Cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị về tái cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam trong và sau khủng hoảng

LỜI MỞ ĐẦU Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 vừa qua là một cuộc khủng hoảng toàn cầu; nó đã phá huỷ toàn bộ những thành tựu kinh tế của cả thế kỷ trước đó cộng lại. Việt Nam vừa mới tham gia vào thương mại quốc tế từ năm 2007 đã phải gánh chịu hậu quả của cuộc khủng hoảng này, tuy không nhiều nhưng cũng đã thực sự ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là làm thế nào

doc16 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị về tái cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam trong và sau khủng hoảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để đối phó với tác động của cuộc khủng hoảng này, và làm thế nào để thích ứng được với tình hình mới sau khủng hoảng để tiếp tục giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Bài viết này bình luận về cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam hiện nay và đưa ra một số kiến nghị về tái cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam trong và sau khủng hoảng. Bài viết gồm ba chương bao gồm: Chương I: Lý luận chung Chương II: Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1995 -2008 Chương III: Vấn đề tái cơ cấu ngành kinh tế sau khủng hoảng của Việt Nam Kết luận. Do trình độ còn hạn chế, cộng với việc thời gian nghiên cứu có hạn nên chất lượng bài viết của em chưa cao, mong thầy giáo thông cảm. Em xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy nhiệt tình của thầy PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn trong suốt quá trình học tập môn học Kinh tế phát triển. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy! Học viên : Phan Thị Thuý Hằng Lớp : CH18L CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG 1. Những khái niệm cơ bản - Tổng sản phẩm nội địa, tức tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (viết tắt của Gross Domestic Product).GDP là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). - Phân ngành kinh tế quốc dân là sự phân chia nền kinh tế quốc dân thành các tổ khác nhau (gọi là các ngành kinh tế quốc dân) dựa trên cơ sở vị trí, chức năng hoạt động của các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế trong hệ thống phân công lao động xã hội - Nền kinh tế quốc dân là toàn bộ các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế có chức năng hoạt động khác nhau, tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với nhau được hình thành trong một giai đoạn lịch sử nhất định - Ngành kinh tế quốc dân là tổng thể các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế cùng hoàn thành chức năng kinh tế nhất định hoặc cùng hoạt động giống nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội - Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ, tác động qua lại với nhau trong một không gian và thời gian nhất định. Cơ cấu kinh tế thường gồm 3 phương diện hợp thành. Đó là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng lãnh thổ, trong đó cơ cấu ngành kinh tế giữ vai trò quan trọng nhất - Cơ cấu ngành kinh tế là tổng thể các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân được hợp thành theo một quan hệ tỉ lệ về lượng, thể hiện mối quan hệ giữa các ngành và phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế Xác định cơ cấu ngành kinh tế trong tổng thể nền kinh tế là việc xem xét tỷ trọng giá trị của các ngành kinh tế trong tổng giá trị quốc nội của nền kinh tế (GDP) 2. Phân loại nền kinh tế theo ngành kinh tế 2.1. Nguyên tắc phân loại nền kinh tế theo ngành kinh tế Để phân ngành kinh tế quốc