Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước và một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước

Lời nói đầu Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã đạt được nhữngn tiến triển đáng khâm phục vậy thì đâu là lí do ? . Để đi tìm câu trả lời không ngoài sự dám cải tổ nền kinh tế của nước ta và hiện nay công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ 20. Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực, hy vọng có thể thành lập thị trường trường chứng khoán vào đầu một thiên niên kỷ tới, mà trước hết công việc có tầm quan trọng c

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước và một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiến lược là cổ phần hoá các DN Nhà nước, những Công ty cổ phần chính là những tế bào của cơ thể thị trường chứng khoán. Do vậy các DN nhà nước trong diện cổ phần hoá còn rất nhiều bỡ ngỡ và gặp không ít khó khăn , trở ngại trong việc thực hiện cổ phần hoá. Hầu hết hệ thống các DN nhà nước đã hình thành từ thời quản lí tập trung bao cấp, khi chuyển sang cơ chế mới lại thiếu kiểm soát chặt chẽ nên phát triển tràn lan. Một trong những bộ phận quan trọng DN nhà nước không đủ điều kiện tối thiểu, trang bị quá đơn sơ, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng. Mặt khác trong điều kiện kinh tế tư nhân còn quá non yếu, chỉ mới hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp nên DN nhà nước chưa thể tập trung toàn lực cho yêu cầu phát triển ở những ngành, lĩnh vực then chốt . Để duy trì tốc độ phát triển của nền kinh tế , Việt Nam đã bắt đầu phải đối mặt với những thách thức về nguồn lực đầu tư cho phát triển . Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính của các nước trên thế giới và khu vực đã làm giảm nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam từ khoảng gần 10 tỷ USD hàng năm xuống 2 tỷ USD trong năm 1998, trong khi đó theo tính toán của các nhà phân tích kinh tế: Để Việt Nam duy trì được tốc độ phát triển 6 - 7 % hàng năm thì vốn đầu tư lên đến 400 - 500 tỷ USD. Để có thể huy động được nguồn vốn khổng lồ chắc chắn không thể chỉ dựa vào nguồn nội lực để phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy mà cổ phần hoá đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta , nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hiện đại hoá đất nước và thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội.. Phần I Công ty cổ phần và sự cần thiết cổ phần hoá DN nhà nước ở việt nam I. Khái quát về công ty cổ phần và cổ phần hoá . 1. Khái niệm và đặc điểm : Công ty cổ phần : 1/ Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh do nhiều người góp vốn, đóng góp dưới hình thức cổ phần thông qua việc phát hành cổ phiếu . Công ty cổ phần có hai đặc điểm cơ bản : 1. Nhiều người góp vốn (tương tự công ty trách nhiệm hữu hạn ). 2. Góp vốn thông qua phát hành cổ phiếu (Đặc điểm này khác với công ty trách nhiệm hữu hạn , vì công ty trách nhiệm hữu hạn không được phát hành cổ phiếu ). 2/ Cổ phần là những phần bằng nhau do vốn điều lệ của công ty chia ra và được phát hành dưới nhiều hình thức cổ phiếu. + Các loại cổ phần : Công ty cổ phần theo Luật công ty 1990 chỉ có một loại CP, nghĩa là người sở hữu (cổ đông) có quyền và nghĩa vụ như nhau. Xem xét kinh nghiệm các nước cho thấy việc quy định chỉ có một loại CP làm cho cơ cấu vốn của Cty quá cứng nhắc và không tạo ra khung khổ linh hoạt cho đầu tư cũng như huy động vốn. Từ đó, cải cách luật Cty gần đây ở các nước đưa ra áp dụng chế độ "đa dạng hoá CP". Nói cách khác, Cty CP có thể phát hành nhiều loại CP với các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Luật DN 1999 của Việt Nam cũng đi theo xu hướng cải cách tiến bộ này.Cổ phần được chia ra làm 4 loại chính như sau : Cổ phần phổ thông : Người sở hữu CP phổ thông gọi là cổ đông phổ thông, có các quyền: tham dự và biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông, mỗi CP phổ thông có một phiếu bầu; được nhận cổ tức với mức theo quyết định của đại hội đồng cổ đông; được ưu tiên mua CP mới chào bán tương ứng với tỷ lệ CP phổ thông của từng CĐ trong Cty; khi Cty giải thể được nhận một phần tài sản còn lại tương ứng với số CP góp vốn vào Cty, sau khi Cty thanh toán cho chủ nợ và cổ đông loại khác. Cổ đông có các nghĩa vụ: thanh toán đủ số CP cam kết mua , chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của Cty trong phạm vi số vốn góp; tuân thủ điều lệ và quy chế quản lý nội bộ... Đối với CP phổ thông của cổ đông sáng lập, trong 3 năm đầu, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các CĐ sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số CP phổ thông được quyền chào bán. CP này có thể nhượng cho người không phải là cổ đông nếu được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông. Cổ đông dự định chuyển nhượng không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các CP đó. Sau thời hạn 3 năm hạn chế trên với CĐ sáng lập đều bãi bỏ. Ba năm được coi là thời hạn đầy đủ cho cho việc đầu tư, hoàn thành và đưa dự án vào hoạt động nếu dự án có gắn với xây dựng. Việc hạn chế này đối với CĐ sáng lập nhằm mục đích : thúc đẩy CĐ sáng lập phải xem xét cẩn thận trước khi quyết định thành lập Cty để kinh doanh, khắc phục hiện tượng thành lập Cty và quyết định đầu tư theo "phong trào".Qua đó hạn chế những đổ bể gây tổn thất cho xã hội , góp phần duy trì sự ổn định cần thiết của Cty trong những năm đầu hoạt động, tăng thêm độ đảm bảo và niềm tin cho những người tham gia góp vốn sau khi đã đăng ký kinh doanh. + Cổ phần ưu đãi biểu quyết : Đây là CP có số phiếu biểu quyết nhiều hơn một phiếu biểu quyết so với CP phổ thông; không hạn chế mức tối đa số phiếu biểu quyết của CP ưu đãi biểu quyết. Số phiếu biểu quyết cụ thể do điều lệ Cty quy định. Trường hợp Cty CP được chuyển đổi từ DNNN, thì CP ưu đãi biểu quyết chỉ được sử dụng đối với các DN hoạt động trong các ngành: tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ tài chính khác; bưu chính - viễn thông; vận tải hàng không. Các ngành khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết có quyền biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền đại hội đồng cổ đông với số phiếu biểu quyết nhượng CP đó cho người khác + CP ưu đãi cổ tức : Loại CP này được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của CP phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm (được xác định bằng tỷ lệ phần trăm của tổng số vốn CP thực góp vào Cty). Cổ tức được chia hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của CP ưu đãi cổ tức. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức có quyền: nhận cổ tức như quy định trên; khi Cty giải thể được nhận lại một phần tài sản còn lại tương ứng với số CP góp vốn vào Cty, sau khi Cty đã thanh toán hết cho các chủ nợ và CP ưu đãi hoàn lại; các quyền khác như cổ phần phổ thông trừ quyền biểu quyết, không có quyền dự họp đại hội đồng cổ đông, không có quyền đề cử người vào HĐQT và ban kiểm soát. + Cổ phần ưu đãi hoàn lại : Người nắm CP sẽ được Cty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu (Cổ đông) hoặc theo các điều kiện do Cty và người đầu tư có liên quan thoả thuận và được ghi vào cổ phiếu của CP ưu đãi hoàn lại. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại có quyền như CĐ phổ thông trừ quyền biểu quyết, không có quyền dự họp đại hội đồng cổ đông, không có quyền đề cử người vào HĐQT và ban kiểm soát. Những cổ phần ưu đãi khác : Đây có thể là CP vàng hoặc CP đa phiếu. Loại CP này phù hợp với sở hữu Nhà nước, hoặc đối với Cty hoạt động trong các ngành, nghề mà Nhà nước muốn nắm quyền chi phối. 3/ Cổ đông là người góp vốn, người nắm giữ cổ phiếu, có quyền quyết định đối với hoạt động của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm pháp lý ,được hưởng quyền lợi hay phải chi trả các khoản nợ tương ứng với số vốn mình đóng góp vào công ty. Họp đại hội đồng có thể họp đại biểu cổ đông căn cứ vào vốn cổ phiếu. Lá phiếu của cổ đông phụ thuộc vào số cổ phần mà cổ đông đó sở hữu : vai trò phụ thuộc vào số cổ phần sở hữu. 4/ Cổ phiếu là phiếu chứng nhận phần góp vốn của cổ đông và quyền được hưởng lãi suất cổ phần của cổ đông . + Cổ phiếu có hai loại : 1. Cổ phiếu ưu đãi (có ghi danh): Loại này giành được cho các sáng lập viên và các thành viên của Hội đồng quản trị . Đặc điểm của loại này là không được chuyển nhượng , mua bán , đó là một sự ràng buộc phải gắn bó với công ty suốt đời . Trong trường hợp công ty bị phá sản thì cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu được thanh toán trước. 2.Cổ phiếu thường: Là loại cổ phiếu không ghi danh được tự do mua bán, chuyển nhượng , nghĩa là được phát hành rộng rãi trên thị trường . Loại này khác cổ phiếu ưu đãi ở chỗ : lãi suất không ổn định , điều kiện rủi ro cao hơn cổ phiếu ưu đãi và biến động theo sự kinh doanh của công ty . Khi công ty bị phá sản thì cổ phiếu thường phải thanh toán sau cổ phiếu ưu đãi . + Cách tính giá cổ phiếu : Cổ phiếu là một loại hàng hoá hết sức quan trọng trong TTCK và ở các quốc gia có nền tài chính phát triển, cổ phiếu chiếm đa số trong các hoạt động giao dịch.Vì thế , định giá của một cổ phiếu luôn là bài toán quan trọng nhất và trước tiên của một nhà đầu tư. Lợi nhuận mà một cổ phiếu đem lại cho người chủ sở hữu là các cổ tức được nhận theo định kỳ (hàng năm, hàng quý...). Vì vậy, giá của một cổ phiếu chính là giá mà nhà đầu tư sẵn lòng trả để theo định kỳ nhận được các cổ tức. Từ thực tế đó, cách thức tính lãi suất ngân hàng đã được dùng để tính giá cổ phiếu. Gửi tiết kiệm là cách đầu tư dễ dàng, an toàn nhất, đảm bảo có lợi nhuận hầu như 100%. Sẽ không có ai sử dụng tiền của mình vào một đầu tư mà lợi nhuận đem lại chắc chắn thấp hơn lãi gửi tiết kiệm.Vì thế, giá của cổ phiếu sẽ là một khoản tiền mà nếu đem nó vào gửi tiết kiệm, lãi định kỳ sẽ bằng với cổ tức. Dưới mức này, người bán sẽ không bán, người mua sẽ không mua bởi người mua có thể dùng số tiền mua để gửi tiết kiệm và mỗi định kỳ , nhận được lãi tiết kiệm nhiều hơn khoản tiền mà cổ tức đem lại. Vậy, về lý thuyết, giá cổ phiếu sẽ bằng: cổ tức / lãi suất hiện hành (i). Nếu, cổ tức là 1.000 đ/năm, lãi suất hiện hành là 10%/năm, giá của cổ phiếu là 1.000/10% = 10.000đ. Đó là cách tính giá của cổ phiếu trong trường hợp không có rủi ro nào cả.Thực tế, rủi ro luôn tồn tại và giá của cổ phiếu trên thị trường hiếm khi đúng như (i) do có những sự thay đổi để phản ánh rủi ro của đầu tư.Trong mọi trường hợp, (i) vẫn luôn là quy tắc cơ bản của các cách tính. Có một vài nguyên nhân dẫn đến các rủi ro trên thị trường chứng khoán: 1) Cổ tức của cổ phiếu có thể sẽ thay đổi, tuỳ theo tình hình hoạt động ttốt hay xấu của vụ đầu tư. Giá cổ phiếu của các công ty tin học tại Mỹ, với ví dụ Microsoft, có lúc đã gấp 6-7 lần giá (i),vì các nhà đầu tư tin vào kết quả kinh doanh theo cấp số nhân của họ. 2) Từ cách tính (i), giá của cổ phiếu sẽ thay đổi nếu thị trường dự tính thay đổi trong lãi suất. Nếu lãi suất giảm, nhà đầu tư sẽ cần một khoản tiền lớn hơn trong tài khoản tiết kiệm để có được mức thu nhập định kỳ bằng với cổ tức. Lãi suất thay đổi sẽ làm thay đổi tính hấp dẫn của đầu tư vào chứng khoán so với cách dầu tư gửi tiết kiệm. Đi liền với lãi suất là lạm phát. Lạm phát làm giảm giá trị, sức mua của tiền trong tương lai và do đó làm giảm giá trị (tại thời điểm hiện tại) của những khoản cổ tức sẽ được nhận . Lạm phát tăng, giá cổ phiếu giảm và ngược lại. Chỉ số lạm phát được quan sát nhiều nhất là chỉ số giá cả (CPI).Tại các nước có TTCK phát triển, sự thông báo theo định kỳ của CPI của cơ quan thống kê chính phủ thường gây nên những sự thay đổi mạnh trên thị trường.Thậm chí nhiều khi thông tin về sự tăng giá trong một lĩnh vực của nền kinh tế (như nông sản thực phẩm) cũng có thể gây nên sự sụt giá của cổ phiếu. 