảo lãnh vay vốn nước ngoài trên quy mô lớn. Theo chỉ đạo của chính phủ, từ năm 1960, các tổ chức tài chính mới như đã đề cập ở phần trên được thành lập để tham gia vào các hoạt động chuyên dụng này. 2.2. CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG CỦA HÀN QUỐC TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ. Chính sách tín dụng Hàn Quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá luôn được thay đổi cho phù hợp với những thay đổi của mục tiêu của chính sách công nghiệp hoá. Trên cơ sở thảo luận định kỳ với các nhà lãnh đạo công nghiệp, chính phủ đã luôn tiến hành điều chỉnh các chương trình tín dụng trực tiếp của mình để đáp ứng nhu cầu của các nhà kinh doanh. Chính phủ cũng tạo dựng các chương trình tín dụng mới để hướng các nguồn tài chính phục vụ cho các cơ hội công nghiệp đồng thời với việc sửa đổi các chương trình cũ với những định hướng khác nhau. Vì vậy, việc phân tích thực trạng các chính sách tín dụng của chính phủ được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với những thay đổi của chính sách công nghiệp hoá của Hàn Quốc trong thời kỳ từ sau chiến tranh Triều tiên đến thời điểm kết thúc quá trình công nghiệp hoá vào năm 1980. Các chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá được phân tích tương ứng với 3 giai đoạn của những điều chỉnh của chính sách công nghiệp hoá. Ba giai đoạn đó là : (1) Giai đoạn tái thiết sau cuộc chiến tranh Triều tiên (đến năm 1960). (2) Giai đoạn thực hiện định hướng đẩy mạnh xuất khẩu (1961-1971). (3) Giai đoạn thực hiện định hướng phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất (1972-1979). 2.2.1. Chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc trong thời kỳ tái thiết nền kinh tế ( từ sau chiến tranh Triều Tiên đến trước 1960) Khi cuộc chiến tranh Triều tiên chấm dứt năm 1953, chính phủ đầu tiên của Hàn Quốc do tổng thống Rhee Syng Man lãnh đạo chưa có một chiến lược phát triển kinh tế rõ ràng. Những nỗ lực của chính phủ đã tập trung chủ yếu vào việc phục hồi nền kinh tế đã bị tàn phá sau chiến tranh và kìm hãm tốc độ lạm phát. Để theo đuổi các mục tiêu này, chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng mức tín dụng trần và thực hiện một chính sách tín dụng có lựa chọn (SCPs). Một hệ thống phân chia tín dụng được hình thành mà trong đó các ưu đãi được phân bổ theo mức độ khẩn cấp và vai trò quan trọng của các ngành đối với nền kinh tế. Chính sách tài chính của Hàn Quốc trong thời gian này được đặc trưng bởi sự can thiệp không có mục đích kinh tế rõ ràng và sự thiếu vắng các công cụ. Tỷ lệ lãi suất cho các khoản vay được ấn định trong khoảng từ 14 đến 17% trong khi tỷ lệ lạm phát trung bình của thời kỳ 1953-1957 là khoảng 35%/ năm. Nguồn ngoại tệ Hàn Quốc thu được chủ yếu ở thời kỳ này là từ những viện trợ của nước ngoài và chi tiêu của quân đội Mỹ tại Hàn Quốc. Kim ngạch xuất khẩu ở thời kỳ này thấp. Đến năm 1960, tổng giá trị xuất khẩu chỉ là 32 triệu USD (chủ yếu là vonfram và các sản phẩm nông nghiệp) Để tối đa hoá thu nhập bằng ngoại tệ từ nguồn chi tiêu của quân đội Mỹ, chính phủ đã duy trì một tỷ giá hối đoái cao (xem bảng 1 ). Với nguồn ngoại tệ hiếm hoi chính phủ, chính phủ đã giảm bớt tiêu dùng, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, thực hiện đầu tư vào xây dựng các nhà máy sản xuất hàng tiêu dùng. Bảng 1: Tỷ giá hối đoái của đồng USD ở Hàn Quốc thời kỳ 53-60. Năm Tỷ giá danh nghĩa Tỷ giá thực tế 1953 18,00 37,90 1954 18,00 43,60 1955 50,00 96,94 1956 50,00 96,60 1957 50,00 103,30 1958 50,00 118,10 1959 50,00 125,50 1960 65,00 145,30 Nguồn: BOK Chính phủ cũng kiểm soát chặt chẽ nguồn cung tiền mặt. Nguồn vốn của tất cả các ngân hàng được phân loại thành 3 nhóm: các khoản tín dụng được hưởng chiết khấu cho các hoá đơn thanh toán được thực hiện tại BOK. các khoản tín dụng không được hỗ trợ bởi tái chiết khấu của BOK. các khoản tín dụng bị cấm cho vay. Các khoản tín dụng cung cấp cho các ngành hoá chất, dệt may, cơ khí, khai thác quặng kim loại, chế biến thực phẩm nằm trong nhóm thứ nhất ; Các khoản tín dụng không được hỗ trợ bởi tái chiết khấu là những khoản tín dụng được cung cấp cho các ngành như các ngành dịch vụ các ngành cung cấp các sản phẩm tiêu dùng như nước giải khát, đồ gỗ, mỹ phẩm và thương mại bán lẻ. Nhóm thứ 3 được xác định để nắm bắt được mạng lưới rộng lớn những người đi vay. Trong tổng vốn cho vay của ngân hàng, quy mô của các khoản vay ưu đãi cho xuất khẩu là không đáng kể. Sau 1955, các ngân hàng được yêu cầu chỉ cho vay khi có các phê duyệt trước của các nhà chức trách trong lĩnh vực tiền tệ đối với lĩnh vực tư nhân trên một lượng nhất định và cho tất cả các khoản vay cho các dự án công cộng. Chính sách này được thực hiện để duy trì việc quản lý việc cung ứng tiền. Bất chấp việc sử dụng chính sách tín dụng có lựa chọn (SCP), tỷ lệ lạm phát vẫn ở mức cao chủ yếu do ngân sách của chính phủ liên tục thâm hụt. Bắt đầu từ năm 1957, chính phủ thực hiện các chương trình ổn định tài chính và ngân sách chặt chẽ. Chương trình này đã làm giảm tỷ lệ lạm phát từ 35.4% trong những năm 1953-1957 xuống 2.5% trong những năm 1958-1960. Năm 1954 chính phủ thiết lập KDB để cấp các khoản vay trung và dài hạn cho các ngành. Theo Luật hoạt động của KDB, các quỹ hoạt động của KDB sẽ được hình thành chủ yếu từ trái phiếu dài hạn do KDB phát hành và vay từ chính phủ. Tuy nhiên KDB đã quyết định phụ thuộc nhiều vào BOK đối vói việc gây dựng các quỹ bởi vì việc đối mặt với điều kiện lạm phát, các khoản tiết kiệm tư nhân có hạn và mức trần tỷ lệ lãi suất thì KDB không thể cho phép lĩnh vực công cộng có những khoản nợ dài hạn. Trong thời kỳ trước 1960, mặc dù những chính phủ điều chỉnh về lãi xuất và các khoản tín dụng ưu tiên nhưng các nghiệp vụ của ngân hàng không phải là đôí tượng can thiệp mạnh mẽ của chính phủ. 2.2.2. Thời kỳ 1962 - 1971. 