Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu của VN - Thực trạng và giải pháp

MỞ ĐẦU Năm 2007, một năm sau khi Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành dệt may nói riêng. Giá trị sản xuất toàn ngành tăng một cách nhanh chóng, xuất khẩu hàng dệt may vượt qua dầu thô vươn lên vị trí số 1trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Một năm dệt may Việt Nam bước ra biển lớn, có điều kiện cạnh tranh một cách công bằng với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác đã đưa Việt Nam vào top 10 nước

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu của VN - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Đồng thời, cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến. Thị trường xuất khẩu chủ lực là ba thị trường: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Ngoài ra, dệt may Việt Nam cũng đã mở rộng thị trường sang khu vực châu Phi, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, châu Đại Dương, Đông Nam Á, Ukraina,… Sự chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam là cần thiết và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam- Thực trạng và giải pháp”. Mục đích nghiên cứu nhằm xác định cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tổng hợp, phân tích, và đưa ra các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu theo hướng có lợi nhất cho hàng dệt may xuất khẩu, tận dụng tối đa các lợi thế mà Việt Nam vốn có như: sản phẩm, uy tín, quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế quốc tế…Từ đó, giúp dệt may Việt Nam tránh và giảm bớt những tác động do khó khăn trên thị trường thế giới nói chung và tại các thị trường chủ lực nói riêng mang lại. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của GS-TS Đặng Đình Đào đã giúp em nhận thức vấn đề một cách rõ ràng hơn và hoàn thành Đề án này. Trong bài viết của em còn nhiều thiếu sót do chưa có kinh nghiệm, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy để em có thể hoàn thiện Đề án hơn nữa. CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU VÀ CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM I. THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM KHÁI NIỆM Xuất khẩu là một hoạt động ngoại thương giữa các nước và vùng lãnh thổ, trong đó hàng hóa và dịch vụ được bán cho nước khác nhằm mục đích thu ngoại tệ. Xuất khẩu hàng dệt may là một bộ phận của hoạt động xuất khẩu, trong đó hàng dệt may được bán cho nước khác nhằm thu ngoại tệ. Hàng dệt may là một trong những mặt hàng đầu tiên tham gia vào lĩnh vực thương mại quốc tế, do đặc điểm của ngành cũng như do như do nhu cầu của người dân trên thế giới về mặt hàng này. Ngành công nghiệp dệt là ngành đầu tiên được cơ khí hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa trên thế giới. Việc thực hiện các hoạt động xuát khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc có thể phát huy được các lợi thế và khả năng vượt trội của họ. Mặt khác, tăng cường xuất khẩu sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí trên một đơn vị sản phẩm do khối lượng sản xuất gia tăng, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu cũng cao hơn do đồng ngoại tệ có giá cao hơn đồng nội tệ, từ đó làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp . Thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam là các nước và vùng lãnh thổ có hoạt động nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 140 quốc gia , hàng dệt may của Việt Nam đã có mặt tại 170 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hàng dệt may Việt Nam đã và đang có một thị trường xuất khẩu rộng lớn, vấn đề quan trọng của chúng ta hiện nay là cần có một cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may hợp lý và khoa học để có thế phát huy hết lợi thế và khả năng vượt trội của Việt Nam. Hoạt động xuất khẩu dệt may là hoạt động xuất khẩu chủ lực của Việt Nam mang lại những lợi ích rất to lớn, đặc biệt là với một nước đang phát triển như nước ta. 2. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU DỆT MAY Dệt may là mặt hàng chủ lực trong chiến lược xuất khẩu của nước ta, là mặt hàng mà chúng ta có nhiều thế mạnh ( năm 2007, xuất khẩu dệt may vươn lên vị trí số 1 về xuất khẩu ). Vai trò của việc xuất khẩu hàng dệt may với một nước đang phát triển như nước ta là rất to lớn và không thể phủ nhận, cụ thể là: Xuất khẩu hàng dệt may góp phần tạo nguồn vốn cho công nghiệp hóa-hiện đại hóa ở nước ta Công nghiệp hóa-hiện đại hóa là một bước đi tất yếu để phát triển kinh tế đất nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đòi hỏi một lượng vốn rất lớn để phát triển cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và nhập khẩu những máy móc, thiết bị hiện đại. Nguồn vốn chủ yếu xuất phát từ bản thân nền kinh tế, nhưng cũng có thể lấy từ các nguồn viện trợ hay đi vay…Tuy nhiên, các nguồn viện trợ hay đi vay… thường rất khó khăn và đòi hỏi phải hoàn trả sau thời gian nhất định. Đối với một nền kinh tế bất kỳ, nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất là nguồn vốn có được từ xuất khẩu. Từ nhiều năm nay, hàng dệt may luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta và trong những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu dệt may luôn đứng ở vị trí thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế đất nước và tạo ra một vốn lớn( ngoại tệ) để đầu tư vào trang thiết bị máy móc và xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia. Đặc biệt, trong năm 2007 hàng dệt may xuất khẩu vươn lên vị trí số 1 trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Có thể thấy rằng, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta tăng nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại Việt-Hoa Kỳ có hiệu lực năm 2002 và sự kiện Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO vào năm 2007. Điều đó khẳng định vai trò ngày càng to lớn của xuất khẩu dệt may nước ta. Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam những năm gần đây Chỉ tiêu Đv tính 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng KNXUấT KHẩU Triệu USD 14482.2 15029.2 16706.1 20149.3 26485.0 32447.1 39826.2 48464.0 Dệt may Triệu USD 1891.9 1975.4 2732.0 3609.0 4429.8 4772.4 5834.4 7832.0 * Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam Sự phát triển của ngành công nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu sẽ thúc đẩy các ngành liên quan phát triển theo Ngành công nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nằm trong mối quan hệ tương hỗ với nhiều ngành khác như: cơ khí, chế tạo máy, vận tải đường biển, nông nghiệp, in, nhuộm, sản xuất nhựa polyme để bao gói sản phẩm…Đầu tiên phải nhắc đến việc sản xuất các nguyên phụ liệu như bông, vải sợi, tơ, …Hiện nay, dù sản xuất nhiều hàng dệt may nhưng nước ta đã và đang phải nhập khẩu khoảng 70% nhu cầu về nguyên phụ liệu, do vậy, khi xuất khẩu dệt may càng phát triển chúng ta càng phải cố gắng chủ động về nguồn nguyên phụ liệu cho sản xuất, từ đó làm tăng giá trị của sản phẩm. Mặt khác, để phục vụ cho sản xuất ngày càng phát triển thì càng cần nhiều những máy móc, thiết bị tiên tiến để phục vụ cho việc sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao mà chi phí cho phế liệu, phế phẩm ngày càng thấp. Từ đó, kéo theo sự phát triển của các ngành cơ khí, chế tạo máy. Hàng dệt may xuất khẩu của nước ta thường xuất khẩu với số lượng lớn, nên thường chọn vận tải bằng đường biển vì chi phí thấp và có thể vận chuyển những khối lượng hàng hóa lớn . Vì vậy, mà ngành hàng hải cũng sẽ có nhiều điều kiện phát triển hơn. Góp phần giải quyết công việc cho người dân và cải thiện đời sống nhân dân Ngành dệt may là ngành sản xuất đòi hỏi nhiều nhân lực, cần rất nhiều những lao động khéo léo và cần cù, mà không đòi hỏi nhiều về trình độ. Điều này rất phù hợp với đặc điểm của lao động Việt Nam, đặc biệt là lao