Cơ hội & thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

MụC LụC Lời nói đầu Phần thứ nhất: Những vấn đề cần quan tâm về việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp việt nam I. Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp a. Nâng cao chất lượng và hiểu quả hoạt động của doanh nghiệp b. Nâng cao chất lượng và quản lý nguồn nhân lực trong doanh nghiệp *Một số kiến nghị đối với nhà nước II. Quá trình việt nam gia nhập AFTA Có ảnh hưởng đối với doanh nghiệp việt nam III. Việc ký kết hiệp định thương mại việt- mỹ đối với doanh

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cơ hội & thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp việt nam có ảnh hưởng rất lớn Phần thứ hai: cơ hội và thác thức đối với doanh nghiệp việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Phần thứ ba: những giải pháp cho doanh nghiệp việt nam khi hội nhập kinh tế quốc tế Lời kết lời nói đầu Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập đang là thời cơ rất thuận lợi để phát triển nhưng đồng thời cũng là những thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Thời điểm Việt nam gia nhập AFTA và kế đó là WTO đã tới gần, khi đó sẽ không còn khái niệm “Nhà nước bảo hộ” nữa. Các doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh thì doanh nghiệp sẽ tồn tại. Nhưng trên thực tế cho thấy hiện nay cấp vĩ mô đã chuyển nhưng cấp cơ sở (các doanh nghiệp) vẫn còn “đủng đỉnh”. Từ những bức xúc đó, vừa qua tại Hà nội đã diễn ra Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói Đảng ta đã có quyết sách rất đúng đắn và kịp thời cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế bởi quá trình này là tất yếu. Xu thế chung của quốc tế là chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với những tiến bộ như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ đồng thời đẩy nhanh liên minh liên kết khu vực và quốc tế để tạo thế và lực cạnh tranh chiếm lĩnh giật thị trường, mở đường cho sản xuất phát triển. Tất cả các nước lớn, nhỏ trên thế giới đang vận động theo xu thế này bởi họ nhận thức rằng nếu đơn độc, đứng ngoài cuộc sẽ bị cô lập đào thải. Chính vì thế, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Bộ Chính trị đã vạch rõ: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Sau đây là một số điểm mốc trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam: Bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế: WB, IMF, ADB 1/1995: Nộp đơn xin ra nhập WTO. Đã qua 5 phiên đàm phán 7/1995: Ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế với Liên minh Châu ÂU (EU) 7/1995: Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) 1/1996: Thực hiện Chương trình CEPT nhằm tiến tới khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) 3/1996: Tham gia sáng lập diễn đàn á - Âu (ASEM) 11/1998: Gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) 7/2000: Ký Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ và có hiệu lực thi hành từ 10/12/2001 PHầN I NHữNG VấN Đề CầN QUAN TÂM Về việc nâng cao sức CạNH TRANH CủA DOANH NGHIệP VIệT NAM. Hội nhập kinh tế quốc có liên quan mật thiết với việc nâng cao sức cạnh tranh . ở các nước đang phát triển, trong đó có việt nam thực hiện hội nhập kinh tế, trong bối cảnh các lợi thế của hội nhập đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối nên chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Do vậy, việc nâng cao sức cạnh tranh ở các nước đang phát triển như nước ta phải được coi là giải pháp cơ bản, mấu chốt, bức xúc có ý nghĩa quyết định cho việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay. Để có giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cần hiểu khái niệm và nội dung sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Có hiểu sức cạnh tranh của doanh nghiệp là: tổng thể các yếu tố gắn trực tiếp với hàng hoá