3) Cân bằng cung và cầu: giá của cổ phiếu, giống như tất cả các mặt hàng khác sẽ thay đổi hàng ngày tuỳ theo vị thế giữa cung và cầu.Nếu cung và cầu không cân bằng, giá cổ phiếu sẽ dịch chuyển khỏi giá trị phù hợp của nó để cân bằng giữa người mua và người bán. Giá của các công trái Nhà nước vừa qua (tăng từ 90% lên 97% rồi 97,5%, một phần nào phản ánh quy luật cung cầu). 4) Yếu tố đầu cơ: đây là yếu tố tinh xảo nhất của TTCK và thực tế là yếu tố chủ yếu đã gây ra các chấn động trên các TTCK của thế giới.Các nhà đầu cơ tìm cách tạo ra các suy luận sai trên thị trường về các yếu tố tác động dến giá như đã giới thiệu ở trên nhằm kiếm lợi cho bản thân. Các yếu tố đầu cơ thường dẫn đến biến động lớn về giá cả, và không hiếm trường hợp, dẫn đến sụp đổ của TTCK. Mặc dù tại một số nước (hầu hết các nước phát triển), các hoạt động đầu cơ được cho phép với lí do cho rằng, nó là một yếu tố cần thiết để tăng sức hoạt động và thanh khoản của TTCK, hiện tại, Nhà nước Việt Nam đã có những quy định nhằm hạn chế các hoạt động này. Đó là một biện pháp đúng đắn, có tác dụng giống như bà đỡ cho đứa trẻ mới ra đời. #) Nguyên tắc mua cổ phiếu của một công ty nào đó là "lợi nhuận thuộc về cổ đông". Ta thấy quyền lợi của cổ đông khi đầu tư mua cổ phiếu là họ được hưởng ít nhất 6 yếu tố sau đây: 1. Cổ tức Tuỳ theo mức lời lỗ của công ty trong năm tài chính, tuỳ theo nhu cầu, chính sách có cần tích luỹ vốn để đầu tư thêm, mở rộng kinh doanh hay không mà đại hội cổ đông sẽ quyết định mức chia cổ tức theo từng năm. Thực tế tại Việt Nam vừa qua có một số tiêu chí để chia cổ tức như sau: - Do nhu cầu cần vốn đầu tư thêm nên dù lợi nhuận nhiều hơn nhưng chỉ chia cổ tức bằng hoặc cao hơn lãi suất ngân hàng chút ít. - Quy định trước một tỷ lệ chia nhất định, ví dụ: 50% lợi nhuận sau thuế được dùng làm cổ tức. - Sau khi trích lập các quỹ bắt buộc theo luật định hoặc theo điều lệ (quỹ dự trữ, quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng...) còn lại được dùng làm cổ tức (trường hợp này thường ở các công ty có lợi nhuận thấp nhưng vẫn bị áp lực của cổ đông là phải có cổ tức hàng năm). - Không chia cổ tức vì làm ăn thua lỗ hoặc lợi nhuận quá thấp, hoặc muốn dành tất cả lợi nhuận có được để tái đầu tư thêm. 2. Quỹ phát triển sản xuất Thường chiếm từ 10% lợi nhuận sau thuế trở lên, không giới hạn mức tối đa. 3. Quỹ dự phòng, thường là 5% Khác với quỹ "khen thưởng và phúc lợi xã hội" thuộc quyền lợi của cán bộ công nhân viên làm việc trực tiếp tại công ty, 2 quỹ trên là thuộc về quyền lợi của cổ đông vì đó coi như lợi nhuận được để dành lại cho dự phòng và phát triển. 4. Chính sách miễn, giảm thuế để tăng tích luỹ vốn Theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước và theo các quy định khác, thường là giảm 50% thuế lợi tức 2 năm đầu sau khi cổ phần hoá, hoặc khi mới thành lập; hay là miễn 100% đối với 2 năm đầu cộng với giảm 50% cho 4 năm tiếp theo. Phần giảm, miễn thuế này dùng để tái đầu tư, củng cố, mở rộng kinh doanh, không được dùng để chia cổ tức. 5. Giá trị tài sản vô hình tăng thêm Ngoài tổng lợi nhuận sau thuế đây là giá trị vô hình tăng thêm theo thời gian do doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nhưng rất khó định lượng hoá hàng năm, có khi đây là một số âm (doanh nghiệp mất uy tín, thị trường thay đổi, sản phẩm lỗi thời. .. nhưng cũng có khi là một số dương rất lớn). 6. Giá trị tài sản tăng theo lạm phát Có nhiều tài sản như nhà xưởng, đất đai, phương tiện vận tải... khi có lạm phát thì giá trị của chúng tăng theo cũng như khi giảm phát thì giá trị giảm theo. Có thể coi đây là yếu tố hầu như chịu rủi ro lạm phát như tiền gửi ngân hàng (dù là VND hay ngoại tệ) hay tiền mua trái phiếu, kỳ phiếu như ở Việt Nam ta hiện nay. Việc phân tích 6 yếu tố trên giúp ta thấy được rằng nhà đầu tư chứng khoán phải nhìn thấy được những cái lợi ngoài cổ tức để đánh giá đúng mức hiệu quả đầu tư, chứ không nên chỉ căn cứ vào một yếu tố là cổ tức (rõ ràng, dễ thấy, dễ so sánh nhất, như phần nổi của một tảng băng trong nước vậy, có thể phần chìm là rất lớn) hay chỉ là lợi nhuận sau thuế (cũng tương đối dễ nhận thấy, dễ so sánh), hoặc là lợi nhuận thuộc về cổ đông trên sổ sách, tức là lợi nhuận sau thuế trừ đi quỹ khen thưởng và phúc lợi. - Trái phiếu : (phát hành để huy động vốn bổ sung) là phiếu ghi nợ mà người mua trái phiếu thành chủ nợ , người phát hành là con nợ ( công ty cổ phần là con nợ ). Đặc điểm trái phiếu là được tự do chuyển nhượng , mua bán , khả năng thanh toán cao , lãi suất trái phiếu ổn định. Khi công ty bị phá sản thì trái phiếu được thanh toán trước cổ phiếu. - Giá thị trường : là giá thực giao dịch trên thị trường. Nếu mệnh giá không đổi thì giá trên thị trường ổn định. Trên thị trường giá luôn biến động theo các yếu tố sau : + Lãi suất cổ phần (công ty nào có lãi suất cổ phần cao thì cổ phiếu của công ty đó được mua nhiều hơn và làm cho giá thị trường tăng lên, lãi suất chịu tác động thực trạng và tương lai của công ty ). + Lãi suất ngân hàng ảnh hưởng đến giá thị trường của cổ phiếu + Những biến động về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước và trên thị trường thế giới ảnh hưởng đến giá thị trường của cổ phiếu Bên cạnh đó các hiện tượng xã hội như bãi công, thay đổi nguyên thủ quốc gia, khủng bố …sẽ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường. b) Cơ cấu hoạt động của doanh nghiệp cổ phần . Gồm có: -Hội đồng quản trị : đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị có quyền bổ nhiệm một người trong Hội đồng quản trị hoặc người khác làm Giám đốc công ty. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc (Tổng giám đốc). -Với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải có ban kiểm soát. -Đại hội cổ đông gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần. Đại hội cổ đông có quyền quyết định các loại cổ phần, tổng số cổ phần chào bán, quyết định mức cổ tức hàng năm; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát; quyết định tổ chức lại và giải thể công ty; quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ của công ty và các quyết định quan trọng khác theo luật DN quy định. Đại hội cổ đông Ban kiểm soát Hội đồng quản trị Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc điều hành) Phó giám đốc (hoặc giám đốc) điêù hành Phó giám đốc (hoặc giám đốc) điêù hành Phó giám đốc (hoặc giám đốc) điêù hành Phòng (ban) chuyên môn Phòng (ban) chuyên môn Phòng (ban) chuyên môn Phòng (ban) chuyên môn Phòng (ban) chuyên môn Phòng (ban) chuyên môn c) Cổ phần hoá DN nhà nước : Cổ phần hoá DN nhà nước là việc chuyển DN nhà nước thành công ty cổ phần mà nhà nước không cần giữ 100% vốn. Nghị quyết TW lần thứ II Ban chấp hành TW khoá VII đã nêu: “Chuyển một số DN quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới”. Các nghị quyết hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII, Nghị quyết 10 Bộ chính trị, Nghị quyết đại hội lần thứ VIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định chủ trương cổ phần hoá một bộ phận DN nhà nước. Nghị quyết kỳ họp thứ IV nhấn mạnh: “Đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế quản lý DN nhà nước, thực hiện các hình thức cổ phần hoá thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất thu thêm nguồn vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy DN làm ăn có hiệu quả”. Thực hiện chủ trương của Đảng và Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư nhằm xác định cụ thể bước đi, phương thức tiến hành cổ phần hoá DN nhà nước. Đó là các quyết định số 143/ HĐBT ngày 10/ 05/ 1990, quyết định số 202/ CT ngày 08/ 06/ 1992, chỉ thị số 44 TTg ngày 04/ 03/ 1993, nghị định số 28/ CP ngày 07/ 05/ 1996 của Chính phủ, nghị định số 25/ CP ngày 26/ 03/1997, chỉ thị số 20/ CT - TTg ngày 20/ 04/ 1998 của Thủ tướng Chính phủ, nghị định 44/ 1998 NĐ - CP ngày 20/ 06/ 1998… 2. Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần : Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan .Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỉ thứ 16 ở các nước phát triển , đến nay đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm . Công ty cổ phần là kết quả của sự hình thành một kiểu tổ chức DN trong nền kinh tế thị trường , nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất kì lực lượng nào mà là một quá trình phát triển kinh tế khách quan , do những nguyên nhân sau: - Quá trình xã hội hoá tư bản , tăng cường tích luỹ và tập trung tư bản ngày càng cao là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy công ty cổ phần ra đời . - Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí của tiến bộ kĩ thuật tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển . Công ty cổ phần ra đời rất sớm (thế kỉ 16) nhưng phải đến cuối thế kỉ 19 mới được phát triển một cách rông rãi và trở thành phổ biến trong các nước tư bản . Công ty cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ , phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường . - Sự phát triển rông rãi của chế độ tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển. Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể nào thực hiện được nếu không có thị trường tiền tệ phát triển ,không có những DN và dân cư có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường . Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thông qua các ngân hàng, đôi khi còn do bản thân ngân hàng tiến hành . Chẳng hạn ở Đức năm 1896 , trong ngành điện lực có 39 công ty cổ phần . Hầu hết các công ty cổ phần này đều nảy sinh từ sự giúp đỡ của các ngân hàng . Như vậy về lịch sử cũng như về logic ,tín dụng là một cơ sở trực tiếp và là động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển . Tuy nhiên công ty cổ phần không đồng nhất với hình thức tín dụng. Khi mua cổ phiếu người mua không phải là người cho vay của công ty cổ phần , mà là người chủ chung của công ty đó . Việc bỏ vốn tiền ra mua cổ phiếu chẳng qua là việc chuyển hoá vốn đó thành vốn sinh lợi tức . Đứng về mặt kinh tế thuần tuý không thể coi người chủ cổ phần với người chủ cho vay là một, người chủ cho vay đòi hỏi phải có người vay. Sự xuất hiện của công ty cổ phần thủ tiêu người cho vay và thay vào đó là người quản lí và người giám đốc làm thuê. Lợi tức của vốn cho vay cũng không phải là lợi nhuận DN mà đối lập với lợi nhuận DN với tư cách là thu nhập do quyền sở hữu mang lại. Lợi tức cổ phiếu mà người chủ cổ phiếu nhận được là toàn bộ lợi nhuận chuyển hoá thành hình thái cổ tức . Như vậy công ty cổ phần là loại hình DN mới , một loại hình trên cơ sở tín dụng. Trong lịch sử, công ty cổ phần là một kiểu tổ chức DN có nhiều ưu thế ,vì thế các nhà nước tư bản độc quyền đã coi trọng loại hình này . Nhiều nhà nước tư bản độc quyền đã sử dụng các tổ chức tài chính đa dạng để tạo khả năng huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu ,trái phiếu, đồng thời sử dụng quyền lực trong việc tạo ra môi trường kinh tế . Yếu tố tâm lí cũng như cơ sở pháp luật thuận lợi đã thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá, tạo điều kiện ra đời các công ty cổ phần . Với các động thái này, các công ty cổ phần đã phát triển mạnh và thịnh hành trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và trở thành phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ. Ví dụ ở Mĩ vào năm 1939 số lượng các công ty cổ phần chiếm 51,7% tổng số các tổ chức kinh doanh công nghiệp và 92,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp . Tóm lại công ty cổ phần là quá trình phát triển kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường , nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư bản, diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản . 3.Ưu thế và hạn chế của công ty cổ phần a. Những ưu thế : Những ưu thế cơ bản của công ty cổ phần là Khả năng huy động vốn cao ,nhanh chóng, đáp ứng cho nhu cầu kinh doanh nhờ phát hành cổ phiếu và trái phiếu . Kinh tế càng phát triển, càng thay đổi thì sự rủi ro càng cao và hình thức công ty cổ phần là hình thức giúp nhà kinh doanh hạn chế được rủi ro , tức là tránh được rủi ro bằng cách cùng lúc đầu tư vào nhiều công ty khác nhau.Đồng thời trong mỗi công ty,rủi ro- nếu có- lại được chia ra cho nhiều thành viên. Công ty CP được tổ chức quản lý chặt chẽ .Công ty cổ phần luôn luôn đòi hỏi những thành viên tham gia phải có tính làm chủ và ý thức trách nhiệm cao,gắn người lao động với kết quả cuối cùng.Điều đó làm thúc đẩy hiệu quả hoạt động của công ty. Góp phần làm phát triển bền vững nền kinh tế. Tổ chức công ty cổ phần có tinh thần dân chủ cao nên phát huy được trí tuệ của nhiều người , tận dụng được năng lực của hội đồng quản trị và cả các cổ đông. Khi nền kinh tế càng phát triển thì lợi thế này càng trở nên quan trọng. Các cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn đối với số vốn đóng góp vào cônh ty. Thời gian hoạt động là vô hạn ,không bị chi phối bởi việc các cổ đông bị tù tội hay qua đời . Dễ dàng mở rộng tầm hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách gọi thêm vốn mới dưới dạng cổ phiếu,tráI phiếu . Có quyền mua bán , chuyển nhượng lại cổ phần . Được hưởng tư cách pháp nhân. Ngoài ra còn được xem là một biện pháp để xoa dịu mâu thuẫn giai cấp. b. Những hạn chế : Mức thuế cao, ngoài thuế thu nhập công ty còn phải chịu thuế thu nhập cá nhân . Chi phí tổ chức công ty khá tốn kém. Pháp chế nhà nước quy định chặt chẽ về hoạt động của công ty và công ty có trách nhiệm báo cáo cho nhà nước kết quả hoạt động của mình . Không giữ được bí mật kinh doanh và bí mật tài chính . Luật pháp quy định số thành viên tối thiểu . ít được tín nhiệm trong việc cấp tín dụng vì công ty chịu trách nhiệm hữu hạn . Công ty khó thay đổi phạm vi kinh doanh vì phảI căn cứ vào điều lệ . Các chủ cổ phần không quen biết nhau và nhiều người trong họ không hiểu kinh doanh , mức độ tham gia góp vốn vào công ty có sự khác nhau, do đó mức độ ảnh hưởng của các cổ đông đối với công ty không giống nhau , điều đó có thể dẫn đến việc lợi dụng và lạm dụng hoặc nảy sinh tranh chấp và phân hoá lợi ích giữa các nhóm cổ đông khác nhau. Công ty cổ phần tuy có sự tổ chức chặt chẽ nhưng việc phân công về quyền lực và chức năng của từng bộ phận sao cho hoạt động của công ty hiệu quả lại rất phức tạp . Tuy vậy công ty cổ phần là hình thức mang tính chất xã hội hoá cao , không những được thể hiện ở phương diện sở hữu mà còn thể hiện ở việc tập trung sử dụng vốn. II. Thực trạng Doanh Nghiệp nhà nước ở Việt Nam và sự cần thiết cổ phần hoá . 1. Quá trình phát triển của DN nhà nước ở Việt Nam. Các DN nhà nước ở Việt Nam được hình thành từ năm 1954 ( ở miền Bắc) và từ năm 1975 ( ở miền Nam ). Do hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau và được xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm nên các DN nhà nước ở Việt Nam có nhiều đặc trưng khác biệt so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Điều đó được biểu hiện ở chỗ : - ở nước ta, khu vực kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn và giữ vai trò cốt yếu trong nền kinh tế, kinh tế quốc doanh có mặt ở hầu hết các ngành và lĩnh vực - Quy mô DN phần lớn là nhỏ bé , cơ cấu phân tán. Năm 1992 cả nước có trên 2/3 tổng số DN nhà nước có số lượng lao động dưới 100 người, chỉ có 4% DN có số lượng lao động trên 100 người. Số lượng lao động trong khu vực DN nhà nước chiếm tỉ trọng khá nhỏ trong tổng số lao động xã hội, khoảng 5 – 6 %. - Trình độ kĩ thuật và công nghệ lạc hậu , trừ một số rất ít (18%) số DN nhà nước được đầu tư mới đây. Phần lớn các DN nhà nước đã được sử dụng máy móc thiết bị khá lâu, có trình độ kĩ thuật , công nghệ thấp kém so với các nước khác nhiều thập kỷ. Có DN còn trang bị các thiết bị kĩ thuật từ những năm 40-50, được xây dựng bằng kĩ thuật của nhiều nước khác nhau nên tính đồng bộ của các DN thấp. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường , các DN đó khó có khả năng cạnh tranh cả trong nước và trên thế giới . -Việc phân bố không hợp lí về ngành, vùng. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các DN nhà nước không còn được bao cấp mọi mặt như trước nữa, bên cạnh đó lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh trạnh quyết liệt . Do đó nhiều DN rất khó đứng vững buộc phải phá sản , giải thể. Trong những năm gần đây chúng ta đã tiến hành cải cách DN nhà nước . Số lượng các DN đã giảm từ 12.084 tính đến ngày 1/4/1994 xuống còn 6.264 DN nhà nước. Nhưng nhờ sự đổi mới về tổ chức quản lí , về kĩ thuật và công nghệ của các DN còn lại , tổng sản phẩm giá trị tuyệt đối của kinh tế nhà nước , cũng như tỷ trọng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) không những không giảm mà còn tăng lên . Bảng sau đây cho chúng ta thấy rõ điều đó : Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm (%) 1971 – 1980 0,4 1971 – 1985 6,4 1986 – 1990 3 1991 – 1997 7,8 – 8,5 Tỷ trọng kinh tế quốc doanh GDP(%) 1990 34,1 1991 36,0 1992 39,6 1993 42,9 1997 43,6 (Theo số liệu của Tổng cục thống kê ) Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã tăng nhanh, các DN nhà nước vẫn đóng vai trò cốt yếu trong nhiều ngành kinh tế, nhất là những ngành quan trọng đòi hỏi đầu tư lớn, kĩ thuật cao và các ngành sản xuất cung ứng các hàng hoá và các dịch vụ công cộng. Đồng thời DN nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp chủ yếu cho ngân sách nhà nước. Nhưng có thể nhận thấy rằng hầu hết các DN nhà nước của ta khi chuyển sang cơ chế mới thiếu kiểm soát chặt chẽ việc thành lập và hoạt động nên phát triển tràn lan không có hiệu quả. 2. Tình hình hoạt động của DN nhà nước trong thời gian gần đây. Hiện nay, nước ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, các thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển, các DN đều bình đẳng với nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh và bình đẳng trước pháp luật. Sự bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế không có nghĩa là chúng có vị trí như nhau trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phạm vi hoạt động, lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc doanh sẽ thu hẹp lại nhưng nó vần giữ vai trò chủ đạo, phát triển ở những lĩnh vực then chốt. Đó là phương tiện vật chất để nhà nước điều phối nền kinh tế. Phải có những DN nhà nước ở lĩnh vực quan trọng để nhà nước đủ sức thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, can thiệp vào thị trường, khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Sau mười năm đổi mới , các DN nhà nước đã và đang chuyển biến khá căn bản , đã sắp xếp lại một bước quan trọng , giảm được gần một nửa số DN chủ yếu và DN địa phương nhỏ bé , hoạt động không hiệu quả . Số lớn DN còn lại được tổ chức và từng bước phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh làm ăn năng động và hiệu quả. Tuy nhiên, trên thực tế một bộ phận không nhỏ DN nhà nước đã lộ rõ sự hạn chế . Một bộ phận quan trọng DN nhà nước không đủ điều kiện tối thiểu để hoạt động, thiếu vốn tối thiểu , trang thiết bị quá đơn sơ, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng. Mặt khác trong điều kiện kinh tế tư nhân còn quá non yếu về mọi mặt chỉ mới hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ , tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp nên DN nhà nước chưa thể tập trung toàn lực cho yêu cầu phát triển ở những ngành , lĩnh vực then chốt. Những đặc điểm trên luôn chi phối phương hướng , bước đi , và biện phá._.p trong quá trình đổi mới ở nước ta .. Nhưng nói chung các DN nhà nước vẫn rất còn khó khăn, hướng kinh doanh còn thấp , rất nhiều DN vẫn làm ăn thua lỗ triền miên , hoạt động cầm chừng . Sự đóng góp của DN nhà nước cho ngân sách nhà nước chưa tương xứng với phần đầu tư của nhà nước cho nó, cũng như với tiềm lực của DN nhà nước. Tình trạng mất , thất thoát lớn về vốn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng , việc quản lí đối với DN còn rrất yếu kém , ở nhiều nơi tình trạng buông lỏng quản lí tài chính làm nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu. Tình trạng phân hoá , chênh lệch trong thu nhập ngày càng tăng. Có nhiều DN thu nhập bình quân của công nhân rất cao trong khi có DN lương công nhân không đảm bảo nhu cầu tối thiểu . Trong thời gian gần đây, Ngân hàng thế giới (WB) cung cấp một vài nguồn tin về sự suy giảm trong hoạt động của các DN nhà nước ở Việt Nam: Thu của chính phủ (1000 tỷ VND) 1990 1995 1996 1997 Tổng thu 14,7 23,9 23,6 22,2 Thu từ DN ngoài quốc doanh 4,0 10,5 10,7 11,4 Thu từ khu vực DN nhà nước 8,6 9,8 9,7 8,4 Bảng trên chỉ ra rằng, hoạt động kinh tế đang yếu kém trong khu vực nhà nước, so với tổng thu nộp ngân sách năm 1995 và 1996 thì năm 1997 tổng thu nộp của DN nhà nước vào ngân sách nhà nước có chiều hướng giảm mạnh. Thực tế có nhiều DN nhà nước làm ăn thua lỗ và trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước và hệ thống ngân hàng. Cụ thể theo báo cáo về công tác quản lý tài chính DN của Bộ tài chính ngày 05/01/1998 thì tình hình làm ăn thua lỗ của DN nhà nước được quyết toán như sau: “Số DN lỗ có giảm dần từ 21% năm 1991 còn 16% năm 1995 nhưng đến năm 1996 tăng lên 22%. Tuy nhiên, nếu tính đầy đủ các yếu tố chi phí theo quy định hiện hành thì số DN thua lỗ còn cao hơn nhiều, khoảng trên dưới 50%. Tình trạng lãi giả lỗ thật còn phổ biến, thậm chí nhiều DN lâm vào tình trạng phá sản cũng không được phát hiện kịp thời như trường hợp dệt Nam Định, đông lạnh Hùng Vương, sơn mài Lam Sơn và một số công ty thương mại của Hải Phòng. . .” Theo cuốn “Đổi mới kinh tế Việt Nam” của Nhà xuất bản Tài chính 1997 đã tổng kết về thực trạng của DN nhà nước như sau: “DN nhà nước vẫn còn nhiều về số lượng và nhỏ về quy mô, còn có sự dàn trải không cần thiết, vượt quá khả năng nguồn lực của nhà nước hiện có. Tình trạng thiếu vốn của các DN nhà nước là phổ biến và nghiêm trọng. Phần lớn DN nhà nước vẫn chỉ được bảo đảm khoảng 10% và thấp hơn so với yêu cầu tối thiểu 30% vốn lưu động. Nhiều DN do không vay được vốn trung và dài hạn để đầu tư chiều sâu và mở rộng kinh doanh, đã phải vay vốn ngắn hạn, chịu lãi suất cao để đầu tư nên hoạt động kém hiệu quả, khó hoàn vốn và khó trả nợ đến hạn. Về trình độ công nghệ, theo báo cáo của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, qua khảo sát nhièu DN thuộc các ngành thì máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất của các DN nhà nước lạc hậu so với thế giới từ 10 năm đến 20 năm. Thậm chí có một số DN thiết bị quá cũ, trang bị cách đây 30 - 40 năm, nhưng đến nay vẫn không được đổi mới. Nhiều DN nhà nước hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, trên cùng một địa bàn, tạo ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh trong chính