động nữ. Số lượng lao động nữ làm việc tại các doanh nghiệp dệt may thương chiếm trên 80%. Sự tăng nhanh chóng của kim ngạch dệt may xuất khẩu đã tạo ra một khối lượng việc làm khổng lồ cho nước ta, chủ yếu là cho những lao động giản đơn ở khu vực nông thôn. Nhiều người lao động có việc làm, có thu nhập ổn định, từ đó góp phần nâng cao đời sống nhân dân và giảm bớt được các tệ nạn xã hội. Xuất khẩu hàng may mặc phát triển tạo điều kiện mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế có tác động qua lại, phụ thuộc vào nhau, xuất khẩu cũng chính là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Hiện nay, hàng dệt may của Việt Nam có mặt tại hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ, do vậy, việc thúc đẩy xuất khẩu dệt may phát triển cũng đồng thời thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển. Để có thể xuất khẩu được thuận lợi và cạnh tranh với các đối thủ khác, giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ có xu hướng kí kết các Hiệp định, Nghị định thư…với các ưu đãi giành cho nhau. Từ đó các quan hệ kinh tế đối ngoại không ngừng được mở rộng và phát triển. II. CƠ CẤU HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM 1. CƠ CẤU HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU Nhu cầu về “mặc” là nhu cầu thiết yếu và không thể thay thế được của con người. Nhu cầu của người tiêu dùng hiện nay là “mặc đẹp” do đó họ có nhiều yêu cầu khác nhau về loại sản phẩm này. Các yêu cầu phong phú và đa dạng về chủng loại và chất liệu, tùy thuộc vào đặc điểm về văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo, khí hậu, tuổi tác, giới tính,…Điều này làm cho cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu rất đa dạng và phong phú về chủng loại phù hợp với các yêu cầu khác nhau. Trong những năm gần đây, các chủng loại hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của nước ta là: thứ nhất là áo thun( tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là 19.74%), thứ hai là quần dài(tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là17.37%), thứ ba là áo jacket(tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là 14.40%), thứ tư là áo sơ mi(tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là 5.98%). Ngoài ra, còn rất nhiều các chủng loại khác như: áo khoác(4.73%), váy(4.13%), vải(3.82%), quần áo trẻ em(3.34%), đồ lót(2.62%), quần áo vest(1.60%), quần áo thể thao(1.33%)…Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hầu hết đều tăng, số lượng thị trường và doanh nghiệp xuất khẩu hầu hết các mặt hàng tăng mạnh so với năm 2006. 2. CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM Năm 2007, đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ của cả nền kinh tế nói chung và dệt may Việt Nam nói riêng. Kim ngạch xuất khẩu dệt may đã vươn lên vị trí số 1 sau nhiều năm đứng sau dầu thô. Kể từ khi Hiệp định thương mại Việt Hoa Kỳ có hiệu lực năm 2002 đến năm 2007 là năm Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO, kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt Nam không ngừng gia tăng một cách nhanh chóng. Thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam không ngừng được mở rộng và gia tăng giá trị. Các thị trường xuất khẩu chủ lực của dệt may Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Ngoài ra, còn các thị trường khác như: Đài Loan, Hàn Quốc, Canada, Nga, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ… Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta tăng mạnh chủ yếu do xuất khẩu sang Hoa Kỳ bứt phá mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ năm đạt 4,47 tỷ USD, tăng 46,65% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức tăng 16,97% của năm 2006. Trong 3 thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam năm 2007, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt mức tăng trưởng cao nhất. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ tăng từ 52,18% trong năm 2006 lên 57,39% trong năm 2007. Điều này khẳng định, thị trường Hoa Kỳ đóng vai trò rất to lớn đến sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may nước ta. EU là thị trường lớn thứ 2 đối với xuất khẩu hàng dệt may nước ta. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU đạt 1,5 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt 19,74%, thấp hơn so với mức 37,46% của năm 2006 nên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang EU giảm từ 21,32% của năm 2006 xuống 19,14% trong năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản năm 2007 tăng 12,14% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức 3,93% của năm 2006. Giá trị hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đạt 700 triệu USD. Hiện tại, Nhật Bản là thị trường lớn thứ 3, chiếm 9,05% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta, giảm so với tỷ trọng năm 2006 là 10,76%. Như vậy, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may nước ta vào ba thị trường chủ lực là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản chiếm 85% tổng kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may. Điều đó cho thấy, rất nhiều thị trường khác đã được phát hiện nhưng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng vốn có như: Nga, châu Phi, châu Đại Dương… SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM Có thể coi 2007 là năm kỳ tích đối với ngành dệt may Việt Nam, lần đầu tiên vượt qua dầu thô trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, ước đạt 7,8 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2006. Thành tích này đã đưa Việt Nam từ thứ 16 lên top 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Đáng trân trọng hơn, những kết quả nói trên lại đạt được trong bối cảnh không thuận lợi, có rất nhiều áp lực, sóng gió từ thị trường nước ngoài đối với dệt may Việt Nam. Đầu tiên phải kể đến thị trường Hoa Kỳ, chiếm khoảng 55% kim ngạch xuất khẩu nước ta, vì thế, động thái của thị trường này ảnh hưởng mạnh mẽ và tức thì đến kế hoạch xuất khẩu dệt may. Ngay sau Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR tháng 11/2006, đồng nghĩa với xoá bỏ hạn ngạch dệt - may cho Việt Nam thì Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã đặt ra yêu cầu giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam 6 tháng 1 lần. Qui định này làm cho nhiều nhà nhập khẩu Hoa Kỳ lo ngại, quả bóng của “chương trình giám sát” có thể nổ bất cứ lúc nào. Cơ chế giám sát này còn được duy trì đến hết năm 2008. Điều lo ngại nhất của cơ chế giám sát là giành cho DOC quyền được tự khởi động điều tra chống bán phá giá mà không cần tham vấn bên phía Việt Nam. Hơn nữa, thời điểm công bố kết quả giám sát lại kéo quá dài. Thí dụ, chương trình giám sát hàng dệt may nước ta xuất khẩu vào Hoa Kỳ trong 6 tháng đầu năm 2007, đã được phía Hoa Kỳ đánh giá sơ bộ vào 1/7/2007. Thế nhưng, mãi đến 26/10/2007, DOC mới công bố quyết định “không tiến hành tự khởi động điều tra chống bán phá giá đối với 5 nhóm hàng: quần, áo sơ mi, đồ chơi, đồ lót, áo len”. Do đó, trong khoảng thời gian từ 1/1/2007 đến 26/10/2007, cả nhà nhập khẩu Hoa Kỳ và nhà xuất khẩu Việt Nam đều vừa làm, vừa ngóng. Thực tế, đã có những phần đơn hàng được nhà nhập khẩu tách ra, dịch chuyển sang thị trường lân cận để phân tán rủi ro. Cho đến nay, DOC vẫn chưa đưa ra bất kỳ một hành động cụ thể nào nhằm giảm bớt tiêu cực của cơ chế giám sát này, như: không giảm bớt số mặt hàng giám sát, không nêu các tiêu chí, điều kiện làm cơ sở tự khởi kiện điều tra v.v... Thị trường lớn thứ 2 là EU, chiếm 18% kim ngạch xuất khẩu dệt may nước ta, cũng sẵn sàng sử dụng biện pháp tự vệ để hạn chế nhập khẩu. Một yếu tố khác là ngày càng có nhiều sản phẩm dệt may của Trung Quốc bị từ chối hoặc đòi bồi thường vì không đảm bảo các tiêu chí về an toàn sức khoẻ và môi trường. Do đó, hàng dệt may những nước đang phát triển như Việt Nam, cũng