Cơ hội & thách thức của các doanh nghiệp vừa & nhỏ Việt Nam trong quá trình hội nhập sau khi Trung Quốc gia nhập WTO

Lời mở đầu Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới hiện nay là quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra ngày một sâu rộng. Là một bộ phận của nền kinh tế thế giới, Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế đó. Chỉ bằng cách tích cực tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam mới có thể đạt được những mục tiêu phát triển ổn định và bền vững. Tuy nhiên, trong lộ trình hội nhập của mình, Việt Nam chắc chắn sẽ gặp nhiều thách thức. Nền kinh tế

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cơ hội & thách thức của các doanh nghiệp vừa & nhỏ Việt Nam trong quá trình hội nhập sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam đã, đang và sẽ chịu tác động nhất định từ môi trường bên ngoài mà trước tiên là những biến đổi tình hình kinh tế khu vực. Chính vì vậy, việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO có ảnh hưởng nhất định tới kinh tế Việt Nam. Với tiềm lực kinh tế và chính trị của mình, việc Trung Quốc gia nhập WTO ở chừng mực nào đó có tác động tới hệ thống kinh tế – chính trị và thương mại toàn cầu, làm thay đổi cán cân buôn bán thế giới cũng như luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với Việt Nam – nước láng giềng gần gũi và có nhiều nét tương đồng về lịch sử, văn hoá, xã hôi và kinh tế, việc Trung Quốc gia nhập WTO có thể sẽ là một nhân tố làm thay đổi quan hệ kinh tế-thương mại giữa hai nước cũng như cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Những tác động này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta, thành phần kinh tế được coi là sẽ phải chịu nhiều tác động nhất từ quá trình hội nhập kinh tế. Trên cơ sở đó, đề án môn học “ Bàn về những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong quá trình hội nhập sau khi Trung Quốc gia nhập WTO” được hình thành. Với vốn kiến thức còn hạn chế và năng lực có hạn, người viết hi vọng rằng những nội dung đã được trình bày trong đề án này sẽ giúp ích cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong qua trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Người viết chân thành cảm ơn PGS. TS Vũ Minh Trai đã hướng dẫn thực hiện đề tài này. Phần I : Hội nhập và các nhân tố ảnh hưởng tới hội nhập quốc tế Khái niệm về hội nhập Hội nhập kinh tế quốc tế là việc các nước tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ thống nhất được với nhau ( kể cả dành cho nhau những ưu đãi ) tạo ra sự công bằng trong quan hệ hợp tác kinh tế nhằm khai thác những khả năng của nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế. ở phạm vi quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa nền kinh tế quốc gia, gắn phát triển kinh tế quốc gia với kinh tế khu vực, thế giới và tham gia ngày càng càng nhiều vào các hoạt động kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế là tập hợp các nền kinh tế của các quốc gia khác nhau lại với nhau tạo thành một khu vực kinh tế rộng lớn hơn. Một số nhà kinh tế còn gắn cả sự hội nhập xã hội và chính trị vào trong khái niệm này. Một số nhà kinh tế khác cho rằng có nhiều dạng hội nhập và trên thực tế khái niệm này đã rút lại thành : dấu hiệu của hội nhập là tồn tại nhiều hơn mối quan hệ thương mại giữa các quốc gia độc lập. Các giai đoạn của quá trình hội nhập Việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực và sự hội nhập của từng quốc gia vào nền kinh tế các nước trong khu vực với nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng khu vực liên kết và hình thức liên kết. Các liên kết khu vực thường là : Thứ nhất, thành lập khu mậu dịch tự do hay khu buôn bán tự do (Free Trade Area) là giai đoạn đầu của quá trình hội nhập kinh tế khu vực. Đây là một liên minh quốc tế giữa hai hay nhiều quốc gia nhằm mục đích tự do hóa việc mua bán đối với một hay một số mặt hàng nào đó. Đặc trưng của khu mậu dịch tự do là xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo một thị trường thống nhất của khu vực. Nhưng mỗi quốc gia thành viên vẫn thi hành những chính sách ngoại thương độc lập đối với các quốc gia ngoài liên minh. Thứ hai, hình thành liên minh thuế quan (Customs Union) là giai đoạn thứ hai của sự hội nhập nhằm tăng cường mức độ hợp tác kinh tế giữa các thành viên. Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia trong liên minh bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các quốc gia thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên minh. Thứ ba, hình thành thị trường chung, đây là một liên minh quốc tế ở mức độ cao hơn liên minh thuế quan, tức là ngoài việc áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế quan trong trao đổi thương mại, hình thức liên minh này còn cho phép tư bản và lực lượng lao động tự do di chuyển giữa các nước thành viên thông qua từng bước hình thành thị trường thống nhất ( như các quốc gia trong cộng đồng kinh tế Châu Âu – EEC từ năm 1992 ) thể hiện qua : một là, hình thành liên minh tiền tệ, đây là một liên minh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ. Theo thoả thuận này các nước thành viên phải phối hợp các chính sách tiền tệ với nhau và cùng thực hiện một chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối, thống nhất đồng tiền dự trữ và đồng tiền chung. Hai là, hình thành liên minh kinh tế, đây là một liên minh quốc tế với mức độ cao hơn về sự tự do di chuyển hàng hóa, dịch vụ, tư bản và lực lượng lao động giữa các nước. Đồng thời áp dụng biểu thuế quan chung cho tất cả các quốc gia không phải là thành viên và thống nhất chính sách tài chính, tiền tệ ( Liên minh Châu Âu – EU từ năm 1994). Những lợi ích kinh tế chủ yếu thu được từ hội nhập Sự hội nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực đưa lại những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên. Một quốc gia nào đó gia nhập hiệp hội các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch thường đưa lại những kết quả chủ yếu sau : Một là, tạo lập quan hệ mậu dịch mới giữa các quốc gia thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hóa của các nước trong liên minh với các nước và các khu vực kinh tế khác trên thế giới. Chính vì thế mà tiềm năng kinh tế của các nước thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Hơn nữa, hội nhập kinh tế còn làm tăng thêm phúc lợi thông qua việc thay thế các ngành, trước hết là công nghiệp của nước chủ nhà có chi phí cao ( lãng phí nguồn lực) bằng những ngành có chi phí thấp hơn ( tức là có hiệu quả hơn). Hàng hóa nhập khẩu luôn nhận được sự ưu đãi với mức giá hạ hơn. Nên lợi ích của người tiêu dùng cũng được tăng lên do mua được khối lượng hàng hoá lớn hơn với chi phí thấp hơn. Hai là, hội nhập khu vực còn góp phần vào việc chuyển hướng mậu dịch. Sự chuyển dịch này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan. Vì khi đó các điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn trước. Ngay cả khi một nước nào đó trong liên minh tiến hành nhập khẩu những sản phẩm của các quốc gia ngoài liên minh với giá thấp hơn, nhưng nay được thay thế bằng việc nhập khẩu những sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong liên minh mà giá cả lại cao hơn (do được hưởng ưu đãi thuế quan…). Chính những ưu đãi này giữa các nước thành viên trong liên minh đã đưa tới sự chuyển hướng mậu dịch nói trên. có thể đưa ra một ví dụ đơn giản để minh hoạ như sau : Trước đây Singapore thường nhập cà phê của Braxin với mức giá thấp hơn của Việt Nam vì giá cà phê của Braxin là 1.500 USD/tấn còn của Việt Nam là 1.600 USD/tấnvới mức thuế nhập khẩu cho cả hai trường hợp là 20%. Nhưng sau khi Việt Nam gia nhập liên minh thuế quan thì bây giờ giá cà phê nhập khẩu từ Việt Nam không bị đánh thuế nữa và chỉ là 1.600 USD/tấn thấp hơn giá nhập từ Braxin (1.800 USD/tấn) vì có thuế nhập khẩu là 20%. Chính vì