khu vực DN nhà nước với nhau”. Với những thực trạng nói trên, việc đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một nhu cầu cấp bách để thu hút vốn đầu tư, tránh tình trạng thiếu vốn kinh doanh và thiếu vốn để đổi mới trang thiết bị công nghệ. 3. Nguyên nhân của thực trạng DN nhà nước hiện nay : Sự ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trong điều kiện cạnh tranh kéo dài dẫn đến tư duy không đúng trong một mô hình xã hội trước đây . Tư duy đó đã chi phối đường lối xây dựng nền Kinh tế xã hội chủ nghĩa với cơ cấu chỉ có hai thành phần ( quốc doanh và tập thể ). Tư tưởng đó muốn xoá bỏ nền kinh tế tư nhân và nền kinh tế cá thể , đồng nhất với mục tiêu, phương hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội . Trước đây người ta thường xem nhẹ các quy luật kinh tế khách quan của thị trường , coi thị trường mang tính chất của chủ nghĩa tư bản . Từ đó dẫn đến hậu quả là việc hạch toán kinh tế ở các DN mang tính hình thức . Các DN thực chất chỉ là người sản xuất , gia công cho nhà nước chứ không phải một cơ sở kinh doanh . Như vậy rõ ràng DN nhà nước trong điều kiện đó rất xa lạ với mô hình DN theo cơ chế trên thị trường có sự quản lí của nhà nước . Điểm yếu kém của nền kinh tế là lực lượng sản xuất ,các nguồn lực để phát triển sản xuất và kinh tế của ta tuy phong phú song chủ yếu mới ở dạng tiềm năng . Để biến chúng thành hiện thực và có hiệu quả , cần phải có lượng vốn lớn , kĩ thuật công nghệ đồng bộ, hiện đại , đội ngũ công nhân , cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lí có năng lực, đồng thời phải có sự tổ chức và quản lý thích hợp của DN cũng như của nhà nước. Hiện nay tại Việt Nam 67% giám đốc DNNN không đọc được báo cáo tài chính. Đây là con số được Thứ trưởng Bộ tài chính Trần Văn Tá nêu ra tại một hội nghị về DNNN tổ chức ở Hà Nội vừa qua.Theo ông Tá, điều này rất đáng lo ngại vì đáng lẽ giám đốc DN, người đứng đầu DN cần phải nắm vững thông tin của DN để kịp thời ra các quyết định trong điều hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên Bộ tài chính cũng thừa nhận thực trạng này phần lớn do công tác chỉ đạo tổ chức, hướng dẫn thực hiện công tác kế toán kiểm toán tại DN của bộ còn rất yếu kém. Đặc biệt là sau khi CP ban hành NĐ số 59/CP về quản lý tài chính, hạch toán kinh doanh của DNNN, việc thực thi chế độ kế toán được coi như là công việc của DN, do đó chức năng hướng dẫn của cơ quan quản lý Nhà nước bị buông lỏng. Sự yếu kém của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay biểu hiện rõ nhất là sự lạc hậu của kết cấu hạ tầng trên toàn bộ nền kinh tế . Trình độ kết cấu hạ tầng và dịch vụ của nước ta chỉ ở dưới mức trung bình so với các nước đang phát triển . Ví dụ hệ thống giao thông liên lạc – cầu nối gắn liền nền kinh tế nước ta với thị trường thế giới đến nay vẫn rất thấp kém và lạc hậu. Cả nước mới có 3.2595 km đường sắt nhưng chủ yếu đường khổ rộng 1 mét , quốc lộ có 11 vạn km thì 7% đường tốt , 47% km đường xấu và rất xấu , cảng biển và sân bay thiếu cả về số lượng và chất lượng. Những cơ sở hiện nay vẫn chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế . Nền kinh tế nước chưa có tích luỹ nội bộ, chưa có khả năng chi trả số nợ đến hạn và quá hạn . Khả năng vay vốn nước ngoài cũng bị hạn chế .Bởi hiện tại còn có những khoản nợ lớn không có khả năng chi trả trong thời gian nhất định . Bên cạnh đó hiệu quả kinh doanh của nhiều DN quá thấp , lãi suất tiền vay còn cao .Trong khi khả năng cạnh tranh của sản phẩm và kinh nghiệm kinh doanh của DN Việt Nam trên thị trường thế giới còn yếu. Trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung , đối với DN nói riêng có nhiều thiếu sót . Hệ thống pháp luật , chính sách quản lý chưa hoàn chỉnh , rất nhiều các văn bản pháp quy, dưới luật có nhiều quy định mâu thuẫn với nhau. Hệ thống toà án kinh tế chưa tổ chức kịp thời nhằm đảm bảo nghiêm chỉnh pháp luật kinh tế. Trong hoạt động quản lý nhà nước, tệ cửa quyền quan liêu, thủ tục hành chính quá phiền hà đối với DN và công dân còn khá phổ biến. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, nhiều văn bản quản lý cũ đã lỗi thời, song chưa được huỷ bỏ .Những văn bản mới có nhiều sơ hở, nhưng không kịp thời sửa đổi nên đã bị lợi dụng phục vụ lợi ích cục bộ trước mắt của nhiều cơ sở, gây nhiều tiêu cực, vô hiệu hoá những quy định mới đúng đắn của nhà nước. Một số công tác đặc biệt quan trọng về quản lí đối với DN như quản lí tài chính , kế toán , kiểm toán , thanh tra , giám sát thi hành pháp luật chưa chuyển biến kịp thời trong môi trường kinh doanh mới, có lúc buông lỏng.Nhà nước không nắm được thực trạng tài chính , hiệu quả kinh doanh của DN . Ngược lại có lúc ,có nơi lại quá nhiều thanh tra kiểm soát hoạt động của DN một cách tuỳ tiện . Trong suốt quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ,chúng ta đã chậm trễ và không cương quyết trong việc cải cách chế độ sở hữu trong các DN nhà nước . Về mặt pháp lí , tài sản trong các DN nhà nước thuộc sở hữu toàn dân , nhưng trên thực tế tính chất toàn dân của sở hữu bị bào mòn một cách nghiêm trọng . Do các hình thức cụ thể của sở hữu toàn dân về mặt kinh tế không được xác định nên hầu hết những người lao động và lãnh đạo trong các DN nhà nước xa rời với sở hữu toàn dân. Đó là nguyên nhân của sự tham nhũng, thiếu trách nhiệm của một bộ phận lớn các lãnh đạo DN . Đồng thời người lao động bị kéo vào vòng luẩn quẩn, làm việc với tinh thần trách nhiệm không cao ,thu nhập thấp, đời sống khó khăn ,không có động lực để phấn đấu,nếu có phấn đấu thì hiệu quả thu được cũng chẳng là bao do môi trường hoạt động không cho phép. DN sa vào sự giảm sút về năng suất, chất lượng, hiệu quả, thiếu minh bạch trong phân phối thu nhập và trong xuất trình thu chi tài chính. Đã có thời gian dài , nước ta có chủ trương không đúng đắn là trao cho người lao động và Đại hội công nhân viên chức những thẩm quyền của người chủ sở hữu . Tóm lại , các DN nhà nước ở nước ta do yếu tố lịch sử để lại đã và đang đóng góp vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân .Nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và phát sinh nhiều tiêu cực. Quá trình chuyển đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản DN nhà nước .Đây là mâu thuẫn lớn , song bắt buộc phải kiên quyết đổi mới , phải có giải pháp và bước đi phù hợp với thực tế . 4. Tính tất yếu của việc cổ phần hoá DN nhà nước , mục tiêu cổ phần hoá . Hiện nay với gần 6000 DN nhà nước nắm giữ 88% tổng số vốn của các DN trong nền kinh tế , nhưng hiệu quả kinh doanh quá thấp .Chỉ có khoảng 50% DN kinh doanh có lãi , trong đó thực sự làm ăn có lãi và ổn định lâu dài chiếm khoảng 30% .Thực tế DN nhà nước nộp ngân sách chiếm 80 – 85% tổng số thu, nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì DN nhà nước chỉ đóng trên 30% ngân sách nhà nước . Đặc biệu nếu tính chi phí và tài sản cố định , đất đai giá theo thị trường thì các DN nhà nước hoàn toàn không tạo ra được tích luỹ . Một trong những nhuyên nhân dẫn đến tình trạng này là tài sản cố định , đặc biệt là máy móc thiết bị đã cũ , lạc hậu về kĩ thuật (so với thế giới lạc hậu từ 30 đến 40 năm, có ngành từ 50 đến 60 năm và nhiều hơn nữa) . Hiện nay có đến 54,3% DN nhà nước Trung ương và 74% DN nhà nước địa phương sản suất ở trình độ thủ công, quy mô DN nhỏ vốn ít . Vốn hoạt động thực tế chỉ bằng 80% vốn ghi trên sổ sách , riêng vốn huy động chỉ còn 50% được huy động vào sản xuất kinh doanh .Còn lại là công nợ khó đòi , tài sản vật tư mất giá, kém phẩm chất và những thâm hụt chưa được xử lí . Với thực trạng trên phần lớn các DN không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và đổi mới công nghệ ,sản phẩm .Ngân sách nhà nước không có khả năng cấp vốn và bao cấp DN như trước đây .Ngân hàng cho vay cũng phải có những điều kiện đảm vảo như tài sản thế chấp , khả năng kinh doanh để có thể thu hồi vốn . Các DN ở trong tình trạng luẩn quẩn , vốn không có nhiều nhưng cũng không có cách nào để huy động . Để khắc phục tình trạng khó khăn trên, cổ phần hoá các DN nhà nước được coi là giải pháp thiết yếu nhất nhằm tạo ra môi trường hoạt động dài hạn cho DN để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ ,sản phẩm, cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế . Đây là yêu cần mang tính khách quan của nền kinh tế chuyển đổi và chuẩn bị bước vào hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Nếu thực sự tạo điều kiện tốt cho bước hội nhập kinh tế khu vực thì dứt khoát không thể để tình trạng DNNN như hiện này mà phải cải cách triệt để mới góp phần nâng cao sức cạnh tranh của DN, mà con đường tốt nhất là cổ phần hóa (đối với những DN nhỏ và vừa), đa dạng hoá sở hữu DN theo Nghị định 103/1999/NĐ-CP ngày 10-9-1999 của Chính phủ (đối với những DN quá nhỏ và nhỏ). Từ đó Nhà nước có điều kiện và khả năng tập trung xây dựng và bồi bổ cho những DNNN thuộc phạm vi.Nhà nước giữ vốn 100% để thực sự nắm vai trò chủ đạo trong kinh tế Nhà nước. - Mục tiêu cổ phần hoá. Nghị định 44/19998/NĐ - CP ngày 29/6/1998 của chính phủ về việc chuyển một số DN nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ chuyển DN thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu : 1. Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế , tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ , tạo thêm việc làm phát triển DN , nâng cao sức cạnh tranh và thay đổi cơ cấu DN nhà nước. 2.Tạo điều kiện để người lao động trong DN có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự. Thay đổi phương thức quản lí tạo động lực thúc đẩy DN kinh doanh có hiệu quả , tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu nhập người lao động góp phần tăng cường nền kinh tế đất nước . Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu của cổ phần hoá đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán . Song phải chăng coi huy động vốn để phát triển DN là mục tiêu hàng đầu nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy DN kinh doanh có hiệu quả . Như vậy chủ trương cổ phần hoá DN nhà nước lần đầu tiên được nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành TƯ khóa VII (tháng 11/1991) được cụ thể hoá trong Nghị quyết của Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khoá VII (tháng 1/1991), Nghị quyết 10/TW của bộ chính trị ngày 17/3/1995, Thông báo cố 63/TB – TW ngày 4/4/1997 Thông báo ý kiến của Bộ chính trị . Đặc biệt là khi có Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII thì chủ trương cổ phần hoá DN nhà nước được khẳng định rõ hơn . Chính phủ đã triển khai thực hiện từng bước các Nghị quyết nói trên và chú ý điều chỉnh các chính sách trên cho phù hợp với tình hình thực tế. Chúng ta khẳng định rằng : việc cổ phần hoá các DN nhà nước là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị kinh doanh hiệu quả hơn phù hợp với quá trình đổi mới. Từ đó thay đổi cơ cấu, sắp xếp lại nền kinh tế ,thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Phần II Quá trình cổ phần hoá DN nhà nước ở Việt Nam Phân loại các DN để sắp xếp lại, lựa chọn hình thức cổ phần hoá . a) Phân loại các DN để sắp xếp lại : Theo đánh giá tổng hợp của Ban đổi mới quản lý DN (DN) trung ương, việc triển khai thực hiện Chỉ thị 20/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/4/1998 về phân loại và sắp xếp DN nhà nước (DNNN) trên thực chưa đạt được những kết quả như mong muốn. Tỷ lệ số DN giữ lại 100% vốn Nhà nước cao hơn nhiều so với mục tiêu (68%/49,68%), trong khi tỷ lệ số DN chuyển đổi