Cơ hội và thách thức của một số ngành dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Tài liệu Cơ hội và thách thức của một số ngành dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ---------***--------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI MỘT SỐ NGÀNH DỊCH VỤ VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO Giáo viên hướng dẫn : TS. Đỗ Hương Lan Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Nhi Lớp : Nhật 3 Khoá : K42G - KTNT Hà Nội - 11/2007 Lời mở đầu 1.Tính tất yếu của đề tài Trong mấy thập kỷ gần đây, khu vực dịch vụ đã phát triển rất mạnh mẽ, và đóng góp ngày c... Ebook Cơ hội và thách thức của một số ngành dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1698 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Cơ hội và thách thức của một số ngành dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng lớn cho các nền kinh tế. Ở các nước phát triển giá trị ngành dịch vụ chiếm tới 70- 80% GDP, còn con số trung bình của các quốc gia đang phát triển là gần 58% tổng sản lượng. Trong khi đó ngành dịch vụ của Việt Nam, dù đã có bước tiến vượt bậc những năm vừa qua, hiện chỉ đạt khoảng 40% GDP. Nhìn từ các nền kinh tế phát triển và đang nổi, có thể thấy dịch vụ là một lĩnh vực không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của một quốc gia mà Việt Nam lại là một thực thể trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam đã là thành viên chính thức Tổ chức Thương mại thế giới-WTO. Nhưng trong khi đang nỗ lực để quay cùng vòng quay chung của thế giới, Việt Nam lại phải đối mặt với nguy cơ bị văng khỏi vòng quỹ đạo nếu không có những bước đi hội nhập thích hợp. Có thể nói, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đang và sẽ có nhiều cơ hội hơn nữa để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển các ngành kinh tế, cải thiện cơ sở hạ tầng và đời sống người dân. Song bên cạnh đó, Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với rất nhiều thách thức lớn không chỉ cho toàn bộ nền kinh tế mà còn cho cả từng ngành, từng lĩnh vực nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là đối với những ngành và lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế trước đây được sự bảo hộ và trợ cấp của Chính phủ Việt Nam như bảo hiểm, vận tải,... và đặc biệt là ngành viễn thông và ngân hàng. Hai lĩnh vực dịch vụ này những cơ hội mới gì và phải đối mặt với những thách thức như thế nào sau khi hội nhập? Chúng ta sẽ phải có những giải pháp như thế nào để dịch vụ viễn thông và ngân hàng ngày càng mở rộng và trở thành một cơ cấu năng động của nền kinh tế, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước? Nhằm giải đáp những câu hỏi này, em đã quyết định chọn đề tài cho khoá luận tốt nghiệp là: “Cơ hội và thách thức của một số ngành dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO”. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong phạm vi của một khoá luận tốt nghiệp và trong tầm hiểu biết còn rất nhiều hạn chế, bản thân không thể đánh giá hết tác động của việc gia nhập WTO đối với tất cả các ngành dịch vụ của Việt Nam hiện nay mà chỉ xin phép đi sâu vào nghiên cứu, phân tích và đánh giá một phần những tác động của việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đến ngành dịch vụ của Việt Nam nói chung và đặc biệt chú trọng vào việc đánh giá những cơ hội và thách thức đối với hai ngành dịch vụ Viễn thông và ngân hàng sau khi gia nhập. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Sau khi tìm hiểu thực trạng phát triển của hai ngành dịch vụ viễn thông và dịch vụ ngân hàng trước và sau khi gia nhập WTO, đánh giá những tác động của việc gia nhập WTO đối với hai ngành dịch vụ này cũng như nghiên cứu những nội dung về hội nhập thương mại dịch vụ trong WTO, khoá luận sẽ đi sâu vào xem xét, đánh giá những cơ hội và thách thức mới đối với hai ngành dịch vụ này của Việt Nam sau khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Từ đó nêu vấn đề và kiến nghị một số giải pháp hội nhập hữu hiệu trong lĩnh vực viễn thông và ngân hàng của Việt Nam với hi vọng rằng trong tương lai Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội đẩy mạnh, phát triển thương mại dịch vụ, góp phần phát triển nền kinh tế quốc gia. 4. Tình hình nghiên cứu của đề tài Cơ hội và thách thức đối với ngành dịch vụ Việt Nam quả không phải là một đề tài mới. Tuy nhiên có thể thấy rằng đây là một đề tài tương đối động bởi cơ hội và thách thức luôn luôn biến đổi không ngừng. Hôm nay vấn đề này là cơ hội nhưng ngày mai có thể lại là thách thức. Quan trọng là làm thế nào tận dụng tốt những cơ hội và biến những thách thức thành những cơ hội cho chính mình. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, một số phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng như: phương pháp phân tích và thống kê toán, phương pháp phân tích tổng hợp …Các phương pháp này được sử dụng kết hợp chặt chẽ với nhau trong từng phần của đề tài. 6. Kết cấu của đề tài : Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng chữ cái viết tắt, danh mục bảng biểu, phụ lục , đề tài nghiên cứu gồm 3 phần chính như sau: Chương I: Cơ sở lý luận chung Chương II: Thực trạng dịch vụ viễn thông và dịch vụ ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chương III: Cơ hội và thách thức sau khi gia nhập – giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Và để hoàn thành bài khoá luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Cô giáo hướng dẫn - TS. Đỗ Hương Lan vì những ý kiến đóng góp quý báu cũng như sự giúp đỡ tận tình của cô cho bài khoá luận. Em cũng chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, bạn bè và gia đình đã giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận. Do thời gian thực hiện khoá luận hạn hẹp, và do nhận thức của người viết còn nhiều hạn chế, hơn nữa đây lại là một đề tài tương đối tương đối rộng , vì vậy khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp phê bình của thầy cô và các bạn để bài khoá luận được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG I. Tổng quan về dịch vụ và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ 1. Dịch vụ và vai trò ngày càng tăng của dịch vụ trong nền kinh tế thế giới 1.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại dịch vụ 1.1.1 Khái niệm dịch vụ Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Tính vô hình và khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các loại hình dịch vụ làm cho việc nêu ra một định nghĩa rõ ràng về dịch vụ trở nên khó khăn. Hơn nữa, các Quốc gia khác nhau có cách hiểu về dịch vụ không giống nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi Quốc gia. Ngay cả Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) cũng không nêu lên một khái niệm cụ thể về dịch vụ. Theo điều I, khoản 3b của GATS viết rằng: “Dịch vụ” bao gồm bất kỳ dịch vụ nào trong bất kỳ lĩnh vực nào, ngoại trừ dịch vụ được cung cấp trong thi hành thẩm quyền của Chính phủ. Sau đó khoản 3c cho biết “Dịch vụ được cung cấp trong thi hành thẩm quyền của Chính phủ” là bất cứ dịch vụ nào được cung cấp không trên cơ sở thương mại, cũng như không trên cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều người cung cấp dịch vụ. Như vậy, từ quy định của GATS ta chỉ biết được phạm vi dịch vụ điều chỉnh bởi hiệp định này chứ không hề có được một khái niệm thực sự về dịch vụ. Vì vậy, để hiểu xem dịch vụ là gì, chúng ta có thể tham khảo một vài khái niệm dịch vụ khác nhau. Theo C.Mác, “dịch vụ là một hoạt động mang lại lợi ích và lợi ích đó có thể là hữu hình hay vô hình”. Còn vào những thập niên 30 của thế kỷ XX, Allan Fisher và Colin Clark là những người đầu tiên đề xuất việc chia nền kinh tế thành ba ngành: ngành thứ nhất, ngành thứ hai và ngành thứ ba (trong các tài liệu thống kê thường được phân loại như là các lĩnh vực 1) nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản; 2) công nghiệp; 3) dịch vụ). Clark định nghĩa ngành kinh tế thứ ba này là “các dạng hoạt động kinh tế không được liệt kê vào ngành thứ nhất và thứ hai”. Định nghĩa này đã phản ánh việc từ lâu ngành thứ ba, tức là ngành dịch vụ, được coi là phần dôi ra của nền kinh tế, trong khi ngành sản xuất chế tạo được hiểu như nền tảng của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Cùng với việc vai trò của dịch vụ ngày càng tăng, các học giả đã chú ý nhiều hơn tới việc nghiên cứu về dịch vụ. Một số người cho rằng dịch vụ thực chất là “các hoạt động không mang tính đồng nhất, chủ yếu tồn tại dưới hình thức phi vật chất do các cá nhân hoặc các tổ chức cung cấp, trong đó hoạt động tiêu thụ và sản xuất diễn ra đồng thời”. Như vậy, định nghĩa này coi dịch vụ thực chất là một loại sản phẩm vô hình và dựa vào các thuộc tính của dịch vụ để đưa ra khái niệm. Việc xác định như vậy chưa thể hiện tính bao quát trong xác định khái niệm rõ ràng về dịch vụ. Chẳng hạn, một số dịch vụ cũng có thể hữu hình như các dịch vụ cắt tóc hoặc xem ca hát, nhạc kịch. Định nghĩa về dịch vụ do T.P Hill đưa ra năm 1977 có ảnh hưởng khá lớn tới các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này. Theo Hill, “dịch vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của người hay hàng hoá thuộc sở hữu của một chủ thể kinh tế nào đó do sự tác động của chủ thể kinh tế khác với sự đồng ý trước của người hay chủ thể kinh tế ban đầu”. Định nghĩa này tập trung vào sự thay đổi điều kiện hay trạng thái nên tránh được việc định nghĩa dịch vụ dựa trên tính vô hình. Các tiêu chí như vô hình, có thể lưu trữ trở thành các yếu tố mà dịch vụ có thể có. Ngoài ra, Hill cũng nhấn mạnh tới sự khác biệt giữa sản xuất dịch vụ và sản phẩm dịch vụ. Sản phẩm của một hoạt động dịch vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của người hoặc hàng hoá bị tác động, trong khi quá trình sản xuất dịch vụ là hoạt động tác động tới người hoặc hàng hoá thuộc sở hữu của một chủ thể kinh tế nào đó. Tuy nhiên, trên thực tế chưa hề có định nghĩa nào thật chính xác về dịch vụ. Vậy để có cơ sở phân biệt dịch vụ với hàng hoá có lẽ cần phải dựa vào những đặc trưng của sản phẩm dịch vụ so với sản phẩm hàng hoá. 1.1.2 Những đặc điểm cơ bản của dịch vụ - Tính vô hình hay phi vật chất Dịch vụ có tính vô hình. Người ta không thể nhìn thấy, thử mùi vị, nghe hay ngửi chúng trước khi tiêu dùng. Khách hàng không thể biết chất lượng phục vụ ở một khách sạn nếu không đến đó thử đặt phòng hay học viên không thể biết được chất lượng giảng dạy nếu không trực tiếp tham dự lớp học... Người tiêu dùng chỉ có thể tìm kiếm các dấu hiệu chứng tỏ chất lượng dịch vụ cung ứng đó như: thương hiệu, danh tiếng người cung ứng, biểu tượng, giá cả hay qua sự mô tả về dịch vụ đó của các khách hàng khác đã tiêu dùng dịch vụ hoặc qua thông tin quảng cáo. - Tính không thể tách rời và không lưu giữ được Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Một dịch vụ được tiêu dùng khi nó đang được tạo ra và khi ngừng quá trình sản xuất có nghĩa là việc tiêu dùng dịch vụ ấy cũng ngừng lại. Khác với sản xuất vật chất, sản xuất dịch vụ không thể sản xuất sẵn rồi lưu vào kho chờ tiêu thụ, tức là sản phẩm dịch vụ không có khả năng cất trữ. Dịch vụ không thể tách rời nguồn gốc, trong khi hàng hoá vật chất tồn tại không phụ thuộc vào sự vắng mặt hay có mặt nguồn gốc của nó. - Tính không đồng nhất và khó xác định chất lượng Chất lượng dịch vụ dao động trong một khoảng rộng, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ như người cung ứng, thời gian, địa điểm cung ứng. Ví dụ, một ca phẫu thuật thẩm mỹ có thể thành công với khách hàng này nhưng lại không thành công với một khách hàng khác bởi mức độ thành công của nó không chỉ phụ thuộc vào tay nghề của những người thực hiện ca phẫu