2.2.2.1. Nội dung chính sách tín dụng Năm 1961, chính quyền độc tài Park thiết lập một định hướng mới cho sự phát triển kinh tế của quốc gia. Định hướng này được xác định là chuyển từ chiến lược ổn định sang chiến lược tăng trưởng và chuyển từ thay thế nhập khẩu sang đẩy mạnh xuất khẩu. Chính phủ cho rằng sự tăng trưởng kinh tế chỉ có thể thành công nếu chính phủ nắm vai trò là người người quyết định việc huy động và phân bổ vốn. Nhằm thực hiện mục đích này, chính phủ đã xây dựng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và áp dụng 2 biện pháp cơ bản để tăng cường sự kiểm soát về tài chính. Hai biện pháp đó là quốc hữu hoá các ngân hàng thương mại và điều chỉnh luật về ngân hàng trung ương, đặt ngân hàng trung ương dưới sự kiểm soát trực tiếp của chính phủ. Đồng thời với những biện pháp này, chính phủ cũng 3 cải cách về chính sách. Đó là: Mở rộng chương trình tín dụng cho xuất khẩu. Điều chỉnh mức lãi xuất để huy động các khoản tiết kiệm. Sửa đổi những quy định đối với vốn từ nước ngoài để mở ra các dòng chảy của vốn nuớc ngoài vào Hàn Quốc. * Mở rộng chương trình tín dụng cho xuất khẩu. Ban đầu, xuất khẩu được đẩy mạnh như một cách tạo thu nhập từ ngoại thương. Để có hàng hoá xuất khẩu đòi hỏi phải xây dựng các nhà máy và các ngành công nghiệp xuất khẩu. Nhưng khi việc tăng trưởng xuất tạo ra công ăn việc làm cho người lao động và tạo khả năng sử dụng các những yếu tố bên ngoài phục vụ cho việc tăng trưởng kinh tế thì chính phủ đã quyết tâm thực hiện chính sách đẩy mạnh xuất khẩu của mình một cách mạnh mẽ hơn. Trong những năm 1964-1966, một loạt cuộc cải cách được thực hiện. trong đó trong tâm là chiến lược tăng trưởng xuất khẩu. Một hệ thống khuyến khích xuất khẩu được thiết lập. Hệ thống này quy định các điều khoản ưu đãi đối với các nhà xuất khẩu trực tiếp cũng như gián tiếp và các khoản tín dụng chuyển nhượng. Vào đầu năm 1961, BOK đã sắp xếp lại hệ thống tín dụng xuất khẩu ngắn hạn để hỗ trợ các nhà xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp với tỷ lệ lãi xuất ưu đãi. Thực chất của hệ thống mới là thực hiện sự phê duyệt một cách tự động các khoản cho vay của ngân hàng thương mại đối với các thư tín dụng xuất khẩu (LC). Ban đầu, chương trình này chỉ đủ để bù đắp được một phần nhất định chi phí sản xuất. Nhưng, khả năng bù đắp này đã được mở rộng nhanh chóng từ năm 1961 đối với hoạt động bán hàng cho lực lượng quân sự của Liên Hiệp Quốc ở Hàn Quốc, đối với xuất khẩu theo điều kiện D/P, D/A, đối với các dịch vụ xây dựng do chính phủ nước ngoài hoặc các cơ quan của họ thuê, đối với nhập khẩu các nguyên liệu thô và các sảnphẩm chế biến dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu và v.v. Việc thực hiện các quy định mới này cho phép các nhà xuất khẩu có thể khai thác các cơ hội xuất khẩu và đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu. Các chương trình mới này đều đuợc thiết lập sau khi có sự tham khảo chặt chẽ giữa chính phủ và các nhà xuất khẩu. Các kế hoạch xuất khẩu được thống nhất trong Quy tắc tài chính xuất khẩu được công bố năm 1962. Sự xuất hiện của các công ty thương mại tổng hợp đã dẫn đến việc áp dụng nguyên tắc chỉ cấp tín dụng cho các công ty sau khi chúng đạt được những kết quả xuất khẩu. Điều này bắt buộc các nhà xuất khẩu muốn nhận được các khoản tín dụng xuất khẩu thì phải đạt được mức xuất khẩu ít nhất là bằng mức của những năm trước. Với cách làm như vậy, chính phủ đã gắn việc thực hiện xuất khẩu với cơ hội sử dụng tín dụng của các nhà xuất khẩu. Các công ty thương mại tổng hợp đã có cơ hội sử dụng các khoản tín dụng ưu đãi cho xuất khẩu nhưng hàng năm phải xác định lại quyền hưởng những ưu đãi này. Những công ty không đạt mức xuất khẩu như mức đạt được của những năm trước sẽ bị sẽ bị rút giấy phép được hưởng các khoản tín dụng ưu đãi. * Điều chỉnh lãi xuất vay vốn. Như đã trình bày ở trên, năm 1965 chính phủ đã thực hiện điều chỉnh chính sách tỷ lệ lãi suất. Chỉ sau một đêm, tỷ lệ lãi xuất danh nghĩa đối với các khoản vay trong thời hạn một năm tăng từ 15%/ năm lên 30%/ năm, và đối với các khoản vay khác từ 16%/ năm lên 26%/năm, trong khi đó tỷ lệ lãi xuất trên các khoản vay dành cho xuất khẩu không thay đổi. Như vậy, khoảng cách về tỷ lệ lãi xuất giữa các giữa các khoản vay xuất khẩu và các khoản vay thông thường được mở rộng nhanh chóng ( xem bảng ). Theo bảng... có thể thấy tỷ lệ lãi xuất vay vốn áp dụng cho các nhà xuất khẩu chỉ bằng một phần tư tỷ lệ lãi xuất đối với các khoản cho vay thông thường khác. Trong lúc tỷ lệ lạm phát thời kỳ này là 8%, tỷ lệ lãi xuất của các khoản cho vay cho các nhà xuất khẩu thực tế là bằng âm. Trong thời kỳ những năm 60, khoảng cách trung bình giữa hai tỷ lệ lãi xuất vay vốn luôn luôn nằm trong khoảng hơn 20%. Thê._.t khả năng huy động vốn từ nguồn tự có, hoặc tìm kiếm tài trợ từ các nguồn bên ngoài loaị trừ việc vay vốn của các ngân hàng. Hoạt động của các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân cũng gặp khó khăn về vốn. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân có quy mô vốn là nhỏ, phụ thuộc nhiều vào hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng trong khi hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam lại chưa có những chuyển biến mạnh mẽ sang mô hình hoạt động mới và còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chính phủ trong các hoạt động cho vay. 3.2.2. Những điểm khác biệt + Sự khác biệt quan trọng giữa hai quốc gia trước hết là về thể chế chính trị, kinh tế, xã hội, vai trò của các hình thái sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Ở Hàn Quốc khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ đạo và là động lực cho sự phát triển, còn ở Việt Nam, khu vực kinh tế nhà nước đảm nhiệm vai trò quan trọng này. Do sự khác nhau về thể chế mà Hàn Quốc và Việt Nam có những điều kiện thuận lợi khác nhau. Hàn Quốc ngay từ đầu đã phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Mô hình kinh tế mà Hàn Quốc theo đuổi là mô hình kinh tế của Nhật Bản và Mỹ. + Trong nhiều năm qua, Hàn Quốc nhận được nhiều sự ưu đãi từ các nước tư bản như viện trợ kinh tế, quân sự cũng như ưu đãi về vay tín dụng quốc tế, về thuế đối với các hàng xuất khẩu của họ để thâm nhập vào thị trường các nước tư bản phát triển, và tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các nước này vào Hàn Quốc. Do vậy Hàn Quốc đã hình thành một đội ngũ các doanh nghiệp giỏi, tiếp cận thông minh với thị trường, đủ bản lĩnh để đương đầu với thị trường trong và ngoài nước. Trước đây, Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá nhằm xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa, bất đồng về thể chế với các nước tư bản phát triển nên những ưu đãi này không có. Thêm vào đó trong một thời kỳ dài quan hệ kinh tế của Việt Nam với thế giới còn rất hạn chế. Chỉ từ sau năm 1986, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam, khi Việt Nam đã bắt đầu tiến hành chính sách đổi mới, chuyển từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, Việt Nam mới thực sự có sự chuyển hướng, được cộng đồng quốc tế thừa nhận nhưng cũng có nhiều vấn đề Việt Nam còn bỡ ngỡ vì quá mới mẻ. Việt Nam thiếu hẳn một đội ngũ các nhà doanh nghiệp thông thạo thị trường thế giới, có tri thức và bề dày kinh nghiệm kinh doanh trong bối cảnh mở cửa hiện nay. + Do nhiều năm duy trì cơ chế quản lý theo kiểu của Liên Xô cũ nên bộ máy quản lý của nhà nước còn nhiều bất cập với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Việc ra quyết định kinh tế của Việt nam còn chịu ảnh hưởng nặng nề của chính trị. Trường hợp nhà máy hoá dầu đặt ở miền Trung đã đề cập ở trên là một ví dụ. Nhà máy được đặt ở nơi vừa xa nguồn cung ứng vừa xa thị trường có thể làm kiệt quệ khủng khiếp nguồn đầu tư vốn đã hạn hẹp. Tiêu chuẩn chính trị không phải đột nhiên có thể loại ra khỏi các quyết định của chính phủ có ảnh hưởng đến nền kinh tế. Chính trị đóng vai trò to lớn trong phần lớn các quyết định của hầu hết các chính phủ trên khắp thế giới. Các dự án công cộng trên khắp thế giới đều được xây dựng để tranh thủ phiếu bầu hoặc các kiểu hậu thuẫn chính trị khác, cũng như để cung cấp các cơ sở hạ tầng cần thiết. Việt Nam theo hệ thống đảng cầm quyền nhưng các nhà chính trị điều hành hệ thống cũng cần giành được sự hậu thuẫn chính trị từ nhiều khu vực bầu cử khác nhau để ra quyết định. Các quan chức chính phủ còn chưa có đủ kinh nghiệm và tri thức trong lĩnh vực quản lý kinh tế đưa đến hậu quả là quản lý hành chính lỏng lẻo, chồng chéo, hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh và sự tuỳ tiện, lộn xộn, kém hiệu quả trong nền kinh tế Việt Nam. Vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước thông qua các công cụ chính sách còn nhiều hạn chế. + Việt Nam có lợi thế hơn so với Hàn Quốc thời kỳ bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá là có nguồn thu đáng kể từ đầu lửa. Hàng năm ngành dầu khi đóng góp vào ngân sách quốc gia khoảng 1-2 tỷ USD. Việt Nam cũng nhận được các khoản viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế rất lớn. nếu tính bình quân đầu người thì Việt Nam có chỉ số này lớn hơn một số nước khác trong khu vực ví dụ như Trung Quốc. Tổng lượng vốn từ 2 nguồn kể trên là 20% GDP. + Việt Nam vẫn chưa dứt khoát từ bỏ chiến lược thay thế nhập khẩu, chưa tự mình quyết tâm đi theo chiến lược xuất khẩu hàng chế tạo mà tiếp tục phụ thuộc nhiều vào con đường công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Các nhà hoạch định chính sách công nghiệp Việt Nam vẫn còn mắc kẹt nghiêm trọng vào các chiến lược dựa trên thay thế nhập khẩu và tiếp tục để nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong các doanh nghiệp, trừ các doanh nghiệp nhỏ nhất và các doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài kiểm soát hoặc quản lý. Rất nhiều các nhà đầu tư nước ngoài đã bắt đầu rút khỏi Việt nam trong năm 1998 và 1999, một phần do