Cơ hội & thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay & những định hướng cho công tác đào tạo

Lời mở đầu Trong bất kỳ giai đoạn nào, sức mạnh của mỗi quốc gia có được đều là sự tổng hợp sức mạnh của nhiều nguồn lực trong quốc gia đó, mà yếu tố quan trọng hàng đầu là sức mạnh con người. Đối với Việt Nam, thực tế lịch sử đã chứng minh vai trò hết sức quan trọng của con người đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chính sức mạnh đó đã giúp nhân dân giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giúp con người vượt lên sự khắc nghiệt của thiên tai, bệnh tật. Trong q

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cơ hội & thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay & những định hướng cho công tác đào tạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uá trình hội nhập nền kinh tế thế giới thì sức mạnh con người là nhân tố hàng đầu của sự phát triển. Tự do hoá thương mại đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng đặt ra nhiều thử thách buộc chúng ta phải có sự nỗ lực cố gắng nâng cao trình độ nhận thức và trình độ kỹ thuật chuyên môn cho người lao động. Do đó phải thường xuyên chăm lo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập. Cùng với sự phát triển của kinh tế theo xu hướng hội nhập toàn cầu, Việt Nam đang ra sức thực hiện để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH). Song song với việc chăm lo cải thiện mức sống dân cư, nâng cao thể chất của người dân nói chung và của người lao động nói riêng, chúng ta phải đầu tư cho giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đã nêu các mục tiêu cơ bản là: Nâng cao chất lượng toàn diện con người Việt Nam về chính trị, đạo đức, ý chí, tri thức, tay nghề, sức khoẻ, thể lực. Sử dụng có hiệu quả đội ngũ lao động hiện có, đặc biệt là lao động đã qua đào tạo. Nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo lên gấp 2 lần hiện nay. Hình thành đội ngũ lao động có chất lượng cao, có cơ cấu trình độ đáp ứng yêu cầu trong từng bước đi của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội trong thời kỳ 2001-2010, chuẩn bị tiền đề về nhân lực cho giai đoạn tiếp theo. Để nghiên cứu về thực trang nguồn nhân lực, tình trạng đào tạo và phất triển nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như đưa ra một vài giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài : “Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những định hướng cho công tác đào tạo” Phần I: Mức độ cấp thiết của đề tài I. KháI niệm về Nguồn nhân lực (NNL). Bất cứ một tổ chức nào muốn tồn tại và phát triển cũng cần phải có quá trình lao động. Lao động là sự tác động của con người vào đối tượng tự nhiên của môi trường xung quanh con người để biến đổi nó theo ý muốn (có thể là lao động chân tay hoặc lao động trí óc). Quá trình lao động là những hoạt động lao động liên tục diễn ra theo một quá trình của con người tác động vào đối tượng lao động, biến nó theo ý muốn. Như vậy có thể nói con người là điều kiện thiết yếu để tồn tại của một tổ chức. Dù đó là tổ chức gì (công ty, bệnh viện, trường học, cơ quan quản lý nhà nước…) thì cũng cần phải có con người hay nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực của một tổ chức bao gồm tất cả những người lao động làm việc trong tổ chức đó. Nhân lực được hiểu là nguồn lực của mỗi con người mà nguồn lực này gồm có thể lực và trí lực. - Thể lực chỉ sức khoẻ của thân thể, nó phụ thuộc vào sức vóc, tình trạng sức khoẻ của từng người, mức sống, thu nhập, chế độ ăn uống, chế độ làm việc và nghỉ ngơi, chế độ y tế. Thể lực của con người còn phụ thuộc vào tuổi tác, thời gian công tác, giới tính… - Trí lực chỉ sức suy nghĩ, sự hiểu biết, sự tiếp thu kiến thức, tài năng, năng khiếu cũng như quan điểm, lòng tin, nhân cách…của từng người. Trong sản xuất kinh doanh hiện nay các tiềm năng về trí lực con người đang được khai thác một cách mạnh mẽ và đây là một kho tàng còn nhiều bí