thuật, các phương tiện kỹ thuật trợ giúp mà còn phụ thuộc vào tâm trạng và các yếu tố tâm lý của họ. Sự không ổn định chất lượng là lý do giải thích tại sao người mua dịch vụ thường hỏi ý kiến người đã tiêu dùng trước trong khi lựa chọn người cung cấp dịch vụ. 1.1.3 Phân loại dịch vụ trong GATS Trên thế giới hiện nay tồn tại rất nhiều các hệ thống phân loại dịch vụ khác nhau dựa trên các mục đích và tiêu chí khác nhau. Phân loại dịch vụ theo hiệp định GATS của WTO là hệ thống phân loại khá đơn giản và phục vụ tốt cho đàm phán thương mại quốc tế. Về cơ bản phân loại này dựa theo CPC, tức là dựa trên nguồn gốc ngành kinh tế. Theo GATS, toàn bộ ngành dịch vụ được chia ra 12 ngành. Mỗi ngành dịch vụ lại được chia ra các phân ngành. Có 155 phân ngành dịch vụ. Đặc biệt ngành thứ 12 và nhiều nhóm phân ngành đều có mục “các dịch vụ khác” giúp cho việc sắp xếp phân loại dịch vụ vào các ngành và phân ngành được dễ dàng. Trên thực tế các nhà đàm phán ít quan tâm đến các dịch vụ thuộc vào mục “các dịch vụ khác” này và thường tập trung nhiều nhất vào các dịch vụ mà việc tự do hoá sẽ mang lại nhiều cơ hội kinh doanh nhất. Mười hai ngành dịch vụ được liệt kê trong GATS gồm: - Dịch vụ kinh doanh, bao gồm: dịch vụ nghề nghiệp, dịch vụ máy tính và các lĩnh vực liên quan, dịch vụ nghiên cứu và triển khai, dịch vụ cho thuê bất động sản, dịch vụ kinh doanh khác. - Dịch vụ thông tin, bao gồm: dịch vụ bưu điện, dịch vụ chuyển phát nhanh, dịch vụ viễn thông, dịch vụ nghe nhìn, dịch vụ khác. - Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật, bao gồm: dịch vụ xây dựng nhà cửa, dịch vụ xây dựng dân dụng, dịch vụ lắp đặt máy móc, dịch vụ hoàn thiện các công trình, dịch vụ khác. - Dịch vụ kinh tiêu, bao gồm: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ đại lý độc quyền, dịch vụ khác. - Dịch vụ đào tạo, bao gồm: dịch vụ đào tạo tiểu học, dịch vụ đào tạo trung học, dịch vụ đào tạo đại học, dịch vụ đào tạo trung học cho người lớn, dịch vụ đào tạo trung học khác. - Dịch vụ môi trường, bao gồm: dịch vụ thoát nước, dịch vụ xử lý chất thải, dịch vụ vệ sinh và các hoạt động tương tự, dịch vụ khác. - Dịch vụ tài chính, bao gồm: dịch vụ bảo hiểm và các lĩnh vực liên quan tới bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (trừ bảo hiểm), dịch vụ khác. - Dịch vụ liên quan đến sức khoẻ và xã hội, bao gồm: dịch vụ chữa bệnh, dịch vụ bệnh viện, dịch vụ xã hội, dịch vụ sức khoẻ và xã hội khác. - Dịch vụ du lịch và liên quan, bao gồm: dịch vụ khách sạn và nhà hàng, dịch vụ đại lý và điều hành du lịch, dịch vụ hướng dẫn du lịch, dịch vụ khác. - Dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao, bao gồm: dịch vụ giải trí (nhà hát, ca nhạc, xiếc...), dịch vụ báo chí, tin tức, dịch vụ thư viện, kiến trúc, bảo tàng, dịch vụ thể thao và các dịch vụ giải trí khác. - Dịch vụ vận tải, bao gồm: dịch vụ vận tải đường biển, dịch vụ vận tải nội thuỷ, dịch vụ vận tải hàng không, dịch vụ vận tải vũ trụ, dịch vụ vận tải đường sắt, ô tô, dịch vụ vận tải đường ống, dịch vụ vận tải liên quan tới tất cả các phương thức vận tải, dịch vụ vận tải khác. - Các dịch vụ khác. 1.2 Các hình thức cung cấp dịch vụ quy định trong GATS 1.2.1 Cung cấp qua biên giới (Cross border) Dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một nước thành viên này vào trong lãnh thổ của một nước thành viên khác. Trong phương thức này, chỉ có dịch vụ được chuyển qua biên giới còn người cung cấp dịch vụ thì không dịch chuyển. Ví dụ như việc cung cấp thông tin và tư vấn qua fax hoặc thư điện tử hoặc việc vận chuyển hàng hoá. Người cung cấp dịch vụ không xuất hiện trên lãnh thổ của nước thành viên tiêu dùng dịch vụ đó. 1.2.2 Tiêu thụ ở nước ngoài (Consumption abroad) Hình thức này liên quan tới các dịch vụ được tiêu thụ bởi công dân của một nước thành viên trên lãnh thổ của một nước thành viên khác (nơi mà dịch vụ được cung cấp). Nói cách khác, dịch vụ được cung cấp cho người tiêu dùng ở ngoài lãnh thổ mà người tiêu dùng đó cư trú thường xuyên. Điển hình cho hình thức này là dịch vụ du lịch, hoặc dịch vụ sửa chữa tài sản của người tiêu dùng như sửa chữa tàu biển ở nước ngoài. 1.2.3 Hiện diện thương mại (Commercial presence) Trong hình thức này dịch vụ được cung cấp bởi người cung cấp dịch vụ của một thành viên, qua sự “hiện diện thương mại” trong lãnh thổ của bất cứ thành viên nước nào khác. Để cung cấp dịch vụ theo hình thức này người cung cấp dịch vụ phải thành lập một công ty, một chi nhánh, một văn phòng đại diện, hay là một liên doanh, v.v. tại nước tiêu thụ dịch vụ để cung cấp dịch vụ. 1.2.4 Hiện diện của các thể nhân (Presence of natural persons) Hình thức này chỉ áp dụng với nhà cung cấp dịch vụ là các thể nhân, trong đó các thể nhân này sẽ hiện diện trực tiếp ở nước tiêu thụ để cung cấp dịch vụ. Đây là trường hợp cung cấp dịch vụ của những người tự kinh doanh hay những người làm việc cho các nhà cung cấp dịch vụ... Cách phân loại trên được thực hiện dựa trên cơ sở xuất xứ của người cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng và dựa trên vị trí địa lý lãnh thổ của họ khi dịch vụ được cung ứng. Mục tiêu chính của việc phân loại này là để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem xét các quy định của mỗi nước thành viên ảnh hưởng tới các loại hình cung cấp dịch vụ này. 1.3 Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế quốc gia và thế giới Theo C.Mác, “Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế SXHH, khi mà kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển”. Như vậy, bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, C. Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và động lực phát triển của dịch vụ. Quả thật, dịch vụ có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như đối với nền kinh tế thế giới. - Dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hoá, thúc đẩy thương mại hàng hoá phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. Dịch vụ chính là cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” trong quá trình sản xuất hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm. Buôn bán quốc tế, đặc biệt là buôn bán hàng hoá sẽ vận hành như thế nào nếu không có các dịch vụ vận tải, dịch vụ thanh toán,…? Dịch vụ góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hoá, rút ngắn thời gian lưu thông, giúp các nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi vốn để tái đầu tư… - Dịch vụ cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất Nhu cầu về dịch vụ xuất phát ở chính các nhà sản xuất khi họ nhận thấy rằng, để tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt ở cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong quá trình sản xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng. Giấ trị dịch vụ trong một sản phẩm chiếm tới 60% giá trị hàng hoá và tỷ lệ này ngày càng có xu hướng gia tăng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự xuất hiện các phương thức kinh doanh mới. - Dịch vụ có tác động tích cực đối với phân công lao động xã hội Dịch vụ hình thành và phát triển gắn liền với phân công lao động xã hội.. Sự phát triển của dịch vụ góp phần làm phân công lao động trở nên sâu rộng hơn. Các nhà sản xuất tận dụng được lợi thế nhờ quy mô bằng việc chuyên môn hoá trong một lĩnh vực sản xuất cụ thể và sử dụng một cách hiệu quả các dịch vụ thương mại do các nhà cung ứng dịch vụ cung cấp. Ngay trong các hoạt động cung cấp dịch vụ cũng diễn ra sự chuyên môn hoá nhằm phục vụ nhu cầu về dịch vụ ngày càng đa dạng của các nhà sản xuất, các thương nhân,… - Sự tăng trưởng của ngành dịch vụ là động lực cho phát triển kinh tế Một thực tế được các nhà kinh tế các nước thừa nhận là ở các nước đang phát triển các giải pháp kinh tế trở nên khó khăn nhiều hơn khi các dịch vụ như dịch vụ ngân hàng, dịch vụ tài chính, dịch vụ viễn thông,… còn yếu kém. Ngược lại, ở các nước phát triển, sự hoàn thiện của hệ thống dịch vụ là một trong những tiền đề đẩy nhanh quá trình phát triển thương mại và kinh tế. 2. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ 2.1 Tính tất yếu của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ Dịch vụ có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế quốc dân của mỗi quôc gia. Có thể thấy trong những năm gần đây, tỷ trọng ngành dịch vụ trong thương mại quốc tế ngày càng tăng, chiếm hơn 22% tổng giá trị thương mại thế giới. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của xuất khẩu dich vụ thương mại luôn vượt tốc độ phát triển bình quân hàng năm của xuất khẩu hàng hoá. Dịch vụ còn góp phần làm thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế, tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. Việt Nam nói riêng là thành viên của tổ chức WTO và là quốc gia đang trong quá trình hội nhập kinh tế thì việc tham gia và mở cửa thị trường dịch vụ là một tất yếu khách quan. Thật vậy, dịch vụ chiếm một vị trí quan trọng trong WTO, và ngày càng tỏ rõ ưu thế của nó, thu hút sự quan tâm của WTO nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng. Dịch vụ là lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến mọi mặt, mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và động chạm đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Bởi vậy, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ chính là một chiến lược rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Hội nhập trong lĩnh vực dịch vụ bên cạnh những thách thức tất yếu phải đối mặt thì những cơ hội phát triển mang lại là vô cùng lớn. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, khi mà dịch vụ đóng vai trò ngày càng tăng trong thương mại quốc tế thì hội nhập kinh tế cũng đồng nghĩa với việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ. Nhận thức được vai trò ngay càng quan trọng trong thương mại quốc tế, dịch vụ được các nước thành viên của GATT chính thức đưa vào nội dung đàm phán tại vòng đàm phán Uruguoay. Và kết thúc vòng đàm phán này, các nước thành viên đã ký một Hiệp định đa biên dành riêng cho thương mại dịch vụ, đó là Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS. Hiệp định đưa ra các nguyên tắc, chế độ, chuẩn mực pháp lý quốc tế để điều chỉnh những khía cạnh thương mại trong việc cung ứng các dịch vụ giữa các nước thành viên của WTO và đặt nền tảng cho việc xây dựng hệ thống văn bản pháp lý toàn diện hơn trong tương lai để điều chỉnh lĩnh vực còn rất mới, rất phức tạp nhưng đầy triển vọng của thương mại quốc tế, đó là thương mại dịch vụ. 2.2 GATS và tự do hoá thương mại 2.2.1 Phạm vi áp dụng và đối tượng điều chỉnh của GATS Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) áp dụng cho tất cả các loại dịch vụ được mua bán trên thế giới (Các dịch vụ được cung ứng nhằm mục đích thu lợi nhuận). Nó bao gồm tất cả các hình thức cung cấp dịch vụ. GATS xác định 4 hình thức cung cấp dịch vụ như sau: - Phương thức 1: Cung ứng qua biên giới - dịch vụ được cung cấp từ một nước sang một nước khác. - Phương thức 2: Tiêu thụ tại nước ngoài - người tiêu dùng dịch vụ tại một nước khác, ví dụ như đi du lịch nước ngoài. - Phương thức 3: Hiện diện thương mại - một công ty nước ngoài thành lập chi nhánh hoặc công ty con để cung cấp dịch vụ tại một nước khác. - Phương thức 4: Hiện diện của các cá nhân trực tiếp cung cấp dịch vụ (hay còn gọi là hiện diện của các thể nhân). Tức là công dân nước này trực tiếp cung ứng dịch vụ ở nước khác. Bốn phương thức cung cấp dịch vụ này là yếu tố chủ yếu trong cam kết của các thành viên WTO liên quan đến tiếp cận thị trường và chế độ đãi ngộ quốc gia. Những lĩnh vực dịch vụ không thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS: GATS không điều tiết toàn bộ các loại hình dịch vụ. Những loại hình dịch vụ sau đây không thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS : - Những quy định về di trú; - Những dịch vụ thực hiện quyền lực nhà nước; - Chính sách ngân sách và các biện pháp thuế; - Hệ thống thuế quan; - Một số mặt trong bảo hộ các nhà đầu tư liên quan đến di chuyển tư bản; - Quản lý tỷ giá ngoại hối. 2.2.2 Các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế trong GATS * Bình đẳng, không phân biệt đối xử Sự bình đẳng và không phân biệt đối xử được thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được quy định trong điều 2 của GATS, theo đó, “đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS, mỗi thành viên phải ngay lập tức và không điều kiện dành cho dịch vụ và người cung cấp của bất cứ thành viên nào khác, sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà thành viên đó dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự của bất cứ nước nào khác”. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được áp dụng với tất cả các nước thành viên của WTO và với tất cả các lĩnh vực của dịch vụ bất kể các quốc gia đó có tham gia vào các cam kết cụ thể về tự do hoá thương mại hay không. Tuy vậy, GATS cũng quy định một số ngoại lệ cho các thành viên khi áp dụng Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc nhưng các ngoại lệ ấy phải do chính các thành viên đưa ra và đáp ứng tất cả các điều kiện của Phụ lục về miễn trừ của điều 2. Hội đồng Thương mại dịch vụ thực hiện việc rà soát lại các miễn trừ được áp dụng sau 5 năm kể từ ngày Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực để quyết định xem các ngoại lệ có được tiếp tục tồn tại hay không và định ra thời hạn rà soát tiếp theo. Nói chung các ngoại lệ không kéo dài quá 10 năm kể từ ngày Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực và phụ thuộc vào các vòng đàm phán thương mại dịch vụ sau này. Ngoài các ngoại lệ mà một thành viên đã đưa vào danh sách miễn trừ, thành viên còn được tạm thời chưa phải thực hiện nguyên tắc tối huệ quốc khi tham gia vào mậu dịch đường biên (khoản 3, điều 2), hay một Hiệp định thương mại khu vực (điều 5), miễn là Hiệp định đó phải bao trùm đáng kể và xoá bỏ những biện pháp phân biệt đối xử đối với các nhà cung cấp dịch vụ của các nước khác tham gia hiệp định và cấm áp dụng các biện pháp phân biệt đối xử mới. Điều 17 của GATS về đối xử quốc gia ghi rõ: “mỗi thành viên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất cứ thành viên nào khác sự đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ được thành viên đó dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của chính mình”. Tuy vậy, khác với nguyên tắc tối huệ quốc phải thực hiện ngay tức khắc và trên toàn bộ lĩnh vực dịch vụ, nguyên tắc đãi ngộ quốc gia được thực hiện dần dần theo Danh mục cam kết của từng thành viên, dựa vào khả năng của thành viên đó trong việc tự do hoá thương mại dịch vụ. * Thương mại ngày càng tự do, cởi mở hơn Tôn chỉ và mục đích của GATS chính là làm cho thương mại dịch vụ quốc tế ngày càng tự do, cởi mở, thông thoáng hơn, dỡ bỏ các hàng rào cản trở tự do hoá thương mại dịch vụ thông qua các vòng đàm phán thương mại dịch vụ đa biên. Điều 21 quy định “Phù hợp với mục tiêu của GATS, các thành viên sẽ tiến hành các vòng đàm phán liên tiếp, bắt đầu không chậm hơn 5 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực và định kỳ sau đó, nhằm đạt được mức độ tự do hoá ngày càng cao hơn” * Thương mại dịch vụ có thể dự đoán trước được Khi các nước thành viên đồng ý mở cửa thị trường cho dịch vụ, các nước phải đưa ra một bảng cam kết. Một nước chỉ được thay đổi những ràng buộc trong bảng cam kết sau khi đã đàm phán với các bạn hàng của mình, và phải bồi thường cho phần thương mại có liên quan mà nước đó bị mất đi do việc thay đổi cam kết gây ra (Điều 21). Một biện pháp nữa làm cho môi trường kinh doanh dịch vụ ổn định và có thể dự đoán được là do các quy tắc, luật lệ, chính sách về thương mại dịch vụ phải rõ ràng, minh bạch. Mọi thay đổi về chính sách luật lệ phải được thông báo trước một cách thích hợp để các nhà đầu tư và thương nhân biết, từ đó có kế hoạch kinh doanh phù hợp. *Thúc đẩy cạnh tranh công bằng GATS là một hệ thống các quy tắc bảo đảm cạnh tranh rộng mở, công bằng và không bị sai lệch. Các quy định về MFN, NT, trợ cấp, mua sắm của Chính phủ... đều nhằm tạo điều kiện cho cạnh tranh công bằng. Ngoài ra, theo Điều 6, “các thành viên phải đảm bảo rằng các biện pháp áp dụng chung tác động đến thương mại dịch vụ được quản lý một cách hợp lý, khách quan và bình đẳng” * Minh bạch hoá các chính sách luật lệ Điều 3 của GATS về sự minh bạch nêu rõ: “Các thành viên phải công bố mọi biện pháp liên quan ảnh hưởng tới việc thi hành GATS chậm nhất là trước khi các biện pháp đó có hiệu lực thi hành, trừ những trường hợp khẩn cấp”. Trong Điều 5, GATS còn quy định rằng các thoả thuận quốc tế có tác động đến thương mại dịch vụ mà một bên tham gia ký kết cũng phải được công bố. Mỗi thành viên phải ngay lập tức, mỗi năm một lần thông báo cho Hội đồng Thương mại dịch vụ, việc ban hành mới hoặc thay đổi các luật lệ, quy tắc, chính sách hiện hành có tác động tới thương mại dịch vụ thuộc các cam kết cụ thể của mình, cũng như phải báo cáo về tình hình thực hiện các Hiệp định song phương hoặc đa phương khác mà mình tham gia, nếu có. Mỗi thành viên phải đáp ứng ngay tất cả những yêu cầu của bất cứ thành viên nào đối với các thông tin cụ thể về bất cứ một biện pháp nào được áp dụng hay bất cứ thỏa thuận quốc tế nào khác mà thành viên ấy đã tham gia. Trong vòng 2 năm kể từ khi Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực, các thành viên phải thiết lập các đầu mối giải đáp thông tin để trả lời ngay lập tức tất cả các thông tin chi tiết liên quan đến thương mại dịch vụ cho các thành viên khác theo yêu cầu. Bên cạnh đó, bất cứ thành viên nào cũng có thể thông báo cho Hội đồng Thương mại dịch vụ về bất cứ biện pháp nào do một nước thành viên bất kỳ áp dụng mà nước đó cho rằng có ảnh hưởng tới việc thi hành Hiệp định này. II. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực viễn thông và ngân hàng 1. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực viễn thông 1.1.Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ viễn thông 1.1.1 Khái niệm Viễn thông là sự liên lạc điện thoại, điện báo theo dây cáp hoặc theo đường chuyển tiếp radio giữa hai điểm cách xa nhau, có khoảng cách thực tế không giới hạn. Thuật ngữ viễn thông nảy sinh trong kĩ thuật truyền tín hiệu điện theo đường dây liên lạc. Trên các đường dây viễn thông người ta truyền đi theo nhiều kênh những số liệu, tin tức điện thoại, điện báo, điện báo ảnh, truyền mã, truyền hình. Dịch vụ viễn thông là gì? Là dịch vụ truyền kí hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác của thông tin giữa các điểm kết cuối của mạng viễn thông. Dịch vụ viễn thông bao gồm: - Dịch vụ cơ bản là dịch vụ truyền đưa tức thời dịch vụ viễn thông qua mạng viễn thông hoặc Internet mà không làm thay đổi loại hình hoặc nội dung thông tin; - Dịch vụ giá trị gia tăng là dịch vụ làm tăng thêm giá trị thông tin của người sử dụng dịch vụ bằng cách hoàn thiện loại hình, nội dung thông tin hoặc cung cấp khả năng lưu trữ, khôi phục thông tin đó trên cơ sở sử dụng mạng viễn thông hoặc Internet; - Dịch vụ kết nối Internet là dịch vụ cung cấp cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet khả năng kết nối với nhau và với Internet quốc tế; - Dịch vụ truy nhập Internet là dịch vụ cung cấp cho người sử dụng khả năng truy nhập Internet; - Dịch vụ ứng dụng Internet trong bưu chính, viễn thông là dịch vụ sử dụng Internet để cung cấp dịch vụ bưu chính, viễn thông cho người sử dụng. Dịch vụ ứng dụng Internet trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác phải tuân theo các quy định pháp luật về bưu chính, viễn thông và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 1.1.2 Đặc điểm của dịch vụ viễn thông -Viễn thông là ngành kinh tế, kỹ thuật, dịch vụ quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển bưu chính, viễn thông nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và đảm bảo an ninh, quốc phòng. - Ngành viễn thông là một công cụ quan trọng để phát triển nền kinh tế tri thức và để thực hiện vai trò của quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế tri thức nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. - Đồng thời đây cũng là một lĩ._.nh vực hết sức nhạy cảm, là lĩnh vực có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia, là nơi rất dễ bị tấn công mà đặc biệt là tấn công vào ý thức hệ, vào tư tưởng vào lối sống của người dân. - Ngành viễn thông là ngành đòi hỏi sự phát triển phải có lượng vốn đầu tư rất cao cả về tài chính lẫn con người. - Viễn thông có ảnh hưởng mạnh và là cơ sở của hầu hết các ngành kinh tế khác của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò là mũi nhọn phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. - Môi trường kinh doanh viễn thông trên toàn thế giới đang chuyển từ độc quyền sang cạnh tranh 1.2. Kết quả vòng đàm phán Urugoay về dịch vụ viễn thông Trong vòng đàm phán Uruguay các dịch vụ viễn thông cơ bản là một lĩnh vực các chính phủ không đưa ra đàm phán, chủ yếu bởi vì một loạt các vấn đề phức tạp của quá trình tư nhân hoá các công ty độc quyền Nhà nước đang phát sinh ở nhiều quốc gia trong giai đoạn này. Lĩnh vực viễn thông được đưa vào phần Phụ lục của Hiệp định GATS trong vòng đàm phán này. Phụ lục về viễn thông công nhận vai trò của lĩnh vực này như là một lĩnh vực khác biệt trong hoạt động kinh tế và là phương tiện cung cấp cơ sở cho các hoạt động kinh tế khác. Nó đòi hỏi Chính phủ cung cấp cho các nhà cung cấp nước ngoài sự thâm nhập vào hệ thống viễn thông công cộng với sự không phân biệt đối xử. Tuy nhiên, dịch vụ viễn thông đem lại giá trị gia tăng phức tạp thường được cung cấp trên cơ sở tư nhân. Tại thời điểm cuối của vòng đàm phán Uruguay các Chính phủ nhất trí tiếp tục thương lượng lĩnh vực viễn thông trong các vòng đàm phán sau đó. Ngày 15 tháng 2 năm 1997, qua 3 năm đàm phán căng thẳng, WTO cuối cùng cũng đã thành công trong việc kết thúc các vòng đàm phán về việc chấp nhận cho thị trường thông tin liên lạc cơ sở đi vào hoạt động. Tất cả bao gồm 71 quốc gia đưa ra thư cắt giảm, trong đó 69 chính phủ quốc gia và khu vực đã đưa ra 55 biểu thuế cắt giảm được quy định trong Nghị định thư thứ 4 của “Hiệp định chung về dịch vụ mậu dịch”. Trên 40 quốc gia đang phát triển trên thế giới đã tham gia vào vòng đàm phán này. Năm 1995, các quốc gia thành viên tham gia đàm phán chiếm tới trên 91% thu nhập dịch vụ thông tin viễn thông liên lạc của toàn cầu. Các quốc gia thành viên đã đưa ra những thoả thuận được coi là một bộ phận cấu thành của hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS). Cũng như những vấn đề được đưa ra thảo luận đối với hiệp định GATT, hiệp định về thông tin liên lạc cơ sở khi bắt đầu có hiệu lực đối với các quốc gia thành viên sẽ trở thành một văn bản có tính chất bắt buộc và có tính ràng buộc pháp lý và đây là một kết quả thực tế của quá trình đàm phán. Trải qua 3 năm với nhiều vòng đàm phán đây được coi là một bước tiến lớn của quá trình đàm phán quốc tế Nội dung chủ yếu được thống nhất thông qua là vấn đề thị trường tự do và quy chế đối xử, ngoài ra còn bao gồm một số điều khoản kèm theo. Nội dung của phê chuẩn hiệp định thị trường tự do là đưa ra các quy định về hạn chế số lượng, đồng thời cũng bao gồm một số các hạn chế khác như nước ngoài tham gia vào tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp viễn thông trong nước. Quy chế đối xử quy định, dịch vụ thông tin liên lạc nước ngoài cũng như các nhà cung cấp dịch vụ thông tin liên lạc