Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở VN

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở việt nam *lời mở đầu Trước ngưỡng cửa của thế XXI, loài người bị cuốn hút vào một quá trình mang tính chất quốc tế bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới, đó là quá trình toàn cầu hoá mà cốt lõi của nó là toàn cầu hoá kinh tế. Đây là một xu thế khách quan tác động một cách toàn diện đến mọi dân tộc. Nó đặt mỗi quốc gia trước những thời cơ và cả thách thức to lớn. Việt nam chúng ta cũng không phảI là một ngoại lệ. C

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính vì vậy từ khi chúng ta tiến hành đổi mới (1986)nước ta đã nỗ lực không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Chúng ta đã ngặt háI được nhiều thành công trong việc hội nhập kinh tế quốc tế như việc trở thành viên chính thức của liên minh ASEAN(1996), tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA, ký kết hiệp định thương mại Việt-Mỹ.Việc hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cho việt nam những thời cơ và thách thức lớn. Chính vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu về hội nhập kinh tế quốc tế là việc hết sức cần thiết để chúng ta có thể tận dụng chiệt để những cơ hội và vượt qua được những thách thức. để việt nam không chỉ chánh được nguy cơ tụt hậu so với quốc tế mà còn phát triển sánh vai cùng 5 châu. đề án đã được hoàn thành với sự hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của giảng viên PGS-PTS Mai hữu Thực. Em xin được nói lời cảm ơn chân thành tới thầy Do trình độ còn hạn chế và vấn đề là rộng lớn, phức tạp nên trong quá trình phân tích trình bầy còn nhiều thiếu sót và hạn chế nên em mong được sự chỉ dậy của các thầy cô trong bộ môn. đặT vấn đề Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan.trong hơn một thập kỷ lại đây xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có sự ra tăng mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển của khoa học-công nghệ; xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại, thế giới chuyển sang thời kỳ mới - hoà bình,hợp tác và phát triển; sự gia tăng hàng loạt vấn đề toàn cầu như môi trường, dân số...Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này không thể phát triển nếu không mở cửa hội nhập. Tuy vậy, hội nhập, một mặt sẽ đón nhận được những cơ hội cho phát triển, song mặt khác cũng phải đối mặt với hàng loạt thách thức do chính xu thế toàn cầu hoá đặt ra. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là một nội dung, một khía cạnh quan trọng của công cuộc đổi mới hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Mặc dù hội nhập có cả tích cực và tiêu cực, song đối với việt nam để có thể thực hiện được quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, đòi hỏi chúng ta, nói như thủ tướng phan văn khải, cần phải”chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế “. Hội nhập chủ động sẽ là phương châm hợp lý bảo đảm cho chúng ta hoà nhập với cộng đồng thế giới mà không bị hoà tan. B\ nội dung I/ tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế 1/ kháI quát về hội nhập kinh tế quốc tế hội nhập kinh tế quốc tế là sự gia tăng nhanh chóng của các Họat động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế tăng sự vận động phát triển hướng tới nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn trên phạm vi toàn cầu. 2 .Tính tất yếu. Toàn cầu hoá kinh tế thế giới là một xu thế khách quan do tác động của sự phát triển của lực lượng sản xuất. Những thập niên cuối thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, chuyển giao công nghệ trong phạm vi toàn cầu, xuất hiện nhiều hiện tượng mới như thương mại đIện tử, đồng tiền ảo,nền kinh tế số... kéo theo sự ra đời lý thuyết mới về kinh tế, đòi hỏi các dân tộc trên thế giới phảI có tư duy mới đối với thách thức và cơ hội trong