cùng với các điều kiện, công cụ và biện pháp cấu thành khả năng cạnh tranh được doanh nghiệp sử dụng trong ganh đua với nhau nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành khách hàng và đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Nội dung sức cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm: khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại; khả năng nắm bắt và sử lý thông tin, khả năng tạo ra phương thức phục vụ và thanh toán trong sản suất kinh doanh, khả năng tạo lập và duy trì “chữ tín”thương hiệu, khả năng chấp nhận sự mạo hiểm rủi ro trong cạnh tranh. Theo diễm đàm kinh tế thế giới(WEF) năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế việt nam vẫn xếp ở hạng rất thấp và bấp bênh trên thế giới. Nền kinh tế Việt nam năm 1977 xếp thứ 49 trên tổng 53 nước xếp hạng, năm 1998 tăng lên vị trí 39 do các nước khác bị khủng hoảng nhưng năm 1999 lại tụt xuống 48. Đến năm 2000 vị trí của Việt nam là 52 trên 59 nước. Trong thời gian qua chúng ta đã tham gia vào các tổ chức và thể chế hợp tác kinh tế, thương mại khu vực và thế giới như ASEAN - AFTA, APEC, ASEM và đang chuẩn bị vào WTO. Theo lộ trình gia nhập AFTA thì đến 1/1/2006 Việt Nam phải từng bước cắt giảm thuế xuống mức 0 – 5% đối với mặt hàng trong danh mục IL ( cắt giảm ngay)và TEL ( cắt giảm tạm thời ). Khi đó sự bảo hộ bằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá sản xuất trong nước sẽ không còn tác dụng, hàng Việt Nam liệu có cạnh tranh với hàng nước ngoài tại thị trường trong nước lẫn thị trường ASEAN và thị trường thế giới hay không? Các doanh nghiệp Việt Nam và các cơ quan hữu quan cần phải làm gì để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp? I. Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việc tham gia AFTA và tiến tới môi trường tự do hoá ở phạm vi rộng hơn. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam tập trung nỗ lực ở mức độ cao trong giai đoạn 2001-2005 để nâng cao sức cạnh tranh của mình và đảm bảo khả năng có thể thích ứng với môi trường tự do hoá. Tập trung xây dựng chiến lược doanh nghiệp để đạt được mục tiêu phát triển dài hạn. Một là, lựa chọn hướng và mặt hàng để xây dựng chiến lược. Hướng chiến lược doanh nghiệp nhằm tạo ra ưu thế về chi phí và giá trị cho khách hàng. Doanh nghiệp phải đặt ra mục tiêu cạnh tranh bằng việc chuyển lợi thế về giá lao động rẻ hay tài nguyên dồi dào sang cung cấp những sản phẩm có ưu thế cơ bản về chi phí và giá trị cho khách hàng, tạo ra ưu thế về tiếp thị tổ chức tiêu thụ và từng bước xác lập thương hiệu riêng. Hai là, trong khi quyết định lựa chọn hướng chiến lược phát triển, các doanh nghiệp cần chú trọng đến các vấn dề như phân tích lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương quan với các doanh nghiệp cùng ngành, các đối tác cạnh tranh, trên cơ sở xác định các đặc diểm kinh tế chủ chốt như thị trường, thị phần, các điều kiện của thị trường, khách hàng, công nghệ, đặc điểm của sản phẩm, quy mô tối ưu của sản lượng, xác định các nhân tố tác động đến dự phát triển của từng ngành, điều kiện cạnh tranh, điều kiện thay đổi công nghệ, nguyên vật liệu, phương hướng kinh doanh, xu hướng tiêu dùng của thị trường. Ba là, tổ chức nghiên cứu, dự báo tình hình và sự cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới. a- Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp: Thực tiễn quốc tế đã chỉ ra rằng doanh nghiệp muốn đạt được hiệu quả hoạt động phải dựa vào ưu thế tổng hợp như: Khai thác hiệu quả các lợi thế so sánh quốc gia trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm thoả mãn tốt nhu cầu trong nước và quốc tế cả về chất lượng, mẫu mã, đặc biệt là giá cả; Chú trọng nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm dựa vào đổi mới thiết kế chứ không phụ thuộc vào công nghệ sản xuất, tìm kiếm các nguồn nhập khẩu các yếu tố