vậy, việc nhập khẩu cà phê của Singapore sẽ chuyển hướng từ thị trường Braxin sang thị trường Việt Nam. Ba là, hội nhập khu vực, thực hiện tự do hóa thương mại tạo điều kiện cho mỗi quốc gia có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý…từ các quốc gia khác trong liên minh. Về lâu dài, tự do hoá thương mại góp phần tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế. Tự do hoá thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế băng hai cách : tăng xuất khẩu và tăng năng suất cận biên của hai yếu tố sản xuất là vốn và lao động. Trước hết, việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Điều đó được thể hiện thông qua : + Tự do hoá thương mại gây ra áp lực lớn đối với mỗi quốc gia trong liên minh, trong các ngành sản xuất hàng nhập khẩu, buộc các ngành này phải phấn đấu giảm giá hoặc giữ giá ở mức tương đối thấp. Muốn vậy, các ngành này phải nhanh tróng thay đổi công nghệ, áp dụng rộng rãi những kinh nghiệm quản lý, những thành tựu mới và hiện đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. + Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia thành viên đang có xu hướng tập trung đầu tư phát triển các ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu có hiệu quả nhất và phát huy tối ưu những lợi thế về nguồn lực của mình. Điều đó sẽ cho phép mỗi quốc gia thành viên nâng cao hiệu quả xuất khẩu theo quy mô và do đó thúc đẩy tăng trưởng sản xuất, góp phần tích luỹ vốn và tái sản xuất mở rộng không ngừng. + Tăng cường xuất khẩu góp phần tạo lập cá cân thanh toán theo hướng tích cực, tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia đây là đIều kiện quan trọng để giảm lãi xuất cho vay khuyến khích người sản xuất kinh doanh vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế…tiếp đến việc tăng hiệu quả sản xuất nhờ nâng cao năng xuất cận biên của hai yếu tố sản xuất cho phép mỗi quốc gia thành viên không cần thay đổi cơ cấu vật chất của sản xuất, thậm chí không tăng thêm chi phí sản xuất mà vẫn đạt hiệu quả kinh tế cao. Một số nguyên tắc chung khi tham gia hội nhập quốc tế Tham gia hội nhập kinh tế, mỗi quôc gia phải tuân theo những luật chơi chung, ngững nguyên tắc chung được qui định cho tất cả các quốc gia trong khối. Một trong số những nguyên tắc chung có tính chất bắt buộc, đó là : Nguyên tắc tối huệ quốc, dành cho mọi thành viên sự đối xử thuận lợi nhất đã dành cho bất cứ bạn hàng nào, rà soát lại các hiệp định thương mại song phương để bảo đảm tính nhất quán của chúng với quy chế tối huệ quốc. Nguyên tác đối xử quốc gia, áp dụng chế độ ứng xử như nhau đối với sản phẩm, dịch vụ và công dân trong nước và nước ngoài. Nguyên tắc hạn chế sử dụng các công cụ thương mại phi thuế quan, hạn chế sử dụng hạn ngạch rào cản kỹ thuật đối với thương mại nhằm mục đích bảo hộ, trừ trường hợp đặc biệt. Bằng cách loại bỏ dần hạn chế về số lượng đối với nhập khẩu, cải cách quản lý chuyên ngành đối với nhập khẩu một số hàng hoá nhất định. Nguyên tắc giảm và ràng buộc thuế quan nhập khẩu, cam kết không tăng thuế quan, tham gia vào các cuộc đàm phán trong tương lai để giảm thuế quan, thuế quan hoá các hàng rào phi thuế quan, xây dựng chiến lược về ràng buộc thuế quan khi đàm phán về việc tiếp cận, xây dựng cơ cấu thuế quan dài hạn. Rõ ràng, các quy tắc được quy định sẽ làm cho quan hệ thương mại giữa các quốc giai trong khối trở nên đơn giản, thuận tiện và ngày càng phát triển hơn. 1.5 Những nhân tố ảnh hưởng tới hội nhập quốc tế của Việt Nam Chúng ta còn tồn tại quá nhiều vấn đề chưa được giải quyết, những điểm yếu cần khắc phục. Vì vậy chúng ta phải vạch rõ và nhìn thẳng vào điểm yếu ấy để hiểu rõ chúng từ đó đưa ra biện pháp thích hợp để giải quyết có hiệu quả. Thứ nhất, sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam rất yếu vì vậy sẽ rất khó thâm nhập thị trường nước ngoài trong hoạt động xuất khẩu thậm chí có thể sẽ thua hàng hoá nước ngoài ngay ở thị trường trong nước một khi