quá trình phát triển. Quá trình toàn cầu hoá diễn ra ở nhiều cấp độ, từ hợp tác song phương giữa hai nước, hình thành các tam giác, tứ giác, các tiểu vùng, tổ chức khu vực, liên khu vực, liên châu lục và các tổ chức toàn cầu với phương thức đa dạng như khu vực mậu dich tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, diễn đàn kinh tế, liên minh kinh tếTrên thế giới hiện đã có hơn 100 tổ chức như vậy. Toàn cầu hoá là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; mỗi nước có thể tận dụng tối đa thế và lực của mình để đảm bảo lợi ích của dân tộc trong quan hệ đa phương và song phương với các nước khác. Các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới là những nước sáng lập ra các tổ chức kinh tế quốc tế như IMF, WB, WTO, cũng như nhiều tổ chức khu vực, đã và đang tìm mọi cách chi phối hoạt động của các tổ chức đó từ việc đề cử người của mình vào các chức vụ chủ chốt, đặt ra các định chế, chính sách, thao túng các hoạt động tác nghiệp của các tổ chức đó nhằm phục vụ cho lợi ích của họ. Các nước đang phát triển cũng như những nước đang chuyển đổi cơ chế kinh tế thường vào thế yếu trong quan hệ kinh tế quốc tế, đã và đang tìm tiếng nói chung trên các diễn đàn quốc tế, cũng như phối hợp các hoạt động chung trong các cơ quan quốc tế nhằm bảo vệ quyền lợi của mình, kiềm chế sự thao túng của các nước lớn. Giữa các nước công nghiệp phát triển với nhau, cũng như giữa các nước đang phát triển và đang chuyển đổi cơ chế kinh tế cũng thường xuất hiện những quan điểm khác nhau trong việc xử lý các vấn đề chung của thế giới, tranh chấp với nhau về thương mại, đầu tư, chu chuyển vốn, sở hữu trí tuệ, bản quyền, thậm chí dẫn đến các cuộc “chiến tranh thương mại” trong quan hệ một số nước như Nhật-Mỹ về ôtô, EU- Mỹ về chuối, Anh - một số nước EU khác về thịt bò. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế với thế giới là vấn đề chung cho tất cả các dân tộc; nước chiếm 1/4 tổng GDP toàn thế giới như Mỹ, cũng như nước chiếm hơn 1/5 dân số thế giới như Trung Quốc mặc dù có chế độ xã hội khác nhau, cũng không thể đứng ngoàI xu thế chung đó được. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với nước ta hiện nay không phảI là có hội nhập hay không, mà là làm thế nào để đảm bảo được lợi ích dân tộc trong quá trình hội nhập về kinh tế với thế giới. Lợi ích dân tộc được thể hiện trong mục tiêu dàI hạn, như đã được xác định trong nhiều văn kiện của đảng và nhà nước, là dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh,được cụ thể hoá trong mục tiêu từng giai đoạn trung hạn 5 năm và hàng năm. hội nhập kinh tế với thế giới góp phần thực hiện các mục tiêu đó bằng cánh mở rộng không ngừng quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước và tổ chức quốc tế, tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoàI để bồi dưỡng nguồn lực trong nước, tạo thành một hợp lực nhằm đẩy nhanh và thực hiện có hiệu quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa nước ta với các nước trong khu vực, từ đó lại tạo ra đIều kiện để cho việc hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xă hội chủ nghĩa, thực hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi những nhiện vụ nêu ra trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội năm 2001-2010 và kế hoạch 5năm 2001-2005. II/ thực trạng hội nhập kinh tế của việt nam. 1. thực trạng kinh tế của việt nam. a, Kết thúc năm 1999, năm thứ 9 của chiến lược 10 năm (1991-2000), thế và lực của nước ta được nâng lên rõ rệt: Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, bình quân GDP hằng năm trong thời kỳ 1991- 1995 là 8,2%, hai năm 1996 và 1997 trên mức đó và hai năm tiếp theo 1998 và 1999 khoảng 5 %. Giá trị sản lượng công nghiệp tăng trên 10% và nông nghiệp tăng trên 4%. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao gấp 2 đến 3 lần tốc độ tăng GDP. Ngoại trừ năm 1991 do giảm sút trong quan hệ buôn bán với Liên Xô (cũ) nên kim ngạch xuất khẩu giảm 15,1%, từ 1992 đến 1997 tăng 25 đến 30% năm. Năm 1998 gần như không tăng, năm 1999 tăng khoảng 23%. Tình trạng nhập siêu đã được thu hẹp dần và từ 1998 về cơ bản đã cân bằng được cán cân thương mại quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt 11,5 tỷ USD, bằng 5 lần năm 1991. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có biến đổi quan trọng theo hướng tăng dần giá trị gia tăng hàng xuất khẩu. Từ chỗ có ít mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD, năm 1999 đã có nhiều mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD như dầu thô, gạo, hàng dệt, may, giày dép. Du lịch và dịch vụ quốc tế đã được phát triển nhanh chóng, hàng ngàn khách sạn, nhà hàng, trung tâm du lịch đã hình thành một mạng lưới có thể thu hút hàng năm nhiều triệu khách quốc tế. Các dịch vụ hàng không, hàng hảI, bưu chính, viễn thông, tàI chính, bảo hiểm, tín dụng quốc tế đã được phát triển nhanh và một số dịch vụ đã được tầm cỡ khu vực. - Đã thu hút được hơn 2400 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoàI với vốn đăng ký 36 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện 15,5 tỷ USD, chiếm khoảng 28% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thời kỳ 1991-1999. Hàng ngàn công ty, trong đó có nhiều công ty đa quốc gia của gần 70 và vùng lãnh thổ đang hoạt động đầu tư và kinh doanh ở nước ta .Từ năm 1993, nước ta đã nối lại khoản viện trợ phát triển (ODA), bình quân mỗi năm khoảng 1 tỷ USD đã được đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế phát triển. Khi mà loàI người bước vào thiên niên kỷ mới thì nước ta cũng đã có thế và lực mạnh hơn, cũng như đã tích luỹ được những kinh nghiệm quý giá trong việc xây dựng nên kinh tế thị trường nhiều thành phần và trong quá trình hội nhập về kinh tế với thế giới b, Tuy vậy, thực trạng kinh tế nước ta nhìn dưới góc độ hội nhập kinh tế với thế giớ cũng bộc lộ những nhược đIúm đáng lưu ý: Thời kỳ 1991-1995 là lúc mà ở trong nước thì nguồn vốn vật chất còn hạn hẹp, kinh nghiêm quản lý nhà nước và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường còn chưa nhiều; ở ngoàI nước thì tình hình quốc tế nhìn chung là bất lợi, Liên Xô (cũ) tan rã làm giảm sút đột ngột quan hệ buôn bán chủ yếu của nước ta với thế giớ. Mỹ và đồng minh của Mỹ kéo dàI cuộc cấm vận về kinh tế với nước ta cho đến đầu năm 1994, nguồn ODA mới được nối lại từ 1993 và hết năm 1995 chỉ thực hiện được 1,73 tỷ USD. Trong bối cảnh đó, toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 1991-1995 đã được thực hiện vượt mức khá cao. Mức tăng thực tế bình quân hằng năm : GDP 8,2% (kế hoạch 5,5-6,5%), giá trị sản lượng công nghiệp 13,5% ( KH 7,5—8,5), giá trị sản lượng nông nghiệp 4,5%(KH 3,7-4,5%)... Thời kỳ 1996-2000 là thời kỳ có nhiều nhân tố thuận lợi hơn; ở trong nước thì nên kinh tế đang đà phát triển với tốc độ khá cao, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân nhìn chung được cảI thiện, hoạt động của thị trường nội địa khá sôI động, nền tàI chính tiền tệ đã được ổn định; ở ngoàI nước thì với việc gia nhập ASEAN, tham gia AFTA, ký hiệp định khung với EU và bình thường hoá quan hệ với Mỹ vào tháng 7-1995, cũng như là thành viên của APEC vào tháng 11-1998, vị thế nước ta trên trường quốc tế đã được cảI thiện rõ rệt. Trong bối cảnh đó, trừ chỉ tiêu sản xuất nông nghiệp, các chỉ tiêu kinh tế khác của kế hoạch 1996-2000 đạt thấp hơn nhiều so với mức dự kiến. - Tốc độ tăng giá trị sản lượng nông nghiệp dự kiến tăng 4,5- 5,5%/năm, có thể đạt 5,1-5,2%/năm. Sản lượng lương thực quy thóc năm 1999 đạt 33,8 triệu tấn vượt mức dự kiến 30-32 triệu tấn của năm 2000. Tốc độ tăng GDP dự kiến 9-10%/năm nhưng chỉ đạt khoảng 6,8%/năm tương đương 2/3 mức dự kiến và thấp hơn nhiều so với mức tăng của 