đầu vào trung gian để sản xuất sản phẩm có chi thấp nhất hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm, để tìm kiếm thông tin hoặc liên kết những nghiên cứu về thị trường, tiếp thị và phân phối sản phẩm, chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, kể cả dịch vụ phục vụ trước, trong và sau khi bán hàng phù hợp với đặc điểm văn hoá, tiêu dùng ở những thị trường tiêu thụ khác nhau, xây dựng năng lực nắm bắt và phản ứng nhanh của doanh nghiệp trước những thay đổi của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Thực hiện giải pháp này theo hướng nhập các thiết bị nước ngoài, học tập nguyên tắc thiết kế, tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất và chế tạo tại Việt Nam, đối với các công nghệ hoặc thiết khó nhập khẩu hoặc nhập khẩu quáđắt,các doanh nghiệp cần hợp tác với các cơ quan nghiên cứu khoa học, kỹ thuật của Nhà nước cùng đầu tư nghiên cứu để thiết kế và chế tạo , các doanh nghiệp có thể khai thác các thông tin qua mạng để tham gia các hướng công nghệ mới và tìm kiếm sự trợ giúp kỹ thuật từ bên ngoài doanh nghiệp, nên đổi mới công nghệ theo hướng tập trung ở một vài khâu then chốt có ảnh hưởng quyết định nhất, tận dụng khả năng đóng góp của các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài, tìm kiếm cơ hội liên doanh với các công ty nước ngoài có khả năng công nghệ hiện đại. b-Nâng cao chất lương và quản lý nguồn nhân lực trong doanh nghiệp: - Cho đến nay, lao động có trình độ giáo dục cao và giá rẻ được xem là lợi thế so sánh lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, việc khai thác lợi thế này của doanh nghiệp Việt Nam còn khá hạn chế. Để khai thác được lợi thế này, các doanh nghiệp cần tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách như đầu tư cho đào tạo, đảm bảo công ăn việc làm ổn định cho người lao động kể cả khi có những biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp. - Đa dạng hoá các kỹ năng và đảm boả khả năng thích ứng của người lao động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Biện pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể sẽ điều chỉnh lao động khi có những biến động, giảm được chi phí do tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần có đội ngũ quản lý năng động. *Một số kiến nghị đối với Nhà nước - Để tăng tính khả thi các giải pháp của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế, ngoài nỗ lực từ phía doanh nghiệp, xây dựng một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế. - Căn cứ vào Nghị quyết vào Đại hôi IX , chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010 cũng như các chủ trương Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, các quyết định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, sớm xây dựng một chiến lược tông thể về hội nhập kinh tế vì một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh, đảm bảo hội nhập có hiệu quả. - Tiếp tục cải tổ để tăng cường năng lực cho hệ thống doanh nghiệp. - Đẩy nhanh việc thực hiện chương trình chi tiết về cải cách doanh nghiệp Nhà Nước để thúc đẩy các doanh nghiệp này chuyển hướng sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. - Tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân. Trước hết cần có sự nhìn nhận đúng thực tế và khả năng về vị trí vai trò của khu vực tư nhân đối với nền kinh tế tạo môi trường tâm lý xã hội ủng hộ rộng rãi cho khu vực này phát triển, hoàn thiện các cơ chế chính sách theo hướng đảm bảo sự bình đẳng cho sự phát triển kinh tế tư nhân như chính sách thuế đầu tư, điều kiện và cơ hội tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, chính sách thu nhập và tham gia đóng bảo hiểm xã hội chính sách đào tạo khoa học công nghệ. II. Quá trình việt nam gia nhập AFTA có ảnh hưởng đối với các doanh nghiệp việt nam Khi gia nhập AFTA nhiệm vụ và thách thức mà các doanh nghiệp