AFTA có hiệu lực hoàn toàn. Theo đánh giá chung của quốc tế thì sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam đang giảm dần, có thể thấy như sau : Bảng 1 : so sánh về sức cạnh tranh STT Nước/Nền kinh tế 1997 1998 1999 2000 1 Mĩ 3 3 2 1 2 Sigapo 1 1 1 2 3 Nhật Bản 14 12 14 21 4 Tháilan 18 21 31 31 5 Trung Quốc 29 28 32 41 6 Philippin 34 33 33 37 7 Malaixia 9 17 16 25 8 Việt Nam 49 39 48 53 Nguồn : Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF). Theo số liệu trên Thời báo Kinh tế Việt Nam, sắt thép đang tồn kho 250.000 tấn - chiếm 18% sản lượng, phân bón 260.000 tấn - chiếm 35% sản lượng, xi măng 254.000 tấn. Nguyên nhân tồn kho chủ yếu do hàng hoá của ta nói chung sức cạnh tranh yếu, giá cả cao hơn hàng ngoại nhập cùng loại, mặc dù nhiều mặt hàng đang được bảo hộ. Như ta thấy thì sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam đang giảm sút vì nhiều nguyên nhân mà nếu như chúng ta không tìm hiểu và đưa ra biện pháp khắc phục kịp thời thì chúng ta sẽ tụt hậu mãi mãi. Nguyên nhân đầu tiên là do giá thành sản phẩm cao, trước khi giảm thuế thì một số mặt hàng của Việt Nam đã thua ở thị trường trong nước do giá bán của sản phẩm còn cao hơn hoặc có thấp hơn thì thấp hơn rất ít giá bán của hàng nhập khẩu sau khi đã đánh thuế. Ví dụ như đầu năm 2001, giá bán máy giặt cỡ 4 kilôgam sản xuất trong nước là 3,7 triệu đồng trong khi hàng nhập khẩu kể cả thuế là 3,8 triệu ; tủ lạnh cỡ 150 lít giá hàng trong nước là 4.31 triệu đồng và hàng nhập là 4,85 triệu. Nguyên nhân thứ hai là do khả năng thâm nhập vào thị trường các nước của các Smes Việt Nam quá yếu. Năm 2000, nhóm hàng nông lâm thuỷ sản và các nguyên liệu thô chiếm tới 70% tổng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN. Đồng thời chất lượng và mẫu mã sản phẩm cũng là một vấn đề. Công nghệ sản xuất lạc hậu nên năng suất chất lượng chưa cao, cũng vì thế các doanh nghiệp Việt Nam chưa có được sự quan tâm đúng đắn tới mẫu mã sản phẩm mà đây lại là một chiến lược quan trọng của Marketing. Mẫu mã, bao bì sản phẩm của hàng Việt Nam chưa thu hút được sự chú ý mua sắm của khách hàng lại chậm đổi mới. Hàng thủ công mĩ nghệ của Việt Nam chẳng hạn, hàng xuất khẩu năm 2000 đến hơn 300 triệu USD và có rất nhiều khách từ Hồng Công, Nhật Bản rất thích nhưng đến năm sau khi họ trở lại thì họ không kí những hợp đồng giống như năm trước nữa vì hàng không thay đổi mẫu mã nên họ không quan tâm và không mua nữa. Nguyên nhân thứ ba là vấn đề về thương hiệu, khâu quảng cáo tiếp thị của ta chưa tốt nên chưa chiếm lĩnh được thị trường. Đã có nhiều bài học về thương hiệu đối với doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường thế giới như của hãng cà phê Trung Nguyên chẳng hạn. Chúng ta chưa quan tâm thích đáng đến vấn đề này và đã phải trả giá đắt cho nó khi bước đầu hội nhập vào thị trường thế giới. Theo nghiên cứu của một công ty tư vấn thì 60% người tiêu dùng quan tâm đến thương hiệu khi mua sắm. Nhưng hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư cho thương hiệu khoảng 1% doanh số. Trong khi ở các công ty nước ngoài con số này là 5% - 7%. Theo nhận xét của bà Phạm Chi Lan, Phó chủ tịch Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam : "Về cách tiếp thị của các công ty Việt Nam hiện giờ so với mặt bằng chung trong vùng như Tháilan, Inđônêxia, còn thấp hơn rất nhiều. Việt Nam cần có những chiến dịch quảng bá, những quảng bá như Tháilan đã từng quảng bá du lịch chẳng hạn. Nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay Việc đi hội chợ, các triển lãm quốc tế ở các nước thì họ thường đi rất ít. Ngay cả khi đi cũng chưa chọn lọc kĩ để gây ấn tượng mạnh cho mình. Mẫu mã và cánh tiếp cận thị trường là 2 mặt mà doanh ngiệp Việt Nam còn yếu. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay tập trung rất nhiều vào khâu sản xuất ra sản phẩm, nhưng họ chưa chú trọng đầy đủ đến mặt dịch vụ kèm theo , hoặc dịch vụ phục vụ cho việc đưa ra sản phẩm đó được đưa ra một cánh tốt hơn ... ". Thứ hai, Chính sánh của Nhà nước còn chậm thay đổi nên gây ra những cản trở về nhiều mặt. Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước coi thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, giữ vai trò định hướng cho các thành phần kinh tế khác. Vì thế nó nắm các nguồn lực quan trọng nhất và được hưởng những ưu đãi thậm chí được bảo hộ chặt chẽ. Nhưng chính điều này đã làm cho các doanh nghiệp này yếu sức cạnh tranh và không có khả năng hội nhập để đương đầu với sự cạnh tranh trực tiếp của hàng hoá nhập khẩu. Doanh nghiệp Smes của Nhà nước đã và đang bộc lộ những điểm yếu của mình, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, theo báo cáo của Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp thì năm 1998 chỉ có 37% số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, số còn lại thua lỗ nặng. Đến cuối năm 1999, chỉ có 20% số doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn giảm dần : năm 1995 là 19,1%, năm 1997 là 10,6%, năm 1998 là 8%. Năm 1998, công nghiệp Nhà nước chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động và sản xuất ra 48% tổng giá trị sản xuất toàn ngành nhưng chỉ đóng góp 40,7% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp. Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác nữa như năng lực quản lý của doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư thấp, hiệu quả sản xuất kém, sức cạnh tranh của hàng hoá không cao ... Thứ ba, quan trọng nhất là vấn đề bảo hộ . Đây chính là yếu tố làm mất đi sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam , tạo nên sức ỳ trong hội nhập. Hơn nữa Nhà nước ta còn chậm trong vấn đề phổ biến kiến thức hội nhập cho doanh nghiệp, chưa công bố rộng rãi lịch trình cắt giảm thuế để các doanh nghiệp có khả năng chuẩn bị tốt, nâng cao sức cạnh tranh. Còn thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết tới các Bộ, ngành liên quan. Tất cả điều này thể hiện năng lực yếu kém trong quản lý, bộ máy quản lý hoạt động thiếu đồng bộ, không thống nhất. Thứ tư, khó khăn về cơ sở hạ tầng kĩ thuật. Các xí nghiệp công nghiệp chủ lực của Nhà nước chủ yếu kế thừa từ thời Pháp thuộc, ít được sửa chữa, công nghệ sản xuất còn lạc hậu. Hơn nữa lại phân bố không đều, không tận dụng được nguồn lực. Có thể lấy ví dụ ngay trên địa bàn Hà Nội tập trung rất nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp nhưng hiệu quả sản xuất không cao. Các nhà máy chính trên địa bàn như nhà máy cơ khí chính xác, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo ... đã từng hưng thịnh thời kì Pháp thuộc và trong thời bao cấp thì hiện nay sản xuất yếu, cầm chừng vì không phát huy được hiệu quả trong thời kì mới, công nghệ sản xuất thì vẫn như xưa không thay đổi là mấy vì thiếu vốn đầu tư. Một số nơi nhờ có vốn đầu tư nước ngoài mà chúng ta đã xây mới được một số khu công nghiệp trọng điểm nhưng hiệu quả sử dụng không cao, nhiều nơi sản xuất chưa hết công suất thiết kế mà khấu hao máy móc hàng năm thì rất lớn. Hay nói cách khác là hiệu quả sử dụng vốn không cao. Ví dụ về nhà máy giấy của Việt Nam, chỉ sản xuất được khoảng 60% công suất, nhà máy mía đường cũng vậy vấn đề là do khâu cung cấp nguyên liệu không đủ trong khi đó ngay bên ngoài nhà máy, người nông dân lại phải bán rẻ các nguyên liệu này vì không dủ tiêu chuẩn chế biến. Nghịch cảnh này còn ở nhiều nơi khác nữa nếu chúng ta không quan tâm đến việc tìm đầu vào đầu ra trước khi phê duyệt một dự án đầu tư hàng chục tỉ đồng. Đây chính là điều kiện để thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam mà chúng ta không làm tốt thì sẽ thua trong cuộc cạnh tranh về môi trường đầu tư với các nước trong khu vực. Thứ năm, thiếu nguồn nhân lực có trình độ kĩ thuật và trình độ quản lý cao. Chúng ta vẫn nói rằng thế mạnh của chúng ta là có nguồn nhân lực dồi dào giá nhân công lại rẻ nhưng thế có thực sự là thế mạnh không