dân thống nhất, khoa học và đúng đắn phải tuân, thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau: Phải căn cứ vào học thuyết phân công lao động xã hội và trình độ phân công lao động xã hội Phải căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ. Phải căn cứ vào đặc trưng của các đơn vị sản xuất – kinh doanh, các tổ chức có chức năng hoạt động giống nhau hoặc gần giống nhau Phải đáp ứng được yêu cầu của công tác so sánh quốc tế Đơn vị gốc tham gia phân ngành kinh tế quốc dân là các đơn vị sản xuất – kinh doanh, các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, có tư cách pháp nhân tức là có hạch toán kinh tế độc lập hoặc dự toán Phải dựa vào chức năng và đặc điểm chủ yếu của các đơn vị kinh tế Phải thường xuyên hoàn thiện hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân 2.2. Hệ thống phân ngành kinh tế ở Việt Nam Ở Việt Nam dựa bào bảng phân loại tiêu chuẩn quốc tế các hoạt động kinh tế (VSIC) của hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), ngày 23/01/2007 Thủ tướng chính phủ đã ra Quyết định Số 10.2007/QĐ-TTg ban hành hệ thống ngành kinh tế quốc dân gồm 5 cấp ngành trong đó: + Ngành cấp 1 gồm 21 ngành được mã hoá theo bảng chữ cái lần lượt từ A đến U + Ngành cấp 2 gồm 88 ngành, mỗi ngành được mã hoá bằng hai số theo từng ngành cấp 1 tương ứng + Ngành cấp 3 gồm 242 ngành, mỗi ngành được mã hoá bằng ba số theo từng ngành cấp 2 tương ứng + Ngành cấp 4 gồm 437 ngành, mỗi ngành được mã hoá bằng bốn con số theo từng ngành cấp 3 tương ứng + Ngành cấp 5 gồm 642 ngành, mỗi ngành được mã hoá bằng năm số theo từng ngành cấp 4 tương ứng Ngành cấp 1 bao gồm 21 ngành STT Mã Ngành cấp I theo VSIC 2007 1 A Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản 2 B Khai khoáng 3 C Công nghiệp chế biến, chế tạo 4 D Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí 5 E Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải 6 F Xây dựng 7 G Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ôtô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 8 H Vận tải kho bãi 9 I Dịch vụ lưu trú và ăn uống 10 J Thông tin và truyền thông 11 K Hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm 12 L Hoạt động kinh doanh bất động sản 13 M Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 14 N Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 15 O Hoạt động của ĐCS, tổ chức chính trị - xã hội, QLNN, an ninh quốc phòng, đảm bảo xã hội bắt buộc 16 P Giáo dục và đào tạo 17 Q Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 18 R Nghệ thuật, vui chơi, giải trí 19 S Các hoạt động dịch vụ khác 20 T Hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất các dịch vụ tự tiêu dùng trong hộ gia đình 21 U Hoạt động của các tổ chức, cơ quan quốc tế Để đơn giản, ta phân chia nền kinh tế thành ba ngành kinh tế là ngành nông nghiệp ( bao gồm các ngành có mã ngành từ A đến B), ngành công nghiệp (bao gồm các ngành có mã ngành từ C đến F), và ngành dịch vụ (bao gồm các ngành có mã ngành từ G đến U). CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM TỪ 1995 -2008 1. Vài nét về đặc trưng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1995 đến nay Về hệ thống kinh tế: Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp. Trong khi nền kinh tế ngày càng được thị trường hóa thì sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế vẫn còn ở mức độ cao. Hiện tại, nhà nước vẫn sử dụng các biện pháp quản lý giá cả kiểu hành chính như yêu cầu các tập đoàn kinh tế và tổng công ty điều chỉnh mức đầu tư, quyết định giá xăng dầu, kiểm soát giá thép, xi măng, than. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Đảng ra quyết định về chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho thời kỳ 10 năm và phương hướng thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm. Trên cơ sở đó, Chính phủ Việt Nam xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm để trình Quốc hội góp ý và thông qua. Nhìn chung nền kinnh tế Việt Nam là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước (thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo) Việt Nam có nhiều thành phần kinh tế. Theo cách xác định hiện nay của chính phủ, Việt Nam có các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Một trong những biện pháp mà Đảng và Chính phủ Việt Nam thực hiện để khu vực kinh tế nhà nước trở thành chủ đạo của nền kinh tế là thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng cổng ty nhà nước. Tuy nhiên, từ đầu thập niên 1990 cho đến nay, Việt Nam đã liên tục thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù Đảng và Nhà nước chủ trương ưu tiên phát triển các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, song tốc độ tăng trưởng của hai thành phần này lại thấp hơn so với của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Thống kê, năm 2007, khu vực kinh tế nhà nước là khu vực lớn nhất, chiếm 36,43 % GDP thực tế của Việt Nam, tiếp theo lần lượt là kinh tế cá thể (29,61 %), kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (17,66 %), kinh tế tư nhân (10,11 %). - Về cơ cấu kinh tế Kinh tế Việt Nam được chia thành 3 khu vực (hay còn gọi 3 ngành lớn) kinh tế, đó là: 1) nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; 2) công nghiệp (bao gồm công nghiệp khai thác mỏ và khoáng sản, công nghiệp chế biến, xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất và phân phối khí, điện, nước); 3) thương mại, dịch vụ, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế. Nói chung thời kỳ 1990-1997 là thời kỳ kinh tế Việt Nam kiềm chế thành công lạm phát đồng thời lại tăng trưởng nhanh chóng. Sau đó, kinh tế tăng trưởng chậm lại trong 2 năm 1998-1999. Tuy bắt đầu tăng tốc dần từ năm 2000, nhưng nền kinh tế có lúc rơi vào tình trạng giảm phát và thiểu phát. Các năm 2007-2008, lạm phát tăng tốc và hàng năm đều ở mức 2 chữ số. Thập niên 1990 và 2000 là thời kỳ mà Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế mà đỉnh cao là việc ký hiệp định gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và hiệp định đối tác kinh tế song phương với Nhật Bản. 2. Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam từ 1995 đến nay Dưới đây là số liệu về các ngành trong cơ cấu tổng thu nhập quốc nội từ năm 1995 đến 2008. Năm Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Tổng GDP theo giá hiện hành GDP theo giá năm 1994 Tốc độ tăng GDP theo giá năm 1994(%) Tốc độ tăng GDP theo giá hiện hành(%) 1995 62219 65820 100853 228892 195567 - - 1996 75514 80876 115646 272036 213833 9.34 18.85 1997 80826 100594 132203 313623 231264 8.15 15.29 1998 93072 117299 150645 361016 244596 5.76 15.11 1999 101723 137959 160260 399942 256273 4.77 10.78 2000 108356 162220 171070 441646 273666 6.79 10.43 2001 111858 183515 185922 481295 292535 6.89 8.98 2002 123383 206197 206182 535762 313246 7.08 11.32 2003 138285 242126 233032 613443 336242 7.34 14.50 2004 155993 287615 271698 715306 362435 7.79 16.61 2005 175984 344224 319004 839212 393030 8.44 17.32 2006 198797 404696 370771 974264 425371 8.23 16.09 2007 232586 474423 436706 1143715 461344 8.46 17.39 2008 326505 587156 564054 1477715 489831 6.17 29.20 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Về cơ cấu ngành kinh tế: Năm Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Tổng 1995 27.18 28.76 44.06 100 1996 27.76 29.73 