nằm trong “tầm ngắm” của EU. Thị trường lớn thứ 3 là Nhật Bản, chiếm tỷ trọng 10%. Hiện Việt Nam là nhà xuất khẩu dệt may vào Nhật Bản lớn nhất khối ASEAN, chiếm 34%. Nhưng, khó khăn nhất là đến nay, Nhật Bản đã giảm thuế suất xuống 0% cho Xin-ga-po, Ma-lai-xia, In-đô-nê-xia, Bru-nây, Thái-lan vì các bên đã đạt được thoả thuận tiêu chí xuất xứ (xuất xứ cộng gộp từ Nhật và ASEAN đạt 40%), trong khi đó, hàng dệt may Việt Nam vẫn bị đánh thuế do 80% nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu ngoài ASEAN và Nhật Bản. Ngoài những khó khăn về thị trường nước ngoài, ngành dệt may nước ta còn chịu nhiều áp lực khác. Cụ thể là các mặt hàng nông sản và dầu thô nước ta có xu hướng giảm sản lượng xuất khẩu do khan hiếm nguồn cung. Vì thế, gánh nặng xuất khẩu nói chung, dồn sang vai những mặt hàng công nghiệp chủ lực, trong đó có dệt may. Do đó, bên cạnh việc thực hiện các biện pháp ứng phó với những khó khăn tại các thị trường chủ lực, ngành dệt may cần có các giải pháp để hướng thị trường của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam sang các quốc gia có nhiều tiềm năng nhập khẩu hàng dệt may khác, tránh tình trạng quá phụ thuộc và khi một trong các thị trường chủ lực gặp vấn đề sẽ có ảnh hưởng xấu tới toàn ngành. II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM 1.MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ Nhân tố chính trị, pháp luật Các nhân tố thuộc về môi trường chính trị, pháp luật là những điều kiện tiền đề ngoài kinh tế có tác động mạnh mẽ đến mở rộng hay kìm hãm sự phát triển cũng như khai thác các cơ hội kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may. Để hòa nhập với nền kinh tế thế giới và khẳng định nền kinh tế thị trường của Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương và chính sách nhằm cải thiện môi trường pháp lý và tăng cường các mối quan hệ quốc tế. Chủ trương hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi trong các quan hệ kinh tế quốc tế và tôn trọng quyền tự chủ của mỗi quốc gia đã giúp Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 140 nước thuộc các châu lục khác nhau trên thế giới. Các mối quan hệ ngoại giao này tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác, liên doanh, liên kết sản xuất kinh doanh và xuất khẩu giữa Việt Nam với các nước, tạo ra cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu dệt may nước ta nhiều cơ hội đầy triển vọng. Hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay chưa hoàn thiện và những quy định, chính sách trong quan hệ kinh tế đối ngoại lại liên tục thay đổi; thêm vào đó là những thủ tục hành chính rườm rà trong việc thực hiện các hoạt động xuất khẩu đã gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp trong việc tận dụng và phát triển các cơ hội kinh doanh trên trường quốc tế. Hiện nay, Nhà nước ta đã có những thay đổi trong chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu cũng như các chính sách trong việc định hướng hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu hàng dệt may. Một điểm đáng lưu ý về thị trường xuất khẩu hàng dệt may là các quốc gia có xu hướng bảo hộ trị trường trong nước bằng các biện pháp phòng vệ theo quy định của WTO và xây dựng các hàng rào mang tính kỹ thuật, môi trường ngày càng cao. Nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu, Chính phủ đã có nhiều biện pháp để các doanh nghiệp không mắc vào các vụ kiện bán phá giá và bị nước sở tại kiểm soát hàng dệt may xuất khẩu của nước ta. Chính phủ tăng các hoạt động ngoại giao, xúc tiến thương mại, hướng dẫn các doanh nghiệp hiểu và thực hiện đúng các quy định của nước sở tại, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất… Nhờ vậy, kim ngạch xuất khẩu những năm gần đây đã đạt những thành tích đáng khích lệ, đặc biệt là trong năm 2007. Tình hình ngoại thương và các chế định có liên quan Trong những năm vừa qua, tình hình xuất nhập khẩu của nước ta diễn ra khá nhộn nhịp và thu hút nhiều sự quan tâm của người dân cũng như các chuyên gia và cả Chính phủ. Cán cân thương mại tiếp tục âm, nhập siêu gia tăng, đòi hỏi nước ta phải tiếp tục gia tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu. Dệt may sẽ là mặt hàng xuất khẩu chủ lực đứng ở vị trí số 1 và tiếp tục được thúc đẩy để phát triển, trong khi đó thì xuất khẩu dầu thô và than đá( nhóm ngành nguyên nhiên liệu) sẽ tiếp tục giảm kim ngạch xuất khẩu. Theo đó, dệt may Việt Nam cần tiếp tục tăng xuất khẩu và gia tăng giá trị của sản phẩm, tiếp tục mở rộng các thị trường mới và nâng cao thị phần tại các thị trường quen thuộc. Các chế định có liên quan như chính sách thuế, các hàng rào phi thuế quan, chính sách tỉ giá hối đoái, cán cân thương mại quốc tế… Những vấn đề này đặc biệt quan trọng với các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là với mặt hàng nhạy cảm như hàng dệt may xuất khẩu. Chẳng hạn, chính sách duy trì đồng nội tệ ở mức quá cao có thể sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu, hạn chế khả năng cạnh tranh của hàng dệt may nước ta. 2.MÔI TRƯỜNG VI MÔ 2.1 Năng lực về vốn, công nghệ và nguồn nhân lực Muốn tiến hành bất cứ công việc gì thì yếu tố đầu tiên có vai trò quan trọng nhất là con người hay nguồn nhân lực, sau đó đến vốn và những thiết bị, công nghệ phục vụ sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt, trong kinh doanh hàng dệt may xuất khẩu, những yếu tố này là vũ khí sắc bén thể hiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên trường quốc tế và là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chiến lược và thời cơ xuất khẩu. Nền kinh tế mở khiến các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu phải tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao nhưng giá thành lại thấp mới có khả năng cạnh tranh. Do vậy, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu dệt may phải luôn nhạy bén, linh hoạt và cần chú trọng đầu tư vào vốn, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực lành nghề, có trình độ để phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Có vốn, hoạt động sản xuất và kinh doanh được mở rộng, các nguồn hàng cho xuất khẩu phong phú, đa dạng hơn, chất lượng cao hơn đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ sẽ làm tăng năng suất và chất lượng của hàng dệt may xuất khẩu. Công tác đàm phán, giao dịch với khách hàng cũng nhanh chóng, thuận lợi hơn khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển. Từ đó, thị trường xuất khẩu sẽ được mở rộng sang các nước và khối nước có nhu cầu cao về hàng dệt may của chúng ta mà trước kia chúng ta không vào được. Nguồn nhân lực là yếu tố trọng tâm thực hiện hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may xuất khẩu. Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, người lao động có tính khéo léo, cần cù, chịu khó và có khả năng nắm bắt nhanh những tiến bộ khoa học công nghệ. 2.2 Đối thủ cạnh tranh Nền kinh tế tăng trưởng cao, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may không ngừng gia tăng qua từng năm, điều đó cho thấy sự phát triển thuận lợi của ngành công nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Hiện nay, nước ta ngày càng xuất hiện nhiều hơn các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Điều này tạo ra một môi trường kinh doanh bên trong khá mạnh mẽ, cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn để giành đơn hàng, phát hiện và mở rộng các thị trường mới, thị phần tại các thị trường quen thuộc cũng phải chia sẻ. Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất hàng dệt may xuất khẩu phải không ngừng hoàn thiện hơn nữa các sản phẩm của mình và tích cực trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường. Do đó, cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam sẽ có những thay đổi trong thời gian tới. 3.MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ 3.1 Nhân tố về xu hướng phát triển thị trường hàng dệt may thế giới Trên thế giới, việc sản xuất hàng dệt may đang có xu hướng tiếp tục chuyển dịch sang các nước có lợi thế hơn về giá nhân công và chi phí sản xuất. Trước đây, việc sản xuất hàng dệt may được chuyển từ các nước phát triển sang các nước NICs và hiện nay có xu hướng chuyển dịch sang các nước đang phát triển. Theo các chuyên gia đầu ngành thế giới về hàng dệt may, sau nhiều cuộc thảo luận tại các hội thảo chuyên đề, đã thống nhất xu hướng phát triển chính trên thị trường hàng dệt may thế giới: Một là, hàng may mặc theo phong cách phương tây sẽ tăng lên; hai là, kiểu trang phục công sở sẽ ngày càng phổ biến; ba là, thẩm mĩ của lứa tuổi trung niên và cao niên được cải thiện; bốn là, hàng dệt may cho trẻ em làm thay đổi khái niệm về tiêu dùng và thiết kế; năm là,vải, sợi, phụ liệu, thiết kế, kiểu dáng, kỹ thuật sẽ có những bước đột phá; sáu là, đồ thể thao vẫn được ưu chuộng; bẩy là, hàng may đo vẫn sẽ thông dụng. Cùng với các nhận định đó, các chuyên gia cũng đưa ra những nhận định về xu hướng cạnh tranh trên thị trường hàng dệt may thế giới. Theo đó, sản phẩm dệt may của các nước đang phát triển ở châu Á gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam… sẽ cạnh tranh gay gắt với các nước châu Hoa Kỳ La tinh ở các thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn trên thế giới là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Canada… Trong đó, Trung Quốc là nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới và cũng đang có nhiều lợi thế cạnh tranh. Mặt khác, hàng dệt may của các nước phát triển vẫn có xu hướng được bảo hộ dưới nhiều hình thức như luật về xuất xứ hàng hóa (Nhật Bản đang áp dụng), các quy định về chống bán phá giá (Hoa Kỳ, EU…), các quy định về môi trường, về luật lao động, mức thuế cao… tạo ra những rào cản đáng kể với hàng dệt may xuất khẩu của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. 3.2 Nhân tố về xu hướng tự do hóa mậu dịch Cùng với những nỗ lực tham gia vào AFTA, thực hiện tiến trình CEPT,thực hiện các thỏa thuận đã đạt được khi gia nhập WTO, hàng dệt may Việt Nam sẽ có rất nhiều điều kiện thuận lợi khi xuất khẩu. Tuy nhiên, điều này khiến các biện pháp bảo hộ hàng dệt may trong nước phải thay đổi cho phù hợp với điều kiện hội nhập, đó là từ năm 2006 hàng dệt may trong nước chỉ được bảo hộ ở mức 5%. Mặt khác, theo Hiệp địnhATC/WTO, bắt đầu thực hiện từ năm 2005, các nước phát triển sẽ dỡ bỏ rào cản hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may cho các nước là thành viên WTO. Việc gia nhập WTO đã và đang giúp hàng dệt may Việt Nam được hưởng những ưu đãi trong việc xuất khẩu hàng dệt may vào ba thị trường trọng điểm là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt mayxuất khẩu của Việt Nam với các nước trong khu vực có tiềm năng xuất khẩu hàng dệt may. 3.3 Nhân tố các đối thủ cạnh tranh Những đối thủ cạnh tranh với hàng dệt mayxuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các nước ở khu vực châu Á, tiêu biểu như: Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, và các nước thành viên khác của ASEAN như Xin-ga-po, Ma-lai-xia, In-đô-nê-xia, Bru-nây, Thái-lan, Cam-pu-chia. Các quốc gia này có nhiều điều kiện thuận lợi hơn Việt Nam trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may như: họ sẵn có thị trường tiêu thị, chi phí sản xuất và giá nhân công không cao, những điều kiện khác phục vụ sản xuất cũng có ưu thế hơn nước ta. Mặt khác, các nước này hầu hết đã tự túc được những nguyên phụ liệu có chất lượng cao phục vụ sản xuất hàng dệt mayxuất khẩu nên sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao. Trong khi đó, theo tính toán thì khoảng 10 năm nữa Việt Nam mới có thể tự túc hoàn toàn các nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất hàng dệt mayxuất khẩu Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn nhất thế giới đối với hàng dệt mayxuất khẩu của Việt Nam, nơi được coi là công xưởng của thế giới trong thế kỷ 21. So với Việt Nam, giá cả lao động trong ngành dệt may Trung Quốc thấp hơn, mẫu mã sản phẩm cũng phong phú hơn, công nghệ sản xuất tiên tiến, chủ động về nguồn nguyên phụ liệu… nên hàng dệt may Trung Quốc đang tràn ngập trên thế giới và ngay cả tại thị trường Việt Nam, làm cho hàng dệt may Việt Nam khó có thể cạnh tranh ngay cả trên sân nhà. 3.4 Nhân tố quan hệ kinh tế-thương mại giữa Việt Nam với các nước Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa , khu vực hóa ngày càng sâu rộng thì quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế -thương mại giữa các quốc gia ngày càng mạnh mẽ và chặt chẽ hơn. Sự hợp tác trên là điều kiện thúc đẩy nền kinh tế của từng quốc gia phát triển và nền kinh tế thế giới cũng có những biến chuyển tích cực. Có vị trí địa lí thuận tiện, Việt Nam được coi là cửa ngõ để các quốc gia tiến vào thị trường ASEAN và châu Á. Việt Nam là bạn hàng quan trọng với nhiều quốc gia trong kinh tế-thương mại quốc tế. Do đó, hàng dệt mayxuất khẩu của Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển và phát triển thị trường. Việt Nam liên tục mở rộng quan hệ với tất cả các nước và vùng lãnh thổ: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, châu Phi, châu Đại Dương… với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong đó có hàng dệt may. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA I. ĐẶC ĐIỂM HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam phong phú, đa dạng về chủng loại và chất lượng. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu về hàng dệt may ngày càng phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào đặc điểm về văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo, khí hậu, tuổi tác, giới tính,… Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may cần phải không ngừng nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu cầu của từng nhóm đối tượng khách hàng để thỏa mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng. Có vậy, doanh nghiệp mới có thể tồn tại được trong thời kỳ cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Các sản phẩm dệt may của Việt Nam chưa mang tính thời trang cao Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu làm đẹp của con người càng được chú trọng và quan tâm nhiều hơn. Các sản phẩm dệt may hiện nay không chỉ đơn thuần là một công cụ để che thân mà công dụng chủ yếu của nó hiện nay là thể hiện cái đẹp, cá tính của mỗi người. Vì vậy, việc nắm bắt được xu hướng thời trang quốc tế là công cụ hữu hiệu để phát triển xuất khẩu hàng dệt may. Tuy nhiên, công việc này ở Việt Nam hiện nay chưa thực sự có hiệu quả. Chúng ta thiếu nhiều các nhà tạo mẫu chuyên nghiệp, bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam mới chỉ chú ý làm hàng gia công cho đối tác nước ngoài mà chưa làm theo chu trình khép kín: thời trang-thiết kế-thương hiệu. Do đó chúng ta cần phát triển đội ngũ thiết kế thời trang cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động sản xuất thương mại sản phẩm thời trang và xây dựng hình ảnh ngành thời trang Việt Nam, xây dựng thương hiệu doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm. Lợi thế cạnh tranh hiện nay của các sản phẩm dệt may của nước ta chủ yếu là từ lợi thế về nhân công giá rẻ Lao động trong ngành dệt may không đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật, mà chủ yếu đòi hỏi sự cần cù, khéo léo. Ngành công nghiệp dệt may cũng sử dụng rất nhiều lao động, đa số là lao động nữ. Lợi thế về lao động ( nhân công dồi dào, giá rẻ) có ở hầu hết các nước đang phát triển. Ngành dệt may nước ta tận dụng khá tốt lợi thế này, nhưng trong tương lai cạnh tranh về giá cả không được đặt lên hàng đầu thì ngành dệt may Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, ngay từ bây giờ chúng ta phải tận dụng và tạo ra các lợi thế khác