5 năm trước đó. 2.nhìn lại quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm gần đây. đIều cần nói là, không phảI chỉ có thập kỷ 90 vừa qua chúng ta mới tiến hành hội nhập quốc tế. Nhìn lại chặng đường phát triển của dân tộc ta, trên thực tế chưa bao giờ chúng ta tách khỏi nền kinh tế thế giới, chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục quá trình hội nhập. Trươc khi nhà nước việt nam (việt nam dân chủ cộng hoà nay là cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam) ra đời việc tham gia vào tiến trình kinh tế thế giới của chúng ta chịu sự chi phối của chủ nghĩa thực dân, đó thực chất là quá trình bị động. Sau khi nước việt nam dân chủ cộng hoà ra đời do đIều kiện chiến tranh nên việc phát triển kinh tế và tham gia vào quá trình kinh tế quốc tế rất hạn chế. Trên thực tế từ năm 1945 đến khi chúng ta thực hiện đổi mới, quan hệ việt nam với khu vực (đông nam á) có thể nói là bị ngừng chệ. Chúng ta chỉ tiến hành quan hệ hợp tác với các quốc gia XHCN mà đáng chú ý là việc tham gia vào Hội tương trợ kinh tế (SEV). Tham gia vào SEVphần nhiều cũng không phảI xuất phát từ yêu cầu tất yếu của phân công hợp tác về mặt kinh tế đối với Việt Nam. Như vậy có thể thấy thập kỷ 90 là thập kỷ hội nhập khởi đầu đúng nghĩa. Cũng vì vậy chúng tôI muốn đI sâu nhìn nhận lại quá trình hội nhập kinh tế của ta thời gian này, từ đó có cơ sở cho những đề xuất và gợi ý cho tương lai. Chúng ta biết rằng từ cuối thế kỷ 70, đất nước lâm vào tình trạng khó khăn, cơ chế kinh tế cũ tỏ ra không còn tác dụng, cơ chế mới chưa hình thành. Viện trợ ở bên ngoàI bắt đầu khó khăn, giảm sút, trong khi đó các thế lực thù địch trong và ngoàI chống phá dồn ép ta trên các phương diện. Gần suốt thập kỷ 80 chúng ta loay hoay tìm phương cách khắc phục song không những không hiệu quả mà còn làm cho tình trạng khó khăn, phức tạp thêm. Đại hội VI của Đảng đã mở ra phương cách mới, chúng ta đã tiến hành đổi mới chuyển sang cơ chế thị trường. Cùng với những đổi mới bên trong chúng ta thực hiện chuyển hướng chiến lược trong kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tiếp theo tinh thần đổi mới của Đại hội VI, Đại hội VII và VIII, cùng các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương trong các kỳ Đại hội đều có chú ý đến vấn đề hội nhập quốc tế. Nếu như Đại hội VI Đảng ta nhấn mạnh phảI “gắn thị trường trong nước với thế giới, giảI quyết mối quan hệ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ thị trường nội địa”, thì tại Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã có bước tiến trong xác định cụ thể nội dung của hội nhập quốc tế, trong đó khẳng định phảI khai thông quan hệ với các tổ chức kinh tế quốc tế. Tư tưởng này được khẳng định lại tại Hội nghị Trung ương 7 khoá VII là “từng bước tham gia các hội, các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới và khu vực”. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục phát triển và khẳng định về sự cần thiết cũng như làm rõ thêm về nội dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết Đại hộ nhấn mạnh phảI “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. “ĐIều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác. Chủ động tham gia thương mại thế giới, các diễn đàn,các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đI thích hợp”. Như vậy có thể nói chủ trương hội nhập của Đảng ta là nhất quán trong tiến trình đổi mới. Đây chính là cơ sở rất quan trọng để triển khai, thúc đẩy hội nhập trên thực tế. TrảI qua hơn một thập kỷ từng bước hội nhập chúng ta đã có được những kết quả bước đầu quan trọng trên các mặt thương mại, đầu tư, ngoại giao.. phá bỏ thế cô lập, tạo ra môI trường cùng hợp tác phát triển với các đối tác trên thế giới. Cụ thể về ngoại thương, chúng ta đã mở quan hệ kinh tế với 150 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Từ năm 1990 