sở hữu lại thấp (21,7%/42,1%) và tỷ lệ số DN giải thể, phá sản cũng rất thấp (4,3%/8, 22%). Ban đổi mới quản lý DN đã phân loại DNNN theo 4 nhóm chính sau : 1- Nhóm DN cần duy trì 100% vốn Nhà nước, gồm các DN công ích (sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh; DN nằm trên địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng; quản lý thuỷ nông; cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, ánh sáng đường phố; trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn; sản xuất giống đầu giống; sân bay, điều hành bay; quản lý, khai thác, duy trì, bảo dưỡng hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia; bảo đảm hàng hải, dẫn dắt tàu ra, vào cảng biển; kiểm định kỹ thuật phương tiện, giao thông cơ giới; kiểm soát và phân phối tần số vô tuyến điện; xuất bản và phát hành sách giao khoa, sách báo chính trị, phim thời sự - tài liệu, phim thiếu nhi; chiếu bóng phục vụ vùng cao, biên giới, hải đảo; sản xuất sản phẩm và cung ứng các dịch vụ khác theo chính sách xã hội của Nhà nước); DN hoạt động bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc ở miền núi và vùng sâu, vùng xa; DN kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền Nhà nước (vật liệu nổ, hoá chất độc, chất phóng xạ, hệ thống chuyển tải điện, mạng lưới bưu chính viễn thông, sân bay quốc gia, in bạc và chứng chỉ có giá); DN kinh doanh có vai trò dẫn dắt, mở đường về ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao, quy mô lớn, địa bàn trọng yếu, ngành kinh tế - kỹ thuật then chốt và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô (kinh doanh tiền tệ, kinh doanh lương thực, sản xuất điện, khai thác khoáng sản quý hiếm, cơ khí động lực, luyện kim, hoá chất cơ bản, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xi măng, dệt, giấy viết và giấy in báo, sản xuất dược và thuốc chữa bệnh). 2- Nhóm DN Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt khi tiến hành CPH: DN hoạt động công ích trên 10 tỷ đồng; khai thác quặng quý hiếm; khai thác khoáng sản quy mô lớn; dịch vụ kỹ thuật dầu khí; sản xuất phân bón; thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh và hoá dược; sản xuất kim loại màu và kim loại quý hiếm quy mô lớn; sản xuất điện quy mô lớn; truyền tải và phân phối điện; sửa chữa phương tiện bay; dịch vụ khai thác bưu chính - viễn thông; dịch vụ vận tải đường sắt, hàng không, viễn thông; in ấn, xuất bản; sản xuất bia, rượu, thuốc lá quy mô lớn; ngân hàng đầu tư, ngân hàng nhà; kinh doanh xăng dầu quy mô lớn. 3- Nhóm DN có vốn dưới 1 tỷ đồng và DN có vốn dưới 5 tỷ đồng làm ăn thua lỗ kéo dài trên 2 năm liêu tục mà Nhà nước không cần nắm giữ. Các DN thuộc nhóm này nếu không CPH thì tiến hành một trong các hình thức giao, khoán, bán, cho thuê. 4- Nhóm DN yếu kém, hoặc không cần thiết tồn tại độc lập, nếu không thực hiện các hình thức chuyển đổi sở hữu, thì sẽ sát nhập vào DN khác hoặc giải thể, phá sản. b) Lựa chọn hình thức cổ phần hoá . Những vấn đề tài chính trong qúa trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần (CTCP) rất quan trọng, nhiều DN (DN) còn khá lúng túng và chưa hiểu kỹ nên thực hiện cổ phần hóa (CPH) chậm trễ. Dưới đây là những lưu ý về tài chính đối với DN CPH của Ban chỉ đạo Trung ương về đổi mới DN và cổ phần hoá . Tuỳ theo tình hình cụ thể của từng DN, các DN có thể lựa chọn một trong bốn hình thức CPH sau: - Một là giữ nguyên gía trị phần vốn Nhà nước hiện có tại DN, phát hành cổ phiếu cho các pháp nhân và công chúng để tăng vốn đầu tư phát trển DN. Phần vốn góp của Nhà nước vào công ty bằng gía trị thực tế phần vốn Nhà nước tại DN sau khi đã đánh gía lại trừ (-) chi phí CPH, gía trị cổ phần ưu đãi cho người lao động và gía trị phần trả dần của người lao động nghèo theo quy định của Nhà nước. - Hình thức CPH thứ hai các DN có thể lựa chọn là bán một phần gía trị vốn Nhà nước hiện có tại DN cho các cổ đông. - Thứ ba là tách một bộ phận của DN (phân xưởng sản xuất, cửa hàng, bộ phận dịch vụ...) có thể hoạt động độc lập và hạch toán riêng giá trị tài sản để CPH . - Hình thức thứ tư là bán toàn bộ gía trị vốn Nhà nước hiện có tại DN để CPH và như vậy Nhà nước không nắm giữ cổ phần ở công ty CP. Xử lý tài sản và nợ trước khi CPH Các tài sản không tính vào giá trị DN để CPH gồm: 1. Tài sản mà DN không thể tiếp tục sử dụng. Nếu khi chuyển DNNN thành CTCP mà các tài sản này không bán đấu gía hoặc thanh lý được thì cơ quan quyết định CPH ủy quyền cho công ty CPH quản lý hộ. 2. Nợ phải thu khó đòi. 3. Chi phí xây dựng dở dang của những công trình đã đình hoãn trước thời điểm xác định giá trị DN. 4. Các khoản đầu tư dài hạn khác vào DN, kể cả góp vốn liên doanh với nước ngoài. 5. Tài sản thuê tài chính (phần nợ chưa trả cho chủ tài sản). 6. Tài sản thuê ngoài. Nếu DN CPH đi thuê có đầu tư, cải tạo nâng cấp thêm trên tài sản đi thuê thì gía trị còn lại của phần đã đầu tư cải tạo nâng cấp xử lý như sau: nếu DN cho thuê nhận lại tài sản thì DN này thanh toán lại cho DN thuê gía trị đã đầu tư nâng cấp. Nếu bên cho thuê là DNNN đồng ý nhận lại tài sản kèm theo gía trị đã đầu tư cải tạo nâng cấp thì 2 bên có thể bàn giao gía trị đã đầu tư nâng cấp và hạch toán theo nguyên tắc tăng giảm vốn. Nếu CTCP tiếp tục thuê tài sản thì chi phí đã đầu tư, cải tạo nâng cấp được tính vào giá trị DN. Đối với tài sản DN đang quản lý sử dụng nhưng chưa xác định được chủ sở hữu thì được coi là tài sản thuộc vốn Nhà nước. Các khoản dự phòng giảm gía hàng tồn kho, dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm gía chuyển khoản, chênh lệch tỷ gía, các khoản lãi chưa phân phối cũng phải xử lý trước khi xác định gía trị thực tế của DN. Số dư bằng tiền của qũy khen thưởng, phúc lợi chia cho người lao động để mua cổ phần , người lao động không phải nộp thuế thu nhập. Xác định giá trị thực tế của DN để CPH Theo Thông tư số 104/1998/TT-BTC của Bộ tài chính, nguyên tắc xác định gía trị DN là người mua và người bán đều chấp nhận được. Giá trị DN được phân làm 2 loại: - Giá trị thực tế của DN là tổng giá trị thực tế của tài sản (hữu hình và vô hình) thuộc quyền sở hữu của DN tính theo giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị DN. - Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại DN là phần còn lại sau khi lấy tổng giá trị thực tế của DN trừ (-) đi các khoản nợ thực tế phải trả và số dư quỹ phúc lợi khen thưởng (nếu có). Giá thị trường dùng để xác định giá trị thực tế tài sản của DN được quy định như sau: Đối với tài sản mà trên thị trường có lưu thông thì giá thị trường là giá đang mua bán của tài sản đó. Đối với tài sản chuyên dùng hoặc tài sản là sản phẩm đầu tư xây dựng thì căn cứ vào suất đầu tư (hay giá đầu tư) ở thời điểm xác định giá trị DN do cấp có thẩm quyền quy định. Nếu là tài sản đặc thù không lưu thông trên thị trường thì tính theo gía tài sản cùng loại có công suất, tính năng kỹ thuật tương đương, nếu không có tài sản tương đương thì tính theo gía đã ghi trên sổ sách kế toán của tài sản đó. Đối với tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật đã được kiểm kê, xác định theo công thức sau: Giá trị thực tế tài sản bằng (=) số lượng thực tế của từng tài sản nhân (x) gía thị trường của tài sản tại thời điểm xác định giá trị DN nhân (x) chất lượng còn lại của tài sản (%). Đối với tài sản là vốn bằng tiền thì tính theo số dư vốn bằng tiền đã kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu tại thời điểm xác định giá trị DN. Giá trị thực tế của DN để CPH là tổng số các khoản sau: tài sản cố định, tài sản lưu động cộng (+) tài sản là vốn bằng tiền (+) nợ phải thu (+) tài sản ký cược, ký qũy ngắn hạn và dài hạn(+) tài sản đầu tư ngắn hạn và dài hạn mà công ty cổ phần sẽ tiếp tục kế thừa (+) tài sản vô hình (nếu có) (+) giá trị lợi thế kinh doanh (giá trị thương quyền). Những DN không thực hiện đúng quy định của Pháp lệnh về kế toán thống kê thì cơ quan quyết định giá trị DN xem xét thuê tổ chức kiểm toán độc lập xác định giá trị DN. Tiền thuê kiểm toán được tính vào chi phí CPH. Giá trị lợi thế tính như thế nào? Trường hợp gía trị lợi thế kinh doanh (như uy tín mặt hàng, vị trí địa lý...) đã được đánh gía thì lấy số dư thực tế trên sổ sách kế toán để tính vào giá trị DN. Trường hợp chưa xác định được gía trị lợi thế kinh doanh thì căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch bình quân của 3 năm liền kề với thời điểm xác định giá trị DN để tính theo công thức: Tỷ suất lợi nhuận bình quân của 3 năm liền kề của DN bằng (=) tổng số lợi nhuận thực hiện của 3 năm liền kề chia cho (:) tổng số vốn Nhà nước theo sổ sách kế toán 3 năm liền kề. Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch bằng (=) tỷ suất lợi nhuận bình quân của 3 năm liền kề của DN trừ đi (-) tỷ suất lợi nhuận bình quân chung của DNNN cùng ngành nghề trên cùng địa bàn tỉnh, thành phố. Gía trị lợi thế kinh doanh tính vào giá trị DN bằng (=) tổng số vốn Nhà nước theo sổ sách kế toán 3 năm liền kề nhân (x) tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch nhân với (x) 30%. 2. Tiến trình cổ phần hoá DN ở nước ta ,những kết quả cụ thể . Về tổ chức thực hiện : Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 111/1998/QĐ - TTg ngày 29/06/1998 thành lập Ban đổi mới quản lý DN TW do một Phó Thủ tướng làm trưởng ban, đồng chí Nguyễn Minh Thông làm phó ban thường trực. Một số phó trưởng ban chuyên trách và các uỷ viên kiêm nhiệm là cấp Thứ trưởng của các Bộ, cơ quan có liên quan để giúp Thủ tướng Chính phủ tập trung nhiệm vụ đổi mới quản lý DN thuộc các thành phần kinh tế, sắp xếp và cổ phần hoá DN nhà nước vào một đầu mối ở các bộ, địa phương. Tổng công ty 91 cũng thành lập Ban đổi mới quản lý DN trực thuộc bộ, địa phương, tổng công ty 91. Ban đổi mới quản lý DN TW đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ tổng hợp tổ chức hai cuộc tập huấn cho khoảng 1100 cán bộ thuộc các Bộ, địa phương và các DN nhà nước cổ phần hoá năm 1998 tại hai miền từ Thừa Thiên - Huế trở ra tại Hà Nội, từ Đà Nẵng trở vào tại TP Hồ Chí Minh. Hai cuộc tập huấn đã đạt được yêu cầu là quán triệt một cách sâu sắc nghị định số 44/1998/NĐ - C P ngày 29/06/1998 của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn của các Bộ, của Ban đổi mới quản lý DN TW đến tất cả các đối tượng đang tiến hành cổ phần hoá. Nhiều vấn đề vướng mắc đã được giải đáp ngay tại cuộc tập huấn. Sau tập huấn của các Ban đổi mới quản lý DN của các Bộ, địa phương, Tổng công ty nói chung đã khẩn trương triển khai thực hiện kế hoạch về cổ phần hoá DN nhà nước thuộc phạm vi và trách nhiệm của mình. b) Tiến trình cổ phần hoá và nhữnh kết quả bước đầu . + Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995 ): Trong giai đoạn này Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã ban hành Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 về thí điểm chuyển một số DN nhà nước thành công ty cổ phần và Chỉ thị số 84 về việc xúc tiến thực hành thí điểm cổ phần hoá DN nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DN nhà nước . Sau 4 năm thực hiện, triển khai quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84 của Thủ tướng Chính phủ (1992 - 1996) đã chuyển được 5 DN nhà nước thành công ty cổ phần là : Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ giao thông vận tải (năm 1993) Công ty cơ điện lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh (1993 ) Xí nghiệp giày Hiệp An thuộc Bộ công nghiệp (1994 ) Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu thuộc Uỷ ban Nhân dân tỉnh Long An (1995) Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn (1995) Trong số 5 DN nói trên thì có 4 DN thuộc địa bàn TP Hồ Chí Minh và 1 DN thuộc địa bàn tỉnh Long An. Chương trình cổ phần hoá của Đảng, Chính phủ và Quốc hội đã đề ra và được thực hiện thí điểm từ 1992 đến 1996: Hoàn thành cổ phần hoá 5 DN (bình quân 1 năm 1 DN). Thời kỳ thí điểm được đánh giá là hết sức chậm chạp, tuy nhiên đã rút ra những bài học quí giá cho thời kỳ thực hiện tiếp theo. + Giai đoạn hai từ cuối năm 1996 đến tháng 6/1998 : Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn triển khai thí điểm cổ phần hoá DN nhà nước , Chính phủ đã ban hành Nghị định (NĐ) số 28/ CP ngày 7/5/1996 về chuyển một số DN nhà nước thành công ty cổ phần . Nghị định đã xác định rõ mục tiêu , đối tượng thực hiện cổ phần hoá , quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị DN , chế độ ưu đãi cho người lao động trong DN nhà nước và tổ chức bộ máy giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác cổ phần hoá DN nhà nước . Đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ , các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện. Mặc dù có Nghị định của Chính phủ ban hành chấm dứt thời kỳ thí điểm để chuyển sang thời kỳ mở rộng nhưng tiến độ cổ phần hoá chỉ được nhích lên chút ít: 2 năm kể từ 5/1996 - 6/1998 cũng chỉ thực hiện thêm được 25 DN, đưa tổng số các DNNN đã cổ phần hoá đến hết tháng 6/1998 lên 30 DN. Tiến độ cổ phần hoá thời kỳ thực hiện NĐ 28/CP cũng được đánh giá là chậm và chưa đều khắp ở các bộ, ngành, địa phương. + Giai đoạn ba , từ tháng 6/1998 đến nay. Tháng 6 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998 nhằm giải quyết những vướng mắc và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá . Trong NĐ 44/1998, lần đầu tiên Chính phủ công bố một danh mục đầy đủ các loại hình DNNN:- - Loại DNNN cần tiếp tục đầu tư vốn 100%, đây là số cá biệt chủ yếu tập trung ở những DN thuộc khu vực liên quan đến an ninh-quốc phòng; sản xuất hoá chất độc hại, DN công ích có qui mô lớn để góp phần dẫn dắt nền KT phát triển. - Loại DNNN cần cổ phần hoá nhưng Nhà nước nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt. Loại DN này thường là quan trọng có vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Ví dụ như: dịch vụ khai thác bưu chính viễn thông; vận tải đường sắt, đường hàng không, hàng hải viễn dương... - Loại thứ 3 là các DNNN còn lại đều cổ phần hoá và da dạng hoá sở hữu mà Nhà nước không cần nắm phần vốn nào trong các DN này. Như vậy các DNNN nhìn vào danh mục có thể biết mình thuộc loại DN nào để tự định đoạt bước đi của DN. Ai đó còn quá nặng nề về tầm quan trọng của DN mình thì căn cứ bảng phần loại này để tự sắp xếp để nếu như cấp trên có chỉ đạo cổ phần hoá cũng có thể sớm tổ chức thực hiện cho có kết quả. Nghị định44/CP đã khắc được nhiều hạn chế của nghị định28/CP. Sự thay đổi của nó thể hiện trên những điểm sau: + Mở rộng chủ thể được phép mua cổ phần: Điều 3-NĐ 44/CP qui định: “Các tổ chức kinh tế, xã hội, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài định cư tại Việt Nam đều có quyền mua cổ phần ở các doanh nghiệp cổ phần hoá”. Như vậy, việc qui định người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam có quyền mua cổ phiếu là một điểm mới so với NĐ 28/CP. Đây là một qui định phù hợp với tình hình thực tại. Mấy năm trở lại đây những người Việt Nam ở nước ngoài đang có xu hướng đầu tư về trong nước, hơn nữa cơ chế mở cửa của nhà nước cũng thu hút nhiều người nước ngoài đến định cư tại Việt Nam. Đây là một nguồn đầu tư lớn mà ta cần phải khai thác. Nghị định 44/CP đã qui định vấn đề này, nó góp phần làm cho khả năng cổ phần hoá được mở rộng. + Hình thức cổ phần hoá: Nghị định 44/CP đã qui định thêm một hình thức đó là: “Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần” (Khoản 4 - điều 7). Nghĩa là ở hình thức này nhà nước không tham gia cổ phần ở công ty cổ phần. Đây là một sự thay đổi rất táo bạo, một nhận thức mới của nhà nước ta. + Quyền được mua cổ phiếu cũng được qui định một cách cụ thể hơn, rõ ràng hơn. + Việc sử dụng tiền bán cổ phiếu thuộc sở hữu nhà nước được qui định tại điều 9. Qui định này đã phần nào làm cho mục tiêu của việc cổ phần hoá được thực thi trên thực tế, tạo tâm lý yên tâm cho người lao động khi doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. + Những ưu đãi đối với người lao động thay đổi. Điều 11 - NĐ 28/CP qui định: “Người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá được nhà nước cấp một số cổ phiếu tuỳ theo thâm niên công tác và chất lượng công tác của từng người. Và trị giá cổ phiếu cấp cho mỗi người không quá 6 tháng lương cấp bậc, chức vụ theo thang b._. hoặc có qui định rõ về việc xác định giá trị đất đai (có hay không tính giá trị đất đai vào giá trị DN để CPH). - Về rút khoản tiền tăng vốn điều lệ (ngoài khoản hoàn vốn cho ngân sách) của Cty CP gởi kho bạc, đề nghị: Bộ tài chính có hướng dẫn cụ thể việc nộp tiền bán cổ phần vào tài khoản phong tỏa tại kho bạc có nộp khoản tăng vốn điều lệ hay không? Nếu có thì thủ tục rút thế nào? Vì hiện nay, tại các Cty CP có phát hành thêm cổ phần tăng vốn điều lệ, kho bạc yêu cầu phải có xác nhận của cơ quan tài chính về quyết toán chi phí CPH... thì mới giải quyết cho rút khoản này về tài khoản Cty CP. 3. Về công tác tổ chức thực hiện . Cùng với việc khẩn trương đổi mới một số cơ chế chính sách nhất là cơ chế tài chính liên quan đến cổ phần hoá DN nhà nước , chính phủ đã và đang triển khai các biện pháp chủ yếu sau đây : 1. Tổ chức chỉ đạo, quyết định phê duyệt danh sách các DN cổ phần hoá và tập trung chỉ đạo các đơn vị trong diện CPH. Đồng thời hướng dẫn cổ phần hoá cho các Bộ, các địa phương khác nhằm triển khai đồng đều trong cả nước. Đẩy mạnh hoạt động của Quỹ hộ trợ sắp xếp DN nhà nước mà trọng tâm là hỗ trợ sắp xếp việc làm bằng các nguồn vốn trích từ vốn bán cổ phần, vốn hỗ trợ của ngân sách và huy động của nước ngoài. 2. Lựa chọn DN nhà nước và loại hình công ty cổ phần . Cổ phần hoá là chuyển sở hữu nhà nước vào tay cổ đông thuộc các thành phần kinh tế . Quá trình này đụng chạm đến vấn đề mấu chốt trong kinh tế đó là sở hữu. Từ đó đặt ra hai vấn đề : + Chuyển toàn bộ hay chỉ chuyển một bộ phận DN nhà nước thì là bộ phận nào? + Tổ chức công ty cổ phần như thế nào để phát huy được ưu thế của hình thức này, đồng thời nâng cao được hiệu quả sản xuất . Việc lựa chọn DN nhà nước để cổ phần hoá phụ thuộc vào quan niệm cộng với xu hướng về vai trò của DN nhà nước trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Quan niệm bắt nguồn từ mục tiêu kinh tế, chính trị được lựa chọn, trình độ phát triển của nền kinh tế, truyền thống và hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia khi tiến hành cổ phần hoá . Việc chuyển DN nhà nước thành công ty cổ phần không phải là mục đích tự thân mà xuất phát từ mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội do nhà nước lựa chọn. Tuy nhiên hiện nay, giải pháp chuyển DNNN sang công ty cổ phần ở một số DN trước hết là vì mục tiêu lợi nhuận .Với mục tiêu cổ phần hoá hiện nay , cần chủ trương cổ phần hoá DNNN theo hướng chuyển nhượng một phần quyền sở hữu nhà nước sang các thành phần kinh tế khác.Trường hợp nhà nước ít cần can thiệp đến có thể chuyển sang công ty cổ phần mà trong đó vốn nhà nước ít hoặc thậm chí không tham gia . 3. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi về cổ phần hoá . Kinh nghiệm cho thấy muốn kinh tế phát triển năng động có hiệu quả trước hết phải có chiến lược con người. Cần có một đội ngũ các nhà kinh doanh năng lực tốt, đó là những người điều hành các doanh nghiệp có hiệu quả đồng thời luôn nắm bắt đựoc tình hình, các cơ hội mới và xu hướng của nền kinh tế . 4. Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính như miễn thuế lợi tức , thuế thu nhập trong thời gian đầu của các DN cổ phần để kích thích các thành phần kinh tế tham gia mua cổ phiếu .Trường hợp những DN không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức (Thuế thu nhập DN) trong 2 năm liên tiếp từ sau khi chuyển sang CPH, theo Luật công ty. Các DN đó được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật, các chương trình văn hoá, câu lạc bộ , nhà điều dưỡng để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần . Những tài sản này thuộc sở hữu tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lí với sự tham gia của tổ chức Công đoàn . Thực tế tiến hành cổ phần hoá DN nhà nước cho thấy những ưu tiên trên là hợp lí, là phù hợp với thực tiễn của công tác cổ phần hoá và được sự đồng tình của các DN . 5. Nhà nước cần có sự giúp đỡ đối với cán bộ công nhân viên để có đủ khả năng mua cổ phần ở các DN tiến hành cổ phần hoá , như cho vay tín dụng với lãi suất thấp, thời hạn dài. Tương tự như nhà nước cho nông dân vay vốn để sản xuất. Đây là một kinh nghiệm tốt mà nhiều nước trên thế giới đã thực hiện trong quá trình cổ phần hoá các DN 6. Định giá cổ phiếu và mức độ bán cổ phần, cổ phiếu. Chế độ tài chính thống nhất ghi mẫu in ấn và cung cấp tờ cổ phiếu chậm nhất trong vòng 30 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn phát hành của doanh nghệp cổ phần hoá . Các cơ quan tài chính phổ biến hướng dẫn các công ty cổ phần thực hiện . 7. Tạo ra sân chơi bình đẳng giữa DN nhà nước và công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó nhà nước cần phải tạo ra sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài . Đồng thời , cần xoá bỏ chế độ bao cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh . 4. Giải pháp trong việc định giá doanh nghiệp để thực hiện CPH. Xác định đúng giá trị thực tế của DN để CPH là một vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp.Đó là một trong nhữnh nguyên nhân làm cho tiến độ CPH chậm lại. Điều 11 của nghị định 44/1998/NĐ-CP có nêu một số nguyên tắc để xác định giá trị DN. Về nguyên tắc hướng dẫn như vậy có thể coi là hợp lý, nhưng khi áp dụng vào thực tế mới thấy những khó khăn, phức tạp nảy sinh. Chẳng hạn như thiết bị, nhà xưởng thời bao cấp tính quá rẻ, giá trị đất không tính vào giá trị DN, như vậy hiện nay giá trị còn lại của thiết bị, giá trị thị trường của tài sản… dựa vào căn cứ nào để tính ? Xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp dựa vào giá thị trường, giá trị còn lại của tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật đã được kiểm kê… theo công thức : n G = ồ Gi ´ T i =1 Trong đó G: Tổng giá trị nội tạI của DN. Gi : Giá trị thị trường của từng loại tài sản cụ thể tại thời điểm CPH. i = 1, 2, 3, …, n T : giá trị sử dụng còn lại của tài sản (%). Bên bán DN thường muốn bán trọn gói, bên mua lại cân nhắc nhu cầu sử dụng trong tương lai nên không muốn mua trọn gói. Do đó sẽ có một bộ phận giá trị người mua không chấp nhận.Nhà nước cần ban hành quy chế để bên mua và bên bán thoả thuận được với nhau về vấn đề này . Đối với tài sản bằng tiền thì tính theo số dư bằng tiền đã kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu tại thời điểm xác định giá trị DN. Nếu số dư là ngoại tệ thì phải quy đổi sang tiền Việt Nam theo tỷ giá ngân hàng Công thương Việt Nam đã công bố vào thời điểm gần nhất. Đối với các khoản chi phí dở dang (chi phí sản xuất, kinh doanh, chi phí đầu tư xây dựng cơ bản,…) thì tính theo số dư chi phí thực tế trên sổ kế toán. Đối với tài sản ký quỹ, ký cược ngắn hạn và dàI hạn thì tính theo số dư thực tế trên sổ kế toán đã đối chiếu, xác nhận tại thời điểm xác định giá trị DN. Đối với tài sản đầu tư ngắn hạn và dài