khi mà xu hướng chung trên thế giới hiện nay là tự động hoá, vi tính hoá công đoạn sản xuất, nâng cao trình độ kĩ thuật, chất xám trong sản phẩm ? Câu trả lời ở đây là không. Nếu chúng ta không quan tâm hơn đến đào tạo nguồn nhân lực thì không thể thích ứng với tình hình mới. Hiện nay chúng ta đang thiếu một cách trầm trọng các công nhân kĩ thuật, các nhà quản lý có trình độ chuyên môn cao đặc biệt là trong sản xuất Công nghiệp do những bất cập trong công tác đào tạo và hướng nghiệp. Nhân tố con người chính là nhân tố quyết định trong phát triển kinh tế trong khi nhận thức về vấn đề này chưa đầy đủ, nền giáo dục còn lạc hậu quá nhiều so với Thứ sáu, phải nói rằng Công nghệ của chúng ta còn quá yếu kém, lạc hậu. Trình độ công nghệ của Việt Nam hiện tại tụt hậu khoảng 25 - 30 năm so với Tháilan dẫn đến chi phí cho đầu vào cao hơn từ 30% - 50% so với các đối tác ASEAN khác. Đấy là so sánh với các nước trong khu vực, các nước có trình độ sản xuất khá gần với ta còn như vậy thì nếu so sánh với các nước phát triển ở phương Tây hay Mĩ thì chúng ta sẽ xếp ở hàng thứ bao nhiêu? Và liệu bao giờ chúng ta mới có thể đuổi kịp họ? Tuy rằng nước ta được thiên nhiên ưu đãi với nhiều nguồn tài nguyên phong phú đa dạng nhưng nền Công nghiệp của Việt Nam lại không phát triển đầy đủ, các ngành Công nghiệp chủ yếu là công nghiệp nhẹ và khai khoáng xuất khẩu sản phẩm thô, hàm lượng kĩ thuật trong sản phẩm không cao. Công nghiệp nhẹ với các mặt hàng chủ lục và có ưu thế trong xuất khẩu là hàng may mặc,đồ da giày, thực phẩm ... Còn công nghiệp khai khoáng thì trình độ công nghệ thấp dẫn đến sự khai thác không hợp lý và lãng phí các nguồn lực. Khả năng chế biến nguyên liệu thô khai thác được gần như là không có. Các mỏ dầu khí của ta ở thềm lục địa có trữ lượng lớn đã được Nga hỗ trợ ban đầu rất nhiều trong việc khai thác nhưng chúng ta cũng mới chỉ dừng ở việc xuất khẩu dầu thô với giá rẻ. Hay trong xuất khẩu cà phê cũng vậy, Việt Nam chỉ dừng ở việc xuất khẩu cà phê hạt chứ chưa có đủ trình độ sản xuất cà phê bột, như vậy chúng ta xuất khẩu cà phê hàng năm vào hàng cao trên thế giới nhưng lại phải nhập khẩu àa phê bột từ nước ngoài với giá cao. Như vậy vấn đề tiềm ẩn trong hội nhập kinh tế AFTA là liệu các nước kém phát triển có trở thành nhà cung cấp nguyên liệu thô như thời kì thuộc địa hay không? Không những thế việc phân bố các khu công nghiệp cũng còn nhiều điều bất hợp lý cần phải xem xét và điều chỉnh lại. Thứ bảy, nhận thức của các nhà quản lý doanh nghiệp về vấn đề hội nhập còn hạn chế. Phần lớn, các doanh nghiệp chưa chuẩn bị chu đáo cho quá trình hội nhập, chưa đưa ra được các chính sách, chiến lược thích ứng để tham gia AFTA hay WTO… Khảo sát 66 doanh nghiệp của Báo Sài Gòn Tiếp Thị mới đây cũng cho thấy : chỉ có hơn 1/2 doanh nghiệp có các cuộc họp chính thức bàn luận về AFTA ; hơn 1/2 doanh nghiệp có giao nhiệm vụ chính thức cho các cá nhân hay bộ phận trong công ty nghiên cứu về AFTA. Ngành dệt, da, may, tuy có nhiều doanh nghiệp nghiên cứu về AFTA sớm nhất, nhưng có gần 1/3 tổng số doanh nghiệp cho biết chưa xác định được chính sách và biện pháp đối với AFTA. Tuy nhiên có một số các doanh nghiệp thành công và đã chuẩn bị đầy đủ cho hội nhập . Đó là số doanh nghiệp tìm cách đương đầu hội nhập từ rất sớm và đến nay thì khá bình tĩnh, tự tin, điển hình là Vinamilk. Ngay từ những năm cuối 1999 - 2000, Vinamilk đã có ý thức đưa các sản phẩm sữa, bột dinh dưỡng ... vào các thị trường ASEAN để làm quen trước khi họ vào đến mình. Còn tại sân nhà, Vinamilk đã liên tục đưa ra các sản phẩm mới, chất lượng cao nhưng giá thành thấp so với các sản phẩm nhập, để " đuổi " đối thủ. Mạng lưới phân phối của Vinamilk phủ kín cấp xã. Công ty TNHH Kinh Đô, ngoài việc phủ kín thị trường nội địa, xuất khẩu sang các thị trường ASEAN ... mới đây còn dự định đầu tư một nhà máy sản xuất ngay trên đất Mĩ. Đây là một số doanh nghiệp tiêu biểu thích hợp cho