nước ngoài phải được đối xử ngang bằng với các nhà cung cấp dịch vụ thông tin trong nước. Trong các bản ghi nhớ các quốc gia thành viên có thể đưa ra quy chuẩn của thị trường tự do và quy chế đối xử hoặc các biện pháp hạn chế song không được yêu cầu các biện pháp hạ thấp trình độ quy chuẩn của thị trường tự do. Bản ghi nhớ của Hiệp định về thông tin liên lạc trong khuôn khổ hiệp định GATS bao gồm một số nội dung sau: - Mức độ rõ ràng của các quy định pháp quy Phần lớn thời gian đàm phán là dành cho phân tích và đánh giá về môi trường pháp quy của các quốc gia thành viên. Các quy định pháp quy chủ yếu gồm chế độ cấp phép, liên kết, bảo hộ, cạnh tranh, phân bố tài nguyên tín hiệu tần số vô tuyến, thông qua quyền lợi của mạng lưới thông tin liên lạc của quốc gia đó...Trong quá trình đàm phán các bên đều lo ngại việc môi trường pháp quy sẽ ảnh hưởng tới việc thực thi các chuẩn mực của thị trường tự do và các nguyên tắc đối xử khác - Chế tối huệ quốc và miễn trừ Một vấn đề được đặt ra trong quá trình đàm phán về hiệp định thông tin liên lạc giữa các quốc gia là trong GATT có quy chế tối huệ quốc và quy chế miễn trừ, vì vậy các quốc gia thành viên có quyền đơn phương quyết định sử dụng quy chế tối huệ quốc và miễn trừ đối với dịch vụ thông tin liên lạc hay không. Năm 1997, sau khi Nghị định thư được kí kết, 9 quốc gia thành viên đã đề xuất việc sử dụng quy chế tối huệ quốc và miễn trừ. Do quy chế này có đề cập đến trình tự pháp luật, vì thế việc quyết định có sử dụng quy chế này hay không phụ thuộc vào việc có nhất trí với phương án mà quốc gia khác đưa ra trong quá trình đàm phán hay không. Nếu không đưa ra quy chế miễn trừ đối với tối huệ quốc, các quốc gia thành viên này nếu sử dụng quy chế tối huệ quốc đối với dịch vụ thông tin liên lạc và người cung cấp dịch vụ này của các quốc gia thành viên cũng không được khác biệt so với các nhà cung cấp dịch vụ tại các quốc gia và khu vực khác( bất kể quốc gia đó có phải là thành viên của WTO hay không). Nhưng nếu các quốc gia đó đưa ra yêu cầu miễn trừ thì các quy định như trên chỉ có hiệu lực đối với các quốc gia không chấp thuận phương án do các quốc gia thành viên khác nêu ra mà thôi. - Thể hiện cụ thể của các quy chuẩn của thị trường tự do Việc đạt được Hiệp định về thông tin liên lạc cơ sở đã xoá bỏ sự lũng đoạn của Chính phủ đối với lĩnh vực này. Với mục đích là mở cửa thị trường dịch vụ thông tin liên lạc cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ nước ngoài thâm nhập vào thị trường trong nước, thoả thuận đạt được giữa các quốc gia là chấp nhận hoạt động của các chủ thể nước ngoài ở thị trường trong nước. Đối với ngành dịch vụ điện thoại(âm thanh) đa số các quốc gia đều lựa chọn mở cửa ngay hoặc mở cửa dần dần, nhưng trong lĩnh vực viễn thông đa phần các quốc gia còn khá dè dặt trong việc mở cửa và đa phần các quốc gia đề chấp nhận việc cạnh tranh trong một mức độ nhất định đối với dịch vụ viễn thông công cộng. Khi xuất hiện các biện pháp có tính thay thế ví dụ như những hệ thống cáp viễn thông vượt biển của tư nhân hoặc hệ thống vệ tinh viễn thông, đồng thời khi xuất hiện một bên thứ 3 cung cấp dịch vụ thông tin liên lạc hoặc thông qua mạng dịch vụ của Nhà nước hoặc tư nhân thì hình thức cung cấp dịch vụ này được coi là dịch vụ thương mại đặc biệt là loại hình mang tính cạnh tranh. - Sự chấp thuận cụ thể đối với môi trường pháp quy Một trong những trọng tâm của vòng đàm phán về thông tin liên lạc cơ sở là kiểm tra giám sát các quy định pháp quy và chính sách có thể gây trở ngại đối với việc thực hiện thương mại hoá dịch vụ thông tin liên lạc. Đa phần các quốc gia đàm phán đều đồng ý với các điều mục trong Hiệp định này. 2.Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng 2.1 Khái niệm và chức năng dịch vụ ngân hàng 2.1.1 Khái niệm Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Theo Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực vào năm 1998 của Việt Nam thì Ngân hàng được gọi là các tổ chức tín dụng, tức là các doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. 2.1.2 Chức năng của ngân hàng - Chức năng trung gian tài chính Trong quá trình tuần hoàn vốn phục vụ cho tái sản xuất xã hội đã phát sinh mâu thuẫn giữa hiện tượng một số chủ thể kinh tế có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, trong khi đó ở một số chủ thể khác lại có nhu cầu về vốn cần được bổ sung. Ngân hàng thương mại với tư cách là một tổ chức tín dụng có khả năng giải quyết mâu thuẫn này bằng cách huy động mọi nguồn vốn chưa sử dụng của các chủ thể kinh tế trong xã hội để hình thành quỹ cho vay tập trung. Thông qua việc huy động vốn và sau đó cho vay lại các thành phần kinh tế, Ngân hàng đã đóng vai trò người trung gian môi giới giữa người đi vay và người cho vay mà thực chất chính là ngân hàng đang thực hiện chức năng trung gian tín dụng. - Chức năng trung gian thanh toán Chức năng trung gian tín dụng đã thu hút các nhà doanh nghiệp mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Trên cơ sở nhận tiền gửi của khách hàng, Ngân hàng thực hiện các khoản thanh toán chi trả cho khách hàng theo các hợp động mua bán, giao dịch. Với vai trò là trung gian thanh toán, Ngân hàng làm theo lệnh của chủ tài khoản như tính tiền trên tài khoản của người mua để chuyển sang tài khoản của người bán hoặc phục vụ thanh toán về hàng hóa, dịch vụ cho các khách hàng. - Chức năng tạo phương tiện thanh toán Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (MO), thứ hai là số dư trên tài khoản tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn,... Khi Ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (Hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (Tham gia tạo M1). 2.2 Các dịch vụ ngân hàng cung cấp Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Các dịch vụ ngân hàng bao gồm: -Mua bán ngoại tệ -Nhận tiền gửi -Cho vay -Bảo quản vật có giá - Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán - Quản lý ngân quỹ - Tài trợ các hoạt động của chính phủ - Bảo lãnh - Cho thuê thiết bị trung và dài hạn - Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn - Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán - Cung cấp dịch vụ bảo hiểm - Cung cấp dịch vụ đại lý 2.3 Đàm phán về dịch vụ tài chính Trong Vòng đàm phán Uruguay các bên tham gia đã nhất trí coi các hoạt động sau là dịch vụ tài chính trong GATS (Phụ lục GATS về Dịch vụ tài chính): - Bảo hiểm và các dịch vụ liên quan - dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ; tái bảo hiểm và chuyển nhượng; trung gian bảo hiểm như môi giới và đại lý; các dịch vụ bổ trợ cho bảo hiểm. - Ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (trừ bảo hiểm): nhận đặt cọc; cho vay, kể cả tín dụng tiêu dùng; cho vay cầm cố, chi cho các giao dịch thương mại; cho thuê tài chính; dịch vụ thanh toán và chuyển tiền; bảo lãnh và cam kết; buôn bán trên thị trường tiền tệ, ngoại hối, tỷ giá và các công cụ lãi suất trong trao đổi và thoả thuận tỷ giá kì hạn, chứng khoán, văn tự chuyển nhượng được và các tài sản khác như vàng; tham gia phát hành chứng khoán mới; môi giới tiền tệ; quản lý tài sản như đầu tư gián tiếp hay quỹ hưu trí; dịch vụ thanh toán và thanh lý tài sản tài chính; cung cấp, chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính; cố vấn và các dịch vụ tài chính bổ trợ khác. Đàm phán dịch vụ tài chính năm 1997: Khi đàm phán WTO về dịch vụ tài chính được mở lại vào tháng 4-1997, đó là lần thứ hai sau khi kết thúc Vòng Uruguay, các nước lại tham gia đàm phán để nâng cấp cam kết về Mở cửa thị trường và Đãi ngộ quốc gia về dịch vụ tài chính. Đợt đàm phán này kết thúc thành công vào thời hạn đã định là ngày 12-12-1997 với việc các thành viên WTO thoả thuận đưa dịch vụ tài chính vào GATS trên cơ sở vĩnh viễn và Tối huệ quốc (MFN). Tất cả các đối tác thương mại lớn, kể cả Mỹ, đã kí thoả thuận này, và nhiều nước trong số đó đã đưa ra cam kết có nâng cấp đáng kể cả về mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài. Như vậy, mục tiêu đàm phán chính của EU đã đạt được. 70 thành viên WTO (EU được tính là 15 thành viên) đã nâng cấp cam kết của mình, còn 32 nước khác duy trì cam kết đã có từ Vòng Uruguay hoặc từ thoả thuận tạm thời năm 1995. Điều này có nghĩa là các nước chiếm hơn 95% thị phần dịch vụ tài chính toàn thế giới đã đồng ý mở cửa thị trường tài chính nội địa cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài một cách vĩnh viễn, và đảm bảo các điều kiện hoạt động công bằng, một khi có quy chế đa phương được thể chế hoá thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Nhiều nước thành viên WTO đã cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài được thiết lập hiện diện thương mại với những hình thức khác nhau (công ty con, chi nhánh, mua cổ phần của các công ty nội địa), được mở rộng hoạt động thương mại hiện thời và duy trì cổ phần hiện thời trong các hoạt động đó. Đồng thời, đa số các đối tác thương mại chính của EU đều áp dụng trước các biện pháp có đi có lại: chỉ rất ít nước đưa ra ngoại lệ MFN lớn để đáp lại biện pháp tương tự của nước khác. Yếu tố cơ bản cho khung pháp lý của thoả thuận hồi tháng 12-1997 là Nghị định thư thứ năm của GATS (Fifth Protocol) thay thế phần dịch vụ tài chính trong các bản cam kết cụ thể và danh sách ngoại lệ MFN của các nước thành viên liên quan bằng các cam kết và ngoại lệ MFN mới sẽ tạo nên một phần nhất quán trong cam kết của các nước thành viên tương ứng khi kết quả đàm phán có hiệu lực. Điều kiện tiên quyết của việc có hiệu lực là các nước thành viên WTO, tuỳ theo thủ tục nội bộ của mình, chấp thuận trước ngày 29-1-1999. Khi đó, Nghị định thư thứ năm, cùng với các bản cam kết và danh sách ngoại lệ MFN mới sẽ có hiệu lực từ ngày 1-3-1999. Cùng với Nghị thư thứ năm, một quyết định thông qua nghị định thư này đã đề ra một cam kết giữ nguyên hiện trạng, theo đó tất cả thành viên WTO sẽ không áp dụng bất kỳ biện pháp nào trái với các cam kết và ngoại lệ MFN mới đưa ra vào ngày 12-12-1997 cho đến khi Nghị định thư thứ năm có hiệu lực. Cuối cùng, Quyết định tháng 12-1997 về Cam kết Dịch vụ Tài chính cho phép các thành viên được sửa đổi hoặc rút lại cam kết và ngoại lệ MFN về dịch vụ tài chính, nếu vì lý do không lường trước mà Nghị định thư thứ năm không có hiệu lực (ví dụ, do không phải tất cả các thành viên liên quan đều chấp nhận Nghị định thư thứ năm trước thời hạn đã thoả thuận và những nước đã chấp thuận lại không cho Nghị định thư có hiệu lực). Điều này sẽ dẫn đến việc phục hồi đàm phán trong khoảng thời gian 2 tháng. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG DỊCH VỤ VIỄN THÔNG VÀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY I/ Thực trạng ngành dịch vụ Việt Nam trước và sau khi gia nhập Dịch vụ Việt Nam trước khi gia nhập WTO Dịch vụ đã đóng góp cho GDP của Việt Nam khoảng 50% (Số liệu Tổng cục thống kê các năm từ 1995 đến 2000) và tạo ra một lượng lớn công ăn việc làm. Tỷ trọng của các ngành dịch vụ ngày càng tăng trong GDP. Tính chất thương mại của các ngành dịch vụ được cải thiện đang tạo ra sự nhìn nhận đúng đắn của các cơ quan hoạch định chính sách của Việt Nam thể hiện trong chiến lược phát triển của nhà nước và các địa phương về cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. So sánh với thế giới, tỷ trọng của các ngành dịch vụ Việt Nam trong GDP là thấp hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực và rất thấp so với nước phát triển. Những ngành dịch vụ có tỷ trọng nhiều nhất trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam bao gồm dịch vụ thương nghiệp (phân phối, sửa chữa...) chiếm hơn 16% GDP, dịch vụ xây dựng (6%), các dịch vụ khác như tài chính, viễn thông có tỷ trọng thấp hơn khoảng xấp xỉ 2%. Loại trừ một số ngành dịch vụ mang tính độc quyền cao như viễn thông, hàng không, vận tải đường sắt, hoạt động kinh doanh dịch vụ của Việt Nam có sự tham gia đáng kể của các thành phần kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. * Đầu tư trong khu vực dịch vụ Vai trò ngày càng tăng của các ngành dịch vụ cũng được đặc biệt thể hiện trong xu thế đầu tư của các ngành dịch vụ. Dịch vụ đang nhận được ngày càng nhiều đầu tư hơn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước cả về giá trị Cơ cấu đầu tư trên chứng tỏ tính hiệu quả và sự hấp dẫn của các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Tỷ trọng đầu tư trong ngành dịch vụ chiếm phần lớn cơ cấu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế (Chiếm đến hơn 72%). Những ngành dịch vụ quan trọng nhất cũng thu hút các nguồn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế như các ngành dịch vụ thông tin, liên lạc, vận tải, kho bãi, sản xuất điện nước, dịch vụ du lịch (khách sạn, nhà hàng). * Xuất- nhập khẩu dịch vụ Việc xuất nhập khẩu dịch vụ ít khi được đánh giá một cách đầy đủ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Kim ngạch của các ngành dịch vụ tương đương với khoảng 1/4 tổng kim ngạch hàng hóa và đang ngày càng tăng trưởng về kim ngạch xuất nhập khẩu. Trong những năm qua, đi ngược lại với trạng thái cân bằng trong cán cân thương mại hàng hóa thì xu hướng nhập siêu dịch vụ ngày càng trở nên rõ nét. Mặc dù những thống kê sơ bộ về cán cân thương mại dịch vụ là chưa đầy đủ và có vẻ còn khiêm tốn so với cán cân xuất nhập khẩu hàng hóa. Tình hình này đang làm sâu sắc hơn hiểu biết và thái độ nghiêm túc của các cơ quan quản lý về vai trò của dịch vụ trong thương mại. * Lao động trong khu vực dịch vụ Các ngành dịch vụ tạo ra một số lượng lao động lớn trong nền kinh tế. Với xu thế mở rộng đầu tư trong nước và ngoài nước tỷ trọng của ngành dịch vụ trong nền kinh tế ngày càng được khẳng định, mức độ tạo công ăn việc làm trong các ngành dịch vụ tăng cả về tương đối và tuyệt đối. Dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO Gia nhập WTO, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong nước ráo riết chuẩn bị cho sự cạnh tranh khốc liệt sắp tới không chỉ với các doanh nghiệp trong nước mà quan trọng hơn là với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Từ đầu năm đến nay, có thể thấy rõ sự chuyển biến của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ như dịch vụ viễn thông, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ du lịch,…Đó là việc rộng chi nhánh, mạng lưới hoạt động hay việc sáp nhập lại của các tổ chức tài chính, ngân hàng; các kế hoạch xây mới hay tu bổ lại các khu du lịch, khu vui chơi giải trí; sự xuất hiện của các loại hình dịch vụ mới,… Theo báo cáo của sở kế hoạch - đầu tư về kinh tế - xã hội, trong 9 tháng đầu năm, khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao nhất, sau đó mới là khu vực công nghiệp và xây dựng. Điều này chứng tỏ dịch vụ đã có sự bứt phá. Và sự phát triển này đóng vai trò quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP của Việt Nam. Hiện tỷ trọng dịch vụ chiếm khoảng 40% trong cơ cấu GDP cả nước, đồng thời có xu hướng tăng lên theo tốc độ tăng trưởng GDP vào những năm tới. Dịch vụ chất lượng cao cũng bắt đầu hình thành và phát triển, nhất là ở các thành phố lớn. Cho đến nay, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tăng 14,9%, trong đó hai ngành phát triển mạnh là thương mại ( 24,6%) và khách sạn nhà hàng ( 34,2%). Tổng doanh thu từ dịch vụ tăng đến gần 30% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 62% kế hoạch năm 2007. Tổng kết mức tăng trưởng của các ngành, hiện nay có 4 ngành có mức tăng trưởng mạnh nhất là du kịch, tài chính - ngân hàng, bưu chính - viễn thông và vận tải - dịch vụ - cảng - kho bãi. Tuy nhiên, nhìn chung, chất lượng các hoạt động dịch vụ chưa cao, phí dịch vụ còn bất hợp lý, hầu hết đều cao hơn các nước trong khu vực như chi phí dịch vụ tại cảng biển, cước vận tải hàng hoá, phí lưu kho, lưu bãi; cước dịch vụ bưu chính viễn thông… đã làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và quốc tế. Các ngành dịch vụ có giá trị cao như dịch vụ tài chính, tiền tệ, dịch vụ giao dịch bất động sản… bắt đầu có những dấu hiệu phát triển sôi động nhưng tốc độ phát triển chưa cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. II/ Dịch vụ viễn thông trước và sau khi gia nhập 1.Vài nét về dịch vụ viễn thông trước khi Việt Nam gia nhập WTO Trong những năm qua, Việt nam chúng ta đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm để phát triển mạng lưới viễn thông. Nhờ vậy mà mạng lưới viễn thông của Việt Nam đã có những chuyển biến đáng kể. Hệ thống chuyển mạch điện tử bao gồm 100% các tổng đài số. Hệ thống truyền dẫn với các hệ thống vệ tinh vi mạch cáp quang và viba số trải rộng khắp cả nước và kết nối quốc tế. Một loạt dịch vụ viễn thông và Internet, cố định và di động đều được cung cấp theo nhu cầu khách hàng. Có thể nói, sau chiến lược tăng tốc bưu chính viễn thông, Việt Nam đã có một cơ sở hạ tầng viễn thông tương đối hiện đại. Dịch vụ điện thoại di động được đưa vào khai thác từ năm 1995, đã nhanh chóng khẳng định được vị thế trên thị trường, tạo nên một bước phát triển mạnh đối với viễn thông Việt Nam. Năm 2004 đã có khoảng 3 triệu thuê bao điện thoại di động, đạt mật độ 3,39 máy/100 dân. Dịch vụ di động đã phủ sóng 64/64 tỉnh thành phố và đã hoà nhập mạng với hàng trăm mạng di động của gần 52 quốc gia trên thế giới. Cùng với dịch vụ di động trả trước, các dịch vụ gia tăng giá trị như hộp thư thoại, nhắn tin SMS, MMS… cũng đã được đưa vào khai thác phục vụ nhu cầu đa dạng của người sử dụng. Đến năm 2004, có 6 doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng. Trong đó có 5 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ điện thoại cố định và 5 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ điện thoại di động, 6 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ VoIP trong nước và quốc tế, 15 nhà cung cấp dịch vụ Internet…( xem chi tiết ở phụ lục 1). Mạng viễn thông Việt Nam đã được số hoá từ những năm 90 và bắt đầu chuyển sang mạng thế hệ mới (NGN) từ năm 2002. Mạng truyền dẫn liên tỉnh đã được cáp quang hoá tại 58/64 tỉnh thành phố. Các tuyến cáp quang đường trục sử dụng công nghệ tiên tiến WDM. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia sớm sử dụng công nghệ thông tin di động GSM. Từ năm 2002, đã có thêm mạng thông tin di động sử dụng công nghệ CDMA. Năm 2005, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng mạng lưới bưu chính viễn thông vẫn tiếp tục phát triển, nâng cao năng lực, dung lượng và mở rộng bán kính phục vụ đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin và giao lưu văn hoá của nhân dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước. Mạng bưu chính viễn thông Việt Nam năm 2005 có 17.629 điểm phục vụ, trong đó phát triển thêm 599 điểm Bưu điện - Văn hoá xã nâng tổng số Bưu điện - Văn hoá xã lên 7534 điểm, 2398 điểm đã có Internet. Mạng viễn thông đạt tới gần 16 triệu thuê bao điện thoại, đạt mật độ hơn 19,01 máy/100 dân, thuê bao điện thoại di động chiếm gần 57%. Bảng 1: Tổng số máy điện thoại và mật độ 100 dân qua các năm Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Năm Tổng số máy điện thoại (Nghìn máy) Số máy điện thoại bình quân 100 dân (Máy) 2002 5.567 6,9 2003 7.330 9 2004 10.300 12,56 2005 15.779 19,01 Năm 2005, được ghi nhận với việc ngành Bưu chính viễn thông đã phấn đấu hoàn thành Chương trình 100% số xã có máy điện thoại liên lạc. Đây là một sự kiện không những thể hiện quyết tâm chính trị, vì sự nghiệp CNH - HĐH đất nước mà còn chứng minh sự phát triển không ngừng của ngành Bưu chính viễn thông Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Chỉ tiêu 100% số xã trên cả nước có máy điện thoại là một trong những chỉ tiêu mà Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra. Nó khẳng định Việt Nam đã phổ cập được dịch vụ viễn thông, đưa viễn thông không chỉ tới với bộ phận dân cư có thu nhập cao mà còn cả với những người có thu nhập thấp, thu hẹp khoảng cách số giữa nông thôn và thành thị. Nhờ có chính sách thúc đẩy cạnh tranh, thị trường viễn thông Việt Nam đã thực sự sôi động, thị phần một số loại hình dịch vụ viễn thông và Internet của các doanh nghiệp mới ngày càng tăng. Biểu đồ 1: Thị phần của các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam năm 2005 (Đơn vị: % Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) Công nghệ mới đã được các doanh nghiệp chú trọng triển khai, các loại hình dịch vụ ngày càng đa dạng, giúp cho người sử dụng có nhiều sự lựa chọn. Có thể khẳng định hạ tầng viễn thông ngày càng phát triển hiện đại, đồng bộ, đủ khả năng đáp ứng trước một bước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, phục vụ quốc phòng an ninh của đất nước, đáp ứng nhu cầu phát triển ứng dụng công nghệ thông tin. Trong năm 2005, mặc dù giá cả tiêu dùng, chi phí sinh hoạt tăng cao gây khó khăn cho người tiêu dùng, nhưng ngành Bưu chính viễn thông đã có chủ trương giảm mạnh giá cước điện thoại và các dịch vụ viễn thông, có chính sách kích cầu, mở rộng thị trường viễn thông nên doanh thu của ngành vẫn tiếp tục tăng Bảng 2: Doanh thu Bưu chính viễn thông Việt Nam qua các năm Năm Doanh thu thực hiện (tỷ đồng) Tốc độ tăng trưởng (%) 2002 21.694 33,98 2003 27.050 24,69 2004 33.400 23,47 2005 39.074 16,99 Nguồn: Bộ Bưu chính viễn thông Việt Nam được thế giới đánh giá là một trong những nước có mạng lưới viễn thông hiện đại nhất Đông Nam Á. Việt Nam cũng liên tục được các liên minh viễn thông quốc tế (ITU) xếp vào hàng 10 quốc gia đứng đầu về tốc độ phát triển viễn thông thế giới. Cùng với sự phát triển, hiện đại hóa mạng lưới và dịch vụ, khẳng định uy tín cũng như năng lực mạng lưới, cung cấp dịch vụ ở trong nước, viễn thông Việt Nam đã tạo được uy tín trên trường Quốc tế thông qua các việc như chủ động tham gia vào các hoạt động của các tổ chức quốc tế và khu vực: Liên minh viễn thông thế giới (ITU), tổ chức viễn thông Châu Á - Thái Bình Dương (APT) và các tổ chức liên minh vệ tinh quốc tế (Intelsat), thông tin vũ trụ quốc tế (Interputnik)...Việc tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế trong khu vực và trên thế giới đã tạo điều kiện pháp lý thuận lợi để ngành viễn thông Việt Nam hội nhập và phát triển.Uy tín viễn thông Việt Nam được khẳng định và ghi nhận qua việc Việt Nam tái trúng cử lần thứ ba vào Hội đồng điều hành liên minh viễn thông quốc tế (ITU) nhiệm kỳ 2002 - 2006 và lần thứ hai vào ban chấp hành liên minh Bưu chính thế giới (UPU) nhiệm kỳ 2004 - 2008. 