việt nam đang phải đối diện vì hấu hết các doanh nghiệp nước ta vẫn còn non trẻ.Số lượng doanh nghiệp nhiều, nhưng nhìn chung có quy mô nhỏ, trang thiết bị kỹ thuật máy móc không đồng bộ, công nghệ lạc hậu cộng với trình độ quản lý còn hạn chế dẫn đến năng suất thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao. trên thực tế những năm qua quá trình hội nhập chưa được doanh nghiệp nước ta quan tâm đúng mức, trong khi đó xu hướng này đã và đang ẩn chứa những nguy cơ tiềm tàng mà doanh nghiệp nước ta cần biết để chủ động mọi mặt khi hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế. chẳng hạn chúng ta mới bắt đầu đưa vào cắt giảm những mặt hàng có lợi thế suất khẩu hoặc có nhu cầu nhập khẩu mà trong nước chưa có nhu cầu sản suất được.Bản thân những mặt hàng này đã có thuế suất xuất nhập khẩu ưu đãi hiện hành thấp( chủ yếu dưới 20% và nằm trong khung từ 0-5% là chính). do đó việc thực hiện cắt giảm hầu như chưa có nhiều biến động lớn so với mức thuế suất xuất nhập khẩu hiện hành nên chưa có tác động nhiều đến các doanh nghiệp. Theo Lịch trình thực hiện cam kết CEPT/ AFTA từ năm 2000- 2006 nuớc ta sẽ phải cắt giảm thuế quan liên tục đối với hơn 6000 dòng thuế nhập khẩu với nguyên tắc thực hiện là đối với những mặt hàng tính đến thời điểm 1/1/2001 đã thuộc danh mục CEPT mà có mức thuế xuất không quá 20% thì sẽ phải xem xét lãi hàng năm để điều chỉnh cắt giảm sao cho có thể tối đa số dòng thuế 0-5% vào năm 2003 và 0% vào năm 2006. Mức thuế xuất XNK của các mặt hàng khi đă đưa vào danh mục cắt giảm ngay kể từ khi 1/1/2001 trở đi đều phải có thuế suất không cao quá 20%. Tất cả các biện pháp hạn chế định hướng quota( hạn ngạch) sẽ phải bổ ngang khi mặt hàng đó đưa vào danh mục cắt giảm và thời điểm thực hiện nguyên tắc này bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2001. Với những biến động về tiến độ và phương thức thực hiện lịch trình CEPT/ AFTA trên chắc chắn sẽ có những tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh và XNK của các doanh nghiệp nước ta mà trong đó thách thức lớn nhất cũng là mối quan tâm lớn nhất hiện nay của chính phủ và doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá sang các nước ASEAN, từ năm 2003 phá bỏ hạn ngạch định lượng nhập khẩu từ năm 2006 phải bỏ toàn bộ các biện pháp bảo vệ thuế quan. Hàng hoá từ các nước ASEAN sẽ tự do tràn vào nước ta nếu các sản phẩm hàng hoá của ta không chiếm lĩnh được thị trường trong nước. Vấn đề này càng làm cho các doanh nghiệp trong nước phải thận trọng cố gắng nhiều. III. Việc ký kết hiệp định thương mại việt- mỹ đối với các doanh nghiệp việt nam có ảnh hưởng rất lớn. Sau nhiều năm mỹ cấm vận kinh tế và cô lập việt nam về chính trị. Hiệp định thương mại việt- mỹ đã được ký kết coi là một thắng lợi lớn của nhan dân việt nam trong năm 2001 bởi nó khẳng định vị trí và vai trò của việt nam trên thị trường quốc tế, hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước và tạo điều kiện mới để nền kinh tế việt nam phát triển và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thức một cách sâu sắc rằng quá trình quan hệ giữa việt nam với hoa kỳ nói chung và quá trình thực hiện hiệp định thương mại việt mỹ nói riêng là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh đan xen phức tạp, từ đó giữa thời cơ và thách thức không có ranh giới và chúng ta phải biết tận dụng biến thời cơ thành hiện thực và vượt qua thách thức để chuyển thành những thuận lợi mới. hiệp định thương mại việt- mỹ là một hiệp định song phương nhưng là trên nền tảng đa phương vì cơ bản ở đây các thoả thuận đều gắn với các quy tắc, quy định tương ứng của tổ chức thương mại thế giới(WTO) nên hiệp định song phương này được coi như kinh nghiệm cần thiết và là bước tiến của việt nam trên con đường gia nhập WTO. Chính vì vậy mà việc nhận thức rõ những lợi ích cũng như những khó khăn