42.51 100 1997 25.77 32.07 42.15 100 1998 25.78 32.49 41.73 100 1999 25.43 34.49 40.07 100 2000 24.53 36.73 38.73 100 2001 23.24 38.13 38.63 100 2002 23.03 38.49 38.48 100 2003 22.54 39.47 37.99 100 2004 21.81 40.21 37.98 100 2005 20.97 41.02 38.01 100 2006 20.40 41.54 38.06 100 2007 20.34 41.48 38.18 100 2008 22.10 39.73 38.17 100 Nhìn vào số liệu phân tích ở trên ta thấy: Tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong tổng GDP giảm dần qua các năm, tỷ trọng ngành dịch vụ ít thay đổi, và tỷ trọng ngành công nghiệp tăng dần qua các năm. Điều này cho thấy cơ cấu các ngành trong GDP đang được điều chỉnh theo hướng giảm dần tỉ trọng ngành nông nghiệp, tăng dần tỉ trọng ngành công nghiệp-dịch vụ nhằm chuyển dịch dần từ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ, thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Tuy nhiên ta cũng có thể thấy rằng tốc độ dịch chuyển tỉ trọng các ngành là chậm, nhất là ngành dịch vụ. Điều này cho thấy Việt Nam chú trọng điều chỉnh cơ cấu ngành theo hướng đề cao ngành công nghiệp hơn ngành dịch vụ. Điều này là phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam là đi lên từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên trong giai đoạn từ năm 1997-1999 tốc độ tăng trưởng GDP giảm do trong giai đoạn này đã xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính khu vực châu Á, kinh tế nước ta cũng chịu ảnh hưởng làm GDP giảm. Trong giai đoạn này, ngành nông nghiệp và ngành dịch vụ giảm nhiều hơn ngành công nghiệp; lý do là vì giai đoạn này Việt Nam vừa đạt được những hợp đồng xuất khẩu nông – lâm – thuỷ sản mới với một số nước châu Á nhưng do cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực đã khiến các đơn đặt hàng giảm, kinh tế suy giảm kéo theo ngành dịch vụ ảnh hưởng nghiêm trọng. Khu vực công nghiệp ít bị ảnh hưởng hơn bởi giai đoạn này ngành công nghiệp Việt Nam chủ yếu là công nghiệp nhẹ và khai khoáng chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước Xem xét cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp trong bảng dưới đây: Năm Công nghiệp khai thác mỏ Công nghiệp chế biến Sản xuất và phân phối điện khí đốt và nước Xây dựng 1995 16.73 52.14 7.14 23.99 1996 18.90 51.05 8.08 21.97 1997 19.65 51.39 8.55 20.40 1998 20.63 52.78 8.81 17.78 1999 24.43 51.30 8.50 15.78 2000 26.26 50.54 8.63 14.57 2001 24.16 51.88 8.73 15.22 2002 22.38 53.49 8.83 15.30 2003 23.68 51.82 9.18 15.32 2004 25.20 50.58 8.72 15.49 2005 25.83 50.29 8.40 15.48 2006 24.64 51.16 8.27 15.94 2007 23.54 51.25 8.40 16.80 2008 22.48 53.11 8.11 16.30 Ngành công nghiệp nước ta chỉ bao gồm những ngành có hàm lượng công nghệ thấp (bao gồm công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến, sản xuất và phân phối điện khí đốt và nước, xây dựng). Trong đó ngành công nghiệp chế biến chiếm tỉ trọng cao nhất – chiếm trên 50% giá trị ngành công nghiệp (bao gồm ngành chế biến thuỷ sản, cơ khí – chủ yếu là gia công, lắp ráp, dệt may,…); ngành khai khoáng có tỉ trọng lớn thứ 2 và có xu hướng tăng lên: năm 1995 ngành này chỉ chiếm 16,73%, năm 2008 tăng lên 22,48%; điều này cho thấy Việt Nam đang ở trong giai đoạn 1 của quá trình công nghiệp hoá – giai đoạn sản xuất giản đơn dưới sự hỗ trợ của nước ngoài. 3. Đánh giá chung Nhình chung GDP Việt Nam trong khoảng thời gian 1995-2008 tăng trưởng tương đối khá, trung bình trên 6%.năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỉ trọng ngành nông nghiệp. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành này là tích cực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện để các ngành nông nghiệp phát triển, phát huy được thế mạnh của Việt Nam là một nước có tài nguyên rừng và biển đa dạng, phong phú; và thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển, tạo đà cho sự phát triển cho thời kỳ sau. Tuy nhiên, tốc độ dịch chuyển của ngành công nghiệp còn chậm, chủ yếu là ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp khai khoáng, sơ chế, gia công,… nên hàm lượng công nghệ kém, chủ yếu là thủ công, sơ chế nên giá trị gia tăng trong ngành công nghiệp vẫn còn thấp. Vốn đầu tư cho các ngành còn dàn trải, chưa tập trung định hướng mục tiêu rõ ràng. Tăng trưởng của kinh tế Việt Nam mới chỉ đang ở giai đoạn đầu của giai đoạn 2 của quá trình công nghiệp hoá, nền kinh tế chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng nên khả năng mở rộng và thúc đẩy tăng trưởng cho thời kỳ sau là yếu. Trong giai đoạn 1995 -2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam tương đối cao trong khu vực nhưng không bền vững; thể hiện trong năm 1998 và năm 2008, tốc độ tăng trưởng giảm nhiều hơn những kỳ trước; điều này thể hiện khả năng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chưa bền vững. Nguyên nhân: Mô hình tăng trưởng cũ vẫn chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, gia công và gia tăng vốn đầu tư vào các ngành thâm dụng vốn được nhà nước bảo hộ Thể chế kinh tế chậm cải thiện so với yêu cầu. Chất lượng pháp luật và chính sách còn thấp Cơ sở hạ tầng yếu kém cả về số lượng và chất lượng Chất lượng nguồn nhân lực chậm được cải thiện Cơ cấu đầu tư mất cân đối Doanh nghiệp nhà nước còn kém hiệu quả Vốn đầu tư giàn trải, không hiệu quả Quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước chưa nhạy bén với biến động kinh tế thế giới Chưa khai thác triệt để thế mạnh về nông nghiệp Chưa xây dựng được mô hình liên kết hiệu quả, bền vững giữa khu vực nông nghiệp với ngành công nghiệp sơ chế - chế biến nhằm mục tiêu xuất khẩu. Hơn nữa, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chưa tạo được sức cạnh tranh đối với ngành nông sản của đất nước với những nước xuât khẩu cùng mặt hàng. Khả năng dự báo, dự đoán, kế hoạch của Việt Nam còn thấp khiến doanh nghiệp xuất khẩu không chủ động được tình hình trong điều kiện thế giới có nhiều biến động Kinh nghiệm trong lĩnh vực điều hành quản lý của các doanh nghiệp cũng như chỉ đạo của chính phủ còn non trẻ. CHƯƠNG III. VẤN ĐỀ TÁI CƠ CẤU SAU KHỦNG HOẢNG CỦA VIỆT NAM 1. guyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính từ cuối năm 2008 đến nay và tác động của cuộc khủng hoảng này tới kinh tế Việt Nam. Bắt đầu từ khủng hoảng các hợp đồng cho vay bất động sản thế chấp, tổng số khoảng 12 ngàn tỷ USD, trong đó 3 đến 4 ngàn tỷ USD là dưới chuẩn, khó đòi. Những người không có khả năng trả nợ cũng được cho vay. Những hợp đồng đó được chuyên gia tài chính Phố Wall gom lại và phát hành chứng khoán phái sinh, được bảo đảm bởi những hợp đồng cho vay thế chấp này để bán ra trên khắp các thị trường quốc tế. Khi các chứng khoán này mất giá thảm hại, thị trường không có người mua, nên các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các tổ chức tài chính nắm hàng ngàn tỷ USD chứng khoán đó không bán được, mất khả năng thanh khoản, và mất khả năng thanh toán, đi đến gục ngã hoặc phá sản. Chính phủ Mỹ đã đưa ra các gói giải pháp để mua những tài sản nhiễm độc đó, nay đổi hướng một phần 250 tỷ USD (trong gói 700 tỷ USD) mua cổ phần của các ngân hàng... Điều này không chỉ có ở Mỹ mà các thị trường tài chính nhiều nước châu âu cũng bắt chước Mỹ phát hành các trái phiếu phái sinh tương tự, tổng số chứng khoán phái sinh này hiện nay trên toàn thế giới chưa thể ước lượng được, vì vậy tác động của nó trên toàn thế giới cũng