2. Thực trạng phát triển dịch vụ viễn thông sau khi gia nhập 2.1 Cam kết gia nhập của Việt Nam trong lĩnh vực viễn thông Gia nhập WTO, Việt Nam đã có cam kết về dịch vụ viễn thông như sau: *Công ty nước ngoài muốn được cung cấp các dịch vụ qua biên giới đối với các dịch vụ điện thoại, truyền dữ liệu, telex, điện báo phụ thuộc vào đường truyền bằng dây và di động trên mặt đất thì phải đạt được thỏa thuận thương mại với một đối tác được thành lập tại Việt Nam đồng thời phải được cấp phép cung cấp dịch vụ viễn thông quốc tế. Còn những dịch vụ viễn thông trên mà dựa vào về tinh tinh thì phải có thỏa thuận thương mại với nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh quốc tế của Việt Nam được chính phủ Việt Nam cấp phép, trừ những dịch vụ dựa vào vệ tinh được cung cấp cho: - Những đối tượng kinh doanh ngoài khơi/trên biển, tổ chức của nhà nước, nhà cung cấp dịch vụ dựa vào tiện ích hạ tầng, truyền thanh, truyền hình, tổ chức quốc tế chính thức, văn phòng đại diện ngoại giao, lãnh sự, công viên phần mềm, khu công nghệ cao... được cấp phép sử dụng trạm vệ tinh mặt đất. - Đối với những dịch vụ không dựa vào tiện ích hạ tầng, ngay khi gia nhập, các công ty nước ngoài được liên doanh với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông (Được cấp phép có thời điểm), phần vốn góp không được vượt quá 51% vốn pháp định. Sau 3 năm gia nhập, các công ty nước ngoài được liên doanh với bất kỳ đối tác Việt Nam nào với phần vốn góp không vượt quá 65% vốn pháp định. Đối với những dịch vụ phải dựa vào tiện ích hạ tầng, ngay khi gia nhập các công ty nước ngoài được liện doanh với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông (được cấp phép có thời điểm), phần vốn góp không được vượt quá 49% vốn pháp định. Bên nào giữ 51% sẽ điều hành liên doanh. - Đối với những dịch vụ viễn thông cơ bản, 3 năm sau khi Việt Nam gia nhập, các công ty đa quốc gia được cấp phép sử dụng trạm vệ tinh mặt đất. Ngay khi gia nhập, các công ty cung cấp dịch vụ không dựa vào tiện ích hạ tầng được phép thành lập liên doanh với bất kỳ đối tác nào, phần vốn góp không vượt quá 70% vốn pháp định. Các công ty cung cấp dịch vụ dựa vào tiện ích hạ tầng được phép thành lập liên doanh với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông Việt Nam(Được cấp phép có thời điểm), phần vốn góp không vượt quá 49% vốn pháp định. * Những dịch vụ giá trị gia tăng như thư điện tử, thư thoại, thông tịn mạng, phục hồi dữ liệu, chuyển đổi dữ liệu điện tử, dịch vụ fax giá trị gia tăng, lưu trữ, chuyển mã... được cam kết thực hiện tương tự như mục trên, riêng phần vốn góp thay đổi tùy thuộc theo lĩnh vực. Có thể nói, so với cam kết BTA, Việt Nam có thêm một số nhân nhượng nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước. Chẳng hạn như việc cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng, phải thuê mạng do doanh nghiệp Việt Nam nắm quyền kiểm soát và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua qua biên giới, giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng chỉ các doanh nghiệp mà nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép. Như vậy, với dịch vụ có gắn hạ tầng mạng, chúng ta vẫn giữ mức cam kết như BTA, một yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng. 2.2 Tình hình phát triển của dịch vụ viễn thông sau khi gia nhập Có thể nói cho đến nay, chưa đầy 1 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, dựa trên những cam kết và lộ trình gia nhập cụ thể, thị trường viễn thông đã có những chuyển biến tích cực, sôi động hơn với xu thế hội nhập quốc tế. Về góc độ quản lý nhà nước, tháng 8/2007, Bộ Bưu chính viễn thông, nay là Bộ thông tin truyền thông, đã mở rộng phạm vi quản lý nhà nước theo xu hướng hội tụ viễn thông - CNTT - phát thanh - truyền hình. Xu thế này là hệ quả của việc gia nhập WTO, nhằm thực hiện theo đúng cam kết tham gia của Việt Nam với tổ chức này. Nhà nước đã đóng vai trò định hướng, giám sát hoạt động của doanh nghiệp, không can thiệp quá sâu vào thị trường của doanh nghiệp. Đồng thời, để nhanh chóng hội nhập viễn thông thời WTO, Bộ đã và đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý, các quy định chuyên ngành, các chính sách cụ thể như: Quy hoạch và cấp phép các dịch vụ 3G, WiMAX... nhằm phát huy tối đa hiệu quả của công nghệ và dịch vụ mới, khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển và._.gân hàng trong nước sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất dần lợi thế về dịch vụ ngân hàng bán lẻ với mạng lưới các kênh phân phối và cơ sở khách hàng đã có sẵn. Một cuộc điều tra của chương trình phát triển LHQ cho biết: 45% khách hàng được hỏi( Kể cả doanh nghiệp và cá nhân) đều trả lời sẽ chuyển sang vay vốn ngân hàng nước ngoài, 50% số người được hỏi sẽ lựa chọn dịch vụ ngân hàng nước ngoài, 50% còn lại lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền, nhất là gửi ngoại tệ. Lý do khách hàng lựa chọn chính là thủ tục đơn giản, chất lượng dịch vụ và tính chuyên nghiệp cao. Việc mở cửa thị trường tài chính ngân hàng cũng sẽ mở đường cho các ngân hàng nước ngoài lũng đoạn tài chính trong nước, trong khi đó, con số những đối thủ cạnh tranh lớn mạnh sẽ tăng lên. Các ngân hàng Việt Nam thực sự đứng trước những thách thức về cạnh tranh rất lớn. Không những thế, mở cửa thị trường tài chính ngân hàng không chỉ buộc các ngân hàng trong nước cạnh tranh thị trường với các ngân hàng nước ngoài mà còn phải cạnh tranh thị trường với các định chế tài chính phi ngân hàng. Nhiều quỹ đầu tư, nhiều công ty bảo hiểm, công ty tài chính nước ngoài đang nghiên cứu thị trường Việt Nam, một thị trường được đánh giá là rất tiềm năng, với tốc độ tăng trưởng nhanh trong khi mức độ và trình độ cung cấp dịch vụ tài chính còn ở giai đoạn phát triển ban đầu. -Thách thức về công nghệ Hệ thống CNTT của các NHTM Việt Nam nhìn chung còn yếu kém, tính liên kết giữa các ngân hàng về giải pháp công nghệ chưa cao... dẫn đến các dịch vụ ngân hàng chưa phong phú, tiện lợi và hấp dẫn. Theo tính toán và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài CNTT có thể làm giảm tới 76% chi phí hoạt động ngân hàng. Nhưng đây là một lĩnh vực đòi hỏi đầu tư rất lớn, ví dụ như để xây dựng hệ thống thông tin quản lý cho một NHTM Nhà nước cần phải chi phí tới 500 - 600 tỷ VND. Sự phát triển của CNTT, viễn thông,... tạo nền tảng cho sự phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử, nhưng hiện nay an ninh mạng trong hoạt động ngân hàng của Việt Nam còn chưa đảm bảo. Thực tiễn cho thấy, trong thời gian gần đây, mức độ hiện đại hóa công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng đang diễn ra khá nhanh chóng: Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng nay đã có trên 200 chi nhánh của 50 thành viên tham gia, hệ thống thanh toán bù trừ cũng phát triển nhanh thay thế hoàn toàn việc trao đổi trực tiếp bằng chứng từ... Bên cạnh đó, các NHTM đã tích cực đầu tư công nghệ, ứng dụng CNTT vào cung ứng dịch vụ ngân hàng như: hệ thống ATM, Home Banking, Mobile Banking, Phone Banking, Internet Banking... Tuy nhiên, hiện đại hóa công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào khả năng tài chính của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào thói quen tiêu dùng của dân cư. Nhìn chung, hiện nay chúng ta đã có những quan tâm nhất định về vấn đề công nghệ nhưng vẫn chưa đảm bảo được những vấn đề rủi ro công nghệ và an toàn hệ thống. Chưa có một ngân hàng nào của Việt Nam có một trung tâm dữ liệu dự phòng ngoài trung tâm dữ liệu chính. Và nếu có sự cố xẩy ra thì sự tê liệt hoạt động là không thể tránh khỏi. -Thách thức về nguồn nhân lực Cải cách ngân hàng sẽ dẫn đến cắt giảm bộ máy hoạt động cho gọn nhẹ và hiệu quả hơn. Lao động trong ngành có thể bị dư thừa và phải được đào tạo lại hoặc bố trí công việc khác phù hợp. Ngành ngân hàng là một ngành kén lao động, đòi hỏi lao động giỏi chuyên môn, có tính cẩn thận, trung thực. Do đó, việc thanh lọc cán bộ đủ năng lực và điều kiện làm việc trong môi trường cạnh tranh là một thách thức không nhỏ cho cán bộ quản lý ngân hàng. Những lao động giỏi và có chuyên môn cao có xu hướng chuyển sang làm việc cho các ngân hàng nước ngoài vì họ có chế độ lương hấp dẫn và đào tạo rất bài bản. Hiện nay, các ngân hàng quốc doanh đang và sẽ phải đối mặt với nạn chảy máu chất xám do nghịch lý: mặt bằng thu nhập thấp hơn so với các ngân hàng liên doanh và nước ngoài nhưng không thể tăng thu nhập cho người lao động một cách thích ứng cho dù có ngân hàng làm ra lợi nhuận rất cao bởi họ chỉ được phép trả theo quỹ tiền lương mà Bộ đã duyệt. Nghịch lý này làm cho người làm ngân hàng thiếu công cụ tài chính và khó chủ động trong việc thực hiện chính sách nhân sự, nhân viên thiếu động lực làm việc nên không kích thích được họ phát huy sáng tạo. Việc cán bộ ngân hàng “dứt áo ra đi” để lại những tổn thất vô hình: Xáo trộn tổ chức, rò rỉ thông tin kinh doanh, chi phí tuyển dụng bị đội lên và nếu là những cán bộ chủ chốt thì tổn thất vô hình còn lớn hơn nhiều. Do vậy, các ngân hàng trong nước sẽ ngày càng phải chịu những sức ép lớn hơn nhiều về nạn chảy máu chất xám do chính sách “Săn đầu người” mà các ngân hàng nước ngoài chắc chắn sẽ sử dụng. -Thách thức đối với ngân hàng trung ương trong việc quản lý Việc mở cửa và tiến tới tự do hóa trong lĩnh vực ngân hàng đặt ra những thách thức mới về quản lý và giám sát của Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan quản lý khác. Bằng chứng cho thấy việc tự do chuyển hóa vốn giữa các quốc gia không đem lại tăng trưởng nhanh mà ngược lại đi kèm với nó là tình hình bất ổn. Vì vậy, việc giám sát và điều tiết hoạt động tài chính trên phạm vi toàn quốc của Ngân hàng trung ương sẽ trở nên vô cùng phức tạp. 2. Giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức 2.1 Tiếp tục điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp trong lĩnh vực ngân hàng Lĩnh vực tài chính nói chung, lĩnh vực ngân hàng nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế. Việc tự do hoá tài chính phải gắn liền với những biện pháp quản lý thận trọng và hiệu quả. Hiện nay số chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã khá lớn (khoảng 30 chi nhánh). Nên thứ nhất, để đảm bảo sự ổn định của thị trường tiền tệ cũng như ổn định vĩ mô chung của nền kinh tế, Việt Nam có thể hạn chế quyền của chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc chấp nhận tiền gửi bằng VND của các tổ chức, cá nhân Việt Nam mà chi nhánh không có quan hệ tín dụng theo một tỷ lệ nhất định so với vốn điều lệ của chi nhánh. Tỷ lệ này có thể tăng dần và sẽ được loại bỏ theo lộ trình nhất định. Thứ hai, không ngừng hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Chúng ta cần có các quy định rõ ràng và thích hợp để thúc đẩy hoạt động ổn định của ngân hàng, đặc biệt phải đáp ứng những yêu cầu và quy định tối thiểu về kế toán, kiểm toán,… Thứ ba, tiến hành sửa đổi bổ sung những điểm bất cập trong Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng. Thứ tư, hoàn thiện và tăng cường khuôn khổ pháp lý cho các công cụ thương lượng (negotiable instruments). Cụ thể, cần nghiên cứu soạn thảo và ban hành các văn bản có hiệu lực cao hơn tạo ra cơ sở pháp lý có hiệu quả cho việc xác lập, chuyển nhượng và kết thúc các công cụ thương lượng và các giấy tờ thương mại như séc, hối phiếu, hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ nhằm tiếp cận vững chắc thực tiễn quốc tế trong lĩnh vực này. Ngoài ra, không ngừng tăng cường khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý ngoại hối. 2.2 Nâng cao khả năng điều hành và quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHNN Việt Nam hiện nay, hoạt động dưới hai chức năng vừa là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng vừa là Ngân hàng Trung ương của Việt Nam (Điều 1 Luật NHNN Việt Nam). Với vị thế này, NHNN chưa đảm bảo sự độc lập tương đối trong điều hành chính sách tiền tệ; hơn nữa, các công cụ điều hành chính sách tiền tệ còn hạn chế, thiên về các công cụ trực tiếp, các công cụ gián tiếp còn sơ khai. Để dần loại bỏ những hạn chế này, nội dung cải cách đổi mới NHNN trong những năm tới phải bao gồm: -Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ; -Hiện đại hoá hệ thống thanh toán và thông tin; -Cơ cấu lại hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng; -Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy quản lý của hệ thống NHNN theo hướng tăng cường vai trò ngân hàng Trung ương của NHNN (độc lập hơn trong hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ trong phạm vi cả nước). 