để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm như: nguyên liệu, thiết kế, thời trang, thương hiệu… Có vậy, chúng ta mới có thể cạnh tranh với sản phẩm dệt may của Trung Quốc . II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU 1.THỜI KỲ TRƯỚC BTA CÓ HIỆU LỰC ( trước 2002) Năm 1992 là thời điểm vàng, mở ra cơ hội xuất khẩu các sản phẩm dệt may Việt Nam với việc ký kết Hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU. Từ năm 1993, hàng dệt may Việt Nam bắt đầu tim đường ra thế giới, và đến năm 1996, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu vượt ngưỡng 1 tỷ USD (đạt 1,15 tỷ USD). Sản phẩm dệt may từ vị trí khiêm tốn trong các sản phẩm xuất khẩu chủ lực vào thời điểm trước năm 1990 (chủ yếu xuất khẩu sang Liên Xô và Đông Âu) đã vươ lên vị trí số 1 trong những năm 199._.6, 1997 và ổn định ở vị trí thứ 2 từ năm 1998 đến năm 2006 đạt mức tăng trưởng hàng năm 23,8%. Năm 2001, xuất khẩu dệt may đạt 1,96 tỷ USD gấp 16 lần so với năm 1990. Đến năm 2001, sản phẩm dệt may Việt Nam đã có mặt ở trên 100 nước và vùng lãnh thổ tại hầu khắp các châu lục so với ganad 30 nước ở thời điểm năm 1990. Bảng 2:Các thị trường nhập khẩu chủ yếu hàng dệt may Việt Nam từ 1996 đến 2001 Đơn vị: triệu USD 1996 1997 1998 1999 2000 2001 KN XK 1150 1349 1351 1747 1892 1962 EU 225 410 521 555 609 599 Nhật Bản 248 325 321 417 620 588 USA 9,1 12 26 34 49,5 44,6 Các TT # 668 602 483 387,3 613 730,4 * Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam Sản phẩm dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang hai khu vực thị trường chính: thị trường có hạn ngạch do nước nhập khẩu ấn định số lượng từng loại sản phẩm như EU, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ và thị trường không hạn ngạch như châu Á, châu Hoa Kỳ, Nhật Bản EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất, chiếm 80% tổng kim ngạch xuất khẩu có hạn ngạch của Việt Nam, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân 23%/năm. Tuy nhiên, nếu nhìn từ phía EU thì giai đoạn trước 2001, Việt Nam chỉ là nhà xuất khẩu lớn thứ 16 và chiếm 0,5% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của EU. Trong đó, Đức là nước nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, chiếm 41% tổng giá trị xuất khẩu sang EU, tiếp theo là Pháp 14%, Hà Lan 12%, Italia 9%. Bảng 3:Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU Đơn vị: triệu USD Năm Xuất khẩu vào EU Tăng (%) So với tổng kn (%) 1994 298 19,2 54,2 1995 355 19,1 47,3 1996 428 20,6 37,2 1997 460 7,5 34,1 1998 546 18,7 40,4 1999 605 10,8 35,96 2000 650 7,4 35,7 * Nguồn: Bộ Thương Mại và Tổng cục Hải Quan Kim ngạch xuất khẩu sang EU bắt đầu tăng mạnh kể từ khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may được ký tắt vào tháng 12-1992 và liên tục được điều chỉnh, bổ sung cho từng giai đoạn. Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực thời gian nay là những hàng quen làm, dễ thu lợi nhuận chiếm tới 70% giá trị kim ngạch như: áo Jacket (51,7%), áo sơ mi (11%), quần âu (5%), áo len và áo dệt kim (3,9%), T-shirt và Polo-shirt (3,4%). Các sản phẩm có yêu cầu phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam vẫn chưa sản xuất được, hoặc sx với tỉ lệ rất nhỏ. Nhật Bản là thị trường nhập khẩu không hạn ngạch về hàng dệt may lớn nhất thế giới. Với Việt Nam, Nhật Bản là thị trường có kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ hai. Năm 1994,1995, Việt Nam có mặt trong số 10 nước dẫn đầu về xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này,đến năm 1996 vươn lên vị trí thứ 8, năm 1997 xếp vị trí thứ 7, và từ đó đến năm 2001 giữ vị trí thứ 5. Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản 1996-1999 Đơn vị: Tấn, Triệu Yên 1996 1997 1998 1999 SL GT SL GT SL GT SL GT Dệt kim 299.344 782.147 275.135 770.204 296.950 783.120 349.540 719.312 Dệt thoi 334.608 1.062.748 292.937 995.128 272.126 906.234 331.989 902.649 Tổng 633.952 1.844.895 568.072 1.765.332 569.075 1.683.353 681.529 1.621.960 * Nguồn: Thống kê nhập khẩu Nhật Bản Hoa Kỳ là thị trường đầy tiềm năng và triển vọng với các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam nhưng trong giai đoạn này, thị trường Hoa Kỳ là thị trường phát triển chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Trước khi Hiệp định Thương mại Việt - Hoa Kỳ có hiệu lực, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, chiếm chưa đến 1% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm hàng dệt may của Hoa Kỳ. Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ 1998-2001 Đơn vị: Triệu USD Năm Xuất khẩu vào Hoa Kỳ Tăng (%) So với tổng kn(%) 1998 26.343.025 116.67 1.92 1999 34.707.574 30.77 1.95 2000 49.569.346 44.12 2.6 2001 47.461.297 -4 2.4 * Nguồn: Tổng cục Hải Quan 2.THỜI KỲ SAU BTA VÀ TRƯỚC KHI GIA NHẬP WTO(2002-2006) Trong giai đoạn này, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may luôn đứng thứ hai sau dầu thô. Kim ngạch xuất khẩu tính chung 5 năm đạt khoảng 22 tỷ USD, bình quân 4,4 tỷ USD/ năm ( riêng năm 2006 đạt 5,834 tỷ USD), chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu với tốc độ tăng bình quân hàng năm 20%. Hàng dệt may được xuất khẩu tới 170 nước và vùng lãnh thổ, và có sự biến động lớn về cơ cấu thị trường những năm gần đây theo hướng gia tăng ở thị trường Hoa Kỳ, giảm ở thị trường EU, Nhật Bản, Đài Loan, Han Quốc. Thị trường Hoa Kỳ chiếm khoảng 54-56% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, EU là 19% ( trước là 30-35%), Nhật Bản 13%, Đài Loan 4%. Trong nhóm hàng dệt may xuất khẩu thì hàng gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 90-95%, hàng mua đứt bán đoạn vẫn còn thấp nên lượng ngoại tệ thực thu không nhiều, hiệu quả thấp. Xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đã và đang phải cạnh tranh với một số nước và vùng lãnh thổ như Trung Quốc( kim ngạch xuất khẩu 40 tỷ USD, chiếm 20% thị phần thế giới) và Hồng Kông, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Băng la det, Mê hi cô, Căm pu chia. Nhìn lại quá trình phát triển xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ có thể nhận thấy hai mốc dáng nhớ, đó là thời điểm BTA có hiệu lực ngày 10/12/2001 và thời điểm Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO vào đầu năm 2007. Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ   (Đơn vị tính: 1.000 USD,) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Giá trị 47400 975700 1973600 2474382 2602902 3044579 (Nguồn: Tổng cục Hải quan và Bộ Công Thương Việt Nam) Bảng thống kê trên cho thấy, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ tăng vọt hơn 20 lần ngay năm đầu tiên khi BTA có hiệu lực (từ 47,4 triệu USD lên 975,7 triệu USD), tiếp đó đều duy trì mức tăng trưởng đều đặn đến năm 2006. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đạt 5,834 tỷ USD, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng trưởng 20,5% so với 2005. Trong đó, thị trường Mỹ đạt khoảng 3,044 tỷ (chiếm 55%), EU: 1,243 tỷ (20%); Nhật: 628 triệu USD (11%); ASEAN: 107 triệu USD (2%)... Hiện Hoa Kỳ là nước tiêu thụ lớn nhất thế giới về hàng dệt may với tổng giá trị tiêu thụ khoảng 190 tỷ USD, trong khi đó sản xuất nội địa chỉ cung cấp khoảng 105 tỷ USD, do vậy để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng năm nước này vẫn phải nhập khẩu hàng dệt may khoảng 85 tỷ USD. Các nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu chính hàng dệt may vào Hoa Kỳ hiện là Trung Quốc, Mexico, Ấn Độ, Hồng Kông, Indonesia, Việt Nam… Theo các chuyên gia, trong các nước ASEAN, Việt Nam được xem là có khả năng cạnh tranh được với Trung Quốc và Ấn Độ về hàng dệt may tại Hoa Kỳ. Hiện nay xuất khẩu dệt may của Việt Nam chiếm 3,26% tổng hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ, đứng thứ 4 sau Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang EU, hàng dệt may có kim ngạch đứng thứ hai sau giày dép. Số liệu thống kê cho thấy, nếu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU chỉ đạt 537,1 triệu USD, đến năm 2004 đã tăng lên mức 760 triệu USD, năm 2005 tiếp tục tăng lên mức 882,8 triệu USD, năm 2006 vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD (đạt 1,245 tỷ USD), năm 2007 đạt 1,49 tỷ USD, tăng 19,74% so năm 2006, tăng 62,2% so năm 2005, gấp gần 3 lần so năm 2003. Theo các chuyên gia Vụ Xuất- nhập khẩu, đặc điểm của khu vực thị trường EU là nhiều thị trường “ngách” có mức sống và nhu cầu hàng dệt may rất đa dạng từ hàng có phẩm cấp thấp đến hàng có chất lượng cao phù hợp năng lực sản xuất nhiều thành phần của Việt Nam. 3.THỜI KỲ SAU GIA NHẬP WTO (2007 đến nay) Sau một năm gia nhập WTO, dệt may Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2007 đạt 7,78 tỷ USD, tăng 33,35% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức 20% của năm 2006. Như vậy, năm 2007, ngành công nghiệp dệt may nước ta vượt 280 triệu USD so với mục tiêu. Đáng chú ý, có những tháng, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã vượt qua dầu thô để trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Bảng 7: Diễn biến kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam  * Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta tăng mạnh chủ yếu do xuất khẩu sang Hoa Kỳ bứt phá mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê, Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ năm đạt 4,47 tỷ USD, tămg 46,65% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức tăng 16,97% của năm 2006. Trong 3 thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam năm 2007, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt mức tăng trưởng cao nhất. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ tăng từ 52,18% trong năm 2006 lên 57,39% trong năm 2007. Điều này khẳng định, thị trường Hoa Kỳ đóng vai trò rất to lớn đến sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may nước ta. EU là thị trường lớn thứ hai đối với xuất khẩu hàng dệt may nước ta. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt 19,74%, thấp hơn so với mức 37,46% của năm 2006 nên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang EU giảm từ 21,32% của năm 2006 xuống 19,14% trong năm 2007. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản tăng 12,14% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức 3,93% của năm 2006. Hiện tại, Nhật Bản là thị trường lớn thứ 3, chiếm 9,05% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi không phải là thị trường lớn đối với xuất khẩu hàng dệt may của nước ta trong năm 2007 nhưng có mức tăng trưởng kim ngạch rất cao, tăng lần lượt 563,8% và 294,27% so với năm 2006, cao hơn mức tăng trưởng 134,99% và 124,38% của năm 2006. Trong số những thị trường nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam, Đài Loan là một trong số ít thị trường bị giảm kim ngạch trong 2 năm liên tiếp. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Đài Loan giảm 0,95% so với năm 2005. Năm 2007, mức giảm là 11,18%. III. THỰC TRẠNG CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG DỆT MAY CHỦ YẾU VÀ CÁC THỊ TRƯỜNG CHÍNH THỰC TRẠNG CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG DỆT MAY CHỦ YẾU Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu 2 chủng loại hàng dệt may chủ yếu của nước ta đều tăng so với năm 2006, nhất là mặt hàng áo thun. Ngoài các mặt hàng chính, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng váy, quần áo trẻ em, quần áo ngủ, găng tay, khăn, quần Jean, áo nỉ và bít tất có tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều so với năm 2006. Bên cạnh đó, số lượng thị trường và doanh nghiệp xuất khẩu hầu hết các mặt hàng tăng mạnh so với năm 2006. (Xem thêm Phụ lục). 1.1 Áo thun Năm 2007, xuất khẩu áo thun của cả nước ước đạt 1.535.519.704 USD, tăng hơn 62,41% so với năm 2006, trở thành mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 19.74% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Kim ngạch xuất khẩu áo thun sang thị trường Mỹ trong năm 2007 đạt khoảng 1 tỷ USD, tăng 44,5% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm tới 75% tổng kim ngạch xuất khẩu áo thun của Việt Nam. Có thể nói, việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và thông qua Quy chế Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) của Việt Nam đã tháo gỡ khó khăn cho ngành dệt may nói chung và mặt hàng áo thun nói riêng khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Dự đoán, năm 2008, xuất khẩu áo thun của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng mạnh, đặc biệt xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Việt Nam sẽ trở thành 1 trong những nguồn cung cấp áo thun chính cho thị trường này (hiện Việt Nam đang đứng thứ 5 sau Hônđurát, Mêhicô, Guatêmala và El Sanvađo về xuất khẩu áo thun sang Mỹ). Kim ngạch xuất khẩu áo thun sang EU năm 2007 cũng tăng đáng kể, đạt hơn 200 triệu USD, tăng 79% so với năm 2006, trong đó, xuất khẩu sang Đức, Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan và Pháp đều tăng khá, đặc biệt là xuất khẩu sang Đức và Anh đạt lần lượt là 50.5 triệu USD và 40 triệu USD, tăng 151% và 56% so với năm 2006. Như vậy, với việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng áo thun vào hai thị trường khó tính nhất là Mỹ và EU cũng như các thị trường khác như Nhật Bản, Canađa, Hàn Quốc… đã khẳng định chất lượng sản phẩm áo thun của Việt Nam được các bạn hàng ưa chuộng và tin dùng. 1.2 Quần dài Kim ngạch xuất khẩu quần dài trong những năm gần đây vẫn luôn vững vàng ở trong top những mặt hàng dệt may xuất khẩu chính. Đây là mặt hàng có tốc độ tăng khá đều qua các năm, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng quần dài đạt 1.063.976.168 USD, tăng khoảng 27.10% so với năm 2005, chiếm khoảng 18.24% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Năm 2007, xuất khẩu quần dài chiếm vị trí thứ hai trong các mặt hàng dệt may xuất khẩu, sau mặt hàng áo thun. Giá trị xuất khẩu của mặt hàng quần dài đạt 1.351.295.436 USD, tăng khoảng 27% so với năm 2006, chiếm tỷ trọng khoảng 17.37%. 1.3 Áo jacket Kim ngạch xuất khẩu áo jacket của Việt Nam trong năm 2007 đạt khoảng 1.2 tỷ USD, tăng 30% so với năm 2006, trở thành mặt hàng đạt kim ngạch cao thứ ba (sau quần và áo thun), chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam.Giá xuất khẩu trung bình áo jacket năm 2007 đạt 12,5 USD/chiếc, tăng 8% so với năm 2006 (11,8 USD/chiếc). Năm 2007, áo jacket của Việt Nam đã được xuất khẩu tới 55 thị trường trên khắp thế giới.  Xuất khẩu áo jacket của Việt Nam trong năm 2007 sang thị trường Mỹ đạt gần 620 triệu USD, tăng 37.78% so với năm 2006, chiếm tới 52% tổng kim ngạch xuất khẩu áo jacket của Việt Nam. Cùng thời gian này xuất khẩu sang EU cũng tăng khá mạnh, đạt 350 triệu USD, tăng 47.5%, trong đó xuất sang 3 thị trường Đức, Tây Ban Nha và Anh chiếm trên 57% tổng kim ngạch xuất khẩu áo jacket sang khối EU, đạt kim ngạch lần lượt 110.4 triệu USD; 50 triệu USD và 40.2 triệu USD. Mỹ và EU là hai thị trường xuất khẩu áo jacket chủ yếu của Việt Nam trong nhiều năm qua với lượng xuất khẩu tăng khá theo từng năm, đồng thời cũng là hai thị trường khó tính nhất. Vì vậy, sự tăng trưởng khả quan xuất khẩu mặt hàng áo jacket của Việt Nam trong thời gian qua đã khẳng định được phần nào khả năng cạnh tranh của loại sản phẩm này của Việt Nam trên thị trường quốc tế. 1.4 Áo sơ mi Trong năm 2007, kim ngạch xuất khẩu áo sơ mi của nước ta đạt 465,21 triệu USD, tăng 11,52% so với năm 2006, cao hơn mức tăng 5,09% của năm 2006. Áo sơ mi là chủng loại hàng dệt may xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam trong năm 2007, chiếm 5,98% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu áo sơ mi trong năm 2007 (ĐVT:triệu USD) Trong năm 2007, áo sơ mi của nước ta được xuất khẩu tới 95 thị trường trên thế giới. Thứ hạng các thị trường nhập khẩu áo sơ mi của Việt Nam không có biến động đáng kể nào so với năm 2006. Mỹ là thị trường nhập khẩu áo sơ mi lớn nhất của Việt Nam, đạt kim ngạch 204,25 triệu USD, tăng 18,67% so với năm 2006 và chiếm 43,9% kim ngạch xuất khẩu áo sơ mi của cả nước. Giá xuất khẩu áo sơ mi sang thị trường Mỹ năm 2007 giảm nhẹ so với năm 2006 đạt trung bình 4,6 USD/chiếc, thấp hơn 1,92 USD/chiếc so với giá xuất khẩu trung bình sang Đức và thấp hơn 2,16 USD/chiếc so với giá xuất khẩu trung bình sang thị trường Nhật Bản. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu áo sơ mi sang Đức và Nhật Bản, thị trường nhập khẩu áo sơ mi lớn thứ 2 và thứ 3 của Việt Nam, đạt kim ngạch 54,56 triệu USD và 49,69 triệu USD, tăng nhẹ so với năm 2006. Giá xuất khẩu áo sơ mi sang 2 thị trường này khá cao, phổ biến ở mức 6-7 USD/chiếc. Trong 10 thị trường nhập khẩu áo sơ mi lớn nhất của Việt Nam năm 2007, xuất khẩu sang thị trường Tây Ban Nha có tốc độ tăng trưởng cao nhất 40,87% so với năm 2006. Tây Ban Nha là thị trường nhập khẩu áo sơ mi lớn thứ 4, chiếm 3,82% kim ngạch xuất khẩu áo sơ mi của Việt Nam. Năm 2007, xuất khẩu áo sơ mi tới một số thị trường như Hồng Kông, Thổ Nhĩ Kỳ, Thuỵ Điển, CH Séc...tuy đạt kim ngạch thấp nhưng lại có tốc độ tăng trưởng kim ngạch rất cao. Năm 2008, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại để tăng kim ngạch xuất khẩu sang những thị trường này 2.THỰC TRẠNG CÁC THỊ TRƯỜNG CHÍNH Năm 2007 là năm thành công của ngành dệt may Việt Nam trên thương trường quốc tế với việc đem về 7,8 tỷ ngoại tệ và lọt vào Top 10 “đại gia” xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới. Đây là cơ sở để Bộ Công thương đặt ra chỉ tiêu 9,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cho năm 2008. Mặc dù tự nhận mục tiêu này khả thi nhưng năm 2008 vẫn được dự báo là năm “căng thẳng” với ngành dệt may khi khó khăn đã “lộ diện” ở cả ba thị trường chủ chốt. “Việt Nam đang đứng trong top 10 trong số 56 nước sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Dự tính, năm 2010, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sẽ đạt 25 tỷ USD, lọt vào top 5 các nhà xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới” - Thứ trưởng Bộ Công thương Bùi Xuân Khu Hoa Kỳ: Lơ lửng “lưỡi gươm” giám sát. Với 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành năm 2007, tốc độ tăng trưởng đều hàng năm, Hoa Kỳ đã và sẽ luôn thị trường số 1 trong mọi mục tiêu, kế hoạch của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may. Tuy nhiên, Hoa Kỳ không phải là thị trường tự do. Suốt năm 2007, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã duy trì Chương trình Giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và nhiều khả năng sẽ tiếp tục đến hết năm 2008. Tuy chỉ là giám sát số liệu và chưa phát hiện được vấn đề gì nhưng chương trình này đã thực sự khiến nhiều nhà nhập khẩu e dè, thậm chí rút lại đơn hàng đã đặt trước, chuyển sang nước khác ít bị rủi ro hơn. Bằng chứng là số lượng đơn hàng đã giảm mạnh khi Hoa Kỳ chính thức áp dụng cơ chế giám sát đặc biệt lên 5 năm nhóm hàng bao gồm: quần, áo sơmi, đồ lót, đồ bơi và áo len. Trong năm nay, “lưỡi gươm giám sát” càng trở nên đáng lo ngại hơn khi tốc độ tăng trường dệt may đã dồn dập lên đến 30-40% trong 6 tháng cuối năm 2007. Đó là tốc độ gây chú ý, rất dễ dẫn đến khả năng Bộ Thương mại Hoa Kỳ có những động thái kìm hãm số lượng nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. Nguy cơ lơ lửng trên đầu tất cả các doanh nghiệp. Vì thế, Bộ Công thương và Hiệp hội Dệt may đang ra sức kêu gọi doanh nghiệp tránh những “chiếc bẫy giá thấp”. Thực tế, những đơn hàng lớn nhưng có giá trị thấp dễ trở thành cơ sở để Hoa Kỳ khởi động một vụ kiện chống bán phá giá. Thậm chí một chuyên gia còn cho rằng, Việt Nam tăng trưởng bao nhiêu, hàng dệt may xuất khẩu bao nhiêu không quan trọng bằng việc duy trì một mức giá cao, tránh mức giá thấp để Hoa Kỳ có cớ “siết” chặt thị trường. EU: Nguy cơ về tay Trung Quốc. Xếp thứ hai trong các thị trường xuất khẩu chính của dệt may Việt Nam là EU. Hiện nhu cầu dệt may của EU khá đa dạng, các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều bạn hàng quen thuộc. Tuy nhiên, mọi sự sẽ không còn thuận lợi như trước bởi kể từ năm nay EU sẽ chính thức bỏ hoàn toàn việc áp dụng hạn ngạch với hàng dệt may Trung Quốc. Khi “công xưởng dệt may” lớn nhất và rẻ nhất thế giới được “tháo cũi sổ lồng” cũng là lúc các nhà xuất khẩu dệt may khác trong đó có Việt Nam phải lo ngại. Bởi Trung Quốc không chỉ là quốc gia có nguồn nhân lực khổng lồ, năng suất lao động cao mà còn tự chủ được hầu hết nguyên vật liệu và có khả năng “ôm” những đơn hàng lớn. Trung Quốc cũng là nhà xuất khẩu dệt may có khả năng “bao thầu” được hết các phẩm cấp hàng hóa từ bình dân đến cao cấp. Ông Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Vinatex Vũ Đức Giang lo ngại khi nhắc đến thị trường EU: “Tuy chỉ chiếm 20% tổng kim ngạch nhưng nếu không làm tốt thì các đơn hàng sẽ “quay về” với người Trung Quốc”. Nhật Bản: Sức ép “hai công đoạn”. Mặc dù chiếm tỉ trọng khiêm tốn nhưng Nhật Bản vẫn là thị trường chính thứ 3 của ngành dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng được mối quan hệ lâu dài với các đối tác và gây dựng được niềm tin đối với khách hàng Nhật. Nhưng cũng như EU, thị trường Nhật Bản đang mở ra nhiều cơ hội tốt hơn cho các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam. Nguyên do là Nhật Bản đã ký với 6 nước ASEAN bao gồm Singapore, Malaysia, Philippines, Inodnesia, Brunei và Thái Lan một hiệp định trong đó họ chỉ phải chịu mức thuế 0% nếu đạt được hai công đoạn “sản xuất tại các nước đã ký Hiệp định” và có 20% nguyên phụ liệu cũng xuất xứ từ các nước trên. Như vậy trong khi hàng dệt may Việt Nam vẫn bị đánh thuế 10% thì các đối thủ của ta lại chẳng mất đồng thuế nào. Rõ ràng bất lợi thuộc về các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Hiện Chính phủ đang nỗ lực đàm phán để Việt Nam được tham gia thỏa thuận này, khả năng sẽ kết thúc trong năm 2008. Nhưng câu chuyện không dễ dàng đến thế. Bởi ngay cả khi đạt được thỏa thuận thì việc Việt Nam có đạt tiêu chuẩn hay không lại là chuyện khác. Vì muốn được tham gia “Hiệp định 0%” đó, hàng dệt may Việt Nam phải thỏa mãn “hai công đoạn” nói trên. Và tới đây, nhược điểm bao năm của ngành dệt may đã bộc lộ rõ rệt. Đó là phần lớn nguyên vật liệu dệt may của Việt Nam phải nhập khẩu trong đó có tới trên 80% ngoài Nhật và ASEAN. Nhưng dù đạt được tiêu chuẩn hai công đoạn hay không thì trước mắt, ít nhất là trong suốt năm 2008, hàng dệt may Việt Nam sẽ phải chịu sự cạnh tranh không công bằng với 6 đối thủ đến từ ASEAN. Tổng hợp thực trạng từ 3 thị trường xuất khẩu chủ chốt có thể thấy rõ những nguy cơ trên thực chất chỉ biến thành nguy cơ bởi những tồn tại từ chính ngành dệt may trong nước. Thứ nhất là dù đã xác định mục tiêu hướng đến các đơn hàng có phẩm cấp trung bình trở lên song nhiều doanh nghiệp dệt may vẫn không tránh được “chiếc bẫy giá rẻ”, ham những đơn hàng đơn giản, giá thấp. Đó là lý do chúng ta lo ngại “lưỡi gươm giám sát”. Thứ hai là dù đã hô hào hàng năm nay song các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn bị phụ thuộc quá lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Để có thể xuất được số hàng dệt may trị giá 7,8 tỉ USD, chúng ta đã phải chi tới 5,2-5,3 tỉ USD nhập nguyên phụ liệu sản xuất. Như vậy, giá trị mà ngành dệt may tạo ra chỉ khoảng 25-30% kim ngạch xuất khẩu, trong đó phần lớn là cái “giá” mồ hôi-sức lao động của nhân công, giá trị thặng dư thực thu của ngành dệt may quá nhỏ. Do vậy, đáp án của cả ba nguy cơ vẫn là câu trả lời đã có từ lâu: tăng tỷ lệ nội địa hoá và tập trung vào các đơn hàng trung cao cấp. Hiện ngành dệt may đang có hai chương trình: Sản xuất 1 tỷ mét vải phục vụ xuất