thách thức khi thực hiện thương mại việt- mỹ có ý nghiã rất quan trọng.Việc ký hiệp định việt- mỹ là lằm trong khuôn khổ chính sách đối ngoại của nhà nước ta nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hiệp định đi vào thực thi sẽ đem lại những cơ hội và khả năng trước hết là mở rộng thị trường và tăng nhanh suất khẩu hàng hoá. Bởi mỹ là một thị trường lớn có dung lượng nhập khẩu lớn nhất thế giới( mỗi năm nhập khẩu 1200 tỷ USD hàng hoá với thuế suất ) mà trong đó việt nam có khả năng gia tăng xâm nhập vào thị trường với các mặt hàng như dệt may, dày dép, thuỷ sản, cà phê và một sốhàng nông sản, thuỷ cộng mỹ nghệ... từ đó việt nam có thể thúc đẩy sản xuất, tạo công ăn việc làm trong nước. tuy nhiên, khả năng tăng nhanh xuất khẩu này còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng các doanh nghiệp việt nam có sức đủ sức cạnh tranh về mặt chất lượng, giá thành ngay tại thị trường việt nam hay không (nhất là trong lĩnh vực dịch vụ) bởi việc mở cửa thị trường luôn gắn với ý nghĩa lưu thông hàng hoá, dịch vụ hai chiều. Đối với doanh nghiệp việt nam, hiệp định thương mại việt- mỹ mở ra những thời cơ thuận lợi, song bên cạnh đó lại là những thách thức hết sức cụ thể như về chất lượng, giá cả, hiểu biết thị trường, về sự chủ động và chữ tín trong kinh doanh, là cuộc cạnh tranh gay gắt tại thị trường trong nước và thị trường hoa kỳ. Các doanh nghiệp nhà nước thì phải chạy đua với thời gian bởi những ưu đãi của nhà nuớc về vốn, về thị phần và những bảo hộ của nhà nước thông qua biên pháp phi thuế quan sẽ bị loại bỏ dần theo lộ trình. Và cuối cùng là những thách thức về nhân lực trong nhiều lĩnh vực như lĩnh vực khoa học công nghệ, luật pháp, kinh doanh, hành chính nhà nước... mà điều quan trọng là vấn đề đào tạo nhân lực có chất lượng và sự tiếp thu có chọn lọc. hiệp định thương mại việt-mỹ bắt đầu có hiệu lực và guồng máy đó bắt đầu chuyển động. Để thực thi hiệp định có hiệu quả,việt nam phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao mạnh mẽ khả năng cạnh tranh của hành hoá dịch và của chính các doanh nghiệp, một nhân tố có ý nghĩa quyết định trong quá trình hội nhập quốc tế nói chung và thực thi hiệp định thương mại với hoa kỳ nói riêng. Chúng ta phải tìm hiểu hệ thống pháp luật, thị trường tập quán làm ăn của hoa kỳ và chủ động tích cực xâm nhập vào thị trường này. PHầN II CƠ HộI Và THáCH THứC ĐốI VớI DOANH NGHIệP VIệT NAM TRONG QUá TRìNH HộI NHậP KINH Tế QUốC Tế Thực tế cho thấy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm qua đã có những bước phát triển quan trọng. Xuất phát từ nhu cầu thực tế phải nỗ lực hoà nhập vào nền kinh tế thế giới để phá thế bị bao vây, cô lập, nền kinh tế Việt nam vào những năm đầu thập kỷ 90, đến nay đã mang lại sắc thái mới. Hiện nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 170 quốc gia, trao đổi thương mại với trên 150 nền kinh tế và quan hệ đầu tư với khoảng 70 nước và vùng lãnh thổ. Đến nay Việt nam đã thu hút được trên 42 tỷ USD vốn đầu tư với trên 3.000 dựa án, trong đó đã thực hiện được khoảng 21 tỷ USD và nguồn vốn này chiếm đến 30% tổng vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho gần 40 vạn lao động. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp Việt Nam tranh thủ được nguồn vốn ODA ngày càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. Đến nay, các nhà tài trợ đã tiếp tục cam kết dành cho nước ta gần 20 tỷ USD. Quá trình chủ động Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo cơ hội để Việt nam tiếp cận với những thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệ và dây chuyền sản xuất hiện đại được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Đã có nhiều doanh nghiệp Việt nam thời gian qua đã áp dụng thành công tiêu chuẩn quốc tế ISO nên chất lượng sản phẩm đã được nâng lên. Đây là một minh chứng cho điều