quá trình hội nhập, các kinh nghiệm của mô hình này cần phải được nhân rộng, phổ biến cho các doanh nghiệp khác học tập và chuẩn bị cho tiến trình hội nhập thật tốt. Phần II : Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam 2.1 Khái niệm và cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Vì sự thành đạt của một quốc qia phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Mà trong giai đoạn đầu phát triển của cơ chế thị trường thì doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để nhận biết doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách có cơ sở khoa học, chúng ta hãy đi từ việc xác định doanh nghiệp nói chung. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh, thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng trao đổi hàng hoá trên thị trường theo nguyên tắc tối đa hoá lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp. Hiện nay người ta phân loại doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau, tuỳ theo tính chất hoạt động, ngành kinh tế kỹ thuật, nguồn vốn sở hữu, quy mô doanh nghiệp và tính chất quản lý. Theo ngành nghề kĩ thuật, có doanh nghiệp công nghiệp, nông-lâm-ngư nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ… Theo hình thức sở hữu, có hình thức doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân… Theo cấp quản lý, có doanh nghiệp trung ương, doanh nghiệp địa phương. Theo qui mô, trình độ sản xuất kinh doanh, có doanh nghiệp quy mô lớn, doanh nghiệp quy mô vừa, doanh nghiệp quy mô nhỏ. Ngoài ra, còn các cơ sở sản xuất kinh doanh không chính thức thành lập doanh nghiệp thuộc loại doanh nghiệp “siêu nhỏ”. Theo tính chất hoạt động, tức là theo yêu cầu xã hội và cơ chế thị trường, có doanh nghiệp sản xuất hàng hoá công cộng, không nhằm mục tiêu lợi nhuận là hàng đầu như công ty môi trường đô thị, công ty công viên… và có những doanh nghiệp nhằm mục tiêu lợi nhuận tối đa. Việc phân loại các loại hình doanh nghiệp chỉ mang tính chất tương đối vì trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất tổng hợp, đa ngành hoặc có sự đan xen nhiều chủ sở hữu về tư liệu sản xuất. 2.2 Các tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ Thuật ngữ “doanh nghiệp vừa và nhỏ” ở các nước phương Tây gọi là SME (Small and Medium Enterprise), có nghĩa là các cơ sở sản xuất kinh doanh có qui mô tương đối nhỏ. Nhưng nếu muốn nói một cách chính xác rằng qui mô không lớn lắm đến đâu hoặc qui mô như thế nào thì gọi là “nhỏ” cần phải dựa vào những tiêu thức để xem xét. Việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước thường được cân nhắc đối với từng giai đoạn phát triển kinh tế, tình hình làm việc nói chung trong cả nước và tính chất nền kinh tế hiện hành của nước đó. Việc xác định các doanh ngiệp vừa và nhỏ không có tính chất cố định mà có xu hướng thay đổi theo tính chất những hoạt động của nó, mục đích của việc xác định và mức độ phát triển doanh nghiệp. Tiêu chuẩn được sử dụng để xác định doanh nhgiệp vừa và nhỏ là : Thứ nhất, tổng vốn đầu tư được huy động vào sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, giá trị bằng tiền của sản phẩm bán hoặc dịch vụ, lợi nhuận, vốn bình quân cho một lao động, doanh thu …Để tiện cho việc so sánh quốc tế người ta thường qui đổi ra loại tiền thông dụng trong giao dịch quốc tế như USD… Thứ hai, số lao động được sử dụng thường xuyên, tiêu thức này rất thuận tiện cho việc so sánh quốc tế bởi nó không dễ dàng chịu ảnh hưởng của những khác biệt giữa các quốc gia về mức thu nhập hay những thay đổi trong giá trị đồng tiền nội địa hiện hành qua các thời kỳ khác nhau. Tuỳ thuộc và điều kiện cụ thể của mỗi nước mà người ta quan tâm đến độ lớn của mỗi tiêu thức lao động, tổng vốn đầu tư hoặc doanh thu…trong các ngành, nhóm ngành khác nhau. Hàn Quốc là một nước công nghiệp trẻ, đạt được nhiều thành công chính là từ các Smes, có những tiêu chuẩn phân loại các Smes như sau : Trong lĩnh vực chế tạo, khai