đến 1999 tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng 4,5 lần, khi đó tổng giá trị nhập khẩu tăng hơn 4 lần. Trên thực tế kết thúc năm 1999 kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu gần như ngang bằng. Trong cơ cấu hàng hoá cũng có chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng mặt hàng, tăng dần những hàng hoá qua chế biến. Trong lĩnh vực thu hút vốn nước ngoàI chúng ta cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tính đến tháng 9/1999 chúng ta đã thu hút 35,9 tỷ USD FDI của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó đầu tư vào công nghiệp và xây dựng la gần 51%. Cùng với vôn FDI chúng ta còn tiếp nhận một lượng không nhỏ nguồn vốn qua kênh ODA. Nguồn ODA thực sự có ý nghĩa quan trọng phát triển cơ sở hạ tầng, cả phần cứng và phần mềm đối với Việt Nam. Tính ra mức vốn nước ngoàI hiện nay chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư xã hội. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoàI trong GDP đều tăng lên qua các năm. Năm 1993 đạt 3,6%, đến năm 1998 đạt 9%; năm 1999 đạt khoảng 10,5%. Nguồn thu ngân sách từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoàI đạt 370 triệu USD vào năm 1998. Cùng với mở cửa thu hút vốn nước ngoàI, gia tăng xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước ngoàI, kể cả vào những nước phát triển như Nhật Bản. Tính đến nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có 27 dự án đầu tư ra nước ngoàI với tổng số khoảng 8 triệu USD, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, thương mại, dịch vụ và xây dựng v.v..Đồng thời trong những năm 90 chúng ta đã ký các hợp đồng đưa 7 vạn lao động ra nước ngoàI làm việc. Việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới không chỉ cho phép ta thu được vốn, mà dựa vào đó chúng ta nắm bắt được những công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bước tạo cho ta một đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp cho việc phát triển nền công nghiệp hiện đại trong thời đại ngày nay. Theo con số của vụ quản lý dự án, bộ kế hoạch và đầu tư, riêng trong khu vực có FDI đã thu hut 285,7 nghìn lao động(số liệu đến tháng 8/1999). Thực ra để đạt được những kết quả như trên trong những năm qua Việt Nam đã có những đổi mới cảI thiện môI trường đầu tư, đặc biệt là luật đầu tư, mặc dù còn có nhiều đIều cần đIều chỉnh, song đều được thừa nhận là luật cởi mở, có sức hút đối với FDI. Chúng ta cũng có nhiều đổi mới trong lĩnh vực tàI chính tiền tệ, đIều chỉnh các mức thuế theo hướng ngày càng tự do hơn. Kết quả của hội nhập còn thể hiện rõ ở việc hội nhập và tham gia vào những hoạt động của các tổ chức trong khu vực và toàn cầu. Chúng ta đã trở thành viên của APTA, APEC, có quan hệ chặt với các tổ chức chuyên môn của UN, IMF và WB cũng như ADB. Đặc biệt chúng ta ký hiệp định thương mại Việt –Mỹ và đang xúc tiến tham gia vào WTO. Với việc hội nhập tích cực, chủ động như trên đã góp phần quan trọng vào thành tựa kinh tế- xã hội trong hơn mười năm đổi mới vừa qua. Không những phá bỏ thế bao vây và cô lập và còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Tuy vậy, đIều cũng cần thấy là, bên cạnh những kết quả, tiến trình hội nhập của Việt Nam trong hơn mười năm qua cũng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cả ở tầm vĩ mô và vi mô cần suy nghĩ, giảI quyết để tiếp tục hội nhập ngày càng hiệu quả hơn. 3. Một số thuận lợi và khó khăn đặt ra đối với việc “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. a.Những thuận lợi cơ bản. Thứ nhất, Đảng cũng như nhà nước có những chủ trương và chính sách nhất quán cho việc chủ động tham gia vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá.Chúng ta còn nhớ khi bắt đầu bước vào cảI cách đổi mới việc mở rộng quan hệ kinh tế với các quốc gia, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu chưa phảI đã có tiếng nói chung.