này. Lợi thế là vậy, nhưng nhiều doanh nghiệp Việt nam hiện nay còn rất lúng túng và thiếu hiểu biết về hội nhập. Theo điều tra của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, hiện mới có 84% số doanh nghiệp được hỏi trả lời có nhận được thông tin về hội nhập, trong đó 16% doanh nghiệp chưa có hiểu biết gì về quá trình hội nhập, 50% không có thông tin về hiệp định Thương mại Việt – Mỹ. Bên cạnh đó nhận thức về nội dung, bước đi, lộ trình hội nhập của các cấp còn giản đơn. Đây cũng là một trong những lý do chính khiến việc xác định triển khai chọn mặt hàng, xác định lợi thế, biện pháp xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường để thực hiện lộ trình cam kết của ta còn chậm và lúng túng. Đến nay trừ thuỷ sản, rau quả và dệt may đã thâm nhập được thị trường Hoa kỳ còn hầu hết các mặt hàng khác chúng ta chưa có một chiến lược cụ thể nào để chiếm lĩnh và phát triển thị trường trước khi mở cửa thị trường theo lộ trình cam kết hàng hoá Hoa Kỳ và các nước khác vào Việt Nam. Trong lĩnh vực nông nghiệp: Thực hiện đường lối đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều năm qua nông nghiệp nước ta đã có những bước tiến quan trọng, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước về lương thực, thực phẩm, đồng thời đã trở thành một ngành hàng xuất khẩu lớn, có năm đã đem lại trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Một số mặt hàng đã có vị thế quan trọng trên thị trường quốc tế như: gạo, cà phê, điều, hồ tiêu ...Thế nhưng hiện tại khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản của nước ta còn thấp do năng suất, chất lượng thấp, giá thành sản xuất còn cao như ngô, đậu tương, bông, thịt lợn...Nguyên nhân nữa dẫn đến sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt nam kém còn do sức cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh nông lâm sản còn thấp. Đa số nhà máy chế biến quy mô nhỏ, công nghệ, thiết bị lạc hậu hơn nhiều so với trình độ công nghệ của các nước trong khu vực và thế giới. Hiện nay gần 70% doanh nghiệp thuộc Bộ NN& PTNT có vốn dưới 10 tỷ đồng cộng với khả năng nắm bắt và khai thác thị trường còn yếu. Cho nên mở cửa thị trường sẽ là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, nhìn vào cơ cấu xuất khẩu của Việt nam thì thấy kinh tế Việt Nam về cơ bản vẫn là một nước chủ yếu là nông nghiệp : 62% kim ngạch thu được từ xuất khẩu là hàng thô và sơ chế , chủ yếu là hàng nông sản chiếm 38% còn lại là hàng công nghiệp mà phần lớn làm hàng gia công, dẫn đến sức cạnh tranh của một số mặt hàng công nghiệp trên thị trường còn yếu. Hiện tượng mức bảo hộ một số mặt hàng công nghiệp còn quá cao như: Xe máy, xe đạp 59%, gạch và gạch ốp lát 48%, hàng may mặc 42%...và mức thuế suất bình quân cao nhất 19% so với các nước trong khu vực sẽ là thách thức lớn đối với nhiều ngành hàng công nghiệp khi thực hiện cam kết cắt giảm thuế và giảm mức bảo hộ. Chính vì vậy, từng bước xoá bỏ bảo hộ là biện pháp cần thiết nhằm buộc doanh nghiệp cải tổ toàn diện, chủ động vươn lên đối đầu trực tiếp với sức ép cạnh tranh từ các nước trong khu vực và thế giới. Đồng thời, trước mắt chúng ta phải kiên trì với những mặt hàng có khả năng cạnh tranh và mở rộng đầu tư các mặt hàng khác, nhất là chú trọng đầu tư cho các ngành có hàm lượng công nghệ cao, có thế mạnh trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu như : điện tử- tin học, dệt, nguyên liệu hoá chất, cơ khí và cơ điện tử...có như thế chúng ta mới mau chóng chiếm được một vị trí rõ ràng trong thương mại quốc tế. Bởi một thực tế hiện nay năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam được xếp vào nước có khả năng cạnh tranh thấp và còn giảm dần trong 3 năm trở lại đây. Năm 1998 theo đánh giá của Tạp chí Diễn đàn cạnh tranh toàn cầu, Việt nam đứng thứ 43 trong 59 nước được đánh giá về năng lực cạnh tranh. Năm 1999, vị