ẩn của mỗi con người. II. Tình hình hội nhập kinh tế thế giới. Hiện nay trên thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và quốc tế hóa một cách nhanh chóng toàn diện dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Các quá trình đó dẫn đến xu thế hội nhập kinh tế của các nước trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút nhắn tụt hậu so với các nước khác và có điểu kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Hội nhập kinh tế sẽ giúp chúng ta thu nhận tri thức, khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới, tạo sức ép để các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, mở rộng thị trường ra nước ngoài góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nước ta đã đưa vào và đang triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập với khu vực và quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, tham gia ngày càng sâu rộng vào các định chế kinh tế, tài chính thương mại của ASEAN: khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA), khu vực tự do ASEAN (AIA), là thành viên của diễn đàn hợp tác á-Âu (ASEM), diễn đàn hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương (APEC), có quan hệ chặt chẽ với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB),...Sau 11 năm kiên trì đàm phán, cuối cùng Việt Nam cũng đã được kết nạp làm thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 7-11-2006. Việc Việt Nam gia nhập WTO là một sự kiện lớn, đánh dấu một bước tiến mới về hội nhập quốc tế của nền kinh tế nước nhà. Thành tựu này sẽ mang đến cho nước ta rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít khó khăn và thách thức trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực lao động và việc làm. Vấn đề lao động lúc này có ý nghĩa quyết định trong sự đi lên của quốc gia. III. Tính tất yếu khách quan cần phải: đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Con người là tài sản quý giá nhất đồng thời là nguồn tài nguyên to lớn và quan trọng nhất trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong tiến trình hội nhập ngày nay thì nhân tố con người càng phải được chú trọng hơn bao giờ hết. Thế kỷ XXI là thế kỷ kinh tế tri thức, công nghệ cao, cần hàm lượng chất xám cao trong thành quả lao động, sản xuất và phát triển bền vững là con đường tất yếu của các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng. Việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát huy nhân tố con người là điều kiện tiên quyết của phát triển bền vững nước ta. Hiện nay bên cạnh những lợi thế về một nguồn nhân lực dồi dào, thông minh, năng động, cần cù, ham học hỏi, khả năng tiếp thu công nghệ nhanh thì chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn nhiều vấn đề hạn chế cần được quan tâm và có biện pháp khắc phục. Để có được một nguồn nhân lực có chất lượng cao cần phải có biện pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phù hợp. Đào tạo và phát triển lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật có ý nghĩa quyết định để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của đất nước. Đây là quá trình thúc đẩy phát triển nguồn lực con người tri thức, phát triển các kỹ năng và các phẩm chất lao động mới, thúc đẩy sáng tạo thành tựu khoa học công nghệ mới, đảm bảo cho sự vận động tích cực các ngành nghề, lĩnh vực và toàn bộ xã hội. Quá trình đào tạo làm biến đổi nguồn nhân lực cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng của con người; phát triển toàn bộ và từng bộ phận trong cấu trúc nhân cách; phát triển cả về năng lực vật chất và năng lực tinh thần, tạo dựng và ngày càng nâng cao, hoàn thiện cả về đạo đức và tay nghề, cả tâm hồn và hành vi, từ trình độ chất lượng này lên trình độ chất lượng khác cao hơn, toàn diện hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vấn đề đặt ra là sử dụng nhân tố con người như thế nào cho đạt hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của hội nhập ngày càng