Chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ hậu WTO

Lời nói đầu Xuất khẩu có một ý nghĩa quan trọng đối với bất kỳ một quốc gia nào, kể cả những nước phát triển và những nước đang phát triển vì đây là một kênh tiêu thụ sản phẩm quan trọng của quá trình sản xuất. Và đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì xuất khẩu càng có ý nghĩa đặc biệt hơn ở chỗ nhờ có ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu mà chúng ta có thể nhập khẩu được nguyên liệu chúng ta chưa có khả năng sản xuất và các máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho việc

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất hàng hoá. Đồng thời, nó cũng góp phần cải thiện cán cân thanh toán - một trong bốn đỉnh của “tứ giác mục tiêu”. Với cả tác động cả đầu vào và đầu ra, xuất khẩu đã đóng góp lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế trong một thời gian dài, nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát thoát ra khỏi nước kém phát triển trước năm 2010, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Song đối với những ai quan tâm một chút đến thương mại quốc tế thì sẽ thấy mọi việc không đơn giản như vậy. Xuất khẩu Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn về cơ cấu, năng lực cạnh tranh, nguồn cung và nhu cầu của thị trường. Chúng ta phải chấp nhận một thực tế là xuất khẩu của chúng ta trong thời gian vừa qua chỉ phát triển theo chiều rộng, chưa đi vào chiều sâu với lợi thế chủ yếu dựa trên tài nguyên thiên nhiên. Do đó, muốn xuất khẩu hàng hoá đi vào chiều sâu, mang lại giá trị kinh tế cao cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thì việc thực hiện tốt quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu là con đường đúng đắn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO vấn đề này càng trở nên cấp thiết hơn. Do vậy, nhìn nhận lại thực trạng xuất khẩu, đặc biệt là cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta trong thời gian vừa qua để có được những giải pháp hợp lý là một vấn đề có tính cấp thiết trong điều kiện hiện nay. Từ việc quan sát thực tiễn, nghiên cứu thực tế trong quá trình thực tập ở Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với sự tham khảo ý kiến của thày giáo hướng dẫn, em đã quyết định chọn đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ hậu WTO” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề thực tập này bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề về lý luận và thực tiễn của xuất khẩu hàng hoá và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ở Việt Nam Chương 3: Các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ hậu WTO Chương 1: Những vấn đề về lý luận và thực tiễn của xuất khẩu hàng hoá và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với phát triển kinh tế xã hội Cơ sở lý luận của hoạt động thương mại quốc tế Hoạt động thương mại quốc tế, hay còn gọi là ngoại thương, là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá (hữu hình hay vô hình) và dịch vụ giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu. Mô hình của chủ nghĩa trọng thương Những người thuộc trường phái trọng thương cho rằng: Hoạt động nông nghiệp và công nghiệp không thể là nguồn gốc của mọi của cải (trừ công nghiệp khai thác vàng và bạc), chỉ có hoạt động ngoại thương mới là nguồn gốc thực sự của mọi của cải”. Theo những học giả này thì xuất khẩu là hoạt động quan trọng đối với một quốc gia vì nó kích thích sản xuất trong nước phát triển và tạo ra một khối lượng lớn sản phẩm quốc gia. Ngược lại nhập khẩu là “gánh nặng” đối với một quốc gia vì nó làm giảm của cải của quốc gia. Chủ nghĩa trọng thương đánh giá cao vai trò của tiền, cho rằng tiền mới là tiêu chuẩn căn bản của của cải quốc gia, hàng hoá chỉ là phương tiện để tăng thêm tiền. Từ đó, họ coi những hoạt động nào mang lại tiền tệ cho quốc gia là những hoạt động tích cực (hoạt động ngoại thương), còn hoạt động nào không mang lại lợi ích cho quốc gia là hoạt động tiêu cực. Hạn chế trong lập luận của học thuyết đó là coi vàng bạc như là hình thức của cải duy nhất của quốc gia. Đồng thời học thuyết này cũng không giải thích được cơ cấu hàng hoá trong thương mại quốc tế, chưa thấy được lợi ích của chuyên môn hoá trong việc phân công lao động hợp tác quốc tế. Khả năng ứng dụng: Đối với những nước mà khả năng sản xuất trong nước vượt quá mức cầu tiêu dùng trong nước thì cần thực hiện chính sách xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Đồng thời đối với những nước gặp khó khăn trong việc thanh toán quốc tế cũng nên sử dụng chính sách xuất khẩu để bù đắp những thiếu hụt trong cán cân thanh toán. Học thuyết trọng thương cũng có ý nghĩa đối với những quốc gia chưa có nhu cầu ngoại tệ trong hiện tại thì cũng có thể mong muốn tích luỹ ngoại tệ càng nhiều càng tốt để đề phòng những bất trắc trong tương lai. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith Nội dung: “Nếu một quốc gia chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối thì cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí hiệu quả hơn nước khác” (Bùi Xuân Lưu - Nguyễn Hữu Khải, 2007, tr.26). Quan niệm: A.Smith cho rằng thương mại có thể làm tăng khối lượng sản phẩm và tiêu dùng của toàn thế giới do mỗi nước thực hiện chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng mà quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối. Khả năng ứng dụng: Lợi thế tuyệt đối là cơ sở để các quốc gia xác định hướng chuyên môn hoá và trao đổi buôn bán các mặt hàng. Mô hình này sẽ giải thích các quốc gia có những điều kiện tự nhiên thích hợp để phát triển trồng trọt thì sẽ trồng trọt các loại cây như lúa, cà phê, cao su… thì sẽ xuất khẩu các mặt hàng này, còn những quốc gia có khả năng sản xuất tốt các mặt hàng điện tử, linh phụ kiện thì sẽ xuất khẩu chúng. Theo quan điểm này thì cơ cấu hàng hoá được hình thành. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của những nước có điều kiện tự nhiên thuận lợi chủ yếu gồm những mặt hàng nông sản còn cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của những nước có công nghệ phát triển chủ yếu là những sản phẩm có hàm chứa lượng công nghệ cao. Tuy vậy, lý thuyết này vẫn không giải thích được tại sao có những nước không có lợi thế tuyệt đối về tất cả các mặt hàng. Câu trả lời sẽ có được khi chúng ta xem xét lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo dưới đây. Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo Nội dung: Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng có giá trị thấp hơn một cách tương đối so với quốc gia khác. Nói cách khác, một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất một cách tương đối so với quốc gia khác. Cụ thể, quốc gia A sẽ xuất khẩu sản phẩm X khi và chỉ khi: PXA/PXB < PYA/PYB Trong đó: PXA: chi phí lao động để sản xuất một đơn vị hàng hoá X ở quốc gia A PXB: chi phí lao động để sản xuất một đơn vị hàng hoá X ở quốc gia B PYA: chi phí lao động để sản xuất một đơn vị hàng hoá Y ở quốc gia A PYB: chi phí lao động để sản xuất một đơn vị hàng hoá Y ở quốc gia B Như vậy, quốc gia A sẽ xuất khẩu hàng hoá X và nhập khẩu hàng hoá Y; ngược lại, quốc gia B sẽ nhập khẩu hàng hoá X và xuất khẩu hàng hoá Y. Việc lựa chọn một cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu như trên sẽ đảm bảo hai nước đều có lợi trong hoạt động ngoại thương. Gottfried von Haberler đã vận dụng khái niệm chi phí cơ hội vào giải thích lý thuyết lợi thế so sánh. Theo ông, chi phí cơ hội của hàng hoá X là số lượng hàng hoá Y cần được cắt giảm để sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá X. Trong hai quốc gia, quốc gia nào có chi phí cơ hội của mặt hàng nào thấp hơn thì quốc gia đó có lợi thế so sánh của mặt hàng đó. Xác định lợi thế so sánh dựa trên khái niệm chi phí cơ hội thì ưu việt hơn so với phương pháp của Ricardo vì không phải dựa trên giả định về lao động. Ưu điểm: Mô hình này giải thích nguyên nhân thương mại quốc tế của một quốc gia bất lợi tuyệt đối trong tất cả các mặt hàng và nó đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia trong thương mại quốc tế. Nhược điểm: Mô hình này dự đoán chuyên môn hoá một cách hoàn toàn, tức là chuyên môn hoá về một mặt hàng mà quốc gia mình có lợi thế tương đối. Tuy nhiên trên thực tế, trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của một quốc gia có nhiều mặt hàng chứ không chỉ riêng một loại mặt hàng. Lý thuyết Heckscher – Ohlin Lý thuyết này được xây dựng dựa trên hai khái niệm cơ bản là hàm lượng các yếu tố (factor intensity) và mức độ dạt dào của các yếu tố (factor abundance). Định lý H – O: “Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất của quốc gia đó” (Bùi Xuân Lưu - Nguyễn Hữu Khải, 2007, tr.50) Theo lý thuyết này thì quốc gia A được coi là dồi dào lao động nếu LA/KA > LB/KB Trong đó: LA, KA tương ứng là lao động và vốn của nước A LB, KB tương ứng là lao động và vốn của nước B Khi đó, nước A sẽ xuất khẩu những mặt hàng chế biến sử dụng nhiều lao động; ngược lại nước B sẽ xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều vốn. Cấu trúc cân bằng chung của lý thuyết H – O: Tất cả các yếu tố quyết định giá của hàng hoá cuối cùng Hình 1.1: Cấu trúc cân bằng chung của lý thuyết H – O Mô hình thương mại quốc tế Giá cả sản phẩm so sánh cân bằng nội địa Giá sản phẩm Giá yếu tố sản xuất Cầu về yếu tố sản xuất Cầu về sản phẩm Công nghệ Cung về yếu tố sản xuất Cầu về sản phẩm Thị hiếu Nguồn:Giáo trình kinh tế ngoại thương, 2007 Các nhân tố tác động đến xuất khẩu hàng hoá Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập: Ngày nay, quá trình toàn cầu hoá và khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ với đặc trưng là liên kết chặt chẽ các loại thị trường, thông qua việc cắt giảm tiến đến xoá bỏ rào cản giữa các quốc gia về thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tạo điều kiện cho hàng hoá được giao lưu tự do giữa các nước. Đây cũng là một thuận lợi lớn cho việc xuất khẩu hàng hoá vì hàng hoá khi xuất ra bên ngoài sẽ càng ngày càng được giảm những rào cản về thuế quan và phi thuế quan. Tuy nhiên, khi hội nhập với xu hướng mậu dịch tự do thì điểm bất lợi lớn nhất trong thương mại quốc tế là hàng hoá chịu sức cạnh tranh cao. Hàng hoá không còn chịu các rào cản về thuế nữa mà hàng hoá sẽ bị cạnh tranh về giá sản xuất và chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ: Chính khoa học – công nghệ hiện đại đã giúp cho sẽ giúp cho các quốc gia tiết kiệm được nguyên vật liệu, sản xuất các nguyên liệu thay thế và cho phép tái sử dụng nguyên vật liệu, từ đó góp phần làm giảm chi phí sản xuất, bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá. Trước đây, các nhà kinh tế học cổ điển thường xác định lợi thế so sánh dựa trên những lợi thế về tài nguyên, nguồn lao động, nhưng trong giai đoạn hiện nay, lợi thế cạnh tranh còn phụ thuộc rất lớn vào cơ sở hạ tầng công nghệ và kỹ năng của lao động. Nhờ đó, mà chúng ta nâng cao được năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hợp lý. Tiềm lực của quốc gia: Đây là yếu tố quan trọng trong việc xác định phương hướng xuất khẩu của một quốc gia. Nguồn lực bên trong này của một nền kinh tế gồm nhiều yếu tố: dân số và lao động, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, vị trí địa lý… Nó tạo điều kiện thuận lợi cho một quốc gia xuất khẩu mặt hàng gì, với số lượng bao nhiêu. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với phát triển kinh tế Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế là một bộ phận quan trọng, nó quyết định đến lợi thế của quốc gia trên trường quốc tế. Vì vậy, việc đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế nói chung và đẩy mạnh việc xuất khẩu nói riêng là một mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia. Thực tế đã chứng minh những nước có dự trữ ngoại tệ lớn như Mỹ, Nhật, Singapore, Đài Loan… là những nước có tỷ trọng xuất khẩu lớn nhất trên thế giới. Do vậy, xuất khẩu hàng hoá có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia. Cụ thể: Một là, xuất khẩu để thu ngoại tệ cho quốc gia, cải thiện cán cân thanh toán. Kết quả của hoạt động ngoại thương sẽ được phản ánh trong cân đối thu chi ngoại tệ dưới hình thức “Cán cân thanh toán xuất - nhập khẩu”, kết quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của một nước nên nó tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Do đó, tăng xuất khẩu có thể làm tăng GDP của một nước. Hai là, xuất khẩu hàng hoá tạo điều kiện cho mỗi quốc gia có thể khai thác tối đa lợi thế so sánh của mình. Khi tận dụng các lợi thế so sánh đó, nguồn lực được phân bổ một cách có hiệu quả hơn nên khiến cho sự cạnh tranh của hàng hoá được nâng cao, tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững. Ba là, xuất khẩu hàng hoá tạo ra nguồn vốn chủ yếu để nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên vật liệu khác phục vụ cho việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là con đường tất yếu giúp cho các nước đang phát triển có thể thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn, các nước đang phát triển phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ tiến tiến.Và nguồn vốn phục vụ cho việc nhập khẩu này có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đó là: (1) Xuất khẩu hàng hoá; (2) Vốn đầu tư nước ngoài; (3) Viện trợ, vay nợ… Trong đó thì các nguồn đầu tư nước ngoài hay viện trợ vay nợ là nguồn mà chịu ràng buộc không những về kinh tế mà còn về chính trị và khá bị động, chỉ có nguồn xuất khẩu là nguồn quan trọng nhất là nguồn thu chính để quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Bốn là, xuất khẩu hàng hoá đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đó là: (1) Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do dư cung nội địa (sản xuất trong nước vượt qua nhu cầu nội địa). Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển thì việc sản xuất để phục vụ nhu cầu trong nước còn chưa đủ chứ chưa nói gì đến việc “thừa ra” để xuất khẩu. Do đó, sản xuất khẩu và thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp. (2) Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Theo đó, các nước theo quan điểm này cần coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều này sẽ tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khi đó, xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ như ngành dệt may xuất khẩu phát triển sẽ tạo điều kiện cho ngành sản xuất nguyên liệu như bông, sợi, thuốc nhuộm phát triển… Đồng thời, xuất khẩu sẽ tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ và khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất. Năm là, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Một mặt, khi xuất khẩu tăng mạnh kéo theo đó là sự tăng lên của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu. Đây chính là nơi thu hút một lực lượng lao động không nhỏ với thu nhập khá. Mặt khác, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vậ phẩm tiêu dùng để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Quan trọng hơn, xuất khẩu có tác động trực tiếp đến sản xuất làm tăng quy mô và tốc độ sản xuất, khi đó có sự khôi phục ngành nghề cũ và sự gia tăng thêm ngành nghề mới sẽ thức đẩy quá trình phân công lao động, tăng năng suất lao động và đời sống nhân dân được cải thiện. Sáu là, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Hoạt động kinh tế đối ngoại của một quốc gia bao gồm: (1) hoạt động ngoại thương, đó là hoạt động xuất - nhập khẩu hàng hoá; (2) hoạt động hợp tác: hợp tác đầu tư và hợp tác khoa học - công nghệ; (3) hoạt động dịch vụ: hoạt động vận tải, bảo hiểm, ngân hàng, du lịch… Trong đó, xuất khẩu có sớm hơn các hoạt còn lại nên nó có tác dụng thúc đẩy cho các quan hệ này phát triển. Cơ sở lý luận về cơ cấu xuất khẩu Khái niệm về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Cơ cấu xuất phát từ “Strucere” trong Latinh có nghĩa là xây dựng. Nó phản ánh việc lắp ghép các bộ phận thành một cấu trúc hoàn chỉnh. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về cơ cấu. Tuy nhiên, chúng ta thiên về quan điểm cho rằng cơ cấu là sự tương quan giưa các bộ phận trong tổng thể, nó thể hiện mối quan hệ hữu cơ và tương tác giữa các bộ phận trong tổng thể đó. Dưới góc độ nhìn nhận cơ cấu như vậy chúng ta có thể định nghĩa về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu như sau: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu là sự tương quan giữa các mặt hàng trong tổng thể các mặt hàng xuất khẩu, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các mặt hàng xuất khẩu với nhau. Phân loại một số loại cơ cấu Theo cơ cấu kế hoạch của nhà nước chia ra thành 6 loại cơ cấu sau: ü Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ü Hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp ü Hàng nông sản và nông sản chế biến ü Hàng lâm sản ü Hàng thuỷ sản ü Hàng khác Nếu chia hàng hoá xuất khẩu theo cơ cấu này, chúng ta sẽ biết được vai trò của từng ngành trong nền kinh tế quốc dân đóng góp bao nhiêu phần trăm giá trị hàng hoá phục vụ cho xuất khẩu Theo Danh mục tiêu chuẩn ngoại thương (SITC) mã cấp 1: ü Nhóm 0: Lương thực, thực phẩm và động vật sống ü Nhóm 1: Đồ uống và thuốc lá ü Nhóm 2: Nguyên liệu thô không dùng để ăn trừ nhiên liệu ü Nhóm 3: Nhiên liệu, dầu mỡ nhờn và động vật có liên quan (nhóm này chủ yếu gồm các mặt hàng năng lượng) ü Nhóm 4: Dầu mỡ, chất béo, sáp động, thực vật ü Nhóm 5: Hoá chất và sản phẩm có liên quan ü Nhóm 6: Hàng chế biến phân loại chủ yếu theo nguyên liệu (nhóm này chủ yếu gồm các mặt hàng công nghiệp nhẹ) ü Nhóm 7: Máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng ü Nhóm 8: Hàng chế biến khác (nhóm này chủ yếu gồm các mặt hàng thủ công nghiệp) ü Nhóm 9: Hàng hoá không thuộc những nhóm trên Trong đó, từ nhóm 0 đến nhóm 4 là nhóm hàng thô hay mới so chế; còn từ nhóm 5 đến nhóm 8 thuộc nhóm hàng chế biến hay đã tinh chế. Với sự phân loại cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo phương thức của SITC, chúng ta có thể biết được hàm lượng công nghệ chứa trong từng nhóm sản phẩm là ít hay nhiều. Điều này có ý nghĩa trong việc đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia. Nếu quốc gia đó là nước phát triển thì tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu là hàng chế biến sẽ có tỷ trọng lớn; ngược lại nếu quốc gia đó là nước đang phát triển thì tỷ trọng hàng hoá thô hay mới sơ chế phục vụ cho xuất khẩu sẽ chiếm tỷ trọng lớn. Theo châu lục: ü Châu Á ü Châu Âu ü Châu Mỹ ü Châu Phi ü Châu Đại Dương Nhìn cào cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo thị trường chúng ta có thể biết được thị trường nào là thị trường truyền thống, thị trường nào là thị trường tiềm năng để từ đó có chiến lược phát triển thị trường cho hợp lý, đạt hiệu quả cao. Theo giá trị đóng góp của mặt hàng xuất khẩu: ü Nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực ü Nhóm mặt hàng xuất khẩu quan trọng ü Nhóm mặt hàng xuất khẩu thứ yếu Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu này cũng giúp chúng ta đánh giá được trình độ phát triển của một quốc gia, lợi thế so sánh của quốc gia và trình độ tham gia phân công lao động quốc tế của quốc gia đó. Đồng thời thông qua cơ cấu hàng hoá xuất khẩu này, Nhà nước có được những định hướng đầu tư nhằm tập trung vào mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Vai trò của cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Xác định đúng cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sẽ giúp cho mỗi quốc gia khai thác tối đa nguồn lực và lợi thế của quốc gia đó. Trước đây, khi chưa có một tư duy về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu rõ ràng thì chúng ta chỉ dừng lại ở việc xuất khẩu một cách “mò mẫm” và “bị động”. Tuy nhiên, hiện nay nhận thức rõ được vai trò của cơ cấu hàng hoá xuất khẩu chúng ta đã có được những định hướng rõ nét hơn và từ đó mới có được những chiến lược cho hoạt động thương mại quốc tế. Xác định được cơ cấu hàng xuất khẩu trong dài hạn sẽ giúp chúng ta có những định hướng trong việc phát triển những ngành sản xuất các mặt hàng quan trọng phục vụ cho xuất khẩu. Căn cứ vào cơ cấu hàng xuất khẩu mà chúng ta có thể biết được mặt hàng xuất khẩu nào là chủ lực trong cơ cấu các mặt hàng để từ đó có những chiến lược phát triển các ngành chủ lực để xuất khẩu đạt hiệu quả cao nhất. Từ đó, có thể có được những chiến lược khai thác tối đa nguồn lực trong và ngoài nước. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sẽ giúp cho việc nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật của quốc gia. Để phát triển được mặt hàng chủ lực cần nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật, nhờ đó mà chất lượng sản phẩm được nâng cao, giá thành sản phẩm giảm và có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm khác trên thị trường quốc tế. Thực tế cho thấy cơ cấu kinh tế là yếu tố quyết định cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Tuy nhiên, chính cơ cấu hàng hoá xuất khẩu lại góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách nhanh chóng và có hiệu quả vì cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sẽ giúp nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật, mà đây là yếu tố quan trọng và cần thiết để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sẽ giúp cho mỗi quốc gia có thể có những định hướng trong việc marketing sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế. Khi mỗi quốc gia xác định được một cơ cấu hàng hoá xuất khẩu hợp lý cho mình thì cũng chính là lúc quốc gia đó cần xác định một chính sách chủ động tổ chức thị trường xuất khẩu và thực hiện các chhính sách khuyến khích xuất khẩu nhằm phát triển các mặt hàng chủ lực xuất khẩu của quốc gia. Cơ sở lý luận của việc chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Một số mô hình lý thuyết và thực tiễn về việc chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Mô hình đàn nhạn bay của Kaname Akamatsu Mô hình này được một giáo sư Nhật Bản là Kaname Akamatsu đưa ra vào năm 1932, nhằm phát triển nền kinh tế Nhật Bản lúc bấy giờ là một nước đang phát triển. Nội dung: Các nước đang phát triển có thể đuổi kịp các nước phát triển và quá trình đuổi kịp đó được chia làm 4 giai đoạn: Giai đoạn 1: Các nước đang phát triển nhập hàng hoá công nghiệp chế biến của các nước phát triển và xuất khẩu sản phẩm thủ công đặc biệt. Giai đoạn 2: Các nước đang phát triển nhập sản phẩm đầu tư từ các nước phát triển để phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng trong nước (đây là hàng hoá phải nhập khẩu ở giai đoạn 1). Công nghiệp hàng tiêu dùng sẽ phát triển mạnh trong giai đoạn này và thay thế sản phẩm nhập khẩu. Giai đoạn 3: Các nước đang phát triển có thể tự sản xuất các sản phẩm đầu tư để mở rộng sản xuất khi công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng đã phát triển. Và đây là giai đoạn các nước này xuất khẩu sản phẩm trong ngành công nghiệp tiêu dùng. Giai đoạn 4: Các nước này đã có thể đạt ngang bằng trình độ khoa học - kỹ thuật và công nghệ với những nước phát triển. Khi đó, các nước này sẽ giảm xuất khẩu sản phẩm trong công nghiệp tiêu dùng và xuất khẩu hàng hoá đầu tư. Đây là giai đoạn cho phép các nước này có thể chuyển giao một số ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng sang các nước kém phát triển hơn. Mô hình này đã được áp dụng khá thành công ở Nhật Bản, các nước NICs, Trung Quốc và ASEAN. Theo đánh giá, Việt Nam đang ở giai đoạn 1 và 2 của mô hình. Từ lý thuyết của mô hình và sự thành công của mô hình ở các nước nói trên chúng ta tin tưởng ở sự thành công của Việt Nam, chỉ có điều chúng ta cần