trí của Việt nam tụt xuống thứ 48 và năm 2000 là 53 đó là điều mà mỗi chúng ta không thể không suy nghĩ và lo lắng khi nền kinh tế của chúng ta tham gia HNKTQT. Mới gần đây theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW thì hiện nay tỷ trọng DNNN thực sự có hiệu quả và có triển vọng đứng vững trong quá trình hội nhập chỉ đạt khoảng 21%, số doanh nghiệp không có hiệu quả bị lỗ triền miên chiếm 20%, nếu tính đủ khấu hao tài sản cố định thì con số này còn cao hơn. Thứ trưởng Bộ Công nghiệp ông Nguyễn Xuân Chuẩn rất lo ngại về sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam: Rõ dàng thấy Việt nam có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn các nước ASEAN cho nên sức cạnh tranh của hàng hoá còn nhiều hạn chế, đang và sẽ đứng trước những thách thức rất to lớn khi hội nhập kinh tế trong khu vực và thế giới. Chính vì vậy, chủ động Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là việc của Chính phủ, mà điều sống còn là các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Vì doanh nghiệp là chủ thể thực hiện hội nhập, là động lực hết sức quan trọng và then chốt. Một điều mà nhiều năm nay làm hạn chế năng lực phát triển của doanh nghiệp là, mặc dù môi trường kinh doanh đã được cải thiện song hệ thống pháp luật còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng và nhất quán. Nghị Quyết 07/TƯ của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đã nêu: “Trong bộ máy hành chính còn nhiều biểu hiện của bệnh quan liêu và tệ tham nhũng, trình độ nghiệp vụ yếu kém, nguồn nhân lực chưa được đào tạo tốt”. Một số doanh nghiệp cho rằng để hội nhập thành công thì hệ thống pháp luật phải hoàn chỉnh, nhất quán, ổn định. Các điều khoản pháp luật phải nhất quán, không chồng chéo, mâu thuẫn, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau, đặc biệt, tránh trường hợp văn bản phải sửa đi sửa lại nhiều lần, nhiều cơ quan ra hướng dẫn đối nghịch nhau gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hệ thống pháp luật về kinh tế còn phải phù hợp với thông lệ và luật chơi quốc tế, có như vậy nhà đầu tư mới yên tâm. Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ vừa cạnh tranh, vừa tận dụng cơ hội vừa đối phó thách thức. Tại Hội nghị toàn quốc về HNKTQT phó thủ tướng Nguyễn Mạnh cầm đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo về HNKTQT: “ Phải tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường. Một lộ trình quá nóng về mức độ và thời hạn mở cửa thị trường vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường ”. Tuy nhiên, Phó thủ tướng Nguyễn Mạnh cầm nhấn mạnh: “ Điều đó không có nghĩa là lộ trình càng dài càng tốt, bởi vì kéo dài lộ trình sẽ đi liền với duy trì quá lâu chính sách bảo hộ, bao cấp của Nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại và nguy cơ tụt hậu xa hơn...” PHầN III NHữNG GIảI PHáP CHO DOANH NGHIệP VIệT NAM KHI HộI NHậP KINH Tế QUốC Tế Từ những thực tế đó mà Chính phủ đã đề ra chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 07 về HNKTQT bao gồm 10 nội dung chính sau: Công tác tư tưởng, thông tin tuyên truyền Xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế, chính sách kinh tế thương mại Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh Tổng kết và hoàn thiện chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế Đào tạo nguồn nhân lực Kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại Nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng Đàm phán gia nhập WTO Mở rộng thị trường xuất khẩu, tranh thủ đầu tư và trợ giúp kỹ thuật của các nước và các tổ chức quốc tế Kiện toàn tổ chức. Một là: có sự quản lý hướng dẫn của nhà nước. Cần xây dựng chiến lược hội nhập, bước đi gắn liền với chính sách kinh tế nội địa trên cơ sở đó vạch ra những bước đi triển khai những chiến lược cụ thể phù hợp với điều kiện việt nam. Hai là:hoàn