chưa thể đo lường hết được. Nhiều ngân hàng vì mất khả năng thanh khoản đã co lại, rút lại tín dụng, điều này đã khiến các doanh nghiệp khó tiếp cận thị trường vốn và bị ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất kinh doanh. Việt Nam, tuy cuộc khủng hoảng này không tác động mạnh nhưng cũng ảnh hưởng làm giảm tăng trưởng kinh tế của Việt Nam do: Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các ngân hàng (Libor và Sibor, tức London Inter Bank offer rate, Singapore Inter Bank Offer rate, thường được dùng làm lãi suất cơ sở để cho các xí nghiệp và ngân hàng Việt Nam vay). Ngoài ra đầu tư trực tiếp (FDI) của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng vì FDI vào Việt Nam phần lớn là vốn vay chứ không phải vốn tự có, nên nếu các nhà đầu tư không dàn xếp được khoản vay sẽ khó giải ngân được. Đối với thị trường chứng khoán, có khả năng nhà đầu tư nước ngoài phải thu hồi nguồn vốn và bán chứng khoán. Điều này tác động đến dự trữ ngoại hối và giá cả trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư nước ngoài bán ra nhiều hơn mua vào sẽ làm giảm giá chứng khoán của Việt Nam. Hoạt động nhập khẩu của các nước sẽ co lại, vì vậy ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam xuất khẩu đến 60% GDP do đó các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Xuất khẩu giảm mạnh, trong khi nhập khẩu nếu có giảm cũng sẽ giảm ít hơn so với xuất khẩu. Điều này sẽ làm cho thâm hụt ngoại thương của Việt nam sẽ gia tăng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đã rất mở với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã vượt quá 160% GDP. Điều này sẽ gây sức ép lên tỷ giá hối đoái VNĐ/USD, khiến thị trường ngoại hối biến động mạnh, và qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ hay việc kiềm chế lạm phát trong thời gian này của chính phủ. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã làm cho số người thất nghiệp của Việt Nam năm 2008 lên tới hơn 1 triệu người, làm giảm thu nhập và mức sống của dân cư. 2. Việc tái cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng Sau khủng hoảng, Việt Nam phải đối mặt với các vấn đề sau: Sức cạnh tranh đối với các sản phẩm xuất khẩu giảm do nhu cầu của những thị trường truyền thống giảm, buộc các doanh nghiệp xuất khẩu phải tìm kiếm những thị trường mới. Vị thế đồng USD ngày nay đã suy giảm đi nhiều sau khủng hoảng, nền kinh tế mới nổi đang có những bước chuyển mình lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, … sẽ tác động đến việc cơ cấu lại thế giới về kinh tế. Do đó, vấn đề của Việt Nam là phải điều tiết tỉ giá hối đoái phù hợp, đáp ứng được tình hình mới Một số nước Đông Á và Đông Nam Á đang hướng đến chiến lược phát triển thị trường trong nước thay vì đẩy mạnh xuất khẩu như giai đoạn trước khủng hoảng, điển hình là Trung Quốc. Thị trường trong nước của Việt Nam cũng khá lớn với gần 90 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người/năm tăng lên, tiêu dùng của người dân cũng có xu hướng tăng lên; do đó, Việt Nam cũng nên để ý hơn đến thị trường nội địa. Nền kinh tế Việt Nam đang thiếu động lực tăng trưởng do dòng vốn đầu tư nước ngoài giảm, tỉ lệ thất nghiệp cao, ngân sách nhà nước hạn chế, tỉ lệ tiết kiệm trong nền kinh tế còn thấp Mấy năm gần đây, hiệu quả đầu tư cho tăng trưởng kinh tế thấp (hệ số ICOR năm 2008 có thể lên tới gần 10%) cho thấy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng thiếu bền vững và có thể là gánh nặng cho những năm về sau trong việc trả nợ nước ngoài Vấn đề môi trường đã trở thành một vấn đề lớn đáng báo động trong những năm gần đây. Đây là hậu quả của việc trú trọng đến tăng trưởng kinh tế