khủng hoảng tại quê nhà, nhưng mặt khác là do những khó khăn trong việc giải quyết những thủ tục rườm rà với bộ máy quan liêu của chính phủ. Chừng nào Việt nam còn duy trì tốc độ tăng trưởng cao trung bình khoảng 9% một năm từ 1992-1997 thì chừng đó còn ít hy vọng có được sự thay đổi cơ bản trong đường lối phát triển công nghiệp ngày. Nhưng nếu tốc độ tăng trưởng giảm mạnh hoặc thậm chí dừng lại ở mức như năm 1998 và 1999 thì cuộc tranh luận về chính sách công nghiệp sẽ trở nên sôi động hơn và Việt Nam sẽ phải có quyết định dứt khoát về chiến lược hướng về xuất khẩu + Xu hướng hội nhập và mở cửa của nền kinh tế thế giới trong những năn gần đây đặt Việt Nam vào bối cảnh thuận lợi hơn so với Hàn Quốc thời kỳ những năm 60 trong việc tham gia vào phân công lao động quốc tế và khai thác lợi thế so sánh của Việt nam. Xu hướng này mở ra cho Việt Nam khả năng huy động vốn từ nguồn nước ngoài phục vụ cho nhu cầu của công nghiệp hoá. Việt Nam có thể tiếp cận với các kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý của các nước công nghiệp phát triển, có thể rút ngắn thời gian và công sứccho sựu phát triển công nghiệp và kinh tế. Tuy nhiên, xu hướng này đồng thời cũng tạo ra những thách thức rất lớn cho sản phẩm của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Những điển tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá ở hai nước chom phép Việt Nam có thể tham khảo những kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc sử dụng chính sách tín dụng cho việc thực hiệ mục tiêu của công nghiệp hoá. 3.3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM 3.3.1. Nâng cao năng lực tín dụng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam Do nước ta tiến hành quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa trong điều kiện thiếu nguồn vốn cả về lượng và thời gian cung ứng, đồng thời sự thúc ép của hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi hệ thống Ngân hàng thương mại Việt nam phải có những chuyển biến căn bản về nhận thức và hoạt động tín dụng để phục vụ thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa. Cần thực hiện cải cách toàn diện hệ thống ngân hàng, phát triển các loại hình ngân hàng thương mại nhằm tăng cường huy động vốn từ nguồn trong nước, thu hút các nguồn tiết kiệm trong dân cư và các nguồn tiết kiệm khác dành cho việc đầu tư cho công nghiệp hoá. Để tăng cường hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong điều kiện hội nhập, chúng tôi nêu lên một số khuyến nghị như sau: Một là: Bên cạnh việc nâng vốn điều lệ tối thiểu cho mỗi Ngân hàng thương mại, cần tăng vốn đầu tư vào công nghệ kỹ thuật nhằm hiện đại hóa dịch vụ tài chính – ngân hàng, phát triển hệ thống thanh toán, kế toán phù hợp với chuẩn mực quốc tế, nhất là về chuyển tiền điện tử và thanh toán qua mạng, mở rộng việc sử dụng các công cụ thanh toán bán lẻ và thanh toán liên ngân hàng quốc tế, triển khai mô hình ngân hàng điện tử và bảo vệ, bảo mật mạng. Trang bị đồng bộ hệ thống máy móc thực hiện các phương thức thanh toán mới phù hợp với các hiệp định vay nợ song phương và đa phương, đảm bảo an toàn, nhanh chóng, chính xác và tiện lợi cho hoạt động thanh toán của bất cứ ngân hàng nào trong nước và quốc tế. Cần cải tạo, nâng cấp hệ thống kỹ thuật tin học tài chính – ngân hàng và tin học quản lý, nhất là hệ thống thông tin quản lý (MIS) và điều hành, nhằm nâng cao chất lượng quản lý, kinh doanh của các trung gian tài chính. Mặt khác, cần xây dựng mạng lưới thông tin tài chính hiện đại, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn hiệu quả, dễ giám sát. Đồng thời, cần thiết lập một chương trình về hội nhập trên mạng Internet để cập nhật thông tin tài chính, tiền tệ thế giới. ứng dụng công nghệ thông tin tài chính – ngân hàng vào việc mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển các công cụ giao dịch trên thị trường mở nhằm phát triển thị trường tiền tệ sâu rộng, có tính thanh khoản cao. Ngoài ra, cần tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính về các lĩnh vực liên quan đến phát triển thị trường tài chính như các loại hình tổ chức tài chính, phương thức và công cụ giao dịch, các biện pháp phòng ngừa rủi ro, thanh tra giám sát, pháp luật quốc tế và ký kết hợp đồng giao dịch. Chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn quản lý, nghiên cứu mặt bằng pháp lý hiện hành cũng như qui định của các nước đối tác về lĩnh vực liên quan đến các loại hình dịch vụ và phương thức giao dịch mới trên thị trường tài chính. Nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, cải tiến và tiếp thị sản phẩm nhằm đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh tiền tệ, phát triển các sản phẩm và thị trường mới, đáp ứng kịp thời nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Hai là: Hệ thống ngân hàng cần tạo mọi điều kiện để tạo môi trường hoạt động cho vay tín dụng khuyến khích tăng trưởng các khu vực kinh tế theo hướng xuất khẩu. Hoạt động cho vay tín dụng phải nhằm vào việc thực hiện các nhiệm vụ công nghiệp hoá trong từng thời kỳ, đáp ứng các nhu cầu về vốn của các tổ chức kinh doanh. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nhiều vốn nên hệ thống ngân hàng cần tìm các giải pháp huy động vốn từ các nguồn khác nhau để có đủ khả năng cho vay tín dụng . Các ngân hàng thương mại nên phát triển thị trường ngoại hối theo hướng hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối để tự do hóa các giao dịch vãng lai, kiểm soát có lựa chọn các giao dịch tài khoản vốn, tiến đến làm cho đồng tiền Việt Nam được tự do chuyển đổi. Xây dựng hệ thống các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế và nợ nước ngoài, nhất là vốn ngắn hạn. Ba là, trong việc giải quyết nợ khó đòi, các Ngân hàng thương mại nên chủ động tìm kiếm phương pháp chuyển đổi nợ thành cổ phần tham gia vào sản xuất kinh doanh ở những nơi có đối tác có thể chấp nhận hoặc tính khả thi cao. Hiện nay với xu thế cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn và làm ăn có lãi, các Ngân hàng thương mại có thể và cần phải tranh thủ cơ hội để vốn cho vay của mình tham gia chủ động hơn vào quá trình này. Mặt khác các Ngân hàng thương mại cần tăng cường hơn nữa hoạt động dịch vụ tư vấn về tín dụng cho khách hàng. Hệ thống Ngân hàng thương mại nên khắc phục sớm và chấm dứt tình trạng cho vay dài hạn bằng nguồn huy động tiền gửi ngắn hạn. Tích cực góp phần giúp các doanh nghiệp tìm kiếm vốn phát triển dài hạn bằng cách tiếp cận thị trường vốn. Nhiều vụ án lớn đem ra xử ở Tòa án trong những năm qua đã chứng tỏ điều đó. Hoặc nếu các trường hợp cán bộ tín dụng trực tiếp thu nợ, thu lãi của khác hàng, xâm tiêu mà không nộp vào Ngân hàng; hay nhờ khách hàng vay hộ, vay ké; hay các rủi ro khác liên quan trực tiếp đến cán bộ tín dụng. Những rủi ro đó trong hoạt động Ngân hàng trong điều kiện mới của hội nhập có thể diễn ra với phương cách tinh vi hơn. Ngoài ra có thể cán bộ tín dụng cố tình bỏ qua các thủ tục cấp tín dụng, tiếp tay hoặc do lừa đảo chụp giựt hay do chây ì không trả nợ của khách vay là các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân và các công ty trách nhiệm hữu hạn.... Bốn là cần đẩy mạnh hoạt động thị trường tín dụng thuê mua tài chính coi đó là hình thức cho vay có triển vọng của hệ thống Ngân hàng thương mại trong điều kiện hội nhập, mức độ rủi ro chắc chắn sẽ ít hơn. Thị trường này mới được hình thành tại Việt Nam, trực thuộc các Ngân hàng thương mại và Tổng công ty lớn. Hoạt động tín dụng trung, dài hạn này được tiến hành thông qua việc cho thuê máy móc, trang thiết bị, phương tiện giao thông và các động sản khác cho các doanh nghiệp trên cơ sở hợp đồng cho thuê với bên thuê, cho nên có thể khả năng rủi ro thấp hơn. Cho đến nay ở nước ta mới có khoảng trên dưới 8 Công ty cho thuê tài chính, trong đó có 5 công ty 100% vốn trong nước trực thuộc 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có 2 công ty), 1 Công ty liên doanh và 2 Công ty 100% vốn nước ngoài. So với các định chế tài chính khác, cho thuê tài chính có ưu điểm là thủ tục đơn giản, không yêu cầu khắt khe về các biện pháp thực hiện hợp đồng, không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp, công nghệ đổi mới nhanh, dịch vụ hỗ trợ đa dạng. Tuy nhiên, hoạt động cho thuê tài chính còn gặp nhiều khó khăn do môi trường đầu tư trong nước còn chứa đựng nhiều rủi ro, khó tiếp cận với các doanh nghiệp nhà nước vì lãi suất vay vốn thường thấp hơn lãi suất cho thuê tài chính, các công ty cho thuê tài chính chưa được phép vay hoặc cho thuê dưới dạng ngoại tệ, hệ thống văn bản pháp lý về hoạt động cho thuê tài chính chưa hoàn thiện. Năm là hệ thống Ngân hàng thương mại nên có biện pháp cụ thể cũng như khẩn trương hơn nữa để tham gia và thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng như thiết kế các công cụ tài chính và hình thành hạ tầng cơ sở của thị trường, xác định các thể thức tài chính và tiêu chí kinh doanh trên thị trường, thu thập và phổ biến thông tin, số liệu thống kê về thị trường, xây dựng một cơ chế chi trả và thanh toán bù trừ an toàn, khuyến khích thị trường phát triển bằng cách sử dụng các giải pháp kỹ thuật như sử dụng cơ chế chuyển khoản và thanh toán nhằm quản lý tốt luồng vốn qua thị trường liên ngân hàng. Khuyến khích các thông lệ thị trường mang tính cạnh tranh, sử dụng hệ thống tự động đấu thầu các loại giấy tờ có giá, không nên khuyến khích mua bán các loại giấy tờ có giá ngoài phạm vi thị trường đã được thiết lập. Tạo điều kiện cho việc phát triển hình thức tài trợ thuận tiện và linh hoạt hơn trên cơ sở xúc tiến sử dụng hợp đồng mua lại, qua đó tăng tính thanh khoản của thị trường và mở rộng thị phần. Sáu là: Để chính sách tín dụng không gây ra những hậu quả xấu, hệ thống ngân hàng cần tăng cường vai trò giám sát của mình đối với các khoản vay ưu đãi của các tổ chức kinh doanh. Nếu các đối tượng vay không sử dụng các khoản vốn vay theo đúng mục đích hoặc sử dụng vốn vay không có hiệu quả thì cần chấm dứt quyền ưu đãi. 3.3.2. Thực hiện chính sách ưu đãi về tín dụng thực sự đối với các ngành công nghiệp trọng điểm trong từng giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá . Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy rằng sự tập trung tạo động lực khuyến khích một số ít doanh nghiệp có quy mô lớn của chính phủ tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của một số ngành như sản xuất thép, hoá dầu, đóng tàu, công nghiệp ôtô là những ngành trọng điểm. Trong điều kiện nguồn vốn là có giới hạn nếu đầu tư dàn trải sẽ không tạo ra được những bước chuyển biến tích cực về cơ cấu công nghiệp. Chính phủ cần lựa chọn ngành ưu tiên đầu tư trọng điểm trong từng thời kỳ. Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, với một xuất phát điểm thấp thì việc ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất là các sản phẩm thuộc dạng nguyên vật liệu như dầu, gạo, cà phê và hải sản là một điều không thể phủ nhận. Các nước đã và đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá đều phải trải qua giai đoạn phát triển các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất vì việc xuất khẩu sản phẩm của các ngành này có thể tạo ra nguồn thu ngoại tệ để phát triển công nghiệp, tạo nhiều việc làm; nghĩa là tạo ra những khởi động cho quá trình công nghiệp hoá đất nước. Đặc biệt, đối với những ngành sản xuất theo hợp đồng gia công chế biến còn tạo nhu cầu phát triển cho các ngành công nghiệp tiếp theo nếu như công nghệ nước ngoài được chuyển giao và có khả năng tiếp nhận các công nghệ đó. Trong giai đoạn đầu, nhà nước cần tạo điều kiện cho vay dài hạn với lãi suất thấp vốn đầu tư vào một số dự án quan trọng ở những ngành công nghiệp phục vụ cho xuất khẩu Bài học kinh nghiệm qua khứ cho thấy trước mắt cần xác định ngành ưu tiên đầu tư phải là ngành sử dụng được lợi thế so sánh của Việt Nam, đảm bảo cho việc thực hiện thành công định hướng xuất khẩu Các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai là những ngành công nghiệp yêu cầu công nghệ cao hơn như công nghiệp dệt, cơ khí chế tạo, điện tử… Các sản phẩm của các ngành này có độ chính xác, có chất lượng cao và tạo giá trị gia tăng cao hơn sản phẩm của các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất. Các ngành này được xây dựng dựa trên cơ sở và có mối liên kết với các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất đã có. Các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai có nhiều tác động đối với nền kinh tế, đặc biệt một số ngành như cơ khí, điện tử còn có tác động lan toả, nâng cao năng suất lao động của nhiều ngành công nghiệp và kinh tế khác. Trong tương lai gần từ nay đền 2010 thì việc chuyển dần sang các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai cần phải được ưu tiên hơn nữa vì các ngành này sẽ phát huy được lợi thế tương đối về nguồn nhân lực có chất lượng trong các công việc đòi hỏi kỹ năng cao. Mặt khác, việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai này sẽ giúp nền kinh tế của đất nước đối phó được với các tác động từ bên ngoài cũng như tăng cường khả năng thu hút và tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Các ngành công nghiệp thế hệ thứ ba là các ngành sản xuất ra nguyên vật liệu như công nghiệp hoá chất quy mô lớn, công nghiệp luyện kim. Những ngành này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, hàm lượng công nghệ cao. Các loại nguyên liệu do các ngành này sản xuất ra sẽ có nhu cầu lớn về số lượng và ngày càng cao về chất lượng một khi nền kinh tế của đất nước phát triển đến một mức độ nhất định. Các loại nguyên liệu này sẽ một phần thay thế cho các nguyên liệu truyền thống ngày càng cạn kiệt do sự khai thác của con người. Đối với những ngành công nghiệp thế hệ thứ ba này, hiện nay Việt Nam phần lớn phải nhập khẩu và khả năng sản xuất trong nước gần như là không có. Với mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 thì chắc chắn trong việc lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên trong thời gian tới, Việt Nam phải cân nhắc, xem xét tới các ngành nhất là những ngành công nghiệp công nghệ cao, những ngành có khả năng phát triển và tận dụng hiệu quả nguồn vốn và công nghệ. Tuy nhiên, việc phát triển các ngành công nghiệp thế hệ thứ ba này ở nước ta chỉ có thể thực hiện được sau một thời gian nữa, khi mà nền công nghiệp đã có những tiến bộ nhất định và khi ưu tiên phát triển chỉ có thể chọn một hoặc một vài ngành vì Việt Nam không có đủ vốn để đầu tư lan tràn cũng như chưa đủ khả năng quản lý các ngành này hiệu quả. Song song với việc lựa chọn ngành ưu tiên đầu tư thích hợp trong từng thời kỳ, chính phủ cũng cần xem xét lại đối tượng ưu tiên đầu tư theo hướng thu hẹp lại. Nếu vẫn tiếp tục tình trạng một phần lớn tổng vốn được đầu tư vào khu vực nhà nước là khu vực kinh doanh kém hiệu quả và đầu tư vào những dự án không có khả năng thu hồi vốn thì sẽ là một sự lãng phí lớn . 3.3.3. Vận dụng linh hoạt và hiệu quả công cụ lãi suất. Điều này bắt nguồn từ lý do lãi suất có tác động mạnh đến việc tăng giảm khối lượng vốn và tín dụng. Các ngân hàng thương mại nên thuần thục hơn trong việc cho vay theo lãi suất thoả thuận, linh hoạt hơn trong quá trình điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay. Lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở lãi suất huy động cộng với chi phí và các phí dịch vụ khác. Riêng lãi suất danh nghĩa cần được xác định trên cơ sở lãi suất thực tế cộng với tốc độ lạm phát. Một khi chính phủ thực hiện được quá trình kiểm soát thu nhập của dân cư và việc sử dụng tài khoản tiền gửi của người dân ngày một rộng rãi, các ngân hàng lại càng có điều kiện huy động vốn của dân cư. Lúc đó công cụ lãi suất lại càng phải thay đổi nhạy bén để quá trình huy động vốn có hiệu quả hơn. Đối