chuẩn bị các điều kiện để thực hiện việc chuyển giai đoạn. Mô hình vòng đời sản phẩm Chu kỳ sống của sản phẩm được chia thành 5 giai đoạn: Giai đoạn 1: Sản phẩm được giới thiệu T0 – T1 Giai đoạn 2: Sản phẩm được xuất khẩu với chi phí cao do có lợi thế so sánh hơn các quốc gia khác T1 – T2 Giai đoạn 3: Nước phát minh sản phẩm ban đầu giảm sức cạnh tranh so với trước đây do công nghệ được tiêu chuẩn hoá và phát triển rộng rãi T2 – T3 Giai đoạn 4: Sản phẩm chín muồi và mất dần lợi thế so sánh T3 – T4 Giai đoạn 5: Các nước trước kia xuất khẩu thì giờ nhập khẩu lại các sản phẩm của các nước đi sau và chuyển giao công nghệ cho các nước đi sau. Hình 1.2: Vòng đời sản phẩm và thương mại quốc tế T1 T2 T3 T4 Nước phát minh Các nước kém phát triển Các nước phát triển khác XK-NK T0 Nguồn:Giáo trình kinh tế ngoại thương, 2007 Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô Nội dung: Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô là chiến lược dựa chủ yếu vào việc sử dụng rộng rãi các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có và các điều kiện thuận lợi của đất nước để tạo ra được những mặt hành xuất khẩu chủ yếu là nông sản và sản phẩm khai thác. Điều kiện áp dụng chiến lược: Chiến lược này được áp dụng đối với hầu hết các quốc gia có tài nguyên thiên nhiên phong phú: đất, nước, khí hậu, khoáng sản… và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá với trình độ sản xuất còn thấp và khả năng tích luỹ vốn còn hạn chế. Tác dụng của chiến lược này: Đối với những nước đang phát triển thì việc áp dụng chiến lược này sẽ phát huy được tiềm năng của đất nước, tạo thêm công ăn việc làm, tận dụng được ưu thế lao động quốc gia và tạo ra được nguồn vốn ban đầu phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, khi áp dụng chiến lược này cũng có một số cản trở: Cung sản phẩm thô thường không ổn định vì phụ thuộc nhiều vào thời tiết, hơn nữa tính chất của người nông dân sản xuất ra sản phẩm thô thường tự phát gây ra xáo trộn trong việc cung cấp sản phẩm. Cầu sản phẩm thô thường có xu thế giảm vì: (a) Dựa trên Quy luật Tiêu dùng sản phẩm của Anghen, khi thu nhập tăng lên thì cầu sản phẩm thô giảm xuống. Hệ số trao đổi hàng hoá phản ánh sức mua của hàng hoá xuất khẩu có xu hướng giảm nhanh. Điều này gây đến sự bất lợi cho các nước sản xuất sản phẩm thô trong quan hệ thương mại. Do cầu sản phẩm thô ít co giãn nên mỗi sự thay đổi của cung sản phầm thô có tác động rất lớn đến sự thay đổi thu nhập của các nước xuất khẩu sản phẩm thô. Vì vậy, chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô thường được áp dụng ở các nước đang phát triển, ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá cần rất nhiều vốn đầu tư trong khi trình độ sản xuất lại hạn chế. Tuy nhiên, do những hạn chế nêu trên, các quốc gia cần nhanh chóng chuyển sang chiến lược tiếp theo khi đã tranh thủ thu hút được nguồn vồn nhất định và công nghệ đạt được trình độ tiên tiến nhất định. Chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu Nội dung của chiến lược: Khuyến khích các nhà sản xuất trong nước hướng vào sản xuất các ngành hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước, trước hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các ngành công nghiệp khác nhằm sản xuất hàng nội địa thay thế sản phẩm nhập khẩu. Điều kiện thực hiện chiến lược: ü Thị trường đủ lớn vì chiến lược này chỉ có thể phát huy được ở những nước có dân số đông. ü Các ngành công nghiệp trong nước phải làm chủ được công nghệ sản xuất. ü Phải có sự bảo hộ hữu hiệu từ phía Chính phủ bằng các biện pháp bảo hộ: thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp, trợ giá, bù lỗ cho các nhà sản xuất. Ưu điểm của chiến lược: ü Áp dụng chiến lược này các doanh nghiệp trong nước sẽ tránh được cuộc cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp nước ngoài, được nhà nước tạo điều kiện để hỗ trợ sản xuất. ü Mở rộng phân công lao động trong nước, giải quyết công ăn việc làm. ü Nền kinh tế trong nước tránh được những ảnh hưởng xấu từ thị trường thế giới. Nhược điểm của chiến lược: ü Chiến lược này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Do có những biện pháp bảo hộ bằng thuế quan và phi thuế quan, các doanh nghiệp không năng động và thiếu cơ hội tìm kiếm ưu thế cạnh tranh quốc tế. Vì vậy, giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp, ảnh hưởng đến tiềm năng phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. ü Thực hiện chiến lược này làm nảy sinh nhiều tiêu cực, bảo hộ bằng thuế sẽ dẫn đến tình trạng trốn thuế, lậu thuế, hối lộ các cán bộ thuế. ü Chiến lược này cũng hạn chế xu hướng công nghiệp hoá của đất nước.. Chiến lược này thường được bắt đầu từ công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó tạo thị trường cho phát triển sản xuất các sản phẩm trung gian. Tuy nhiên, thị trường trong nước đối với các sản phẩm trung gian như: luyện kim, hoá chất thường nhỏ hơn thị trường tiêu dùng nên ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng trung gian do đó nhà nước phải bảo hộ cho lĩnh vực này. Khi đó, làm tăng giá đầu vào đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Để có được lợi nhuận, các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng vẫn phải phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, dẫn đến các ngành sản xuất nguyên liệu trong nước không phát triển được. ü Cán cân thương mại ngày càng thiếu hụt. Điều này là một trở ngại cho việc mở cửa với bên ngoài và phát triển kinh tế. Chiến lược hướng về xuất khẩu (chiến lược hướng ngoại) Nội dung của chiến lược: khuyến khích sản xuất trong nước phát triển những hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường bên ngoài, trước hết là các sản phẩm tiêu dùng. Đây là chiến lược ngược lại với chiến lược thay thế hàng nhập khẩu. Với chiến lược này thị trường hoà nhập với thị trường quốc tế. Điều kiện áp dụng chiến lược: ü Dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm đưa thị trường trong nước xích gần với thị trường quốc tế. ü Nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước nhằm mục tiêu xuất khẩu. ü Tuy nhiên, Chính phủ cũng vẫn cần phải có những chính sách về tài chính tiền tệ và các chính sách tỷ giá hối đoái và các chiến lược để áp dụng đối với nhiều loại sản phẩm khác nhau. Ưu điểm của chiến lược: ü Nhờ áp dụng chiến lược này mà nhiều nước trong vài ba thập kỷ qua đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, một số ngành công nghiệp chủ yếu là công nghiệp chế biến xuất khẩu đã đạt được trình độ tiên tiến, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. ü Tận dụng được những lợi thế của thị trường thế giới về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ những nước tiên tiến. Nhược điểm của chiến lược: ü Mất cân đối giữa những ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu và không sản xuất sản phẩm xuất khẩu. ü Nền kinh tế phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường quốc tế và dễ bị tác động bởi sự thăng trầm của những nước lớn. Nhận thức được các điểm yếu này, một số nước đang tìm tòi, lựa chọn chiến lược phù hợp với giai đoạn phát triển của mình. Nhiều nước đang phát triển lúc đầu lựa chọn chiến lược “sản xuất thay thế nhập khẩu”, rồi đến giai đoạn nào đó chuyển sang chiến lược “sản xuất hướng về xuất khẩu”. Trong những giai đoạn nhất định có những nước trong cùng một thời gian thực hiện dung hoà được cả hai chiến lược này. Tuy nhiên, khó có thể rút ra nguyên tắc chung cho việc áp dụng những chiến lược nào, trong giai đoạn nào và thời gian bao lâu. Điều quan trọng nhất là xây dựng chiến lược dựa trên các yếu tố có thể phát huy được. Dù có thể là sự pha trộn của chiến lược thay thế hàng nhập khẩu hay chiến lược hướng về xuất khẩu cũng không quan trọng nếu chiến lược đó đưa đất nước phát triển lên và thực hiện được các mục tiêu của mình. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Các nhân tố trong nước Hình 1.3: Các nhân tố trong nước ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Nước Khí hậu Đất Biển Sinh vật Khoáng sản Dân số & lao động Vốn Chính sách Thị trường Khoa học và kỹ thuật Các nhân tố trong nước ._.Vị trí địa lý Điều kiện tự nhiên Điều kiện kinh tế - xã hội Nguồn: Tổng hợp của tác giả Vị trí địa lý: đây là yếu tố tạo nên thuận lợi hay gây ra khó khăn đối với hoạt động trao đổi thương mại giữa các quốc gia với nhau. Rõ ràng chi phí vận chuyển là một chi phí khá lớn và luôn được tính đến trong các hoạt động giao dịch buôn bán. Một quốc gia nằm ở khu vực trung tâm của châu lục, giao thông đường biển, đường bộ, đường hàng không dễ dàng sẽ thuận tiện cho việc giao lưu buôn bán với các quốc gia khác, thúc đẩy thương mại quốc tế trong đó có xuất khẩu. Đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nhiều hơn. Yếu tố vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng hoá. Điều kiện tự nhiên:Yếu tố về điều kiện tự nhiên này gắn chặt với việc hình thành và phát triển cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Đối với một nước đang phát triển trong khi đó có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển nông nghiệp thì cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của quốc gia đó gồm chủ yếu là các sản phẩm thô, hay sơ chế như lúa gạo, cà phê, cao su hay thuỷ sản. Yếu tố về kinh tế - xã hội: Đây là yếu tố quyết định đến sự hình thành và chuyển dịch của cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Những quốc gia có lợi thế so sánh về nguồn lao động nhưng lại không có lợi thế về vốn và công nghệ so với các quốc gia khác thì khi sản xuất hàng hoá xuất khẩu sẽ có thiên hướng phát triển những ngành nghề mà tận dụng được nguồn lao động ít kỹ năng, rẻ và dồi dào, trong khi đó lại không cần phải có nhiều vốn hay yêu cầu cao về khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Khi đó, hàng hoá trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của các quốc gia đó là các sản phẩm của ngành may mặc, giày dép hay các sản phẩm lắp ráp điện tử… Ngược lại, đối với những quốc gia có lợi thế so sánh về vốn và công nghệ sẽ ưu tiên phát triển những mặt hàng chế biến và chế biến sâu. Do vậy, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của các quốc gia đó bao gồm các sản phẩm: xăng dầu, linh kiện, phụ kiện… Bên cạnh đó, chính sách của nhà nước cũng góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch. Khi một quốc gia đã định hướng được việc cơ cấu xuất khẩu cũng như quá trình chuyển dịch của mình trong dài hạn, Chính phủ của quốc gia đó sẽ có những chính sách ưu tiên phát triển và các chương trình đầu tư phát triển nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. 1.3.2.2. Các nhân tố bên ngoài Thị trường thế giới: Xét cho cùng chúng ta sản xuất rồi xuất khẩu là để phục vụ thị trường thế giới. Chính vì vậy cần phải đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới mới có khả năng thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu, đem ngoại tệ về trong nước. Do đó, việc thay đổi trong thói quen tiêu dùng của các công dân toàn cầu có ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của mỗi quốc gia. Ví dụ, xu hướng hiện nay, tỷ lệ thu nhập của người dân ở các nước phát triển dành cho hàng hoá thiết yếu có xu hướng giảm mạnh, mà thay vào đó, họ chi tiêu nhiều hơn cho hàng hoá xa xỉ hay để hưởng các dịch vụ như du lịch, ngân hàng, bảo hiểm… Vì vậy, các quốc gia có các mặt hàng thô và hàng sơ chế chiếm chủ yếu trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của mình nên có xu hướng chuyển dịch cho phù hợp với xu hướng thế giới vì các sản phẩm thô và sơ chế không những chứa hàm lượng giá trị thấp mà cầu tiêu dùng của chúng ngày càng giảm. Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập: Hiện nay xu thế hội nhập diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ, chúng ta cần làm quen dần với việc thị trường là thị trường thế giới, cạnh tranh cũng là cnạh tranh quốc tế. Do đó, để tăng khả năng cạnh tranh ở trong nước thì cần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu nhanh chóng. Yếu tố khoa học – công nghệ: Với sự phát triển khoa học – công nghệ hiện nay cho phép những nước đi sau tiếp thu thành quả của những nước đi trước, sử dụng công nghệ đó để thực hiện chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của mình. Khoa học – công nghệ là yếu tố quan trọng giúp chúng ta nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu từ những hàng thủ công và sơ chế sang những hàng hoá có chất lượng cao và chứa nhiều giá trị gia tăng. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO từ tháng 1 – 1995. Và đến ngày 11/1/2007, chúng ta mới chính thức nhận tấm thẻ thành viên của WTO. Đây là một cuộc đàm phán thương mại dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Nếu như để gia nhập vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN, chúng ta chúng ta chỉ mất khoảng 2 năm đàm phán, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ chúng ta mất khoảng 4 năm đàm phán thì để gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO chúng ta phải mất 11 năm. Sau 11 năm, chúng ta đã trải qua 14 phiên đàm phán đa phương, hơn 100 cuộc đàm phán song phương với sự tham gia của tất cả các bộ, ngành kinh tế, bộ, ngành tổng hợp, Văn phòng quốc hội, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, trả lời trên 2000 câu hỏi của các thành viên Ban công tác WTO về chính sách kinh tế thương mại của Việt Nam. Cùng với đó là việc xây dựng các chương trình hành động của Việt Nam để đảm bảo khi gia nhập WTO có thể thực hiện các cam kết của mình như: Chương trình xây dựng pháp luật, Chương trình thực hiện Hiệp định trị giá Hải quan (CVA), Chương trình thực hiện Hiệp định về các rào cản Kỹ thuật (TBT), Chương trình thực hiện về đầu tư (Trims), Chương trình thực hiện Hiệp định về sở hữu trí tuệ (Trips), Chương trình thực hiện Hiệp định về kiểm dịch động thực vật (SPS), Chương trình thực hiện Hiệp định kiểm tra trước khi xếp hàng (PSI), Thủ tục cấp phép nhập khẩu (ILP), Quy tắc xuất xứ “ROO”… Như vậy, tiến trình đàm phán để trở thành thành viên chính thức của WTO rất khó khăn, tuy nhiên gia nhập WTO sẽ đem lại những thuận lợi to lớn cũng như những thách thức lớn lao đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia. Vì vậy, cần phải hiểu rõ cơ hội cũng như những thách thức mà WTO đem lại để chủ động nắm bắt cơ hội và ứng phó kịp thời với những thách thức. Tác động của WTO đối với sự chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam Tác động tích cực: Gia nhập WTO, chúng ta có được thị trường xuất khẩu rộng lớn gồm 150 thành viên với mức cam kết về thuế nhập khẩu đã và sẽ được cắt giảm cùng với các biện pháp phi thuế quan cũng sẽ được loại bỏ theo nghị định thư gia nhập của các thành viên mà không bị phân biệt đối xử. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu của chúng ta được hưởng ưu đãi và đối xử công bằng hơn. Khi chúng ta có những tranh chấp trong thương mại quốc tế như: vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp tôm, cá tra, cá ba sa, xe đạp, giày dép… chúng ta được quyền đưa ra WTO để được giải quyết công bằng hơn. Trong thực tế, Braxin đã thắng kiện Hoa Kỳ trong vụ trợ cấp bông nhờ vào phán quyết của WTO. Gia nhập WTO sẽ có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cùng với đó là sự chuyển giao công nghệ từ những nước tiên tiến sang Việt Nam góp phần chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nhanh chóng. Để thực hiện tốt các cam kết với WTO, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải nâng cao chất lượng sản phẩm chế biến của mình bằng cách nâng cao hàm lượng giá trị trong các sản phẩm chế biến để từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Tác động tiêu cực: WTO đã đề ra các luật lệ điều chỉnh hệ thống thương mại quốc tế mà khi tham gia các nước phải triệt để tuân thủ trong đó có Việt Nam. Đó là những luật lệ đòi hỏi chúng ta phải thay đổi luật pháp và chính sách của mình thậm chí đôi khi còn phải sửa đổi hoặc bổ sung luật pháp cho phù hợp với các hiệp định về thuế quan, nông nghiệp, công nghiệp, đầu tư; hiệp định về rào cản thương mại, thủ tục cấp phép nhập khẩu, kiểm dịch động thực vật… theo yêu cầu của WTO. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu của ta có thể gặp lúng túng trước những thay đổi về cơ chế, chính sách hay những điều kiện ràng buộc. Gia nhập WTO, chúng ta sẽ xoá bỏ cơ chế “xin – cho”, chuyển cơ chế điều hành xuất nhập khẩu trực tiếp bằng cấp phép, định lượng sang cơ chế điều hành gián tiếp bằng luật, tiêu chuẩn kỹ thuật cho phù hợp với thông lệ thương mại quốc tế. Điều này sẽ gây ra những tác động ngược nếu chúng ta không hình thành một cơ chế chuyển đổi cho phù hợp. Chúng ta sẽ bị giảm nguồn thu từ thuế nhập khẩu và thay vào đó chúng ta sẽ phải tăng nguồn thu từ giá trị kim ngạch xuất khẩu. Điều này sẽ gây sức ép cho quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu trong điều kiện Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu hàng hoá xuất khẩu nói riêng chỉ diễn ra khi có 3 yếu tố sau: ü Có sự thay đổi lớn về điều kiện phát triển: Trong giai đoạn hiện nay, việc Việt Nam ra nhập WTO là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến khả năng phát triển của đất nước. Điều này tạo ra những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam. Trong quá trình phát triển của một quốc gia có sự thay đổi đó là có những lợi thế so sánh mất đi như tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, đồng thời cũng có những lợi thế khác xuất hiện. Do đó, những lợi thế này có thể thúc đẩy quá trình chuyển dịch diễn ra nhanh chóng. ü Có những phương pháp mới làm thay đổi cách thức sản xuất như việc ứng dụng khoa học kỹ thuật có thể giúp con người khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, nâng cao giá trị sản phẩm sản xuất ra. Điều này giúp cho các nước đi sau có thể tận dụng lợi thế đi sau để ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ. ü Cơ cấu cũ đã xuất hiện những trở ngại cản trở sự phát triển chung của các bộ phận khác, do đó cần phải thay đổi cơ cấu để phù hợp với điều kiện mới. Đối với một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ là phổ biến, để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu và tăng giá trị gia tăng của các hàng hoá đó, chúng ta không thể trông chờ vào việc “thu gom” những của cải mà tự nhiên ban tặng, cũng như không thể trông chờ vào việc mua những sản phẩm thừa nhưng không ổn định của thế giới, hay bằng lòng với năng lực sản xuất hiện có của quốc gia. Để cải thiện tình hình đó, chúng ta cần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Bởi việc chuyển dịch này đem lại những giá trị to lớn sau: Chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sẽ giúp chúng ta có tăng số lượng mặt hàng xuất khẩu đồng thời tăng giá trị của những mặt hàng đó. Chúng ta sẽ sản xuất ra những mặt hàng mà thị trường cần, thế giới cần chứ không phải là những mặt hàng chúng ta có khả năng sản xuất. Do đó sẽ làm tăng giá trị của các mặt hàng xuất khẩu, đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho quốc gia, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Khi chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, nhà nước sẽ định hướng được việc đầu tư cho phát triển sản xuất một cách đúng hướng, tạo ra những mặt hàng chủ lực phục vụ cho xuất khẩu. Việc đầu tư đúng hướng này sẽ đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất, tránh lãng phí. Quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu cũng giúp chúng ta định hướng việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong việc sản xuất các mặt hàng xuất khẩu theo đúng định hướng. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Kinh nghiệm của các nước Kinh nghiệm đầu tiên phải kể đến là sự thành công của nước Nhật trong việc áp dụng mô hình “Đàn nhạn bay”. Theo đó, quá trình phát triển của đế quốc Nhật Bản được tiến hành theo 3 giai đoạn: Nhập khẩu sản phẩm mới, thay thế nhập khẩu và xuất khẩu. Và thực tế đã chứng minh các sự thành công của Nhật Bản trong việc áp dụng mô hình này. Tiếp theo Nhật Bản các nước Đông Á trong đó nổi bật là Trung Quốc cũng có áp dụng mô hình này. Theo đó, sự phát triển kinh tế Đông Á cũng được chia làm 3 thời kỳ khác nhau dựa trên sự phát triển của khoa học công nghệ đó là dựa trên cơ sở sức lao động, dựa trên cơ sở vốn tư bản và dựa trên cơ sở phát triển khoa học tri thức. Dựa trên kinh nghiệm của những nước đi trước, chúng ta thấy mô hình “Đàn nhạn bay” đã chứng tỏ công nghiệp hoá cần được bắt đầu từ các ngành công nghiệp dựa trên sức lao động trước khi tiến hành các ngành công nghiệp hiện đại khác. Mô hình này nhấn mạnh tầm quan trọng của xu hướng mở rộng xuất khẩu. Các nước Đông Á đều thực hiện theo các bước phát triển của mô hình và thành công. Nhật Bản được coi là con chim đầu đàn và đặt ở tầng nấc đầu tiên, tiếp theo là kinh tế công nghiệp mới Đông Á – EANIE8 và cuối cùng là các nước công nghiệp mới ASEAN – 4. Điều này hứa hẹn sự thành công của Việt Nam trong việc ứng dụng mô hình. Để minh hoạ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, chúng ta xem xét quá trình chuyển dịch của 4 nước NICs ở châu Á (Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore). Năm 1960, tỷ trọng xuất khẩu hàng lương thực - thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, nguyên liệu và khoáng sản ở 4 nước này chiếm 85,9% tổng kim ngạch xuất khẩu; còn lại 14,1% tổng kim ngạch xuất khẩu chủ yếu gồm sản phẩm công nghiệp chế biến. Năm 1966, tỷ trọng đó tương ứng là 78,5% và 21,5%. 12 năm sau, năm 1978, 4 quốc gia này trở thành 4 nước công nghiệp mới thì cơ cấu hàng xuất khẩu của họ như sau: Tỷ trọng hàng xuất khẩu là lương thực - thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, nguyên nhiên liệu và khoáng sản chỉ còn chiếm 18,75 tổng kim ngạch xuất khẩu. Tỷ trọng hàng xuất khẩu là sản phẩm công nghiệp chế biến chiếm 52,9%. Tỷ trọng hàng xuất khẩu là sản phẩm hoá chất, máy móc thiết bị và phương tiện vận tải chiếm 28,4%. Quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của 4 nước trong vòng 30 năm trở lại đây được thể hiện cụ thể dưới bảng sau: Bảng 1.1: Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm hàng hoá nhóm 1 Nhóm 1: Sản phẩm lương thực, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, nguyên nhiên vật liệu thô và khoáng sản của 4 nước NICs ở khu vực châu Á: Đơn vị tính: % Năm 1976 Năm 1980 Năm 1985 Năm 1990 Năm 1995 Hàn Quốc 11,9 9,5 8,3 5,9 8,0 Đài Loan 14,8 11,4 9,3 7,3 6,2 Hồng Kông 2,1 2,1 2,9 1,3 1,0 Singapore 45,8 45,4 37,3 25,7 22,0 Nguồn: ASIA Economic Outlook 1995; Kinh tế NICs Đông Á, NXB Thống kê 1992 Bảng 1.2: Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm hàng hoá nhóm 2 Nhóm 2: Sản phẩm chế biến của 4 nước NICs ở khu vực châu Á : Đơn vị tính: % Năm 1976 Năm 1980 Năm 1985 Năm 1990 Năm 1995 Hàn Quốc 68,3 65,7 50,9 50,7 48,0 Hồng Kông 64,1 53,5 38,9 23,7 22,0 Đài Loan 62,0 61,4 60,3 54,0 53,0 Singapore 17,3 17,2 17,0 17,0 17,0 Nguồn: ASIA Economic Outlook 1995; Kinh tế NICs Đông Á, NXB Thống kê 1992 Bảng 1.3: Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm hàng hoá nhóm 3 Nhóm 3: Sản phẩm hoá chât, máy móc thiết bị và phương tiện vận tải của 4 nước NICs ở khu vực châu Á: Đơn vị tính: % Năm 1976 Năm 1980 Năm 1985 Năm 1990 Năm 1995 Hàn Quốc 19,8 24,8 40,8 43,4 44,0 Hồng Kông 33,8 44,4 58,2 75,0 77,0 Đài Loan 23,1 27,2 30,4 38,7 40,8 Singapore 36,9 37,4 45,7 57,3 61,0 Nguồn: ASIA Economic Outlook 1995; Kinh tế NICs Đông Á, NXB Thống kê 1992 Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ở các nước này có xu hướng như sau: Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm nhóm 1 giảm; tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến cũng tiếp tục giảm; tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm hoá chất, máy móc thiết bị và phương tiện vận tải thì liên tục tăng. Từ thực tế của 4 nước trên, chúng ta có thể rút ra kết luận sau: Đối với các nước chậm phát triển, có thu nhập thấp thì tỷ trọng xuất khẩu nhóm 1 chiếm rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu, trong khi đó, tỷ trọng của 2 nhóm sau hầu như không đáng kể. Chính vì vậy, các nước đang phát triển đang cố gắng giảm tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá nhóm đầu và nâng tỷ trọng của nhóm thứ 2 và 3. Còn đối với các nước công nghiệp, tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm nhóm thứ 3 có xu hướng liên tục tăng và cao hơn mức trung bình của thế giới. Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ở Việt Nam Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1990 – 2007 Những kết quả chủ yếu Tổng kim ngạch xuất khẩu Trong các chỉ số kinh tế vĩ mô, xuất khẩu có lẽ là chỉ số gây ấn tượng nhất về tốc độ tăng trưởng. Mức tăng gấp hơn 20 lần trong vòng gần 2 thập kỷ Từ mức 2,4 tỷ USD năm 1990 lên đến 48,56 tỷ USD năm 2007 (Tổng cục Thống kê, 2007) thực sự đã gây nhiều ngạc nhiên cho bạn bè quốc tế. Kết quả cụ thể như sau: Biều đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá qua các năm (tỷ USD) Nguồn: Tổng cục Thống kê 2007 Như vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2007 tăng gấp 20,20 lần năm 1990, gấp 8,91 lần năm 1995, gấp 3,35 lần năm 2000. Quy mô xuất khẩu bình quân một tháng đạt mức gần 4,05 tỷ USD/tháng, xấp xỉ đạt tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 1994, và cao hơn mức cả năm của các năm từ 1993 trở về trước. Tính đến năm 2007 thì quy mô xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam đứng thứ 5/11 nước trong khu vực Đông Nam Á; đứng thứ 15/44 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á; đứng thứ 38/165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có số liệu so sánh, cao hơn thứ bậc của các năm trước Năm 2006, Tổng kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam đứng thứ 6/11 nước trong khu vực Đông Nam Á; đứng thứ 16/44 nước và vùng lãnh thổ châu Á; đứng thứ 39/165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có số liệu so sánh (Ngọc Dương – Anh Phương, 2007, tr.14). và thứ bậc tương ứng về GDP. Xuất khẩu nước ta trong hơn 2 thập kỷ nay (từ khi đất nước đổi mới, thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế năm 1986) có những bước thăng trầm nhất định. Trong thời kỳ trước năm 1988, Việt Nam chưa xuất khẩu dầu thô và xuất khẩu gạo chưa đáng kể nên tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta chưa bao giờ đạt đến 1 tỷ USD. Từ năm 1989 trở đi, chúng ta đã xuất khẩu dầu thô và xuất khẩu gạo với số lượng lớn nên từ khi đó, tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta đã tăng với những bước tăng nhanh chậm khác nhau. Trong giai đoạn từ năm 1990 – 1997, thì tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta tăng nhanh nhất vào năm 1994 đó là do Mỹ từ bỏ lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam. Năm 1994 đã đánh dấu một bước đột phá trong việc xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ Năm 1993, xuất khẩu Việt Nam sang thị trường châu Mỹ là 41,7 tỷ USD; năm 1994, xuất khẩu Việt Nam sang thị trường châu Mỹ là 139,8 tỷ USD (Tổng cục thống kê 2005) . Năm đầu tiên của giai đoạn từ năm 1998 – 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta không cao là do những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997. Nếu như tổng kim ngạch xuất khẩu của năm 1997 là 9185.0 tỷ USD thì tổng kim ngạch xuất khẩu của năm 1998 mới chỉ đạt được 9360.3 tỷ USD. Ngày 28 - 11- 2001, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá X, Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã chính thức được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn, Hiệp định này đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại giữa hai nước. Từ năm 2002 trở đi, xuất khẩu Việt Nam vào thị trường châu Mỹ tăng mạnh, góp phần tăng vào tổng kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Tỷ lệ kim ngạch hàng hoá xuất khẩu so với GDP Tỷ lệ kim ngạch hàng hoá so với GDP tăng gần như liên tục qua các năm. Đây là một dấu hiệu tốt chứng tỏ xuất khẩu đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế nói chung. Kết quả cụ thể được thể hiện ở biểu đồ dưới đây: Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ xuất khẩu hàng hoá so với GDP qua các năm (%) Nguồn: Tổng cục thống kê 2007 Thông qua biểu đồ trên ta thấy được tỷ lệ xuất khẩu hàng hoá so với GDP cao hơn so với tỷ lệ trung bình 22% của thế giới. Năm 2007, Việt Nam đứng thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á (sau Singapore 169%, Malaysia 107%, Brunei 99%, Thái Lan 91% và cao hơn Philippines 45,9%, Indonesia 27,6%...); đứng thứ 6 ở châu Á (thêm Hồng Kông 159%) và đứng thứ 7 trên thế giới (thêm Bỉ 88%). Kim ngạch xuất khẩu bình quân trên đầu người: Kim ngạch xuất khẩu bình quân trên đầu người cũng liên tục tăng qua các năm, thể hiện dưới biểu đồ sau: Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân theo đầu người qua các năm (triệu USD/người) Nguồn: Tổng cục thống kê 2007 Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đầu năm 2007 đã cao nhất từ trước đến nay, cao gấp 15,6 lần năm 1990; cao gấp 7,5 lần năm 1995; gấp hơn 3 lần năm 2000 và gấp gần 1,5 lần năm 2005. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2007 của Việt Nam cũng đứng thứ bậc cao hơn thứ bậc GDP (thứ 5 khu vực, thứ 24 châu Á và thứ 90 thế giới). Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu khá lớn thường gồm 2 chữ số. Tuy nhiên, do những phân tích về những tác động đối với xuất khẩu của Việt Nam trong phần tổng kim ngạch xuất khẩu, chúng ta thấy tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cũng có những chiều hướng theo giai đoạn như sau: Biểu đồ 2.4: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu qua các năm (%) Nguồn: Tổng cục Thống kê 2007 Các con số trên thể hiện xuất khẩu là định hướng và là động lực của tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu không đồng đều qua các năm. Trong đó, năm 1995 có tốc độ tăng trưởng cao nhất, tiếp theo là năm 2004. Trong đó, tốc độ tăng trưởng năm 2001 thấp nhất. Những tồn tại Quy mô xuất khẩu của nước ta còn khá nhỏ so với nhiều nước trong khu vực (tương đương với kim ngạch xuất khẩu bình quân của 4 con rồng châu Á: Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore vào những năm cuối của thập kỷ 80 của thế kỷ trước, tức là chúng ta đi sau họ khoảng 20 năm). Từ đó, dẫn đến giá trị xuất khẩu bình quân tính theo đầu người còn thấp, tương đương với Philipin, Indonexia, Thái Lan vào khoảng những năm 90. Xuất khẩu nước ta tăng trưởng chưa thực sự vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi những cú sốc từ bên ngoài như: biến động giá cả trên thị trường thế giới hoặc sự xuất hiện của những rào cản thương mại mới của nước ngoài hay những ý định chủ quan của khách hàng. Một ví dụ điển hình là đối với sản phẩm dệt may năm nào chúng ta không ký được quota thì năm đó kim ngạch xuất khẩu của chúng ta tăng lên và ngược lại. Hay đối với dầu thô cũng vậy, tuy sản lượng tăng tương đối đều nhưng giá cả lại phụ thộc vào thị trường thế giới nên kim ngạch xuất khẩu cũng không ổn định. Do đó, không thể tạo nên sự tăng trưởng vượt bậc và bền vững của kim ngạch xuất khẩu. Tuy chủng loại hàng hoá đã đa dạng hơn nhưng nhìn chung thì vẫn còn nhiều mặt hàng đơn điệu, vẫn còn dựa chủ yếu vào một số mặt hàng chủ lực. Do đó, dẫn đến tình trạng tổng kim ngạch xuất khẩu có nguy cơ tăng trưởng chậm dần. Sức cạnh tranh của mặt hàng xuất khẩu còn thấp: Hàng hoá nước ta chất lượng còn chưa cao nên giá cả thấp hon nhiều so với sản phẩm cùng loại của các nước khác trên thế giới. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và Thái Lan là một ví dụ, giá gạo Thái Lan thường cao hơn giá gạo của Việt Nam từ 10 – 15%. Hơn nữa, nhiều hàng hoá của chúng ta còn chưa đạt chất lượng quốc tế nên chưa thể gia nhập vào một số thị trường khó tính đòi hỏi chất lượng hàng hoá cao, quy trình kiểm định nghiêm ngặt như thị trường Hoa Kỳ, thị trường Tây Âu, thị trường Nhật Bản… Cơ cấu hàng xuất khẩu còn lạc hậu, tỷ trọng hàng thô và hàng sơ chế vẫn còn cao. Trong số các sản phẩm công nghiệp chế tạo thì hàng gia công còn chứa tỷ trọng lớn, hàm lượng các sản phẩm chứa hàm lượng công nghệ vẫn còn thấp. Nguyên nhân Nguyên nhân thành tựu Để làm rõ nguyên nhân tăng xuất khẩu chúng ta sử dụng phương pháp “Phần chia và dịch chuyển”. Phương pháp này hiện đang được sử dụng rộng rãi trong phân tích vùng và phân tích thương mại quốc tế. Mục đích chính của phương pháp là phân tích nguyên nhân tăng trưởng xuất khẩu (TS) của một quốc gia dựa trên 3 yếu tố: (1) do thay đổi nhu cầu nhập khẩu trên thế giới (WS); (2) do cơ cấu ngành hợp lý (IM); (3) do khai thác tốt lợi thế quốc gia (RS). Trong 3 hệ số này thì hệ số IM và RS là quan trọng nhất, còn hệ số WS chỉ đóng vai trò thứ yếu và chủ yếu dùng để tách cầu nhập khẩu thế giới. Qua phân tích ta thấy được, xuất khẩu Việt Nam tăng trong thời gian gần đây là do chúng ta biết khai thác tốt lợi thế quốc gia, biểu hiện là hệ số RS cao (trong giai đoạn từ năm 1999 – 2003, RS cho toàn bộ nền kinh tế là 5,5 tỷ USD, tương đương khoảng 63% mức tăng tổng kim ngạch xuất khẩu). Hệ số RS dương đối với tất cả các nhóm hàng là do chúng ta đã có những cải thiện tích cực về đầu tư, thương mại, công tác khuyến khích và xúc tiến xuất khẩu. Bên cạnh đó, hệ số IM dương cho thấy cơ cấu ngành hàng xuất khẩu cũng có đóng góp vào mức tăng trưởng chung của xuất khẩu, mặc dù mức đóng góp này là khá khiêm tốn, chỉ là 0,03 tỷ USD (tương đương với 0,3% mức tăng kim ngạch xuất khẩu) trong giai đoạn 1999 – 2003. Cùng với đó, nhu cầu nhập khẩu của thế giới tăng đã đóng góp 3,2 tỷ USD, tương đương 36,2% mức tăng kim ngạch xuất khẩu, trong giai đoạn này. Nguyên nhân của những tồn tại: Nguyên nhân khách quan Các bất ổn trên thị trường quốc tế ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu của nước ta. Đó là sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu năm 1991. Sự sụp đổ này dẫn đến chúng ta mất một thị trường lớn và không khắt khe là thị trường các nước khối SEV (Tổ chức Hợp tác và Tương trợ Kinh tế). Tiếp đó là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997, bắt nguồn từ Thái Lan sau đó lan sang các nước khu vực và trên thế giới. Cuộc khủng hoảng làm cho nền kinh tế các nước và trong khu vực chao đảo, hầu hết các nước Đông Á có tốc độ tăng trưởng âm (Indonesia tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm 1998 là -10%, lạm phát 70% - 100%, Thái Lan tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm 1998 là -5%) , trong khi đây là những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao vào loại nhất thế giới (trung bình khoảng 7% trong vòng 20 năm). Do sự phá giá tiền tệ của những nước ASEAN so với đồng USD của Mỹ tại các thị trường EU, Bắc Mỹ gây ra những ảnh hưởng xấu đối với hoạt động xuất khẩu của nước ta. Các nước ASEAN, NICs, Nhật Bản là những nước xuất khẩu lớn của Việt Nam đang ở trong tình trạng suy thoái nặng nề dẫn đến nhu cầu nhập khẩu của những nước này giảm làm giảm kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Sự kiện khủng bố 11/9/2001 ở nước Mỹ cùng với sự suy thoái của nền kinh tế thế giới khiến cho tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của chúng ta năm 2001 chỉ đạt 3,8%. Giá cả các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản trên thị trường thế giói biến động thất thường. Trong khi đó đây