hơn vấn đề bảo vệ môi trường khiến môi trường sinh thái bị huỷ hoại nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân vùng bị ô nhiễm, làm cho chi phí xử lý, cải tạo môi trường trong tương lai lớn. Với những thay đổi đáng kể của thế giới cũng như của Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tài chính ngày nay được coi là lớn nhất từ sau cuộc đại khủng hoảng 1929 -1933, việc tái thiết lại nền kinh tế là vô cùng quan trọng để đáp ứng được những yêu cầu mới, đảm bảo giữ được tốc độ kinh tế cao. Đây vừa là nhiệm vụ, vừa là mục tiêu của nền kinh tế một nước đang phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, một nền kinh tế nhỏ bé, dễ bị tổn thương. 3..Một số đề xuất Với những vấn đề đặt ra ở trên, em xin đưa ra một số kiến nghị cho việc tái cơ cấu ngành kinh tế sau khủng hoảng như sau: Tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao chuỗi giá trị trong công nghiệp, thông qua hợp nhất các khu vực sản xuất khác nhau và ứng dụng các công nghệ giảm tiêu thụ năng lượng cũng như sử dụng tài nguyên thiên nhiên, đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ cơ bản. Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn nhưng phải có lợi thế so sánh, có khả năng tạo được năng lực cạnh tranh trong khu vực và quốc tế Tạo được đầu ra ổn định cho các ngành nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt là các ngành liên quan đến xuất khẩu. Tái cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện mới phải chú trọng đáp ứng được nhu cầu cơ bản của đất nước, kết hợp xuất khẩu những mặt hàng lợi thế để đảm bảo ổn định kinh tế, đối phó với những cuộc khủng hoảng khu vực và toàn cầu trong tương lai. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tăng tiết kiệm trong dân để đảm bảo tăng trưởng ổn định, tạo đà cho các giai đoạn phát triển sau. KẾT LUẬN Đất nước ta đã rất nỗ lực, trong quá khứ, không chỉ giành thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mà cả trong lĩnh vực kinh tế: từ năm 1986, với công cuộc cải cách ruộng đất đã giúp Việt Nam xoá đói, nhanh chóng chuyển từ một nước nhập khẩu gạo sang một nước xuất khẩu lớn thứ 2 trên thế giới. Từ năm 1993, sau khi Mỹ xoá bỏ cấm vận đối với nước ta, kinh tế đất nước liên tục tăng trưởng nhanh, lạm phát được kiềm chế thành công, mức sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, tạo cơ sở để Việt Nam tiếp tục phát huy năng lực, cũng như có nhiều cơ hội thúc đẩy giao lưu kinh tế - văn hoá với các nước trên thế giới. Năm 2009, Việt Nam chính thức được WB công nhận là một nước có thu nhập bình quân đầu người trung bình. Đây thực sự là những thành công rất đáng tự hào của đất nước. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với chiến lược tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp là một lựa chọn đúng đắn và hợp lý của Đảng và Nhà nước trong điều kiện đất nước ta đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế năng động của thế giới, góp phần làm cho tốc độ tăng trưởng của Việt Nam tăng với tốc độc cao, chỉ sau Trung Quốc. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế của nước ta vẫn có nhiều hạn chế, đòi hỏi phải có sự cơ cấu lại, đồng thời phải có định hướng phát triển ổn định, bền vững hơn. Có như vậy kinh tế Việt Nam mới có thể tiếp tục giữ được tốc độ tăng trưởng cao như thời kỳ trước, mới có thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS.Nguyễn Ngọc Sơn đã tận tình giảng dạy cho chúng em, giúp chúng em hiểu rõ hơn về môn học Kinh tế Phát triển, cũng như hiểu rõ hơn về sự vận động của nền kinh tế Việt Nam! Học viên: Phan Thị Thuý Hằng MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26389.doc