được các nước quan tâm trong đó có Việt Nam. Xác định được vị trí của con người, cần phải quan tâm hơn nữa nguồn tài nguyên đang có trong việc tạo điều kiện để con người phát huy tài năng, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, nâng cao sự hiểu biết về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, phải phát huy một cách tốt nhất những mặt mạnh và khắc phục được những mặt hạn chế để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Từ thực tế về nguồn nhân lực của nước ta hiện nay cho thấy: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong những yêu cầu cấp bách trong tiến trình hội nhập hiện nay ở nước ta, là tất yếu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó, chúng ta thấy được mức độ cấp thiết của đề tài trong giai đoạn hiện nay. Phần II. Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực việt nam trong giai đoạn hiện nay. Sau 11 năm tính từ 1/1995 có thể nói sự kiên VN trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) là “cú huých” thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội phát triển. Những mục tiêu cơ bản của WTO là: Thúc đẩy tự do hóa thương mại hóa hàng hóa dịch vụ, thúc đẩy phát triển bền vững nhằm nâng cao sức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các quốc gia thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động. Trước khi vào WTO, bức tranh thương mại của Việt Nam với các nước nhìn chung đã tạo được sự kết nối khá ổn định. Với việc là thành viên thứ 150 của WTO, hiện nay nước ta có quan hệ với 220 quốc gia và các vùng lãnh thổ.Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2005 đạt 32,2 tỷ USD (tăng 21,6% so với năm 2004). Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa là 36,9 tỷ USD (tăng 4% so với năm 2004) (số liệu báo lao động và xã hối số 300 năm 2006). Gia nhập WTO Việt Nam càng có môi trường phát triển thương mại, tạo nhiều công ăn việc làm trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ nhờ các cơ hội như: Được hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn thuế nhập khẩu vào WTO sẽ giảm đáng kể, hưởng cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại, hưởng chế độ thuế quan phổ cập vì là các nước đang phát triển, được tham gia đàm phán quốc tế để bảo vệ quyền lợi… Gia nhập WTO không những mở rộng thị trường ra nước ngoài mà còn mở rộng thị trường trong nước do nền kinh tế có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Trên thực tế sẽ diễn ra cạnh tranh giữa hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam với các nước khác nhưng điều đó sẽ tạo cơ hội để thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao quy mô sản xuất và chất lượng sản phẩm để có đủ sức cạnh tranh.Với những điều kiện tác động của nền kinh tế thế giới sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tích cực cải tiến mẫu mã, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình để có thể cạnh tranh với những sản phẩm khác và có cơ hội đứng vững trên thị trường. Hội nhập kinh tế thế giới cũng tạo tiền đề để đổi mới công nghệ , nâng cao trình độ thâm canh, canh tác, đưa máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất nông nghiệp, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp trên thị trường quốc tế. Đồng thời cũng tăng thêm nguồn đầu tư nước ngoài cho phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, nông, lâm, ngư nghiệp trong nước. Đây là một thuận lợi lớn cho phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong điều kiện đó nguồn nhân lực Việt Nam cũng có nhiều cơ hội để phát triển hoà nhập với trình độ của các nước trên thế giới. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có không ít những thách thức đặt ra đối với nguồn nhân lực cần phải có giải pháp khắc phục để hoàn thiện đội ngũ lao động chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn CNH, HĐH. I. Thực trạng về nguồn nhân lực 1. Đặc điểm về số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực. Năm 2006 lực lượng lao động của cả nước là 45277 nghìn người. Trong đó nam là 23345 người (chiếm 51.6%), nữ là 21932 người (chiếm 48.44%). Lực lượng lao động phân bố không đều giữa nông thôn và thành thị. Nông thôn chiếm khoảng 75,03% lao động, thành thị chiếm khoảng 24.97% tổng số lao động. Bảng 1: Phân bố lao động Việt Nam theo giới tính, nhóm tuổi, khu vực năm 2004 và 2006 (đơn vị %). Năm Giới tính Khu vực Nhóm tuổi Nam Nữ Nông thôn Thành thị 15 đến 34 35 đến 54 Trên 55 2004 51 49 75.6 24.4 46.77 45.13 7.74 2006 51.56 48.44 75.03 24.97 45.46 46.36 8.18 Từ bảng số liệu trên cho ta thấy lực lượng lao động Việt Nam đã có sự thay đổi. Cụ thể: Năm 2006 so với năm 2004: Số lao động nam năm 2006 đã tăng lên từ 51% lên 51,56%( tăng 0,56%) so với năm 2004. Trong khi đó lao động nữ giảm từ 49% xuống 48,44%. Lao động nông thôn giảm dần, khu vực thành thị tăng lên (0,57%). Lao động trong nhóm tuổi từ 15 đến 34 giảm xuống từ 46,77 xuống còn 45,46 ( giảm 1,31%). Nguyên nhân là do gia tăng số người tuổi từ 15 đến 24 đi học THPT, trung cấp, cao đẳng, đại học và đào tạo nghề. Theo số liệu thống kê lao động theo nhóm tuổi năm 2006, số lao động trong nhóm tuổi từ 15 đến 34 là 20.582 nghìn người (45,46%), nhóm tuổi từ 35 đến 54 là 20.991 nghìn người (46,36%), nhóm tuổi trên 55 là 3.704 nghìn người ( 8,18%). Trong đó số lao động đang có việc làm tính đến ngày 1/7/2006 là 43.843 nghìn người, tăng 386 nghìn người so với năm 2005. Dự báo đến năm 2010 tổng dân số nước ta đạt khoảng 88,3 triệu người trong đó lực lượng lao động là 49,5 triệu người, chiếm khoảng 56%, bình quân mỗi năm giai đoạn từ 2006 đến 2010 tăng 1,1 triệu lao động ( tăng 2,5 % ), trong đó khu vực thành thị tăng gấp 2,5 lần so với nông thôn. Đây là một thuận lợi lớn đối với Việt Nam. Lao động dồi dào và trẻ, có trình độ văn hóa khá, lại ham học hỏi và lao động, có khả năng tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học công nghệ mới và đặc biệt giá nhân công thấp so với khu vực. Điều này sẽ tạo cơ hội để Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới. Lao động nước ta phân bố không đều theo ngành. Năm 2005, số lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghịêp chiếm 57%, ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 18%, ngành thương mại dịch vụ chiếm 25%. Biểu 1: Phân bố lao động theo ngành năm 2005 Lao động nước ta chủ yếu là hoạt động trong ngành nông nghiệp (lao động chủ yếu là ở nông thôn): Tỉ lệ hộ thuần nông là 62,2%, hộ thuần nông kiêm nghề là 26,05%, hộ phi nông nghiệp là 11,03%. Trong những năm qua, mặc dù số lao động ở nông thôn trong ngành nông nghiệp có giảm song vẫn còn cao 56,8% (nhưng chất lượng lao động trong nông nghiệp thấp do tỉ lệ lao động qua đào tạo thấp và chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu), tỉ lệ lao động qua đào tạo đã tăng qua các năm (năm 2003 là 21%, năm 2004 là 22,5%, năm 2005 là 25%)nhưng năng suất lao động còn thấp. Theo xu hướng phát triển, cơ cấu lao động nước ta sẽ tiếp tục chuyển dịch theo xu hướng CNH, HĐH. Tức là, tăng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động trong các ngành nông, lâm và ngư nghiệp. Mục tiêu đến năm 2010 chỉ còn khoảng 50% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, 23-24% lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, 26-27% lao động trong lĩnh vực dịch vụ. Sự gia tăng quy mô lao động và xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động đặt ra những yêu cầu bức xúc về việc mở rộng quy mô đào tạo và phát triển một lực lượng lao động tiên tiến để đáp ứng các nhu cầu hiện nay của nền kinh tế. Bởi vì khi tham gia vào tổ chức WTO cũng mang đến cho nguồn nhân lực Việt Nam nhiều thách thức. Cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ gay gắt hơn, lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân công giá rẻ, đầu tư xã hội thấp sẽ giảm dần và mặt yếu như trình độ tay nghề, chuyên môn, ngoại ngữ, kỷ luật, tác phong