lại là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam khiến cho giá trị xuất khẩu của Việt Nam không ổn định, thăng trầm cùng vói sự thăng trầm của giá cả thế giới. Ví dụ năm 1998, giá dầu thô giảm dẫn đến kim ngạch xuất khẩu dầu thô giảm hơn 190 triệu USD Năm 1997, lượng dầu thô xuất khẩu là 9638 nghìn tấn, thu về trị giá 1423,4 triệu USD; năm 1998, lượng dầu thô xuất khẩu là 12145 nghìn tấn nhưng chỉ thu về trị giá 1232,2 triệu USD (Tổng cục Thống kê) Các rào cản phi thuế quan (NTBs) hay các rào cản trong thương mại (TBTs) mới xuất hiện cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đạo luật chống khủng bố sinh học năm 2002 (BTA) là một ví dụ về rào cản phi thuế quan. Đạo luật này ban hành các quy định nghiêm ngặt đối với các công ty xuất khẩu thực phẩm sang Mỹ. Theo đó, tất cả các công ty nước ngoài sản xuất, chế biến, đóng gói thực phẩm phục vụ cho người, vật nuôi ở Mỹ đều phải đăng ký với cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) trước ngày 12/12/2004. Doanh nghiệp nào không tuân thủ theo quy định này thì hàng hoá của họ sẽ không được nhập vào cảng của Mỹ và những người xuất khẩu sẽ chịu những chế tài nhất định. Sự trỗi dậy của các rào cản kỹ thuật vô hình trong thương mại đã tạo ra một môi trường thương mại không tích cực, thông thoáng và hạn chế tự do thương mại. từ năm 1990, Bộ Nông nghiệp Mỹ đã đánh giá rằng các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của Mỹ đạt trị giá 5 tỷ USD là đối tượng áp dụng các rào cản kỹ thuật trong thương mại của 63 nước trên thế giới. Mặt khác trong những năm gần đây, Mỹ đã gia tăng đáng kể việc giám sát nhập khẩu tại cửa khẩu làm cho danh mục hàng nhập khẩu của Mỹ bị giám sát không ngừng tăng lên. Mỹ là một thị trường lớn của nước ta, với những rào cản thương mại do Mỹ dựng lên, hàng hoá Việt Nam ngày càng khó khăn hơn khi tiếp cận thị trường Mỹ. Nguyên nhân chủ quan Đầu tư xã hội vào các mặt hàng xuất khẩu còn thấp, dàn trải và hiệu quả đầu tư không cao. Trong đó, cơ cấu của vốn đầu từ nước ngoài còn có những bất hợp lý như: tập trung quá lớn vào những ngành dễ thu lợi nhuận và thu hồi vốn nhanh, tập trung vào một số ngành sản xuất được bảo hộ như ô tô, xe máy, xi măng… Năm 2007, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với tổng doanh thu mới chỉ đạt 49,9%, tính chung cho cả 20 năm cũng chỉ mới đạt 42%. Do đó, có thể thấy các doanh nghiệp nước ngoài vẫn chưa thực sự chú trọng vào việc sản xuất các mặt hàng phục vụ cho xuất khẩu mà chỉ dừng lại ở việc đáp ứng những nhu cầu hàng hoá không cao của thị trường trong nước. Chính vì vậy sản phẩm của chúng ta có sức cạnh tranh kém trên thị trường thế giới. Chúng ta vẫn chưa thực sự chủ động trong việc khai thác và phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu, do đó vẫn chưa có được chiến lược marketing hợp lý cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hướng đến thị trường thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam còn thích ứng chậm đối với những thay đổi của thị trường thế giới. Một mặt là do các nhà quản lý và các doanh nghiệp của ta năng lực dự báo còn hạn chế, mặt khác là do những tàn dư của tư tưởng cũ trong cơ chế bao cấp, mong chờ, ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước. Đây là một tư duy cần phải loại bỏ càng sớm càng tốt nhất là khi Việt Nam là thành viên của WTO. Cơ sở vật chất của ta còn nghèo nàn nên không những không hỗ trợ mà đôi khi còn cản trở cho việc sản xuất hàng xuất khẩu cũng như xuất khẩu hàng hoá của ta ra thị trường thế giới. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu từ năm 1990 đến nay Trong vòng 20 năm trở lại đây, xuất khẩu của chúng ta có những bước thăng trầm do các tác động khách quan và chủ quan. Trong đó, chúng ta phải kể đến những biến cố lớn tác động đến việc xuất khẩu hàng hoá của nước ta đó là: cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997, việc Việt Nam ký hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đầu năm 2002 và Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO tháng 1/2007. Chính vì những tác động to lớn đó, chúng ta không xét cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo chu kỳ 5 năm mà chúng ta xét theo giai đoạn của những biến cố xảy ra. Do đó, chúng ta có thể xét sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo giai đoạn từ năm 1990 – 1997, từ năm 1998 – 2002, từ năm 2003 – 2._.ủa cà phê xuất khẩu và áp dụng các phương thức giao dịch, kinh doang cà phê hiện đại của thế giới để giảm thiểu rủi ro giá cả. Æ Chè: Nâng cao chất lượng chè xuất khẩu, tập trung phát triểm chè sạch. Æ Cao su: Giảm tỷ trọng xuất khẩu mủ cao su thiên nhiên sơ chế, tập đầu tư sản xuất trong nước để có thể xuất khẩu sản phẩm từ cao su. Æ Hạt điều và hạt tiêu: duy trì và phát triển sản xuất hạt điều, hạt tiêu để xuất khẩu Tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và thủ công mỹ nghệ: dự kiến trong giai đoạn 2006 – 2010 đây là nhóm sản phẩm có tốc độ tăng trưởng cao nhất 36,3%, chiếm 50,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Æ Hàng dệt may: Hạ giá thành sản xuất, đa dạng hoá kiếu dáng mẫu mã kết hợp với việc xây dựng thương hiệu, tập trung vào các thị trường có lợi thế, hình thành các trung tâm giao dịch cung cấp nguyên liệu, phụ liệu dệt may. Æ Giày dép: tập trung sản xuất giày dép cao cấp, phcụ vụ cho các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản… đồng thời tăng tỷ lệ tự sản xuất nguyên liệu trong nước, tự thiết kế kiểu dáng, mẫu mã. Æ Sản phẩm gỗ: phát tiển nguồn nguyên liệu ổn định; liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong ngành ới nhau để tưng quy mô và chất lượng sản phẩm thông qua thiết kế đa dạng mẫu mã sản phẩm. Sử dụng các nguyên liệu khác như kim loại, gỗ, mây tre, sứ… kết hợp với gỗ để đa dạng hoá sản phẩm. Æ Hàng điện tử và tin học: Tập trung phát triển các sản phẩm phần mềm. Bảng 3.2: Dự kiến cơ cấu hàng hoá xuất khẩu 2001 - 2010 Tên hàng Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010 Lượng Trị giá Lượng Trị giá Lượng Trị giá 1. Khoáng sản 3296 2520 1750 Tỷ trọng khoáng sản (%) 24,4 9,3 3,5 Dầu thô và sản phẩm dầu 16800 3200 11800 2400 8000 1600 Than đá 3100 96 4000 120 5000 150 Các loại quặng 0 0 0 2. Nông, lâm, thuỷ sản chính 3158 5845 8600 Tỷ trọng nông, lâm, thuỷ sản chính (%) 23,4 21,6 17,2 Lạc nhân 77 40 130 75 180 100 Cao su và cao su CB 245 153 300 250 500 500 Cà phê và cà phê CB 630 500 700 700 750 850 Chè 40 50 78 100 140 200 Gạo 3800 720 4500 1000 4500 1200 Rau quả và rau quả CB 180 800 1600 Thuỷ sản và thuỷ sản CB 1200 2500 3500 Nhân điều 23 115 40 200 80 400 Hạt tiêu 50 200 50 220 60 250 3. Hàng chế biến chính 4240 11500 20600 Tỷ trọng hàng chế biến chính (%) 31,4 42,6 41,2 Thủ công mỹ nghệ 280 800 1500 Dệt may 1950 5000 7500 Giày dép 1650 4000 7000 Thực phẩm chế biến 100 200 700 Sản phẩm gỗ 200 600 1200 Sản phẩm tiêu dùng 30 200 600 Sản phẩm nhựa 10 200 600 Sản phẩm có khí - điện 10 300 1000 Vật liệu xây dựng 10 200 500 4. Hàng chế biến cao 750 2500 7000 Tỷ trọng hàng chế biến cao (%) 5,6 9,3 14,0 Điện tử và linh kiện máy tính 750 2000 6000 Phần mềm 0 500 1000 Tổng các mặt hàng trên 11444 22365 37950 Tỷ trọng các mặt hàng trên (%) 85 83 76 Hàng khác 2056 4635 12050 Tỷ trọng các mặt hàng khác 15 17 24 Dự kiến tổng kim ngạch 13500 27000 50000 Nguồn: Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010 của Bộ Thương mại Nay là bộ Công thương Hiện nay, chiến lược xuất nhập khẩu đến năm 2020 của Bộ Công thương chưa được ban hành. Chúng ta hiện chỉ có chiến lược phát triển một số ngành đến năm 2020 như: công nghiệp ô tô, cơ khí. Trong đó, theo Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về: “Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020”, chúng ta có thể thấy được định hướng lâu dài của Nhà nước trong việc phát triển ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất và xuất khẩu. Theo đó, cơ cấu ngành công nghiệp sẽ dịch chuyển theo hướng tăng nhan tỷ trọng công nghiệp chế biến, đạt 87% - 88% vào năm 2020. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế tạo trong xuất khẩu đạt 70%. Tỷ trọng nhóm sử dụng công nghệ cao đạt 40% - 45%. Giá trị hàng xuất khẩu công nghiệp đạt 85% - 90% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Về số liệu chiến lược phát triển ngoại thương nói chung và số liệu định hướng trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nói riêng vẫn chưa có cụ thể, mà chúng ta chỉ có những dự báo hay ước tính của chuyên gia và các nhà quản lý kinh tế về một số ngành như: Đến năm 2020, xuất khẩu xe máy và phụ tùng đạt 1 tỷ USD, trong đó 15% - 20% động cơ dùng nguyên liệu sạch; xuất khẩu sản phẩm gỗ 4 tỷ USD; xuất khẩu thuỷ sản từ 4 – 5 tỷ USD… Cũng theo dự báo của chuyên gia, đến năm 2020, tổng giá trị xuất khẩu nước ta năm 2020 sẽ đạt khoảng 200 tỷ USD, tức là gấp 10 lần so với năm 2003. Và để đạt được mục tiêu này, chúng ta phải nâng cao giá trị hàng chế biến từ mức hiện nay là 30% lên 70%. Những con số này thể hiện mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong hai thập kỷ tới là những mặt hàng chế biến sâu và có hàm lượng công nghệ cao. Điều này thể hiện quyết tâm chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cảu nhà nước theo hướng công nghiệp hoá tích cực. Theo dự báo của chuyên gia thì cơ cấu các nhóm mặt hàng xuất khẩu của chúng ta vào năm 2020 như sau: Nhóm hàng thô hay mới sơ chế: gồm nhiều mặt hàng chủ lực hiện nay của nước ta như: cà phê, cao su, gạo, chè, hạt điều, hạt tiêu, thuỷ sản,… và một số khoáng sản. Nhóm hàng này sẽ có tỷ trọng dự báo giảm từ 49,3% năm 2005 xuống còn 10% năm 2020. Nhóm hàng chế biến: Tăng hàm lượng chế biến sâu trong các sản phẩm: giày dép, dệt may, điện tử, cơ khí, hoá chất, vật liệu xây dựng, xăng dầu, dược phẩm, thực phẩm… Nhóm này được dự báo sẽ có tỷ trọng từ 50,4% năm 2005 tăng lên đến 705 năm 2010. Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Các giải pháp đối với nhà nước Chính sách khuyến khích đầu tư: Đầu tư là hoạt động sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới. Do vậy, đầu tư quyết định hàng hoá sản xuất ra là loại hàng gì với số lượng bao nhiêu và chất lượng như thế nào. Khuyến khích đầu tư là một biện pháp nhằm hướng các doanh nghiệp vào việc sản xuất những mặt hàng theo định hướng của nhà nước. Các biện pháp khuyến khích đầu tư chung cho cả hai thành phần trong và ngoài nước Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất để phục vụ cho xuất khẩu là chủ yếu. Bởi các sản phẩm một khi được thị trường quốc tế chấp nhận, có chỗ đứng ở thị trường quốc tế thì chắc chắn cũng sẽ có được chỗ đứng ở thị trường trong nước. Mặt khác, xu hướng chuyển dịch cơ cấu hàng hoá do nhà nước đề ra lại dựa trên khả năng của đất nước và dựa trên xu hướng tiêu dùng hàng hoá của thế giới nên các sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp sẽ chuyển dịch theo đúng định hướng của nhà nước về số lượng hàng hoá, chất lượng hàng hoá và hàm lượng công nghệ trong hàng hoá đó. Tuy nhiên, ở nước ta xuất khẩu vẫn chủ yếu theo hướng tập trung vào hàng hoá thay thế nhập khẩu. Muốn vậy chúng ta cần thực hiện các biện pháp sau: Thực hiện các hình thức ưu đãi dành cho sản xuất hàng xuất khẩu, hướng các doanh nghiệp vào mục tiêu sản xuất hàng hoá để xuất khẩu. Xem xét lại các danh mục ngành nghề khuyến khích đầu tư để loại bỏ những ngành nghề sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu trong khi năng lực sản xuất đã đáp ứng được nhu cầu trong nước, khỏi lãng phí nguồn vốn đầu tư mới. Lập kế hoạch cụ thể về lộ trình giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan theo hiệp định CEPT/AFTA với bước đi cụ thể. Khuyến khích đầu tư một cách rõ ràng áp dụng cho từng mức chế biến hàm chứa trong sản phẩm xuất khẩu nhằm mục đích khuyến khích hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu. Áp dụng biện pháp này nhằm mục đích tránh đầu tư dàn trải, chung chung không rõ định hướng để xây dựng mặt hàng chủ lực. Để thực hiện tốt điều này, Chính phủ cần nghiên cứu mức độ ưu đãi khác nhau dành cho đối tượng hàng xuất khẩu ở mức độ chế biến khác nhau theo hướng khuyến khích mạnh vào những mặt hàng chế biến sâu. Trong thời gian này có thể áp dụng một số biện pháp trợ cấp xuất khẩu để hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất ra các mặt hàng để xuất khẩu theo định hướng của Nhà nước như: trực tiếp cấp tiền, bảo lãnh các khoản vay,, áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, hưởng các ưu đãi về đầu vào của quá trình sản xuất hay tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu. Biện pháp khuyến khích đầu tư bằng nguồn vốn trong nước (vốn trong nước gồm vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và vốn đầu tư từ tư nhân). Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước gồm Ngân sách từ trung ương, từ các ngành và từ các địa phương. Nguồn vốn này chủ yếu tập trung cho các chương trình khuyến khích xuất khẩu lớn như: Đầu tư cho khai thác dầu khí, xây dựng khu công nghiệp hoá dầu, đầu tư cho đánh bắt và khai thác thuỷ sản xa bờ… Đối với nguồn vốn này, mục tiêu lớn nhất của chúng ta là cần phải biết sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tránh lãng phí nguồn vốn ngân sách nhà nước. Do đó, biện pháp chủ yếu ở đây là thực hiện đổi mới công tác quản lý và điều hành; chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư hay tiến hành phân cấp trong đầu tư một cách hợp lý… Nguồn vốn từ tư nhân gồm có: vốn đầu tư vào sản xuất, chế biến và kinh doanh hàng xuất khẩu. Điều quan trọng là chúng ta cần huy động được nguồn vốn này. Muốn huy động nguồn vốn đầu tư trong nước chúng ta cần thực hiện các biện pháp sau: ü Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để thu hút nguồn vốn đầu tư trong dân. ü Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân như phát hành tín phiếu kho bạc, tín phiếu tín dụng, tín phiếu xây dựng, kỳ phiếu ngân hàng… ü Hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính: ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tiết kiệm và cho vay, công ty bảo hiểm… đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống. Biện pháp khuyến khích đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài (vốn đầu tư nước ngoài gồm: vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): về bản chất đây là một hình thức xuất khẩu tư bản - một hình thức xuất khẩu cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Nguồn vốn này sẽ giúp chúng ta giải quyết tình trạng thiếu vốn phục vụ cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu đồng thời chúng ta có thể được chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Do đó, việc huy động nguồn vốn này khá quan trọng và có thể huy động tốt thông qua các biện pháp sau: ü Ban hành các chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư phát triển sản xuất ở Việt Nam nhất là sản xuất hàng xuất khẩu chế biến sâu. Đó là các chính sách liên quan đến thuế, lãi suất hay các quy định về lợi nhuận gửi về nước. ü Cải thiện môi trường đầu tư để các doanh nghiệp nước ngoài có một môi trường đầu tư thông thoáng và ổn định yên tâm đầu tư. Môi trường đầu tư này phải được hệ thống luật pháp và chính sách Nhà nước đảm bảo. ü Phát triển hợp lý các khu chế xuất khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài gia tăng xuất khẩu. “Khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống” Nghị định số 36 ngày 24/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế khu chế xuất . Khu chế xuất chính là một đô thị độc lập, là một khu kinh tế xuất khẩu, đầu tư chủ yếu là người nước ngoài và thực hiện giao dịch thương mại quốc tế. Khu chế xuất được trang bị đầy đủ sơ sở hạ tầng sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển. ü Giảm thiểu hàng rào bảo hộ trong nước, giảm ưu đãi cho hàng hoá thay thế nhập khẩu đã đáp ứng đủ nhu cầu trong nước để lành mạnh hoá môi trường kinh doanh và định hướng lại dòng vốn đầu tư. Chính sách về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Giải pháp đầu tiên là phải xác định được một cơ cấu hàng hoá xuất khẩu thích hợp của nước ta cho phù hợp với hoàn cảnh của đất nước và xu hướng của thế giới nhằm mục đích phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Xác định cơ cấu hàng hoá xuất khẩu hợp lý sẽ giúp cho chúng ta tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo được nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước, cải thiện cán cân thanh toán, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh chóng. Ngược lại, nếu không xác định hợp lý cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sẽ dẫn đến hoạt động xuất khẩu khó có khả năng phát triển ảnh hưởng đến cả một nền kinh tế. Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, cần tạo điều kiện phát triển cả mặt hàng truyền thống và chủ lực đồng thời cần phát triển những mặt hàng mới có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế Đối với những mặt hàng chủ lực truyền thống Dầu thô: Hiện nay chúng ta vẫn phải bán dầu thô với giá rẻ, rồi để mua vào dầu đã tinh chế với giá cao. Như vậy, trong thời gian tới chúng ta cần phải giảm lượng dầu thô xuất khẩu, nhưng thay vào đó là sử dụng sản lượng dầu thô trong nước khai thác được đem vào chế biến. Muốn vậy cần tiếp tục thực hiện xây dựng các nhà máy lọc dầu để giảm bới gánh nặng cho ngân sách khi cứ phải mua dầu tinh chế với giá cao. Thực tế, nhà máy lọc dầu ở Việt Nam được triển khai xây dựng vào năm 1995, dự toán chi phí là 1,3 tỷ USD và kỳ vọng là hoàn thành năm 2009 với chi phí 2,5 tỷ USD. Khi đó, chúng ta sẽ có dầu tinh chế để dử dụng, giảm nhập khẩu mặt hàng này. Gạo: Đây là một mặt hàng ưu thế của Việt Nam vì Việt Nam là một nước nông nghiệp với cây lương thực chủ yếu là lúa nước. Do vậy, trong điều kiện hiện nay và các năm tới chúng ta vẫn tiếp tục sản xuất gạo để tập trung xuất khẩu. Giảm tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thô không có nghĩa là chúng ta cắt giảm sản lượng (lượng tuyệt đối) của các mặt hàng này. Điều cốt lõi là phải tăng chất lượng gạo xuất khẩu thông qua các chỉ số như tỷ lệ tấm trong gạo hay độ bóng của hạt gạo để có thể bán gạo ra thị trường quốc tế với giá cao nhất. Đồng thời chúng ta chủ yếu xuất khẩu gạo qua trung gian mà không được xuất khẩu trực tiếp nên nhà nước cần có những thoả thuận ở cấp Trung ương về thị trường gạo để các doanh nghiệp giao dịch thuận lợi hơn và có điều kiện xuất sang thị trường trực tiếp. Chè, cà phê, cao su: chúng ta cũng cần mở rộng hướng sản xuất và xuất khẩu để nâng cao giá trị các mặt hàng này, đồng thời phải không ngừng phát triển thương hiệu của các sản phẩm này để thế giới biết đến. Đây không chỉ là việc làm của riêng các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu mà Nhà nước cũng có những tác động tích cực để phát triển thương hiệu quốc gia bằng việc hỗ trợ các doanh nghiệp xúc tiến hỗn hợp có hiệu quả. Thuỷ sản: Đây là một trong những mặt hàng có đóng góp rất lớn vào tổng kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Tuy nhiên, gần đây thuỷ srn Việt Nam xuất sang các thị trường Mỹ, EU thường gặp nhiều rào cản kỹ thuật. Mặc dù hiện nay chúng ta đã trở thành thành viên của WTO nhưng chúng ta vẫn chưa thể sử dụng cơ chế của WTO giải quyết các vụ tranh chấp của mình ngay được. Vì vâỵ, Chính phủ cần có kế hoạch và ngân sách để đào tạo các kỹ thuật viên giám định thuỷ sản, tuyên truyền rộng rãi tại cấp cơ sở, triển khai các lớp tập huấn cho ngư dân và các nhà sản xuất, khuyến cáo họ không nên sử dụng các hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản. Hàng dệt may, giày dép: Đây là những ngành sử dụng nhiều lao động nên nó góp phần tạo công ăn việc làm cho người dân và thu ngoại tệ về cho đất nước. Tuy nhiên, hàng dệt may của chúng ta vẫn chủ yếu dừng lại ở mức độ gia công, nhiều linh kiện, phụ kiện, dịch vụ thiết kế chúng ta phải mua từ nước ngoài với chi phí cao. Do vậy, Chính phủ cần có những biện pháp để phát triển công nghiệp phụ trợ trong đó có công nghiệp phụ trợ ngành dệt may, để nâng cao hàm lượng chế biến trong các sản phẩm dệt may, mang lại trị giá cao cho hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Hàng điện tử và linh kiện máy tính: Đây là mặt hàng có xu thế phát triển trong tương lai nên chúng ta cần tập trung phát triển ngành này teo hướng hiện đại hoá. Hiện nay, ngành này vẫn chủ yếu dừng lại ở mức độ lắp ráp. Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hoá trong ngành đang lên ở ở một số các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2002, phần lớn các nhà lắp ráp điện tử tiêu dùng không thể tìm được nguồn cung nội địa, nhưng hiện nay tình hình này đã được cải thiện. Tuy vậy, nội địa hoá mới chỉ tập trung ở những linh kiện, phụ kiện có giá trị thấp. Vì vậy, trong thời gian tới Chính phủ cần phải có những biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ nói chung và công nghiệp phụ trợ ngành sản xuất hàng điện tử và linh kiện máy tính nói riêng. Đối với những sản phẩm mới, nhà nước cần thực hiện những biện pháp sau: Tìm tòi và phát hiện những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế so sánh để chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Đó là những sản phẩm mà thế giới có nhu cầu nhiều trong hiện tại và cả trong tương lai, đồng thời, khi xét lợi thế so sánh ngoài việc xác định lợi thế “tĩnh” hiện có chúng ta cần xác định cả lợi thế “động”. Trong đó, lợi thế “động” là lợi thế có tiềm năng và sẽ xuất hiện khi các điều kiện nhằm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu xuất hiện. Những sản phẩm có thể đạt được các yêu cầu trên có thể là đồ điện gia dụng, các loại máy móc, bộ phận linh kiện điện tử hay sản phẩm của các ngành công nghiệp có chứa hàm lượng công nghệ cao như: máy tính, điện thoại di động, ô tô, máy công cụ, linh kiện điện tử cao cấp… Khi đã xác định được các ngành sản xuất các sản phẩm nói trên, cần tạo ra điều kiện thuận lợi để sản xuất các sản phẩm đó. Đầu tiên là tạo điều kiện thuận lợi để có môi trường hấp dẫn nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vì đây là con đường ngắn nhất để có thể tăng sức cạnh tranh và đẩy mạnh sản phẩm xuất khẩu của đất nước. Sau đó, đẩy mạnh sự liên kết các công ty có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước theo hình thức dọc và ngang Liên kết dọc là cung cấp các bộ phận, linh kiện cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, liên kết ngang là hợp tác giữa các công ty đa quốc gia trên nhiều lĩnh vực để sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm đó. Ban đầu, chúng ta có thể chấp nhận dưới thương hiệu của nước ngoài, nhưng sau này chúng ta cần tiến tới tự mình thiết kế và sản xuất sản phẩm để xây dựng thương hiệu, làm chủ sản phẩm của mình. Về chính sách phát triển thị trường Khâu then chốt của chiến lược phát triển xuất khẩu đến năm 2020 là mở rộng và đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ giữa các đối tác, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đã là thành viên chính thức của WTO. Bảng 3.3. Dự kiến cơ cấu thị trường năm 2006 và năm 2010 Đơn vị tính: % Thị trường Cơ cấu năm 2006 Tăng kim ngạch bình quân năm 2006 – 2010 Cơ cấu năm 2010 Châu Á 48,7 14,1 45,5 ASEAN 16,5 12,0 11,5 Trung Quốc 9,7 14,5 10,7 Nhật Bản 14,2 9,2 12,4 Châu Âu 18,2 18,9 22,0 EU – 25 16,9 15,0 20,5 Châu Mỹ 21,5 19,4 24,0 Hoa Kỳ 20,4 19,0 23,1 Châu Phi 2,2 2,33 2,8 Châu Đại Dương 7,8 15,7 7,7 Nguồn: Đề án phát triển xuất khẩu 2006 – 2010, Bộ thương mại Khu vực châu Á: Đây là một thị trường rộng lớn với nhu cầu đa dạng và phong phú. Các bạn hàng chủ yếu của Việt Nam trong khu vực này là: ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan. ASEAN: Đối với thị trường này, Nhà nước cần thoả thuận ở cấp Trung ương với các nước Philippin, Malaysia, Indonesia về mặt hàng gạo đồng thời làm tốt công tác thị trường ở tầm vĩ mô. Đối với những khu vực ở ngoài thị trường Đông Dương thì cần đẩy mạnh xuất khẩu gạo, linh kiện máy tính và một vài sản phẩm cơ khí. Đối với thị trường khu vực Đông Dương, thì đẩy mạnh xuất khẩu thực phẩm chế biến, sản phẩm tiêu dùng và các hàng khác. Đồng thời, chúng ta cũng cần thực hiện một số biện pháp để tiến tới cân bằng thương mại với các nước ASEAN: ü Tăng cường xuất khẩu hàng chế biến và chế biến sâu cả về lượng tuyệt đối lẫn tỷ trọng trong cơ cấu, đồng thời giảm tỷ trọng hàng gia công. ü Đàm phám, thoả thuận đối với những mặt hàng trùng lặp để tránh tranh chấp trong thương mại. ü Đẩy mạnh xuất khẩu hàng sang các nước Lào và Campuchia Nhật Bản: Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của Nhật Bản mang tính bổ sung với cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam. Nhật xuất khẩu những mặt hàng có chứa hàm lượng công nghệ và kỹ thuật cao, trong khi đó, lại nhập khẩu những mặt hàng thô sơ chế. Điều này ngược lại vói Việt Nam và đây là điều kiện thuận lợi để cho 2 quốc gia có thể trao đổi thương mại với nhau. Chúng ta muốn xuất khẩu mạnh sang thị trường Nhật cần thực hiện một số biện pháp sau: ü Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như giày dép, mây tre đan, gốm sứ sang thị trường Nhật để dựa vào mức thuế suất ưu đãi của Quy chế Tối huệ quốc (MFN). Đồng thời vẫn phát triển các mặt hàng chủ lực như dệt may, dầu thô, thuỷ sản… ü Hợp tác với tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản để cung cấp cho doanh nghiệp Việt Nam thông tin về thị trường Nhật và ngược lại. ü Thúc đẩy quá trình ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Nhật Bản Trung Quốc: Bắt đầu từ năm 2002, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc được hưởng những ưu đãi về thuế suất. Nhìn chung, đây vừa là bạn hàng quan trọng vừa là đối thủ cạnh tranh lớn của ta. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào Trung Quốc gồm có: thuỷ sản, cao su, thực phẩm chế biến và hoá phẩm tiêu dùng. Muốn phát triển được ở thị trường này cần: ü Khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này bằng chính ngạch, tiểu ngạch, mậu dịch và phi mậu dịch. ü Xây dựng thống nhất danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu giữa 2 quốc gia. ü Phát triển hơn nữa mối quan hệ hợp tác, hữu nghị vói Trung Quốc. EU: Đây là một thị trường khá khó tính và khắt khe đối vói hàng nhập khẩu. Thị trường này được bảo hộ chặt chẽ bởi các rào cản kỹ thuật nghiêm ngặt như: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn về lao động và trách nhiệm xã hội. Đối vói thị trường này, Chính phủ cần thực hiện các biện pháp: ü Hoàn thiện hệ thống các chính sách thương mại giữa Việt Nam và EU. ü Xây dựng kế hoạch các chương trình giúp cho doanh nghiệp hiểu về thị trường này về luật lệ và tâm lý tiêu dùng. ü Thúc đẩy quan hệ hợp tác giưa Việt Nam và EU. Hoa Kỳ: Đây cũng một thị trường lớn, quy định khắt khe đối với hàng nhập khẩu và đòi hỏi tiêu chuẩn hàng hoá nghiêm ngặt vì hầu hết các tiêu chuẩn đều do Mỹ ban hành như: ISO 9000, ISO 14000, HACCP. Vì vậy, chúng ta cần cập nhập thường xuyên, liên tục những quy chế mới ban hành của Mỹ đối với hàng nhập khẩu để có được thế chủ động khi tiếp cận thị trường này. Chính sách về phát triển công nghệ Đây chính là nhân tố quan trọng giúp chúng ta chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu một cách nhanh chóng vì chủ trương của chúng ta là tăng tỷ trọng hàng hoá chế biến và chế biến sâu, mà muốn có được hàng hoá chế biến và chế biến sâu chúng ta phải đổi mới công nghệ. Chính sách công nghệ ở nước ta hiện nay cần tập trung vào nhập khẩu công nghệ của các nước tiên tiến đi trước và đầu tư nghiên cứu phát triển các công nghệ có khả năng phát triển lợi thế của đất nước như máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp. Phát triển công nghệ chúng ta có thể tiến hành theo các bước sau: ü Giai đoạn đầu chúng ta có thể nhập khẩu nguyên liệu từ các nước tiên tiến thông qua việc mua công nghệ chuyển giao phục vụ cho sản xuất trong nước. Hoặc có thể nhập khẩu công nghệ thông qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng việc khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt Nam. Và đây chính là nguồn mang công nghệ nước ngoài vào trong nước. Thông qua đó phát triển được trình độ công nghệ của Việt Nam. ü Giai đoạn tiếp theo chúng ta cần làm là biến công nghệ nước ngoài thành công nghệ của mình làm chủ công nghệ thực sự. Và tiến tới tự sản xuất công nghệ của riêng mình. Song hành cùng với các quá trình đó là các chính sách khuyến khích phát triển công nghệ của Nhà nước cần phải chú ý: Thứ nhất, nhập khẩu các thiết bị tiên tiến sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng, chính vì vậy Chính phủ cần tính toán để tập trung vào nhập khẩu công nghệ phục vụ cho việc phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo của đất nước năng lực, tin học, điện tử viễn thông. Còn lại, cần chú ý nhập khẩu công nghệ vừa phải kết hợp với sử dụng lao động. Thứ hai, thực hiện các quy định về quyền sở hữu trí tuệ để khuyến khích các nhà khoa học và người dân tham gia công tác nghiên cứu khoa học để phát triển công nghệ của đất nước. Thứ ba, chấp nhận hy sinh một số doanh nghiệp làm ăn yếu kém, công nghệ lạc hậu, xoá bỏ bảo hộ để nhanh chóng loại bỏ những tàn dư của chiến lược thay thế nhập khẩu, giúp cho chiến lược hướng đến xuất khẩu có môi trường trong sạch phát triển. Thứ tư, đặt ra mục tiêu khuyến khích công nghệ phục vụ cho phát triển công nghiệp phụ trợ để tăng tỷ lệ nội địa hoá các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam. Chính sách phát triển nguồn nhân lực Đây là yếu tố quan trọng quyết định thành công của các chiến lược phát triển kinh tế nói chung và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu nói riêng. Nguồn nhân lực ở đây bao gồm nhân lực hoạch định chính sách, nhân lực nghên cứu và phát triển công nghệ, nhân lực quản trị kinh doanh từ các doanh nghiệp cho đến nhân lực trực tiếp sản xuất ra sản phẩm để xuất khẩu. Chúng ta có thể phát triển nguồn nhân lực này bằng việc bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng nhân tài trong mọi lĩnh vực. Đầu tiên từ việc nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng đến việc tạo cơ hội cho các cán bộ có chuyên môn giỏi đi học tập kinh nghiệm từ các nước phát triển. Song song với đó là các chính sách thu hút nhân lực giỏi về hoạt động nghiên cứu và sản xuất trong nước, tránh hiện tượng chảy máu chất xám. Trong quá trình đào tạo và làm việc của nguồn nhân lực đất nước cần áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến để từng bước làm quen, tiếp cận, học hỏi và tiếp thu khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới. Các giải pháp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Khi nước ta trở thành thành viên chính thức của WTO thì cơ hội đến với các doanh nghiệp cũng nhiều mà thách thức đối với các doanh nghiệp cũng không kém phần. Đất nước gia nhập WTO đặt các doanh nghiệp đứng trước thực trạng sống còn. Do vậy cùng với xu hướng chuyển dịch của đất nước, các doanh nghiệp cũng phải có những giải pháp dịch chuyển hàng hoá xuất khẩu của riêng mình. Một số giải pháp định hướng cho các doanh nghiệp như sau: Các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng và giá trị hàng hoá xuất khẩu của mình thông qua việc nâng cao hàm lượng chế biến trong sản phẩm. Điều này cũng nằm trong định hướng của Nhà nước. Do vậy, khi thực hiện các doanh nghiệp sẽ được hưởng sự hỗ trợ của Nhà nước. Áp dụng các phương thức khoa học tiên tiến để đầu tư, cải tiến kỹ thuật và nâng cao năng lực thiết kế sản phẩm mới. Có như vậy, doanh nghiệp mới đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Thúc đẩy quá trình tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm của mình, nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp. Lựa chọn một chiến lược phát triển của riêng doanh nghiệp, trong đó bao gồm những chiến lược sản xuất mặt hàng xuất khẩu như thế nào (chất lượng và giá cả), chiến lược phát triển thị trường nào, từ đó doanh nghiệp có được hướng đi cho mình. Đi kèm với đó là các hoạt động nghiên cứu, dự báo, phân tích yếu tố cạnh tranh, xu hướng thay đổi nhu cầu tiêu dùng của thị trường, thay đổi công nghệ, nguyên vật liệu… trong điều kiện hội nhập của đất nước. Kết luận Qua việc phân tích ở trên chúng ta thấy được thực trạng cơ cấu hàng hoá xuất khẩu ở nước ta còn nhiều bất cập. Tuy nhiên, điều quan trọng là từ việc nhìn nhận thấy sự bất cập đó mà chúng ta cần có một hướng đi đúng để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu như hiện nay. Thực tế là trong những năm qua bằng sự nỗ lực của mình, Chính phủ cũng đã có những giải pháp để chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng tích cực. Nhưng trong thời kỳ quá độ, với sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, thì những chính sách đó không có được những tác động như mong muốn là một điều dễ hiểu. Chúng ta đang dần hoàn thiện mình, và việc gia nhập vào WTO – con cá nhỏ hoà ra biển lớn – cũng là một trong những bước chúng ta hoàn thiện đất nước để tăng trưởng và phát triển. Chỉ có điều trong điều kiện mới này, chúng ta nhìn lại những vấn đề tưởng như cũ nhưng lúc nào cũng có tính thời sự của nó để giải quyết những bất cập một cách triệt để hơn. Dựa vào những lý luận và thực tiễn của các vấn đề chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu cùng với những kinh nghiệm từ sự thành công của các nước có điều kiện tương tự như chúng ta, hi vọng rằng chúng ta sẽ có một sự chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu tích cực góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước. Do thời gian và trình độ nghiên cứu còn hạn chế, việc thu thập thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu gặp nhiều khó khăn, nên chuyên đề của em không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong được thầy cô xem xét và đóng góp ý kiến để chuyên đề được tốt hơn. Danh mục tài liệu tham khảo Vũ Thị Ngọc Phùng, 2005, Giáo trình Kinh tế phát triển, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải, 2007, Giáo trình Kinh tế ngoại thương, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội Tổng cục Thống kê, 2006, Xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam 20 năm đổi mới (1986 – 2005), Nhà xuất bản Thống kê Nguyễn Duy Bột, 2003, Thương mại quốc tế và chính sách phát triển thị trường xuất khẩu, Nhà xuất bản Thống kê Lê Thị Anh Vân, 2003, Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Lao động Bernard Hoekman, Aaditya Mattoo và Philip English, 2004, Sổ tay về phát triển thương mại và WTO, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Nguyễn Văn Thường, Lê Du Phong, 2006, Tổng kết kinh tế Việt Nam 2001 – 2005: lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân Đức Minh, Tiêu thụ là động lực của tăng trưởng, Kinh tế 2007 – 2008 Việt Nam và thế giới Thuỳ Trang, 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Kinh tế 2007 – 2008 Việt Nam và thế giới Vũ Thắng Bình, Cơ cấu và lợi thế so sánh hàng xuất khẩu Việt Nam - một cách tiếp cận định lượng, Tạp chí cộng sản 10 – 2006 Bộ Thương mại, Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010, 2000 Bộ thương mại, Đề án xuất nhập khẩu giai đoạn 2006 – 2010, 2006 http:// www.chinhphu.vn http:// www.vietnamtradefair.com http:// www.vir.com.vn http:// www.ice.com.vn http:// www.phuthotrade_tourism.gov.vn http:// www.economics.vnu.edu.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28551.doc
Tài liệu liên quan