thiện môi trường kinh doanh. Nhà nước phải rà soát lại các văn bản pháp quy, tạo hành lang pháp lý, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, tự do cạnh tranh theo khuôn khổ pháp luật đồng thời phù hợp với luật pháp quốc tế. Nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính để khuyến khích đầu tư. * Hệ thống ngân hàng: kinh nghiêm cho thấy khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua là hệ quả của sự yếu kém của hệ thống tài chính quốc gia của việc sử lý nợ nước ngoài, chính sách sai lầm về vay nghiệp vụ ngân hàng và sự yếu kém trong việc kiểm soát các dòng vốn. Nhiệm vụ hiện nay là cải tổ hệ thống ngân hàng, lành mạnh hoá hệ thống tài chính, chủ động sự kiểm soát di chuyển của các dòng vốn tạo cơ sở vững chắc để huy động, vận động vốn nâng cao hiệu quả đầu tư. cũng cần chọn lọc để đảm bảo an ninh kinh tế và thích ứng một cách có hiệu quả với tiến trình tự do hoá. * Hệ thống thuế: cải cách chính sách thuế phải gắn chặt với sự phát triển của các ngành kinh tế đảm bảo hiệu quả kinh doanh, đảm bảo nguồn thu của nhà nước đồng thời tăng cường tính cạnh tranh và độ an toàn khi hội nhập, giảm dần hàng rào phi thuế quan theo lộ trình của AFTAvà WTO. Ba là: thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhà nước cần xây dựng chiến lược cạnh tranh tích cực bằng cách tổ chức lại cơ cấu ngành kinh tế, bảo hộ có chọn lọc; phát triển vùng nông nghiệp chuyên canh cùng công nghiệp chế biến, tăng cường công nghệ sau thu hoạch cần tập trung vào các đặc khu kinh tế và các tổng công ty có sức cạnh tranh thực sự việt nam mới đủ sức hội nhập. Bốn là: phát huy nội lực các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải nhận thức rõ ràng hội nhập là cơ hội để giao lưu và học hỏi để xúc tiến thương mại và đầu tư ra nước ngoài nhưng cũng là nguy cơ phá sản. Do đó các doanh nghiệp phải khai thác hiệu quả và phát huy nội lực đổi mới kỹ thuật công nghệ nâng cao chất lượng tăng tính hấp dẫn và tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Năm là: đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực để chuẩn bị cho hội nhập cần phải đào tạo được đội ngũ cán bộ lao động tận tâm nhiệt tình chất lượng cao, giỏi ngoại ngữ và kỹ thuật đàm phán, kỹ thuật chuyên môn, ham hiểu luật pháp và thông lệ quốc tế. Đây là nhân tố tiền tạo ra năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong dài hạn. Do đó xu thế khách quan của toàn cầu hoá kinh tế và chủ trương Việt nam chủ động HNKTQT đã được khẳng định rõ trong nhiều Nghị quyết của đại hội Đảng và đã được triển khai trên thực tế. Nguyên nhân tình trạng hiện nay nhiều doanh nghiệp vẫn còn rất mù mờ và lúng túng về hội nhập là do: nhận thức, tư tưởng về các nội dung, bước đi, lộ trình, về sự cần thiết phải hội nhập để phát triển đất nước... ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương và doanh nghiệp vẫn chưa được nhất quán.Chính vì vậy nhiệm vụ đầu tiên trong 10 nhiệm vụ cụ thể mà Nghị quyết 07 nêu ra là: “ Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức đảng, chính quyền đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về HNKTQT, coi đó là nhu cầu vừa bức xúc, vừa cơ bản và lâu dài của nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân dân ta chủ động HNKTQT”. lời kết Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tất yếu tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH – HĐH nước nhà. Trong quá trình đó chúng ta vừa có những thuận lợi, vừa phải đương đầu với những thách thức nghiệt ngã. Các doanh nghiệp Việt Nam cả sản xuất lẫn kinh doanh ngay từ bây giờ cần có nhận thức đúng đắn để có chiến lược cụ thể tham gia, khai thác lợi thế để sản phẩm của mình vươn ra thị trường thế giới. Cần biến cam kết quốc tế thành chương trình hành động của từng đơn vị. Phát huy nội ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0178.doc