công nghiệp và thể lực kém là những bài toán khó đang cần tìm lời giải. 2. Về chất lượng lao động. 2.1. Trình độ văn hóa của lực lượng lao động ( LLLĐ). Đánh giá chung thì trình độ văn hóa của nguồn nhân lực nước ta chưa cao so với các nước có nền kinh tế khá phát triển (Hàn Quốc, Xingapo, Malaixia) và so với các nước có nền kinh tế phát triển (Nhật, Mỹ, Anh, Pháp) thì khoảng cách này còn ở khá xa. Theo cơ cấu điều tra, năm 2004, trong lực lượng lao động của cả nước có 5% mù chữ,12% chưa tốt nghiệp tiểu học, 30,5% mới chỉ tốt nghiệp tiểu học, 32,8% tốt nghiệp THCS và 19,7% tốt nghiệp từ THPT trở lên. Năm 2005 số liệu này là: 4,04% mù chữ, 13,09% chưa tốt nghiệp tiểu học, 29,08% tốt nghiệp tiểu học, 32,57% tốt nghiệp THCS và 21,23% tốt nghiệp từ THPT trở lên. Biểu 2: Biểu đồ trình độ văn hóa của LLLĐ năm 2004 và 2005 (% ) Từ số liệu trên cho ta thấy trình độ văn hóa của lao động tốt nghiệp từ THPT trở lên năm 2005 đã tăng từ 19.7% lên 21.23% (tăng 1.53%). Tỷ lệ lao động mù chữ đã giảm xuống từ 5% năm 2004 xuống còn 4.04% năm 2005 (giảm 0.96%). Đây là tín hiệu đáng mừng đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam hiện nay. Giữa các vùng cũng có sự khác biệt về trình độ văn hóa của lao động. Năm 2004 ở đồng bằng sông Hồng cơ cấu của LLLĐ như sau: 27% tốt nghiệp THPT, 51% tốt nghiệp THCS, 19% tốt nghiệp tiểu học, 3% chưa tốt nghiệp tiểu học và mù chữ; Trong khi ở đồng bằng Sông Cửu Long, các chỉ số tương ứng là 11,16,40,33; ở Tây Bắc là: 12, 23, 30 và 35; Tây Nguyên là: 16,26,32 và 26. Nhìn chung trình độ học vấn phổ thông của LLLĐ các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng Sông Cửu Longcòn thấp hơn so với các vùng khác. Nâng cao trình độ văn hóa là cơ sở để phát triển đào tạo lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng và phát triển nguồn nhân lực 2.2. Trình độ chuyên môn kĩ thuật (CMKT) của LLLĐ. Trình độ chuyên môn kĩ thuật là sự hiểu biết, kiến thức và kĩ năng thực hành về một nghề nghiệp nhất định. Để đánh giá tổng quan trình độ CMKT của nguồn nhân lực người ta thường dùng các chỉ tiêu như: - Tỉ lệ giữa số lao động qua đào tạo từ công nhân kĩ thuật, sơ cấp trở lên trong nguồn nhân lực (NNL). Cơ cấu lao động đã qua đào tạo theo cấp trình độ chuyên môn kĩ thuật (công nhân kĩ thuật / sơ cấp, trung hoc chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học trở lên) của NNL. - Tương quan sử dụng lao động các cấp trình độ CMKT (sơ cấp, công nhân kĩ thuật-trung học chuyên nghiệp-cao đẳng đại học, trên đại học) trong nền kinh tế. - Thực tế hiện nay ở nước ta cho thấy, năm 2004, tỉ lệ lao động qua đào tạo trong LLLĐ cả nứớc là 22,5%. Trong đó tỉ lệ đã qua đào tạo sơ cấp, đào tạo nghề là 13,3%; Tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; Tốt nghiệp cao đẳng đại học trở lên là 4,8%. Năm 2005, lao động chưa qua đào tạo là 74,67%, công nhân kĩ thuật không có bằng là 10,59%, công nhân kĩ thuật có bằng và chứng chỉ 3,54% sơ cấp 0,97% trung học chuyên nghiệp 4,73%, cao đẳng và đại học trở lên 5,5%. Biểu 3: Biểu đồ trình độ CMKT của lao động (%). Như vậy, tỉ lệ lao động qua đào tạo trong lực lượng lao động đã có nhiều thay đổi, LLLĐ qua đào tạo đã tăng từ 22,5% năm 2004 lên 25,33% năm 2005 (tăng 2,83% ). Năm 2006 tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo là 31,9% tăng 6,57% so với năm 2005. Trong đó, số lao động tốt nghiệp cao đẳng đại học trở lên đã tăng từ 4,8% năm 2004 lên 5,5% năm 2005 (tăng 0,7%), tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp tăng từ 4,4% năm 2004 lên 4,73% năm 2005 (tăng 0,33% ). Số lao động chưa qua đào tạo đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao, năm 2004 là 77,5%, năm 2005 giảm xuống còn 74,67% (giảm 2,83% ). Năm 2006 số lao động chưa qua đào tạo còn 68,1%, giảm 6,57% so với năm 2005. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lực lượng lao động kĩ thuật là một trong những nhân tố có vai trò quyết định. Mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội là hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội, đạt 40% vào năm 2010. Cơ cấu cấp trình độ đào tạo giữa cao đẳng đại học trở lên / trung học chuyên nghiệp / công nhân kĩ thuật còn bất hợp lí, năm 1996 là: 1/1,7/2,4 ; Năm 2004 là: 1/0,91/2,75. Cơ cấu này biểu hiện trên thị trường lao động thiếu nghiêm trọng công nhân kĩ thuật lành nghề và lành nghề cao. Điều này đòi hỏi cần phảI có những chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực kịp thời và đúng đắn. II. Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của Việt Nam trong tình hình hội nhập kinh tế. 1. Cơ hội. Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt những thành tựu kinh tế xã hội to lớn. Chúng ta đã chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định 7- 8%/năm, kinh tế xã hội phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện và đã tạo điều kiện để con người học tập và phát huy được tài năng, cống hiến bằng chính khả năng của mình. Thực tế cho thấy nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế. Cụ thể: - Việt Nam có một nguồn lao động trẻ dồi dào, cần cù trong lao động, thông minh, ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh những kiến thức và khoa học công nghệ mới để đáp ứng với những thay đổi của nền kinh tế hiện đại. Lực lượng lao động tăng hàng năm đáng kể góp phần tạo nên “cấu trúc dân số vàng”, nghĩa là số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ trọng đông nhất trong tổng dân số. -Lực lượng lao động đang có xu hướng chuyển dịch theo hướng có lợi cho quá trình CNH, HĐH. Số lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ đang có xu hướng tăng lên, số lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp đang giảm dần. Điều này sẽ khuyến khích việc phát triển kinh tế mạnh mẽ, làm tăng sức cạnh tranh cho ngành công nghiệp, dịch vụ trên thị trường quốc tế. -Trình độ lao động cũng có nhiều biến chuyển tốt. Lượng lao động được đào tạo tăng lên là điều kiện để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo nền tảng phát triển cho một đội ngũ đông đảo những người có trình độ để có thể tự tin, sẵn sàng nắm bắt những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm kịp thời tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Đây cũng là giai đoạn giáo dục được quan tâm đặc biệt, ngân sách đầu tư cho giáo dục tăng lên đáng kể, mở rộng số lượng các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề, nâng cao chất lượng đào tạo, các dịch vụ đào tạo mở ra ngày một nhiều hơn (đào tạo từ xa, mở rộng…), thu hút đông đảo số người tham gia. Chính vì vậy, chất lượng giáo dục được nâng cao, tạo ra những con người có trình độ học vấn, tiếp thu nhanh, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ thế giới. Họ là những chủ nhân tương lai của đất nước. Mặt khác , khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều cơ hội cho người lao động - Thứ nhất, khả năng tìm kiếm được việc làm của người lao động ngày càng gia tăng. Khi đã trở thành viên chính thức của WTO, Việt Nam sẽ phải thực hiện mở cửa thị trường theo lộ trình nhất định như đã cam kết với tổ chức này, điều đó sẽ làm cho làn sang đầu tư nước ngoài vào nước ngoài vào nước ta ngày càng tăng lên và kéo theo sự gia tăng một cách ồ ạt về số lượng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Các doanh nghiệp này thường có qui mô và vốn lớn. Do đó sẽ có nhiều nhiều việc làm mới được tạo ra và đấy là một cơ hội không nhỏ đối với người lao động, kể cả người lao động chưa có việc làm và những người lao động đã có việc làm. Đối với những người lao động chưa có việc làm, họ sẽ có nhiều cơ hội và khả năng tìm được việc. Còn với những người đã có việc làm, họ sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn và thay đổi nghề nghiệp hơn, đặc biệt là lao động có trí tuệ cao. - Thứ hai, cùng với việc gia tăng khả năng tìm kiếm việc làm, người lao động sẽ có cơ hội được hướng mức lương phù hợp hơn, chế độ đãi ngộ cao hơn, và chính sách xã hội tốt hơn. Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, các chủ thể trong nền kinh tế. Do vậy tiền lương của người lao động không thể áp đặt mà phải theo qui luật của thị trường. - Thứ ba người lao động Việt Nam sẽ có nhiều hơn các cơ hội để giao lưu học hỏi, được phân công lao động trên tầm quốc tế, được bình đẳng mức thu nhập như người nước ngoài do nhu cầu của các tập doàn kinh tế. - Thứ tư, người lao động có cơ hội tiếp cận với máy móc, công nghệ và phương pháp quản lý hiện đại. Khi tiến hành sản xuất kinh doanh tại Việt Nam, các doanh nghiệp nước ngoài chắc chắn sẽ đưa vào nứơc ta hàng loạt công nghệ sản xuất và phương pháp quản lý, cách thức điều hành tiên tiến hiện đại. Bên cạnh đó, để tiến hành đổi mới công nghệ cùng phương pháp quản lý và tư duy quản lý. Đây là cơ hội không nhỏ để người lao động có điều kiện để tiếp cận và học hỏi, làm chủ nền khoa học hiện đại của thế giới, qua đó nâng cao kiến thức, kỹ năng và tay nghề cho mình. - Thứ năm, người lao động có cơ hội tìm được việc làm phù hợp thông qua thị trường lao động. Như vậy, xu thế hội nhập kinh tế thế giới có ý nghĩa rất lớn với người lao động Việt Nam. Đây là tín hiệu đáng mừng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp của nước ta đẩy nhanh sự phát triển kinh tế-xã hội. 2. Thách thức. Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, nguồn nhân lực nước ta cũng gặp không ít những khó khăn: Lực lượng lao động của nước ta tuy nhiều, cơ cấu lao động tuy đã chuyển dịch theo hướng có lợi theo xu thế của thời đại nghĩa là giảm tỷ lệ lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp, tăng số lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Nhưng cho đến nay, về cơ bản, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với 70% lao động nông thôn có trình độ sản xuất thấp kém. Tỷ lệ lao động được qua đào tạo còn thấp. Cơ cấu đào tạo giữa các bậc học còn thiếu hợp lý, bất cân đối, thiếu tính quy hoạch định hướng lâu dài phù hợp với sự phát triển của kinh tế tri thức dẫn đến tình trạng nguồn nhân lực vừa thừa, vừa thiếu, tình trạng “thợ thừa, thầy thiếu” diễn ra khá phổ biến. Điều này làm cho tỷ lệ thất nghiệp của lao động vẫn còn ở mức cao. Theo kết quả điều tra lao động việc làm cho thấy năm 2005 tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ từ đủ 15 tuổi trở lên là 5,13%.Trong đó tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động là 5,31%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ (15-24 tuổi) là 13,4 %. Khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt là việc gia nhập WTO, bên cạnh những thuận lợi cũng đạt ra không ít những thách thức đối với lao động: - Thứ nhất, xuất phát từ trình độ chuyên môn, tay nghề và năng suất của phần lớn người lao động ở nước ta còn thấp. Mặc dù cơ hội việc làm cho người lao động là rất nhiều, đặc biệt là những nhà đầu tư nước ngoài nhưng theo yêu cầu tất yếu của hội nhập thì các nhà sử dụng lao động trong và ngoài nước sẽ đòi hỏi rất cao về chất lượng lao động: trình độ, kỹ năng, năng suất...lực lượng lao động Việt Nam nêu không có sự chuyển biến tích cực thì khó có thể đáp ứng yêu cầu của các nhà tuyển dụng. Chất lượng lao động thấp lại không được đào tạo một cách bài bản khiến lao động nước ta sẽ bị nhiều sức ép, không tận dụng được cơ hội và sẽ bị lép vế. - Thứ hai, người lao động phải làm việc trong một môi trường có sức ép công việc lớn, sự đòi hỏi cao về ý thức, tác phong, thái độ làm việc và việc chấp hành pháp luật. Khi bước vào hội nhập do yêu cầu cao về hiệu quả kinh doanh, các nhà sử dụng lao động đặc biệt là người nước ngoài lại yêu cầu rất cao về ý thức, thái độ, tác phong làm việc từ phía người lao động. Người lao động phải chịu sức ép về công việc nhiều hơn, cường độ công việc cao hơn, thời gian công việc ngặt nghèo hơn và yêu cầu tuân thủ pháp luật cũng cao hơn. Như vậy hội nhập kinh tế là cơ hội