thác, xây dựng, doanh nghiệp có dưới 300 lao động thường xuyên và tổng vốn đầu tư dưới 600.000 USD đựơc coi là các Smes, dưới 20 lao động được coi là nhỏ. Trong lĩnh vực thương mại, doanh nghiệp dưới 20 lao động thường xuyên và doanh thu dưới 500.000 USD/năm (nếu là bán lẻ) và dưới 250.000USD/năm (nếu là bán buôn) được coi là các Smes, dưới 5 lao động thường xuyên gọi là nhỏ. Đối với nước ta, khái niệm “doanh nghiệp vừa và nhỏ” đã được các địa phương, các ngành vận dụng một cách khác nhau. Tại Hội thảo “ Phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” tổ chức tại Trung tâm triển lãm Giảng Võ, Hà Nội, đã xuất hiện nhiều cách xác định về doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau : Bảng 2 : Các tiêu thức chủ yếu để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam Phạm vi xác định Qui mô doanh nghiệp Vốn ( tỷ đồng ) Lao Động (Người) Doanh thu hàng năm ( tỷ đồng ) Thành phố Hồ Chí Minh Loại vừa > 1 > 100 > 10 Loại nhỏ < 1 < 100 < 10 Ngân hàng công thương Việt Nam Loại vừa và nhỏ < 18 < 500 < 20 Đồng Nai Loại vừa - - < 100 Loại nhỏ - - Các chuyên gia kinh tế Loại vừa > 0,3 > 50 - Loại nhỏ 0,1 – 0,3 5 - 50 - (-) Không có số liệu Nguồn : Thông tư Liên bộ Bộ lao động –Thương binh và xã hội Tham luận Hội thảo khoa học về doanh nghiệp vừa và nhỏ 2.3 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế quốc dân 2.3.1 SMEs tạo công ăn việc làm cho người lao động Xét trên góc độ giải quyết việc làm thì doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn đóng vai trò quan trọng hơn các doanh nghiệp lớn, đặc biệt trong thời kì suy thoái kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế của các nước công nghiệp phát triển cũng như thời kỳ đầu đổi mới của Việt Nam đã chỉ ra rằng : khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp lớn phải giảm lao động để giảm chi phí sản xuát tới mức có thể tồn tại và phát triển được , vì cầu của thị trường thấp hơn cung của thị trường. Nhưng đối với các doanh ngiệp vừa và nhỏ do đặc tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường nên nó vẫn có thể hoạt động được, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Do đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ không những không giảm lao động mà vẫn có thể thu hút thêm lao động Hội đồng doanh nghiệp nhỏ thế giới cho rằng : “ doanh nghiệp vừa và nhỏ là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp khi mà nền kinh tế suy thoái”. 2.3.2 SMEs tạo ra thu nhập bảo đảm đời sống của người lao động ở Việt Nam tính đến 31/02/1995 cả nước đã có 12.190 công ty, doanh nghiệp tư nhân được hình thành theo luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, trong đó có 8694 doanh nghiệp tư nhân, 104 công ty cổ phần, 3392 công ty trách nhiệm hữu hạn. Ngoài ra còn có hàng triệu các cơ sở kinh daonh dịch vụ, vận tải hộ cá thể. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, vận tải, xây dựng, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút được 3.5 triệu lao động, chiếm 11% tổng số lao động xã hội cả nước, đã đầu tư 4150 tỷ đồng trong tổng số 9100 tỷ đồng đầu tư của khu vực này. Khảo sát 49 doanh nghiệp ở thị xã Hà Đông cuối năm 1999, cho thấy thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp như sau : 10% số doanh nghiệp có thu nhập dưới 200.000 Đ/tháng, 18% số doanh nghiệp có thu nhập từ 200.000 - 300.000 Đ/tháng, 51% các doanh nghiệp có thu nhập từ 300.000 - 400.000 Đ/tháng, 21% số doanh nghiệp có thu nhập từ 400.000 – 450.000 Đ/tháng. Tính chung cho các doanh nghiệp, thì thu nhập bình quân của người lao động đạt 350.000 Đ/tháng. Điều đó phản ánh năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ cao hơn sản xuất cá thể và hộ gia đình nông nghiệp thuần tuý. 2.3.3 Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tận dụng các nguồn lực xã hội Thứ nhất, Về tiền vốn, doanh nghiệp vừa v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0154.doc
Tài liệu liên quan