ĐIều đó ảnh không nhỏ đến nhịp độ hội nhập. Nay với quan đIúm và nguyên tắc rõ ràng chúng ta đẩy nhanh qúa trình hội nhập. Đường lối ở tầm vĩ mô, về “ xu thế không thể tránh khỏi đối với sự phát triển” của việc tham gia toàn cầu hoá thực tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của Việt Nam. Từ nhận thức này, mà trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế nói chung, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại noi riêng. Các chính sách này đều theo định hướng tự do, tất nhiên ở các tầng cấp khác nhau phụ thuộc vào thực lực cụ thể của mỗi lĩnh vực cụ thể. Thứ hai, tham gia toàn cầu hoá chính là tranh thủ những đIều kiện quốc tế để khai thác các tiềm năng kinh tế nước nhà, phục vụ nâng cao đời sống nhân dân.Việt Nam là quốc gia có nguồn tàI nguyên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tàI nguyên phong phú không chỉ tạo đIều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức hút đối với các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tàI nguyên thiên nhiên chúng ta có thể xác lập cơ cấu các ngành kinh tế với các sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới. Về vị trí địa lý, nước ta là cửa ngõ đI TháI Bình Dương của một số quốc gia Đông Nam á , là đIếm tiếp giáp với các tuyến đường giao thông quan trọng trên thế giới. Đáng chú ý với bờ biển dàI, trảI dàI từ bắc vào nam với nhiều hảI cảng, đặc biệt là cảng Cam Danh có độ sâu thuận lợi cho phát triển giao thông hàng hảI cũng như phát triển kinh tế hàng hoá. NgoàI một số khoáng sản như Bôxit có trữ lượng lớn 5 tỷ tấn đứng thứ ba trên thế giới, quặng đất hiếm cũng có trữ lượng lớn đứng hai trên thế giới sau Trung Quốc, thì các loại khoáng sản ở Việt Nam tuy trữ lượng không lớn nhưng rất đa dạng và phong phú. Trong thời gian qua việc khai thác còn hạn chế. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, thì việc sử dụng các nguồn lực đó thông qua hợp tác quốc tế là rất cần thiết. Với thực trạng nguồn tàI nguyên thiên nhiên cũng như xét trên hiệu quả phát triển kinh tế chúng ta không nên hình thành cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu tàI nguyên như một số có nguồn tàI nguyên lớn. Cần qua hợp tác cũng như phát huy năng lực bên trong đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chuyển sang xuất khẩu các mặt hàng chế biến. Thực tế cho thấy, mặc dù những năm qua cơ cấu hàng xuất khẩu của ta cũng đã có cảI thiện, song về cơ bản vẫn là xuất khẩu tàI nguyên, trong đó có dầu, than đá. Trong đIều kiện giá cánh keo chúng ta càng xuất khẩu càng thua thiệt. Với nguồn lực tàI nguyên hiện có chúng ta cần tập trung phát triển các ngành vật liệu xây dựng, gốm sứ, du lịch, kết hợp phát triển các sản phẩm từ cây công nghiệp để tạo sản phẩm xuất khẩu. Đồng thời chú ý phát triển các loại hình xí nghiệp vừa và nhỏ, trên cơ sở liên doanh để tận dụng nguồn khoáng sản phong phú, đa dạng phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Thứ ba, Việt nam hiện nay tuy là quốc gia đang phát triển, là một trong những nước nghèo nhất của thế giới,song nước ta được đánh giá cao về chỉ số nguồn nhân lực. Với thị trường gần 80 triệu dân, trong đó người trong độ tuổi lao động cao (dân số trẻ ), có trình độ văn hoá, cần cù lao động và đặc biệt giá lao động rẻ. đó là lợi thế so sánh có ý nghĩa trong quá trình hội nhập. Trong đIều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ, khoa học- công nghệ phát triển mạnh, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tri phối mọi lĩnh vực kinh tế- xã hội, nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa, bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế. Trên thực tế nhiều công ty nước ngoàI vào Việt Nam, một trong những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lao động dồi dào, dẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ mới ở Việt Nam. Thoe đánh giá của các công ty nhật khi phân tích lợi thế môI trường kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong số 10 quốc gia. Tuy vậy nếu xét riêng về yếu tố nguồn nhân lực, lợi thế của ta không thua kém TháI lan, thậm chí còn vượt cả Inđônêxia và Myanma. Chỉ số HDI của ta chưa cao so với thế giới, mới chỉ 0,56 song so với các quốc gia có thu nhập tương ứng thì ta lại ở nhóm cao. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông giao lưu với thế giới bên ngoàI. Ta có thể qua hội nhập để xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. đồng thời tạo đIều kiện để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, công nghệ mới mà hiện nay ta đang rất cần. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và chính qua hội nhập là đIều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động của Việt Nam. Thứ tư chúng ta đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong đIều kiện đất nước hòa bình, chính trị- xã hội ổn định. đây là cơ hội rất quan trọng để tập chung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại. Chính trị- xã hội ổn định theo một khuynh hướng nhất quán chính là bộ lọc quan trọng trong quá trình giao lưu hội nhập, hơn nữa nó đảm bảo vai trò định hướng trong hội nhập quốc tế. Chúng ta biết rằng khi bắt đầu thực hiện đổi mới, gắn liền với bước chuyển cơ chế đã nẩy sinh không ít tiêu cực trong tư tưởng đạo đức, lối sống. Nhiều người lợi dụng chức quyền và sự chưa hoàn thiện của cơ chế quản lý và pháp luật đã giầu nên nhanh chóng, trong khi đại bộ phận dân cư còn sống trong khó khăn. Nhìn chung tình hình kinh tế -xã hội còn khá gay gắt vào cuối những năm 1980. Trong bối cảnh đó, trên thế giới cũng đang có chuyển biến phức tạp, đáng chú ý nhất là sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu. đIều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội việt nam cũng như đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ nhân dân với CNXH, hoàI nghi vào khả năng mở của hội nhập phát triển. Phân tích tình hình thực tế, ngay từ hội nghị trung ương 7 khóa VI đảng ta đã khẳng định tính tất yếu của CNXH, khẳng định khách quan và phương hướng XHCN của quá trình cảI cách đổi mới. đại hội VII cũng khẳng định: ‘nhân dân ta quyết không chấp nhận con đường nào khác ngoàI con đường XHCN’. Trên thực tế gắn liền với sự vận động hiện thực của cuộc sống, đảng ta đã từng bước hoàn thiện, bổ sung cụ thể hóa thêm đường nối đổi mới, mở cửa hội nhập. Trong quá trình đó, đảng ta đã được củng cố về chính trị và tổ chức, vai trò lãnh đạo của đảng trong xã hội được tăng cường. a Trong quá trình đổi mới gắn liền với cảI cách hành chính,đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các đoàn thể chính trị- xã hội, chúng ta đã ban hành hiến pháp mới cùng nhiều luật lệ nhằm thể chế hóa quyền lực của nhân dân, thực tiễn quản lý xã hội có dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Cùng với chỉnh đốn đảng chúng ta chú trọng dân chủ hóa cơ sở thực sự mở ra khả năng tham gia đóng ngóp của mọi người vào các quyết sách phát triển liên quan đến lợi ích của chính người dân, của các địa phương cũng như của nhà nước. Với sự đổi mới phát triển hơn mười năm qua đất nước đã thu được kết quả rất đáng tự hào. sau một thập kỷ tăng trưởng,GDP đã tăng nên gấp hơn 2 lần, từ nước nhập lương thực trở thành không những là một quốc gia tự túc được lương thực mà còn là nước có mức xuất khẩu lớn, đứng 2-3 thế giới với 3,8 triệu tấn năm 1998 và 4,3 triệu tấn năm 1999. cùng với đó đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân được cảI thiện. Thành quả này tạo ra niềm tin vững chắc của toàn dân vào sự nghiệp đổi mới, đưa lại sự ổn định về chính trị- xã hội theo một khuynh hướng đI lên CNXH. Sự ổn định chính trị- xã hội cho phép tập chung toàn thể sức lực của nhân dân cho phát