để lao động Việt Nam nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ tay nghề nhưng cũng đặt ra cho người lao động không ít những thách thức. Do đó cần phải có những biện pháp kịp thời để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng kịp thời với tiến trình phát triển kinh tế của đất nước. 3. Kết luận chung. Trong quá trình CNH, HĐH đất nước và thực hiện chủ trương hội nhập với thế giới thì một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải có chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Về vấn đề này, ngoài việc làm giàu tài nguyên thiên nhiên (một thành tố để phát triển kinh tế) chúng ta có một nguồn nhân lực khá dồi dào. Tuy là một nước đang phát triển nhưng Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá cao về chỉ số phát triển con người (chỉ số HDI của nước ta đạt 0,704; xếp thứ 109 trên 177 nước vào năm 2006, cao hơn nhiều nước trong khu vực, trong khi thu nhập bình quân đầu người chúng ta lại thấp hơn họ rất nhiều). Với hơn 80 triệu dân, trong đó có hơn 43 triệu lao động, Việt Nam được đánh giá là một nước có LLLĐ dồi dào và trẻ, đang trên đà phát triển với một tinh thần ham học hỏi, cần cù, thông minh và nhiều cơ hội tiếp thu nhanh những kiến thức mới, những khoa học công nghệ hiện đại, tận dụng được thời cơ trong thời kì hội nhập. Tuy nhiên trình độ văn hóa và chuyên môn kĩ thuật của người lao động còn đang trong tình trạng khó khăn. Để vững bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề đặt ra ở đay là làm sao để nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn kĩ thuật của người lao động, nâng cao kĩ năng tay nghề, tác phong làm việc cho người lao động. Đây đang trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển và sử dụng có hiệu quả NNL, phát triển kinh tế đất nước. Phần IiI. Định hướng cho công tác đào tạo nguồn nhân lực của nước ta hiện nay. I. Thực trạng về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của nước ta trong giai đoạn hiện nay. 1. Đào tạo trung học chuyên nghiệp (THCN), cao đẳng, đại học và trên đại học. 1.1. Thuận lợi. Theo C.Mác, “một lao động được coi là cao hơn, phức tạp hơn so với lao động trong xã hội trung bình là biểu hiện của một sức lao đông đòi hỏi những chi phí đào tạo cao hơn, người ta phải tốn nhiều thời gian lao động để tạo ra nó và vì vậy, nó có một giá trị cao hơn so vói sức lao động giản đơn. Nếu giá trị của của sức lao động đó cao hơn thì nó cũng biểu hiện ra trong một lao động cao hơn và vì vậy, trong những khoảng thời gian như nhau, nó sẽ được vật hóa trong các giá trị tương đối hơn.” Để nâng cao trình độ cho người lao động, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đặt vấn đề giáo dục lên trở thành quốc sách hàng đầu. Hiện nay, nguồn nhân lực có trình độ cao (từ THCN, cao đẳng, đại học trở lên) đang có sự phát triển tương đối mạnh ở Việt Nam, nhất là từ năm 1990 đến nay. Bảng 2: Bảng số liệu học sinh, sinh viên các trường THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học từ năm 1995 đến năm 2005 (nghìn người). Năm 1995 1999 2000 2001 2002 2005 CĐ,ĐH 297,9 734,9 795,6 873 908,8 1078,6 THCN 165,6 195,9 250,9 262,8 371,1 551,4 Nếu năm 1995 cả nước mới chỉ có 165,6 nghìn học sinh trung học chuyên nghiệp thì đến năm 2002 tăng lên 317,1 nghìn (tăng 2,24 lần ), bình quân hàng năm tăng 17,7 %. Đào tạo cao đẳng đại học cũng có xu hướng tăng, năm 1990 mới chỉ có 129,6 nghìn sinh viên thì đến năm 1995 con số này là 297,9 nghìn người (tăng 2,3 lần) trung bình hằng năm trong giai đoạn 1990-1995 tăng 25,97%. Năm 2002 là 908,8 nghìn người (tăng 3,05 lần) trung bình hằng năm tăng 29,3 %. Như vậy, quy mô đào tạo THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học liên tục tăng qua các năm. Điều này được biểu hiện qua biểu sau: Biểu 4: Quy mô đào tạo THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học. Có thể thấy rằng tro._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0082.doc
Tài liệu liên quan