2.2.1 Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ Việc thực hiện các chính sách tiền tệ là để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trên cơ sở xoá bỏ cơ chế quản lý hành chính, xây dựng và hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ đưa toàn bộ hệ thống từng bước tham gia có hiệu quả vào quá trình hội nhập quốc tế, cụ thể: - Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ theo hướng tự do hoá có sự điều tiết gián tiếp của Nhà nước thông qua lãi suất định hướng của NHNN (lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản); - Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng vừa linh hoạt trong ngắn hạn vừa ổn định trong dài hạn, khuyến khích xuất khẩu, góp phần ổn định thị trường tiền tệ đặc biệt là thị trường vốn; - Hoàn thiện hệ thống thị trường tiền tệ thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng về nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các công cụ tài chính của thị trường này đặc biệt là các công cụ, các giao dịch phòng tránh rủi ro về tỷ giá hối đoái như Forward, Future, Option... - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống nghiệp vụ thị trường mở, phát triển một số trung tâm giao dịch nghiệp vụ này, coi đây là một trong những công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ, giúp NHNN điều tiết kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung ứng phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo từng thời kì; - Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, đồng thời xây dựng các hệ thống các biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn quốc tế đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước ngoài, kiểm soát và hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam (hạn chế tình trạng đôla hoá) trên cơ sở nâng cao vị thế của đồng Việt Nam; - Xây dựng hệ thống thanh toán cảnh báo sớm trên cơ sở thu thập và phân tích các thông tin để đưa ra các khuyến nghị hợp lý cho các ngân hàng nhằm giúp các ngân hàng phòng chống được các rủi ro về lãi suất, tỷ giá, nợ, thanh khoản...đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. 2.2.2 Hiện đại hoá hệ thống thanh toán và thông tin Hiện nay tỷ lệ giao dịch bằng tiền mặt ở Việt Nam là vẫn còn khá cao. (trên 40%). Việc cải cách hệ thống thanh toán cho hệ thống ngân hàng Việt Nam là rất có ý nghĩa về mặt quản lý hiện nay. Hệ thống thanh toán của ngân hàng nhanh chóng hiện đại, chính xác và an toàn cho phép những tín hiệu của thị trường tài chính- ngân hàng được phản ánh đầy đủ, qua đó NHNN có thể phản ứng một cách hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ. Công tác hiện đại hoá trước mắt cần tập trung vào hệ thống thanh toán bù trừ; các hoạt động thanh toán bằng tiền mặt, cung ứng, thu hồi và điều hoà tiền mặt phải được cải tiến, đảm bảo an toàn, thuận tiện và phù hợp với điều kiện của từng vùng. Công tác hiện đại hoá hệ thống thông tin trong ngành ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp giữa các bộ phận, nâng cao hiệu quả quản lý điều hành của hệ thống, trong đó bao gồm những việc cần thực hiện như: - Nâng cấp hệ thống mạng cục bộ tại các chi nhánh của NHNN và các chi nhánh của ngân hàng thương mại; - Đầu tư trang thiết bị chuyên dụng để nâng cấp mạng diện rộng của hệ thống NHNN; - Nghiên cứu, thiết kế và xây dựng các chiến lược triển khai ứng dụng công nghệ viễn thông hiện đại phù hợp với ngân hàng, bảo đảm phục vụ có hiệu quả việc triển khai các ứng dụng vào dịch vụ ngân hàng; - Nghiên cứu, đầu tư hiệu quả các thiết bị mã hoá cứng, ứng dụng phần mềm bảo mật hiện đại trong ngân hàng, bảo đảm an toàn dữ liệu và an toàn tài sản trong quá trình khai thác ứng dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử, thương mại điện tử trên mạng Internet; - Nâng cấp, hoàn thiện và triển khai rộng các trang Web của NHNN và các ngân hàng thương mại nhằm phục vụ tốt hơn công tác quản lý, điều hành và kinh doanh của ngành, đẩy mạnh khai thác các thông tin, dịch vụ qua mạng Internet. 2.2.3 Cơ cấu lại hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng Việc Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ quốc tế để cam kết mở cửa dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ thị trường tài chính (từ 2006 đối với ASEAN, từ 2008 đối với Mỹ và sau đó là WTO trên cơ sở Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ GATS) sẽ khiến sự cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ ngân hàng nội địa trở nên gay gắt hơn. Rủi ro của các NHTM trên thị trường trong nước và quốc tế tăng lên rõ rệt. Vì vậy, công tác thanh tra cần phải được cải tiến về cả nội dung và mô hình tổ chức đảm bảo hạn chế rủi ro nói trên. Hướng cơ cấu lại và cải tiến cơ bản công tác thanh tra phải tuân thủ nguyên tắc của Uỷ ban quốc tế về thanh tra ngân hàng (Bassel) gồm các chuẩn mực quốc tế về thanh tra đảm bảo ổn định hệ thống thanh tra ngân hàng trong nước và quốc tế. Việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế bắt buộc nói trên vào lĩnh vực thanh tra ngân hàng đòi hỏi Việt Nam phải đào tạo đội ngũ thanh tra viên có trình độ cao, xây dựng cơ cấu tổ chức hiệu quả. NHNN không thanh tra chi nhánh của các ngân hàng thương mại mà chỉ tập trung thanh tra tại các hội sở chính nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực của cơ quan thanh tra, giám sát và kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại cũng như trách nhiệm quản lý của hội đồng quản trị và ban giám đốc các ngân hàng này. 2.2.4 Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy quản lý của hệ thống ngân hàng nhà nước NHNN đã và đang thực hiện đổi mới công cụ điều hành và thực thi chính sách tiền tệ theo hướng sử dụng các công cụ gián tiếp; hơn nữa, môi trường trong nước và quốc tế cũng đã thay đổi, xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Do đó, vấn đề đổi mới bộ máy tổ chức của NHNN là yêu cầu cấp thiết. Cải cách mô hình tổ chức hệ thống NHNN nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể: - Nâng cao vị thế tương đối độc lập của ngân hàng thương mại trong việc thực thi chính sách tiền tệ; - Tạo điều kiện thực hiện các công cụ mới của chính sách tiền tệ như chiết khấu- tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, hoàn thiện thị trường tiền tệ và liên ngân hàng cả về nội tệ và ngoại tệ; - Nâng cao chất lượng và hiệu lực của công tác thanh tra giám sát theo chuẩn mực quốc tế Bassel; - Thực hiện có hiệu quả, với chi phí thấp các hoạt động kho quỹ, thanh toán, cung ứng và thu hồi tiền mặt. 2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại Việt Nam 2.3.1 Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh Sự lành mạnh của hệ thống NHTM quốc doanh nói riêng và hệ thống NHTM nói chung trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế chính là cơ sở cho sự lành mạnh của hệ thống kinh tế vĩ mô. Đối với NHTM quốc doanh thì tiến trình cơ cấu lại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cần tập trung vào các nội dung sau: - Lành mạnh hoá tài chính của NHTM quốc doanh trên cơ sở cơ cấu lại nợ, làm sạch bảng cân đối tài sản và áp dụng các biện pháp ngăn ngừa phát sinh nợ xấu mới.Tăng vốn điều lệ của các NHTM quốc doanh bằng các nguồn vốn từ ngân sách, tái đầu tư hoặc bằng cổ phần hoá khi có điều kiện - Xây dựng và áp dụng mô hình tổ chức NHTM theo tiêu chuẩn quốc tế. Theo đó, cơ cấu tổ chức chủ yếu của các NHTM quốc doanh là quản lý theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ của một ngân hàng đa năng, thay thế cho việc quản lý theo chức năng và nghiệp vụ như hiện nay, đồng thời tổ chức và cơ cấu lại các định chế nội bộ như các cơ quan quản lý rủi ro, quản lý tài sản Nợ - tài sản Có, thanh tra và kiểm soát nội bộ, trên cơ sở đó hình thành một số tập đoàn tài chính, ngân hàng có khả năng hoạt động và cạnh tranh trên phạm vi trong nước và quốc tế; - Đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng, chuẩn bị những bước đi phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của quá trình tự do hoá lĩnh vực ngân hàng. Thật vậy, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng giúp nâng cao đáng kể hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. - Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng trên cơ sở thực hiện chiến lược đầu tư phát triển công nghệ của toàn hệ thống ngân hàng. Công việc hiện đại hoá sẽ di cùng với việc xây dựng và chuyển đổi hệ thống kế toán Việt Nam hiện nay để tiến tới áp dụng các tiêu chuẩn kế toán quốc tế (International Accounting Standards - IAS ) và kiểm toán quốc tế vừa làm cơ sở để chuyển giao công nghệ hiện đại vừa tạo điều kiện áp dụng các nguyên tắc và chuẩn mực thanh tra quốc tế (Bassel). - Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và viên chức ngân hàng. Trên thực tế, đây là chương trình rất tốn kém và cần có thời gian, tuy nhiên sự cần thiết của yêu cầu này là không thể phủ nhận bởi nguồn nhân lực tốt luôn là chiếc chìa khoá cơ bản nhất dẫn đến thành công. - Việc cơ cấu lại hệ thống các NHTM quốc doanh phải được tiến hành đồng thời với việc cải cách khu vực doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước. Hệ thống ngân hàng là bức tranh phản chiếu tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong nước. Cải cách khu vực doanh nghiệp trong nước là rất cần thiết đảm bảo cho cải cách ở khu vực ngân hàng thành công. 2.3.2 Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Hệ thống NHTMCP cũng cần được sắp xếp lại đảm bảo vững mạnh, an toàn và hiệu quả. Để thực hiện tốt mục tiêu đó một số biện pháp cần phải đưa ra đối với khu vực ngân hàng này bao gồm: - Sáp nhập những ngân hàng nhỏ, đang trong trạng thái hoạt động bình thường với các NHTM khác, tạo ra một ngân hàng lớn mạnh về vốn, phạm vi hoạt động, tăng khả năng quản lý tập trung, cũng như hoạt động kinh doanh, góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh khi thống nhất lại. Tuyệt đối không sáp nhập hai ngân hàng đang gặp khó khăn và có nguy cơ phá sản với nhau. - Sáp nhập các NHTMCP nhỏ, vốn nhỏ, hoạt động kém hiệu quả hoặc rơi vào tình trạng khó khăn, đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán với các ngân hàng lớn hoặc các NHTM quốc doanh dưới hình thức mua lại cổ phần hoặc mua lại thông qua việc góp vốn giữa các NHTM khác có khả năng. Giải pháp này giúp tiếp tục duy trì sự tồn tại của hệ thống ngân hàng cũ đang có những điều kiện hoạt động như địa bàn, khách hàng, trụ sở... - Giải pháp cuối cùng đối với các NHTMCP quá yếu kém là đóng cửa, giải thể những ngân hàng này. Đây là giải pháp mạnh khi không thể tiếp tục hỗ trợ về vốn hoặc sáp nhập với các ngân hàng khác. Tuy nhiên, việc giải thể xoá bỏ một ngân hàng cần phải được cân nhắc do không chỉ ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống ngân hàng mà còn gây tác động không có lợi cho đời sống xã hội và tâm lý dân cư. Do vậy, giải pháp này chỉ nên áp dụng trong trường hợp thật cần thiết và không thể không xử lý. Đồng thời, để hỗ trợ về mặt pháp lý cho giải pháp này cần sớm chuyển các NHTM sang mô hình kinh doanh thực sự, loại bỏ sự can thiệp của Nhà nước ( đặc biệt về vốn) nhằm có thể áp dụng Luật phá sản đối với các NHTM một cách dễ dàng theo pháp luật. 2.3.3 Đối với các ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nước ngoài (NHTM có vốn ĐTNN) Nếu như việc tăng cường năng lực cạnh tranh cho các NHTM trong nước là điều kiện cần nhằm chuẩn bị cho những ngân hàng thực lực và khả năng ứng phó cần thiết trong môi trường tự do hoá và hội nhập thì việc tăng cường năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam bằng cách thiết lập một môi trường kinh doanh bình đẳng là điều kiện đủ để Việt Nam thực hiện mong muốn của mình trong quá trình gia nhập WTO cũng như tạo tiền đề cho những cam kết cụ thể của Việt Nam sau này. Tuy nhiên, theo như thực trạng hoạt động kinh doanh của khối ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài (chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh) thì để thoả mãn những yêu cầu đặt ra trong khuôn khổ GATS còn rất nhiều việc cần phải thực hiện trong thời gian tới: - Rà soát để xây dựng các khung pháp lý nhằm đảm bảo sân chơi bình đẳng, an toàn cho các NHTM (trong nước và nước ngoài) hoạt động trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng cũng như những nghiệp vụ tài chính khác; - Xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, bảo hộ đối với NHTM Việt Nam mà đặc biệt là các NHTM quốc doanh đồng thời với việc nới dần các hạn chế đối với các ngân hàng nước ngoài, đi đôi với việc củng cố lành mạnh hoá các NHTM trong nước, đổi mới công cụ điều hành chính sách tiền tệ, thanh tra ngân hàng như đã nêu ở phần trên; - Cụ thể hoá, nới lỏng thủ tục cấp phép cho các ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh và hoạt động tại Việt Nam. Nhiệm vụ này gắn với việc giảm bớt các hạn chế về hoạt động của ngân hàng nước ngoài trên thị trường trong nước, tăng cường khuôn khổ pháp lý về giám sát ngân hàng nói chung... đảm bảo để Việt Nam có thể tham gia đầy đủ vào GATS về lĩnh vực ngân hàng. KẾT LUẬN Viễn thông cũng như  Ngân hàng đều là các ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là cơ sở cho các nền kinh tế khác phát triển. Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã rất chú trọng đến việc đầu tư phát triển hai dịch vụ này. Thực sự Việt Nam đã có những bước chuyển mình to lớn trong cả hai lĩnh vực này và được đánh giá là một trong các quốc gia có tốc độ phát triển dịch vụ khá nhanh trong khu vực và thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới - WTO, nhận thức được các tiềm năng của dịch vụ Viễn thông và dịch vụ ngân hàng Việt Nam, các đối tác đàm phán rất quan tâm đến hai lĩnh vực này của Việt Nam. Mặc dù vậy, tuy có những phát triển vượt bậc trong thời gian vừa qua nhưng vẫn còn có một khoảng cách khá lớn so với trình độ phát triển của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tham gia Tổ chức Thương mại thế giới, mở cửa ngành dịch vụ bên cạnh những cơ hội phát triển là những thách thức và khó khăn hết sức to lớn mà các dịch vụ Việt Nam sẽ phải tự giải quyết, sẽ không có sự bảo hộ của chính phủ trong “sân chơi” rộng lớn này. Các doanh nghiệp viễn thông, ngân hàng Việt Nam bên cạnh sự đổi mới hiện đại công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, cần đổi mới tư duy, nhận thức rõ vai trò của mình trong quá trình hội nhập, họ chính là các chủ thể chính quyết định sự thành bại trong cạnh tranh khi Việt Nam tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam cần hoàn thiện, bổ sung hơn nữa hệ thống luật pháp, tạo ra một khung pháp lý hoàn chỉnh đảm bảo cho quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước, tận dụng tốt cơ hội biến chúng thành thế mạnh của doanh nghiệp đồng thời hạn chế các thách thức trong quá trình gia nhập WTO. Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước cần nghiên cứu và áp dụng một cách linh hoạt các biện pháp hỗ trợ được phép trong khuôn khổ WTO để tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác quốc tế của các doanh nghiệp viễn thông và ngân hàng Việt Nam nói riêng và cho toàn ngành dịch vụ Việt Nam nói chung. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Đỗ Đức Bình - TS. Nguyễn Thường Lạng (2004), Giáo trình Kinh tế quốc, Nhà xuất bản Lao Động-Xã hội, trang 208 - 225. 2. “Tổ chức Thương mại thế giới và triển vọng gia nhập của Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 1997, trang 66-74. 3. Quốc Đạt, “Giải đáp các vấn đề về thủ tục gia nhập WTO” (2005), Nhà xuất bản Thế giới, trang 296-311,326-341 4. Nguyễn Vũ Hoàng ,“Các liên kết kinh tế thương mại quốc tế” (2005), Nhà xuất bản Thống kê năm, trang 105-127. 5. Từ điển Kĩ thuật Bách khoa, Nhà xuất bản Khoa học và Kĩ thuật 6. PGS.TS. Nguyễn Thị Mơ, Thương mại dịch vụ trong WTO và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam. Tạp chí luật học, số 5/2000. 7. Lê Nin - Tư bản. 8. GS-TS Bùi Xuân Phong-TS Nguyễn Đăng Quang, “Một số biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam trong cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển-Số 94 tháng 4 năm 2005, trang 29 9. Quyết định số 158/2001/QĐ-TTg, phê duyệt chiến lược phát triển Bưu chính-Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 10. Viện chiến lược Bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin - Bộ Bưu chính viễn thông, “ Dự thảo Quy hoạch phát triển viễn thông và Internet Việt Nam đến năm 2010”. 11. Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, GATS 2000 Mở cửa thị trường dịch vụ - NXB Chính trị quốc gia. 12. Bộ ngoại giao, Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá. Vấn đề và giải pháp, NXB chính trị quốc gia. 13. Ngân hàng trong nước và cuộc chiến trên sân nhà, Báo Tiền phong (27/10/2006). 14. Viễn thông Việt Nam sau 1 năm gia nhập WTO, Báo Vietnamnet (3/10/2007). 15. Những cam kết về dịch vụ khi Việt Nam gia nhập WTO, Báo Vietnamnet (15/11/2006). 16. Những chuyển biến của hệ thống NHTM trong nước từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Thị trường tài chính tiền tệ số 16/2007. 17. Cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, tạp chí ngân hàng số 1/2007. Các trang Web: - ww.mpt.gov.vn - www.vnn.vn - www.mpi.gov.vn - ww.worldbank.org.vn DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT WTO Tổ chức Thương mại Thế giới ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á EU Liên minh Châu Âu GATS Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ MFN Tối huệ quốc NT Đãi ngộ quốc gia Bassel Các nguyên tắc và chuẩn mực thanh tra quốc tế GDP Tổng thu nhập quốc nội ITU Liên minh viễn thông quốc tế APT Tổ chức viễn thông Châu á - Thái Bình Dương VAFT Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam CPC Hệ thống phân loại các sản phẩm chủ yếu CNTT Công nghệ thông tin NHTM Ngân hàng thương mại NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần STB Ngân hàng Sài gòn thương tín ACB Ngân hàng TMCP Á châu TCTD Tổ chức tín dụng IPO Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng SMS Công nghệ nhắn tin di động MMS Công nghệ truyền số liệu CDMA Công nghệ di động WDM Công nghệ chuyển tải quang NGN Công nghệ mạng hội tụ VoIP Dịch vụ thoại sử dụng giao thức Internet WIMAX Công nghệ mạng không dây băng rộng PSTN Mạng điện thoại dịch vụ công cộng PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: CÁC DOANH NGHIỆP VIỄN THÔNG VÀ INTERNET CỦA VIỆT NAM 1. Thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông cố định – 5 doanh nghiệp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) Công ty thông tin Viễn thông điện lực (ETC) Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL) Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thôn g Sài Gòn (SPT) Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom) 2. Thiết lập mạng và cung cấp các dịch vụ viễn thông quốc tế – 3 doanh nghiệp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) Công ty thông tin Viễn thông điện lực (ETC) Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL) 3. Cung cấp các dịch vụ điện thoại đường dài trong nước và quốc tế sử dụng giao thức IP – 6 doanh nghiệp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) Công ty thông tin Viễn thông điện lực (ETC) Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL) Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thông Sài Gòn (SPT) Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom) Công ty Thông tin điện tử hàng hải (Vishipel) 4. Cung cấp dịch vụ thông tin di động – 5 doanh nghiệp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) – 2 giấy phép Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL) Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thôn g Sài Gòn (SPT) Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom) 5. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy cập Internet – 15 doanh nghiệp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) Công ty thông tin Viễn thông điện lực (ETC) Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL) Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thông Sài Gòn (SPT) Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom) Công ty Thông tin điện tử hàng hải (Vishipel) Công ty Cổ phần dịch vụ Internet (OCI) Công ty Đầu tư phát triển công nghệ (FPT) Công ty điện tử quận 10 (TIENET) Công ty Điện tử hoá chất Bộ quốc phòng (ELINCO) Công ty cổ phần công nghệ mạng (QTNET) Công ty cổ phần Thanh Tâm Công ty Netnam (NETNAM) Công ty Đầu tư kĩ nghệ (TECHCOM) Công ty Việt Khang (XVNET) MỤC LỤC 1.2. Kết quả vòng đàm phán Urugoay về dịch vụ viễn thông 18 2.Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng 21 2.1 Khái niệm và chức năng dịch vụ ngân hàng 21 2.1.1 Khái niệm 21 2.1.2 Chức năng của ngân hàng 21 2.2 Các dịch vụ ngân hàng cung cấp 22 2.3 Đàm phán về dịch vụ tài chính 23 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG DỊCH VỤ VIỄN THÔNG VÀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 26 I/ Thực trạng ngành dịch vụ Việt Nam trước và sau khi gia nhập 26 1. Dịch vụ Việt Nam trước khi gia nhập WTO 26 2. Dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO 27 II/ Dịch vụ viễn thông trước và sau khi gia nhập 29 1. Vài nét về dịch vụ viễn thông trước khi Việt Nam gia nhập WTO 29 2. Thực trạng phát triển dịch vụ viễn thông sau khi gia nhập 33 2.1 Cam kết gia nhập của Việt Nam trong lĩnh vực viễn thông 33 2.2 Tình hình phát triển của dịch vụ viễn thông sau khi gia nhập 34 III. Dịch vụ ngân hàng trước và sau khi gia nhập 39 1. Dịch vụ ngân hàng trước khi gia nhập 39 2. Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng sau khi gia nhập WTO 43 2.1 Các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng trong biểu cam kết dịch vụ 43 2.2 Thực trạng phát triển của dịch vụ ngân hàng sau khi gia nhập WTO 45 CHƯƠNG III. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC SAU KHI GIA NHẬP - GIẢI PHÁP TẬN DỤNG CƠ HỘI VƯỢT QUA THÁCH THỨC 49 I/ Cơ hội và thách thức đối với dịch vụ Việt Nam nói chung 49 II/ Cơ hội và thách thức đối với dịch vụ viễn thông 50 1. Cơ hội và thách thức 50 1.1 Cơ hội 50 1.2 Thách thức 52 2. Giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức 54 2.1 Giải pháp từ phía các cơ quan quản lý nhà nước 54 2.1.1 Đối với chính phủ 54 2.1.2 Đối với Bộ Bưu chính viễn thông và các Bộ ngành khác 56 2.2 Giải pháp từ phía các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam 59 III/ Cơ hội và thách thức đối với dịch vụ ngân hàng 63 1. Cơ hội và thách thức 63 1.1Cơ hội 63 2.2 Thách thức 66 2. Giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức 71 2.1 Tiếp tục điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp trong lĩnh vực ngân hàng 71 2.2 Nâng cao khả năng điều hành và quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 72 2.2.1 Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ 72 2.2.2 Hiện đại hoá hệ thống thanh toán và thông tin 73 2.2.3 Cơ cấu lại hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng 74 2.2.4 Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy quản lý của hệ thống ngân hàng nhà nước 75 2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại Việt Nam 76 2.3.1 Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh 76 2.3.2 Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) 77 2.3.3 Đối với các ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nước ngoài (NHTM có vốn ĐTNN) 78 KẾT LUẬN 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 DANH MỤC CÁC CHỮ VIÉT TẮT 84 PHỤ LỤC 85 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT072.doc
Tài liệu liên quan