triển đất nước. Trong những năm vừa qua không những phát huy tốt nguồn lực trong nước cho đổi mới mà còn thu hút được sự đóng ngóp không nhỏ của kiều bào ta ở nước ngoàI bên cạnh một lượng vốn lớn của nước ngoàI đổ vào Việt Nam. Sự ổn định về chính trị- xã hội thực sự là yếu tố quan trọng tạo ra môI trường kinh doanh lành mạnh tăng sức hút đối với đầu tư. Chúng ta thực hiện đổi mới đI nên CNXH. Hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới cũng chính là nhằm tranh thủ các đIều kiện về vốn , kỹ thuật v.v... cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế dân tộc theo hướng đã xác định : xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trong đó đảng lãnh đạo nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Với mục tiêu và đường nối hội nhập đó đã xác định những nguyên tắc trong quá trình tham gia hội nhập và quy định các chiều hướng giá trị vật chất và tinh thần khi tiếp nhận. đồng thời nó cũng quy định quan điểm chính thức của việt nam trong đấu tranh cho xu thế hội nhập bình đẳng vì sự phát triển chung của các dân tộc. Chúng ta hội nhập để xây dựng xã hội có dân giầu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, vì vậy chúng ta chỉ chấp nhận vào cuộc trơi khi mở ra các điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu đó. Về điều này quan điểm của Trung Quốc rất đáng tham khảo. họ quan niệm các luật trơi hiện nay có ba cấp độ :phù hợp, chưa phù hợp, không phù hợp và khi không phù hợp họ không chấp nhận, còn chưa phù hợp họ đấu tranh cho phù hợp dần. Thứ năm, mặc dù kinh tế ta chưa phát triển, nhưng chúng ta hội nhập không phải với hai bàn tay trắng, ngoài nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực cùng với sự ổn định về chính trị xã hội chúng ta cũng đã có kinh nghiệm nhất định sau hơn 10 năm đổi mới hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Với hơn 10 năm qua chúng ta tạo ra được đội ngũ cán bộ tiếp cận được cách thức làm ăn trên thương trường quốc tế, tất nhiên về trình độ đòi hỏi phải nâng cao hơn.thực tế chúng ta đã hoà vào nhịp độ chung của nền kinh tế thế giới. Hiện nay việt nam đã là thành viên của ASEAN đang có những đóng ngóp tích cực vào sự liên kết kinh tế trong hiệp hội. Thành công của cuộc gặp cuả các vị đứng đầu ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội1998 với việc ra tuyên bố Hà Nội và trương trình hành động Hà Nội thể hiện sự đóng ngóp đó. Chúng ta cũng đã trở thành thành viên của hội đồng hợp tác kinh tế tháI bình dương năm 1994 và theo hội nghị cấp cao APEC lần thứ 5 họp tại canada (1997) quyết định đơn xin gia nhập của Việt Nam, và theo quy định 11/ 1998 Việt Nam chính thức là thành viên của APEC. Trong những năm qua việt nam cũng gia tăng quan hệ với liên hợp quốc, IMF,WB. Cho đến nay đã hơn 20 năm Việt Nam tham gia vào liên hợp quốc. Sự tham gia này cho phép Việt Nam nhận được sự giúp đỡ của liên hợp quốc trong nhiều lĩnh vực, đồng thời qua đó việt nam cũng đóng ngóp vào sự phát triển của chính tổ chức này. ghi nhận sự đóng ngóp đó, năm 1997, lần đầu tiên việt nam đã được bầu vào hội đồng kinh tế- xã hội liên hợp quốc . đây là đIều kiện quan trọng cho phép mở rộng và phát triển quan hệ của Việt Nam với liên hợp quốc cũng như với các quốc gia và các tổ chức quốc tế khác. ngày nay chúng ta đã tham gia khá tích cực vào các Họat động của liên hợp quốc. Các tổ chức thuộc liên hợp quốc như: UNDP, UNFPA, UNICEF,UNHCR,UNDCP.v.v.. việt nam đều có quan hệ chặt chẽ. đối với WB hiện tại Việt Nam là thành viên chính thức của một số tổ chức thuộc WB, đó là ngân hàng táI thiết và phát triển quốc tế,hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), tập đoàn tàI chính quốc tế (IFC) và công ty bảo hiểm đầu tư đa biên (MIGA). Tuy vậy quan hệ Việt Nam với WB thực chất mới ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21121.doc
Tài liệu liên quan