vơí hệ thống lãi xuất cho vay ưu đãi, nên hạn chế số lượng các mức lãi xuất, tiến tới áp dụng một mức lãi xuất thống nhất cho cho tín dụng ưu đãi cho các đối tượng vay vốn. Các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng nên tích cực tiết kiệm chi phí để có thể giảm lãi suất cho vay đến mức hợp lý để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp sử dụng vốn vay dài hạn hơn trong quá trình thực hiện cnh hiện đại hoá. Không nhất thiết phải bắt buộc các ngân hàng thương mại phải cho vay cùng một khung lãi suất, tránh ảo giác ấn định lãi suất. Mặt khác trong quá trình huy động vốn, các ngân hàng cần phải lựa chọn các hình thức huy động thích hợp, tránh đơn điệu. Phấn đấu để nâng dần tỷ trọng vốn vay trung và dài hạn thông qua các công cụ huy động hấp dẫn. Nghĩâ là bên cạnh việc tăng cường sử dụng và hoàn thiện hình thức huy động tiền gửi của dân cư và tiền gửi nhàn rỗi của các doanh nghiệp và tổ chức, cần củng cố và mở rộng các hình thức huy động trung và dài hạn, có tính toán đến yếu tố trượt giá hoặc bảo đảm bằng vàng Tất cả đều cần đến sự tính toán thận trọng, linh hoạt và khẩn trương, nhạy bén và cần theo kịp tình hình biến động của thị trường trong điều kiện hội nhập. 3.3.4. Nâng cao vai trò và năng lực quản lý của Nhà nước Từ kinh nghiệm vai trò của chính phủ trong việc thực hiện công nghhiệp hoá của Hàn Quốc, chúng ta thấy rõ được các chính sách chỉ đạo và biện pháp can thiệp trực tiếp của chính phủ đã có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, nhằm phát huy những lợi thế so sánh vốn có của nền kinh tế trong đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các lợi thế so sánh mới. Từ vai trò của chính phủ Hàn Quốc, với lợi thế của một nước đi sau Việt Nam có thể rút ra được rút ra được một số bài học về nâng cao vai trò và năng lực của chính phủ trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách nhằm vào việc thực hiện công nghiệp hoá nói chung và chính sách tín dụng nói riêng. Nhà nước không nên can thiệp thô bạo mà chủ yếu điều tiết ở tầm vĩ mô, còn tầm vi mô để cho giới doanh nghiệp đảm nhận và chỉ nên hoạt động ở lĩnh vực cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế mà tư nhân không làm được . Sự quản lý nền kinh tế của nhà nước cần dựa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa chính phủ với các nhà kinh doanh để các chính sách của chính phủ đáp ứng được những yêu cầu chính đáng của giới kinh doanh, phục vụ cho việc phát huy tính chủ động sáng tạo của tư nhân và tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân phát triển. Chính phủ cần năng động và linh hoạt trong việc hoạch định và thực hiện chính sách trước sự thay đổi của tình hình. Sẵn sàng loại bỏ những chính sách không đem lại kết quả thiết thực, sớm nhận thức được sai lầm, không dập khuôn, máy móc, giáo điều, cứng nhắc mà dám nhìn thẳng vào sự thật. Để chính sách tín dụng không gây ra những hậu quả xấu nhà nước tăng cường vai trò giám sát của mình thông qua công cụ hệ thống ngân hàng. Nhà nước cần căn cứ vào yêu cầu huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoaì nước, xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi trong từng giai đoạn cụ thể mà có mức độ can thiệp cho phù hợp . Ngày nay trước sự phát triển của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, xu thế hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì sự can thiệp của nhà nước quá mức sẽ không phù hợp, nhà nước cần để cho cơ chế thị trường tự điều chỉnh. Không thể phủ nhận được ảnh hưởng của năng lực quản lý kinh tế của Nhà nước đối với việc lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên cũng như đề ra và thực hiện các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các ngành này. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thông qua các chính sách kinh tế có thể gặp thất bại vì nhiều lý do trong đó có lý do về khả năng điều hành và quản lý của chính phủ không đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả chính sách tín dụng cần nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước. Để làm được điều này vấn đề đặt ra là cần đào tạo đội ngũ chuyên gia thực sự có năng lực, có phẩm chất chính trị trong lĩnh vực hoạch định chiến lược, phát triển kinh tế xã hội tầm vĩ mô. Đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, trang bị cho họ những tri thức mới để họ đủ khả năng đề xuất các chính sách quản lý trong cơ chế thị trường. Sa thải những cán bộ thoái hoá biến chất, không còn năng lực, kiên quyết chống lại và loại bỏ tình trạng tham nhũng trong bộ máy quản lý của Nhà nước. Nâng cao năng lực công tác của cán bộ quản lý sẽ cho phép các chính sách của nhà nước đối với phát triển kinh tế nói chung và chính sách tín dụng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá nói riêng được thiết kế đúng đắn và được tổ chức thực hiện tốt để chúng có thể phát huy được tác dụng, tránh tình trạng các chính sách thì hay nhưng chỉ là trên giâý tờ mà không đi được vào được đời sống kinh tế. Nhà nước cần thực hiện cải cách các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá, tiến tới thực hiện chế độ “một cửa, một dấu” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất - kinh doanh cũng như người dân trong cuộc sống hàng ngày và xây dựng một hệ thống pháp lý đồng bộ và vững chắc bao gồm hệ thống luật lệ, quy định và các định chế cần thiết cho việc thực thi pháp luật. Chỉ có trên cơ sở tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh giản, có hiệu lực thì nhà nước mới có thể thực hiện được vai trò mới của mình trong cơ chế thị trường. 