khẩu trong vòng 5 năm tới và chương trình tăng trưởng bông nội địa. Nếu làm tốt việc này thì khả năng đáp ứng tỷ lệ 20% nguyên liệu từ nội khối các nước ký “Hiệp định 0%” vào thị trường Nhật Bản sẽ khả thi. Trong một nỗ lực khác, để tránh bị phía Hoa Kỳ siết thị trường, một mặt Bộ Công Thương đang phối hợp với Bộ Ngoại giao và Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ tiếp tục làm việc với Hoa Kỳ nhằm giảm bớt tác động, ảnh hưởng tiêu cực của chương trình giám sát hàng dệt may. Ở trong nước, Bộ đã lập Tổ kiểm tra cơ động hàng dệt may xuất khẩu nhằm ngăn ngừa các hành vi gian lận thương mại, gian lận xuất xứ hàng hóa và có dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh. Danh sách 16 doanh nghiệp xuất khẩu dệt may đơn hàng có giá trị thấp, có thể ảnh hưởng đến “vận mệnh” chung của toàn ngành năm qua cũng đã bị nêu tên. Đó là các công ty Thuận Thiên, Tân Phú Cường, Kim Đô, Kolam Việt Nam, Việt Vương, Cholimex, Thuận Phương, Việt Phương, Nam Định, Á Châu, Mimi, Wellfat, Nhật Tân, Nhà Bè, Đức Thành, Sông Tiền. Có thể nói, đáp án đã có, thậm chí được đưa ra từ vài năm trước nhưng thực hiện được hay không và đến đâu lại phụ thuộc vào thực lực cũng như tầm nhìn của mỗi doanh nghiệp. Mục tiêu xuất khẩu dệt may năm 2008: Kim ngạch xuất khẩu 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so 2007 Thị trường Hoa Kỳ ước đạt 5,3-5,5 tỷ USD( có thể đạt tới 6,1 tỷ USD) Thị trường EU ước đạt 1,6-1,8 tỷ USD Thị trường Nhật Bản ước đạt 800 triệu USD. IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU DỆT MAY VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU DỆT MAY CỦA VIỆT NAM Dệt may Việt Nam những năm gần đây đã đạt được những thành tích rất đáng khích lệ. Tổng kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng qua các năm, tốc độ tăng kim ngạch khoảng 20%/năm. Dệt may Việt Nam đã từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường thế giới, năm 2007 Việt Nam nằm trong top 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, dệt may Việt Nam vẫn tồn tại nhiều hạn chế: giá trị xuất khẩu thấp, phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nước ngoài (nhập 70% nguyên phụ liệu ), công tác thời trang-thiết kế-thương hiệu yếu, sản phẩm chủ yếu là gia công cho các đối tác nước ngoài. Những hạn chế này đã có từ rất lâu nhưng ngành dệt may đến nay trước áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt mới bước đầu khắc phục. Cơ cấu thị trường xuất khẩu chưa thực sự khoa học, khi mà kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Hoa Kỳ chiếm 55% tổng kim ngạch. Thị trường quen thuộc như EU, Nhật Bản tăng trưởng rất chậm, các thị trường tiềm năng khác như: Nga, Nam Phi và châu Phi, châu Đại Dương, Canada… chưa được chú trọng mặc dù có mức tăng trưởng rất cao. Việc chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam bắt đầu diễn ra sau khi BTA có hiệu lực nhưng theo hướng tập trung vào thị trường Hoa Kỳ, mà không chú trọng các thị trường khác. CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM I. PHƯƠNG HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG DỆT MAY XUẤT KHẨU 1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HÀNG DỆT MAY Ở VIỆT NAM Phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hoá nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo điều kiện cho ngành Dệt May tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành Dệt May là thương hiệu còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời. Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong ngành. Phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường vào các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để tạo điều kiện xử lý môi trường. Chuyển các doanh nghiệp Dệt May sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn, đồng thời phát triển thị trường thời trang Dệt May Việt Nam tại các đô thị và thành phố lớn Đa dạng hoá sở hữu và loại hình doanh nghiệp trong ngành Dệt May huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển ngành Dệt May Việt Nam. Trong đó chủ động kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào những lĩnh vực mà các các nhà đầu tư trong nước còn yếu và thiếu kinh nghiệm Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự phát triển bền vững của ngành Dệt May Việt Nam; Trong đó, chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề, chuyên sâu. Về mục tiêu tổng quát: Phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; Đáp ứng nhu cầu ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội; Nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế thế giới. Về mục tiêu cụ thể: Tốc độ tăng trưởng Giai đoạn 2008-2010 Giai đoạn 2011-2020 - Tăng trưởng sản xuất hàng năm 16- 18% 12- 14% -Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm 20% 15% Các chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng dến năm 2020 như sau: Chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện năm 2006 Mục tiêu toàn ngành đến 2010 2015 2020 1.      Doanh thu Triệu USD 7.800 14.800 22.500 31.000 2.      Xuất khẩu Triệu USD 5.834 12.000 18.000 25.000 3.      Sử dụng lao động Nghìn người 2.150 2.500 2.750 3.000 4.      Tỷ lệ nội địa hoá % 32 50 60 70 5. Sản phẩm chính: - Bông xơ - Xơ, sợi tổng hợp - Sợi các loại - Vải - Sản phẩm may 1.000 tấn 1000 tấn 1000 tấn Triệu m2 Triệu SP 8 - 265 575 1.212 20 120 350 1.000 1.800 40 210 500 1.500 2.850 60 300 650 2.000 4.000 Một số chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 của Dệt may Việt Nam Kim ngạch xuất khẩu là 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so với ước thực hiện, trong đó dự kiến: thị trường Hoa Kỳ ước đạt 5,3-5,5 tỷ USD, thị trường EU đạt khoảng 1,6-1,8 tỷ USD, Nhật Bản đạt khoảng 800 triệu USD. Cụ thể : - Sợi toàn bộ là 100 nghìn tấn, tăng 8,7% so với ước thực hiện 2007. - Vải lụa thành phẩm là 683 triệu m2 , tăng 9,1% so với ước thực hiện 2007. - Quần áo dệt kim là 188,5 triệu sản phẩm tăng 8,1% ước thực hiện 2007. - Quần áo may sẵn là 1.591triệu sản phẩm, tăng 16,6% ước thực hiện 2007. 2. ĐỊNH HƯỚNG CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM Dự kiến, đến năm 2010 xuất khẩu hàng dệt may sẽ đạt kim ngạch 10 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 15,8%/năm. Đối với mặt hàng này, bên cạnh yếu tố nâng cao giá trị tăng thêm của sản phẩm, việc mở rộng qui mô sản xuất và tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu là yếu tố cơ bản để có thể tăng kim ngạch xuất khẩu trong thời gian tới. Theo Textile Intelligence Lmt., thị trường hàng dệt may thế giới sẽ tăng bình quân 13%/năm trong giai đoạn 2000-2010, chủ yếu là nhờ sản xuất và nhu cầu gia tăng tại các nước châu Á trong khi nhập khẩu tăng mạnh tại Tây Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc và Đài Loan sẽ ảnh hưởng đến sản lượng nội địa của các khu vực này. Cơ cấu thị trường sẽ có những thay đổi đáng kể từ sau khi Hiệp định dệt may (ATC) hết hiệu lực thực hiện từ năm 2005 sẽ tạo điều kiện cho các nước đang phát triển tăng cường xuất khẩu hàng dệt may, đặc biệt là những nước có lợi thế cạnh tranh như Trung Quốc. Sự gia nhập vào EU của các nước Đông Âu cũng tạo điều kiện cho các nước này tăng cường xuất khẩu hàng dệt may sang các nước trong khu vực cũng như thu hút đầu tư từ các nước EU-15 cho sự phát triển của ngành dệt may nội địa. Thị trường xuất khẩu đối với mặt hàng này cần hướng tới vẫn là các nước phát triển có sức mua lớn như Hoa Kỳ, EU, Canađa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và các thị trường nhỏ lẻ nhưng đóng vai trò là trung tâm mua sắm của các khu vực như Hồng Kông, Singapore, Thụy Sĩ, Anh… Các thị trường mục tiêu được lựa chọn dựa trên cơ sở sau đây: Hoa Kỳ: nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây khoảng 78 tỷ USD._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc27124.doc
Tài liệu liên quan