3.3.5. Đảm bảo sự phối hợp của chính sách tín dụng với các chính sách khác . Kinh nghiệm của Hàn Quốc chỉ ra rằng để chính sách tín dụng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá phát huy được tác dụng của nó trong việc thức đẩy phát triển các ngành công nghiệp mục tiêu nhà nước cần phối hợp sử dụng các công cụ điều tiết khác. Cụ thể là: + Nhà nước cần tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá trên cơ sở cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế nhằm thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt trong ngắn hạn và ổn định trong dài hạn, đảm bảo mục tiêu khuyến khích xuất khẩu và tăng dự trữ ngoại hối. Ban hành những qui định để tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo yêu cầu về quản lý ngoại hối nhằm đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn ngoại tệ thông qua việc nghiên cứu, áp dụng các công cụ mới trên thị trường ngoại tệ, nhất là các công cụ phòng ngừa rủi ro, hạn chế và tiến tới giảm thiểu nhanh, tối thiểu hóa và ngăn chặn hữu hiệu tình trạng đô la hóa, trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng tiền Việt Nam làm công cụ thanh toán, giao dịch. + Nhà nước cần có những cải cách đối với hệ thống thuế : - Đánh thuế theo tỷ lệ nội địa hoá để hạn chế nhập khẩu và khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất trong nước. - Thuế suất đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu nói chung, trong đó có sản phẩm công nghiệp nói riêng phải có tính ổn định tương đối, phải được áp dụng trong một thời gian nhất định, không nên thay đối một cách thường xuyên như hiện nay. - Thực hiện sửa đổi về thuế giá trị gia tăng (VAT) và thuế thu nhập doanh nghiệp, xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân với những người có thu nhập cao nhằm tạo sự bình đẳng trong tính thuế. - Đối với những ngành công nghiệp được khuyến khích phát triển và những doanh nghiệp công nghiệp ở khu vực nông thôn, miền núi, Chính phủ nên có chế độ miễn, giảm thuế cụ thể. KẾT LUẬN Hàn Quốc là một trong những quốc gia đã thực hiện công nghiệp hoá rất thành công trong những điều kiện xuất phát điểm thấp về mặt nguồn lực. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá của Hàn Quốc đó là do chính phủ đã sử dụng các công cụ chính sách phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá có hiệu quả mà trong đó chính sách tín dụng đóng vai trò quan trọng. Luận văn đã khẳng định sự cần thiết khách quan và vai trò quan trọng của chính phủ đối với việc định hướng, tạo nguồn lực và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của quá trình công nghiệp hoá và luận giải vai trò của chính sách tín dụng như là một công cụ có hiệu quả mà chính phủ có thể sử dụng phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế. Luận văn cũng đã tập trung phân tích làm rõ thực chất của chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong từng giai đoạn của thời kỳ công nghiệp hoá và những tác động tích cực cũng như những hậu quả xấu của nó đôí với quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc nói chung và đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là những tổ chức được lựa chọn để thực hiện kế hoạch công nghiệp hoá của chính phủ và được hưởng những ưu đãi về tín dụng. Nguyên nhân của cơ bản của thành công của chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc là do nhà nước đã thực hiện được vai trò của mình trong quản lý kinh tế bằng việc tạo dựng được môi trường cạnh tranh cho các tổ chức kinh doanh là đối tượng được hưởng các ưu đãi tín dụng, duy trì được sự giám sát của chính phủ thông qua hệ thống ngân hàng và phối hợp tốt giữa chính sách tín dụng với các chính sách khác, chính phủ cùng chie sẻ rủi ro với các nhà công nghiệp và ngân hàng. Mặc dù chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc gây ra một số hậu quả xấu đối với nền kinh tế nhưng có thể khẳng định rằng nó đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế . Chính sách tín dụng có thể được sử dụng như là một công cụ có hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá. Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về bối cảnh thực hiện công nghiệp hoá và mục tiêu công nghiệp hoá. Đây là cơ sở để luận văn đề xuất một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo của Hàn Quốc. Đối với Việt Nam, chính sách tín dụng có thể được chính phủ sử dụng như là một công cụ có hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá. Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ này, cần có cơ chế để tránh những tác động xấu của nó. Việc tìm hiểu kinh nghiệm của Hàn Quốc trong quá trình công nghiệp hoá từ những năm 60-70 đến nay không phải là vấn đề quá cũ, mà vẫn còn mang tính thời sự khi bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá. Hy vọng bản luận văn này, dù còn nhiều khiếm khuyết, sẽ tạo được sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37194.doc