hạn thì tính vào giád trị doanh nghiệp các khoản mà công ty cổ phần sẽ kế thừa . Đối với DN có lợi thế kinh doanh thì phải tính theo giá trị lợi thế vào giá trị thực của DN như sau : Tỷ suất lợi nhuận Tổng số lợi nhuận thực hiện 3 năm liền kề. bình quân 3 năm = ______________________________________ của D N Tổng số vốn của nhà nước 3 năm liền kề. Tỷ suất Tỷ suất lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận bình quân lợi nhuận = bình quân 3 năm - của ngành tại địa bàn (tỉnh,siêu ngạch của DN,tp ) Giá trị lợi thế nói trên chỉ được tính tối đa 30% vào giá trị thực của DN. Như vậy: Giá trị Vốn nhà nước Tỷ suất lợi lợi thế tính vào = Theo sổ kế toán ´ nhuận siêu ´ 30% giá trị DN 3 năm liền kề ngạch. Vậy xác định thế nào là DN sản xuất kinh doanh có hiệu quả ? DN nào có giá trị lợi thế ? Cách tính giá trị lợi thế đó vào giá trị DN như thế nào ? Để giải quyết các câu hỏi trên, người ta dùng phương pháp đánh giá tổng hợp, tức đánh giá một cách tổng quát toàn bộ giá trị của DN (cả tài sản hữu hình và vô hình, không xác định từng bộ phận). Cơ sở khoa học của phương pháp này dựa trên quan điểm mọi khả năng sinh lợi đều được tính băng tiền và được biểu hiện một cách tổng hợp bằng lợi nhuận hoặc thu nhập. Trên cơ sở đó, để xác định một DN có giá trị lợi thế không nên tính theo hướng dẫn mà phải xét xem tỷ suất lợi nhuận 3 năm liền kề của DN lớn hơn suất nội hoàn (IRR) của xã hội . Trong cơ chế thị trường ,khi quyết định đầu tư người ta thường so sánh lãi suất sẽ nhận được với lãi suất gửi tiết kiệm, tỷ lệ lam phát, tức là : Lãi suát cổ phiếu ³ Lãi suất tiết kiệm + Tỷ lệ lạm phát . Ví dụ : Căn cứ vào tính toán sơ bộ năm 1995, tổng số vốn đầu tư của DNNN là 127.967.000.000 đ ; tổng lợi nhuận là 6 913 000 000 đ , suy ra tỷ suất lợi nhuận DNNN là 5,4 % / năm . Giả sử tỷ lệ lạm phát năm 1999 là 1,6%/ năm và lãI suất gửi tiết kiệm là 0,6%/ tháng (kỳ hạn 12 tháng) và cả năm : 0,6 % ´ 12 =7,2 %. Vậy lãi suất cổ phiếu sẽ là : Lãi suất cổ phiếu ³ 7,2% + 5,4%+ 1,6% = 14,2 %. Nếu DNNN nào có tỷ suất lợi nhuận > 14,2% (chưa kể thiệt hại do rủi ro ) vậy giá trị lợi thế tính vào DN sẽ là : Tỷ suất lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch = bình quân 3 năm - 14,2% liền kề Giá trị lợi Vốn nhà nước theo Tỷ suất lợi thế tính vào = sổ sách kế toán bình quân ´ nhuận siêu ´ 30% giá trị DN 3 năm liền kề ngạch Nếu đã công nhận DN có giá trị lợi thế khi có tỷ suất lợi nhận bình quân 3 năm liền kề lớn hơn 14,2 % thì phải có những DN “ bất lợi thế ”. Giả định rằng DN này CPH khi đã có thị trường chứng khoán thì chắc chắn rằng giá cổ phiếu sẽ nhỏ hơn mệnh giá của nó. Như vậy nếu xác định giá trị DN như hiện nay thì sẽ không thu hút được cổ đông. Đối với những DN có tỷ suất lợi nhuận < 14,2% phải tính toán, xác định lại giá trị DN theo hướng : Căn cứ vào vốn nhà nước theo sổ sách kế toán trừ đi giá trị “bất lợi thế” sao cho bảo đảm khoản lợi nhuận thu được của cổ phiếu sau 1 năm đạt hơn 14,2%. Giá trị DN được tính như sau : Vốn nhà nước Tỷ suất lợi nhuận theo sổ sách kế toán ´ 3 năm liền kề của DN Giá trị DN = _________________________ cổ phần hoá 14,2 % Ví dụ : DN có tỷ suất lợi nhuận là 12 %, vốn nhà nước theo sổ sách kế toán là 100 000 000 đ ta có : Giá trị DN cổ phần hoá = (100 000 000 ´ 12 ) / (14,2 ) = 84 507 000 đ Theo cách tính này các DN “ bất lợi thế” khi cổ phần hoá nhà nước sẽ bị giảm vốn. Vậy chúng ta có thể chọn phương án khác như : giải thể, bán , cho thuê, sát nhập…. 5 . Giải pháp đối với người lao động . Đây là vấn đề do lịch sử để lại nên thường trong DNNN số lao động tương đối nhiều so với số lao động mà hiện nay doanh nghiệp thực tế cần sử dụng. Theo chúng tôi, số lao động dư ít nhất là 1/3, có nơi dư tới 1/2 số lao động hiện có. Có xử lý lao động dư thì mới lành mạnh hoá được DN, nâng cao được sức cạnh tranh của họ. Cho nên dù chưa tiến hành cổ phần hoá cũng phải xử lý lao động dư thì DNNN mới có sức cạnh tranh. Chi phí tiền lương lớn quá thì DN không thể cạnh tranh được. Nếu chuyển DNNN thành công ty cổ phần, công ty TNHH hoặc giao cho tập thể lao động thì nhất định lao động sẽ dôi dư nhiều hơn, cho nên việc đầu tiên phải làm là xử lý lao động dôi dư. Trước hết là doanh nghiệp tự sắp xếp. Khi DN tổ chức lại thì bản thân doanh nghiệp phải biết là cần sử dụng ai vào việc gì, nhu cầu là bao nhiêu. Doanh nghiệp phải làm phương án, lập kế hoạch sử dụng lao động đồng thời đề xuất số lao động nào hiện tại không phù hợp với lao động sản xuất kinh doanh cần được xử lý. Có nhiều biện pháp. Thứ nhất là đào tạo lại và bố trí việc làm mới cho họ, đây là biện pháp tích cực nhất để bảo đảm có công việc mới người lao động sống ổn định, có thu nhập ổn định như những người lao động đang làm trong doanh nghiệp. Thứ hai, nếu không giữ lại được để bố trí việc làm mới thì ít ra cũng phải tạo điều kiện cho người ta ra ngoài sinh sống được để không vì sắp xếp lại doanh nghiệp, không vì cổ phần hoá doanh nghiệp mà làm mất ổn định xã hội, làm mất việc làm của người lao động. Trong số dôi dư người ta sẽ phân loại lao động trẻ, còn khả năng tiếp thu, DN sẽ có kế hoạch đào tạo lại để bố trí việc làm mới cho họ. Còn những lao động đã cao tuổi và sức khoẻ không cho phép có thể giải quyết chính sách cho nghỉ sớm trước năm. Theo tôi có thể giải quyết nâng lương như Trung Quốc để tạo điều kiện người nghỉ trước chế độ vẫn bảo đảm thu nhập cần thiết . Đối với vấn đề thực hiện ưu đãi cho người lao động trong DN cổ phần hoá, thông thường các DN cổ phần hoá sẽ tự thực hiện. Vậy Quỹ hỗ trợ CPH có tác dụng như thế nào ? Tại NĐ 44 của Chính phủ ngày 29/6/1998 đã quy định mức ưu đãi cho người lao động trong DNNN cổ phần hoá, người lao động đang làm việc trong DNNN CPH mỗi năm làm việc được mua tối đa 10 cổ phần theo giá ưu đãi, là giá được giảm 30% so với các đối tượng khác. Nhà nước đã cho phép dành ra 20% vốn Nhà nước để làm việc này. Đó là theo quy định hiện hành. Do mức đầu tư vốn của Nhà nước vào DN và số lượng lao động ở các DN khác nhau nên khi áp dụng NĐ 44 thực tế có sự chênh lệch khá lớn về mức ưu đãi cho người lao động. Có những doanh nghiệp ít lao động, nhất là ngành thương mại, ngành công nghiệp sản xuất bằng cơ khí hoá, tự động hoá thì lao động rất ít nhưng vốn Nhà nước nhiều cho nên 20% này sử dụng không hết để chi cho người lao động mỗi 1 năm 10 cổ phần ưu đãi. Ngược lại có nhiều DN mới thành lập sau này hoặc là những DN có nhiều lao động thủ công nhưng vốn Nhà nước rất ít. Cho nên có nơi chỉ được 3- 4 % ưu đãi, tạo ra tình trạng chênh lệch : cùng làm việc Nhà nước, nhưng người ở DN này được 10 cổ phần, người ở DN khác được 3-4 cổ phần, không bình đẳng. Để tạo ra sự công bằng, theo đó mỗi người đều được hưởng số cổ phần ngang nhau tính trên số năm công tác thì cần phải có sự điều hoà vốn từ xí nghiệp thừa sử dụng không hết sang cho những xí nghiệp thiếu. Biện pháp đào tạo lại để bố trí việc làm mới cho người lao động sẽ diễn ra theo hướng nào? Để bố trí việc làm mới theo tôi chắc chắn Bộ lao động sẽ có các hướng dẫn cụ thể thêm. Nhưng theo kinh nghiệm các nước thì xây dựng trung tâm bồi dưỡng xử lý việc làm. Trung tâm này nắm được ở đâu cần lao động, cần lao động loại gì họ có nhiệm vụ giới thiệu để đào tạo. DN phải nộp khoản phí cho trung tâm để trung tâm cung cấp cho các đối tượng cần thiết. Tôi nghĩ rằng công việc đào tạo nghề, tạo việc làm mới sẽ rất phong phú, tùy theo yêu cầu và tình hình cụ thể của doanh nghiệp, tùy theo yêu cầu thị trường mà DN có cách vận dụng các hình thức khác nhau. 6. Về chính sách hỗ trợ tài chính đối với DN được cổ phần hoá . Căn cứ NĐ 44/1998/ND.CP thì sau khi cổ phần hóa được hưởng hai nội dung ưu đãi : thứ nhất là miễn lệ phí trước bạ khi chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần ; thứ hai là giảm 50% thuế lợi tức 2 năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Tuy nhiên nhà nước nên có những chính sách thực sự ưu đãI hơn cho các DN cổ phần hoá như : Giảm mức thuế suất thu nhập công ty cổ phần thấp hơn các loạI hình các DN khác ( như nhiều nước khác đã làm) Miễn thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng đẻ táI đầu tư. Khi xác định giá trị DN để CPH nên theo giá “thuận mua vừa bán”,không nên quá nặng nề về bên nào. Không nên hạn chế số lượng CP bán ra cho công nhân viên chức(trừ giới lãnh đạo DN) và cho các nhà đầu tư nước ngoài . Số tiền thu được khi bán CP nên ưu tiên đầu tư lạI cho DN cổ phần hoá 0(để giảI quyết chế độ cho số lao động dôI dư,đào tạo lạI công nhân viên, đầu tư đổi mới công nghệ …) Việc thực hiện CPH một bộ phận DNNN cần được thực hiện trên cơ sở luật pháp, công khai; cung cấp thông tin rộng rãI nhằm khơI sự ham muốn đầu tư của cán bộ công nhân viên DN và các doanh nhân bên ngoài . Đồng thời phải giải quyết thoả đáng lợi ích của các bên tham gia. 7. CPH nhắm tới Thị Trường Chứng Khoán. Làm sao cho thực tế và hiệu quả? Trước hết khi CPH chuẩn bị cho TTCK, doanh nghiệp cần phải hiểu rõ rằng đây không chỉ là một biện pháp kỹ thuật nhằm thay đổi DN mà nhằm xây dựng chiến lược chung cho họ, trong đó có các chiến lược về kinh doanh, tài chính và dự báo giá cổ phiếu sẽ niêm yết và phát hành sau này trên TTCK. Thứ hai, DN cũng cần phải tổ chức lại sao cho hội đủ những tiêu chuẩn để có thể tham gia thị trường chứng khoán. Đó là phải đáp ứng yêu cầu vốn điều lệ tối thiểu ban đầu, phải có đội ngũ quản lý tốt, có nhiều thành tích trong quản lý kinh doanh. Về lợi nhuận, DN phải là công ty làm ăn có lãi với lợi nhuận không dưới mức quy định. Phải có tính liên tục trong hoạt động như có đủ số năm theo quy định. DN phải có dự án khả thi trong việc huy động vốn. Thứ ba là DN phải kết hợp phương pháp định giá tài sản theo kế toán là phương pháp thông thường hiện nay với phương pháp tính đến việc sinh lời của đồng vốn (PE), đó là tính toán khi cứ bỏ ra một đồng đầu tư thì sinh lời bao nhiêu. Phương pháp này ở VN đã từng được áp dụng.Việc xác định giá trị của sản nghiệp sẽ giúp cho ta biết được khả năng sinh lời của công ty. Khi phát hành cổ phần, thông thường ta đưa ra một giá trị tài sản cố định và công bố phát hành bao nhiêu cổ phiếu trên số giá trị vốn này. Nhưng có thể có người đăng ký và mua nhiều hơn, cũng có khi ít hơn số mà DN đề ra. Chính mức nhiều hơn hay ít hơn này là cách mà thị trường định giá giá trị DN bởi khả năng sinh lời của DN. Thứ tư, khi DN cổ phần hóa gắn với việc có TTCK thì phải chú tâm vào khâu phát hành hơn, phải tính toán kỹ hơn đến chiến lược kinh doanh và như vâỵ, đòi hỏi DN phải cố gắng cao hơn. Theo Uỷ ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN), khi các doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán ra công chúng, cần phải có sự so sánh và chọn lựa cần thiết trước khi quyết định phát hành. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng có những điểm lợi như có khả năng thu hút vốn lớn, cơ cấu tổ chức, trình độ quản lý và khả năng lập báo cáo của DN cũng sẽ tốt hơn, đồng thời tăng khả năng hấp dẫn công ty nước ngoài và dễ dàng cho việc vay vốn ngân hàng và phát hành trái phiếu trên thị trường. Nhưng cũng có những điểm bất lợi như DN phải tuân thủ chế độ kiểm tra, giám sát, chế độ báo cáo chặt chẽ hơn, đòi hỏi trình độ quản lý cao hơn. Chi phí phát hành và niêm yết tốn kém (thường chiếm khoảng từ 8-10% vốn lưu động).Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới đều có xu hướng phát hành chứng khoán ra công chúng vì chỉ bằng con đường này mới có thể mở rộng và phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế. UBCK NN cũng khuyên rằng để có thể phát hành chứng khoán ra công chúng, các DN Việt Nam hiện nay cần phải cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh, xử lý tốt vấn đề nợ để tạo ra một bảng tổng kết tài sản không quá yếu kém. Nâng cao trình độ đào tạo đội ngũ quản lý và quản trị doanh nghiệp. Nâng cao kiến thức về thị trường chứng khoán nói chung cũng như các thủ tục phát hành và niêm yết chứng khoán. Tích cực chuẩn bị các điều kiện để cổ phần hóa. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được vấn đề này khi cổ phần hóa. Tại Công ty giao nhận kho vận ngoại thương Tp.HCM, khi cổ phần hóa, công ty đã nhờ UBCKNN giới thiệu cho một doanh nghiệp nước ngoài mua cổ phần với phần trăm cổ phần khá cao trong mức được phép. DN này là một công ty rất có kinh nghiệm trong lĩnh vực chứng khoán của Mỹ. Việc bán cổ phần cho DN này theo Công ty giao nhận kho vận ngoại thương Tp.HCM là nhằm giúp cho việc niêm yết và phát hành cổ phiếu trên TTCK của công ty sau này sẽ dễ dàng hơn. Nếu không tham gia vào TTCK thì việc doanh nghiệp tự bán cổ phần vẫn gặp nhiều khó khăn. Chưa tính được tác động của cổ phần hóa vào thị trường vốn trung và dài hạn của nền kinh tế một cách cụ thể.Và nhất là thiếu TTCK, các doanh nghiệp CPH khó lòng xác định được rõ ràng qua thước đo của thị trường về giá trị của chính họ, trong khi đây lại là một yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển của DN. 8. Bán đấu giá DNNN - Phương thức mới tiến hành CPH . Dự kiến đầu tháng 6/2000, Hải Phòng sẽ tiến hành bán đấu giá thí điểm DNNN đầu tiên. Phương pháp bán đấu giá khi cổ phần hoá (CPH) và đa dạng hoá sở hữu DNNN đảm bảo tính công bằng, minh bạch và nhanh chóng. Phương pháp này còn khắc phục những phức tạp trong quá trình định giá để chuyển đổi sở hữu tài sản thuộc sở hữu Nhà nước vì giá trị tài sản được thông qua bán đấu giá. Đây cũng là một nội dung chính của Dự án thí điểm CPH DNNN Hải Phòng. Ban đổi mới quản lý DN Hải Phòng phối hợp với Dự án thí điểm CPH Hải Phòng vừa tổ chức tập huấn khảo sát 25 DNNN Hải Phòng để thực hiện chủ trương giao, khoán, bán, cho thuê theo NĐ 103/NĐ-CP và thí điểm bán đấu giá một số DNNN trong khuôn khổ Dự án thí điểm CPH DNNN tại Hải Phòng. Danh sách 25 DNNN được nêu ra trong QĐ số 383 của Chủ tịch UBND TP Trần Huy Năng. Đây là các DN nằm trong kế hoạch sau khi Chủ tịch UBND thành phố có cuộc họp nghe Thường trực Ban đổi mới DN TP báo cáo về tình hình và kết quả công tác sắp xếp, CPH và kế hoạch triển khai NĐ 103 về giao, bán, khoán, cho thuê DNNN, Chủ tịch UBND TP đã kết luận cần tiến hành khảo sát ngay từ 20-25 DNNN để thực hiện phương án bán DNNN theo NĐ 103. Sẽ CPH khoảng 60 DNNN Theo TS Phạm Vũ Câu, Phó trưởng ban Ban đổi mới quản lý DNTP, Giám đốc Dự án thí điểm CPH DNNN Hải Phòng, đợt khảo sát này để truyền thông những chủ trương, chính sách của Nhà nước về công tác sắp xếp, CPH, những kết quả đã đạt được của một số DN đã thực hiện CPH và đa dạng hoá sở hữu, phương hướng nhiệm vụ và nội dung công việc sẽ thực hiện trong thời gian tới, nhằm giúp các DN thực sự yên tâm khi thực hiện chuyển đổi sở hữu. Đây cũng là một trong những biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện phương án sắp xếp DNNN Hải Phòng. Dự án thí điểm cổ phần hoá DNNN Hải Phòng do UBND TP thực hiện với sự trợ giúp kỹ thuật của Công ty tài chính quốc tế-IFC- thuộc nhóm WB được Thủ tướng Chính phủ chính thức thông qua ngày 5/8/1999 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 21/10/1999. Nguồn tài chính thực thi Dự án được hỗ trợ bởi khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Australia thông qua Cơ quan phát triển quốc tế Australia -AusAID-với tổng trị giá 730.000 USD. Chương trình nhằm cổ phần hoá khoảng 60 DNNN ở Hải Phòng, trong đó tập trung vào các DN nhỏ và vừa ở Hải Phòng, với số vốn đầu tư từ 70.000 USD đến 200.000 USD, có quy mô khoảng 100 công nhân trở xuống. Các DN này chủ yếu là các DN hoạt động trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, cơ khí nhỏ, chế biến thực phẩm, xây dựng và thuỷ hải sản...Dự án đề ra mục tiêu tiến hành cổ phần hoá khoảng 60 DNNN ở Hải Phòng. Điểm đáng chú ý là trong số các DNNN này, sẽ tiến hành bán đấu giá một số DN đáp ứng đủ các yêu cầu. Mục tiêu: thí điểm để có thể nhân rộng ra cả nước Mục tiêu của Dự án là xây dựng một phương pháp bán đấu giá khi cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu DNNN để thúc đẩy chương trình chuyển đổi sở hữu DNNN ở Hải Phòng. Tham vọng của Dự án là sau thành công ở Hải Phòng sẽ tìm cách nhân rộng ra cả nước. Một cán bộ của Dự án cho biết, dự án đã gây được chú ý đối với các tỉnh, thành phố có điều kiện tương tự và mong muốn thực hiện các phương thức như của Dự án Hải Phòng. Và mới đây, một dự án tương tự như dự án Hải Phòng đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắc Lắc thoả thuận với IFC để tiến hành ở địa phương này. Dự án Đắc Lắc dự kiến có sự trợ giúp về kinh phí của Chính phủ Đan Mạch, thông qua Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch- DANIDA. Ngoài ra, Dự án Hải Phòng cũng đưa một mục tiêu là thông qua chương trình Hải Phòng, thiết lập một hệ thống đấu giá làm thí điểm trong tiến trình thực thi việc chuyển đổi sở hữu của các DNNN ở Việt Nam. Dự án đưa ra 5 nhiệm vụ chính. Thứ nhất là lập một danh sách các DNNN sẽ thực hiện cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu; hai là đưa ra các cơ chế và trình tự tiến hành CPH thông qua đấu thầu công khai; ba là nâng cao năng lực cán bộ Nhà nước tham gia vào tiến trình CPH và đa dạng hoá DNNN; bốn là đào tạo kỹ năng quản trị DN cho các cán bộ quản lý DN thuộc diện Dự án thí điểm CPH và cuối cùng là tiến hành các chiến dịch truyền thông và quảng bá công chúng về CPH, đa dạng hoá DNNN, chuyển đổi sở hữu DNNN nói chung. Bán đấu giá minh bạch, công khai và nhanh chóng Các chuyên gia của Dự án khẳng định, tuy phương thức bán đấu giá là mới mẻ ở Việt Nam nhưng đã được áp dụng rộng rãi trong chương trình tư nhân hoá ở các nước Trung và Đông Âu. Theo các cán bộ dự án, phương thức này giúp giảm bớt quy trình đánh giá tài sản Nhà nước tại DN hiện đang được coi là quá cồng kềnh, phức tạp. Thay vì cách xác định giá trị DN như hiện nay, sẽ tiến hành phương thức bỏ thầu đấu giá. Do vậy, dự đoán rằng phương thức đấu thầu sẽ tăng tính minh bạch, công khai và nhanh chóng trong khâu đánh giá giá trị DN và chuyển đổi sở hữu DN. Mặt khác, đồng thời phương thức này được xem là giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo điều kiện cho những người lao động và những đối tượng khác dễ dàng có được quyền sở hữu trong các DN CPH, qua đó huy động được các nguồn đầu tư trong và ngoài nước. 9. Những biện pháp tăng tốc. Theo lộ trình sắp xếp, đổi mới DNNN trong giai đoạn 2000- 2003, dự kiến sẽ tiến hành CPH và đa dạng hóa sở hữu 1.498 DNNN (chiếm 65,3% tổng số DNNN thuộc diện sắp xếp trong thời kỳ này); trong đó riêng CPH trong các năm 2001,2002 có kế hoạch là 719 doanh nghiệp, chia ra cho các năm: 2001 (345 DN), và 2002 (374 DN). Trong chính sách CPH, theo dự kiến các giải pháp sẽ là : Bỏ qui định hạn chế mức mua cổ phần lần đầu, và mức mua cổ phần ưu đãi của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp không quá mức bình quân của các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp, để khuyến khích huy động vốn và vai trò tích cực của giám đốc doanh nghiệp. Nâng tỷ lệ giá trị cổ phần được mua với giá ưu đãi ở những DNNN có vốn Nhà nước nhỏ, để thu hẹp chênh lệch phần được mua ưu đãi giữa các doanh nghiệp có nhiều vốn Nhà nước và doanh nghiệp có ít vốn Nhà nước. Nâng tỷ lệ giá trị ưu đãi cho người lao động trong các DNNN có vốn tự tích lũy trên 40% khi thực hiện CPH từ 30% hiện nay lên 50% của giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Trường hợp xác định được nguồn vốn tự tích lũy được tạo thành do doanh nghiệp tự vay đã trả xong, thì tỷ lệ này là 70%. Khẩn trương hướng dẫn sử dụng Qũy hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN, sử dụng tiền bán cổ phần, và lợi tức cổ phần của phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp CPH. Về định giá trị doanh nghiệp, trong tương lai, sẽ thay bằng phương pháp đấu giá; còn trước mắt sẽ điều chỉnh cơ chế hiện hành, cụ thể, với DNNN có vốn Nhà nước trên sổ sách kế toán dưới 10 tỷ đồng, hoặc có vốn Nhà nước nhỏ hơn 30% so với số ghi trong sổ sách kế toán thì giao cho bộ trưởng, chủ tịch UBND tỉnh, HĐQT Tcty 91 chịu trách nhiệm quyết định toàn bộ về giá trị doanh nghiệp. 10. Một số nhận định khác : 1. Về chính sách ưu đãi cho người lao động tại các DNNN cổ phần hóa: a- Đề nghị xem xét điều chỉnh cho phù hợp hơn, trong việc bán cổ phần giá ưu đãi cho thành phần lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ và người thân thuộc của họ cùng làm việc tại DN, nhằm đảm bảo công bằng cho người lao động (không phân biệt lãnh đạo hay lao động bình thường) trong DN có thời gian thâm niên như nhau thì phần ưu đãi phải như nhau. Đề nghị mở rộng chính sách cho phép lãnh đạo và cán bộ quản lý DN CPH được mua cổ phần như các cổ đông khác, nếu họ có khả năng tài chính có thể mua cao hơn để tạo niềm tin cho tập thể lao động trong DN và các cổ đông ngoài DN mua nhiều và nhanh cổ phần bán ra của DN. Ngoài chính sách ưu đãi cho người lao động tại các DNNN khi CPH, tiếp tục nghiên cứu bổ sung chính sách tương tự đối với lực lượng lao động tăng giảm tại DN sau khi CPH (lúc DN đã là Cty CP). b- Đề nghị Nhà nước bổ sung chính sách ưu đãi đối với người lao động trong một số DNNN không có tích lũy được qũy phúc lợi khen thưởng để phân phối cho công nhân mua cổ phần, cụ thể: đối với DNNN không có số dư qũi phúc lợi khen thưởng hoặc có nhưng qúa ít, đề nghị cho công nhân mua chịu trả chậm thêm một số cổ phần theo giá ưu đãi (ngoài danh mục công nhân nghèo được mua trả chậm). 2- Về người quản lý phần vốn Nhà nước trong Cty CP. DNNN cổ phần hóa ngày càng nhiều, nhưng cho đến nay chưa có qui định cụ thể nào về: tiêu chuẩn trình độ năng lực; nhiệm vụ; trách nhiệm; quyền lợi của người được cử đại diện vốn Nhà nước tại Cty CP của DNNN CPH. Người này được chọn từ cơ quan nào và có thể giao đại diện vốn Nhà nước cho bao nhiêu Cty CP có vốn Nhà nước. 3- Về bán CP cho các cá nhân và pháp nhân trong nước: Mức khống chế mua cổ phần lần đầu hiện nay là: 5% cá nhân, 10% pháp nhân đối với loại NN giữ cổ phần chi phối, đặc biệt; 10% cá nhân, 20% pháp nhân đối với loại NN không giữ cổ phần chi phối. Đề nghị, sửa đổi như sau: ai có khả năng tài chính thì cho mua không nên khống chế; nếu Nhà nước xét thấy ngành nào cần phải giữ và chi phối đặc biệt 75% để đảm bảo an ninh kinh tế, quốc kế dân sinh thì Nhà nước giữ lại 51% vốn điều lệ. 4- Về bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài: a - Khoản 1 điều 3 Nghị định 44/1998/NĐ-CP quy định: "Người Việt định cư ở nước ngoài và người nước ngoài định cư ở VN đều có quyền mua CP ở các DNNN CPH", và khoản 2, điều 3 này cũng ghi: "Việc bán CP cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện theo qui định của Thủ tướng Chính phủ". Nhưng khi hướng dẫn Quyết định 145/1999/QĐ/TTg ngày 28/6/1999 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành qui chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, Bộ tài chính đã đưa chung cả hai loại đối tượng này vào Thông tư 132/1999/TT-BTC ngày 15/11/1999, gây không ít thắc mắc về mức mua khống chế và những khó khăn thủ tục cho các đối tượng ghi ở khoản 1 điều 3 nói trên. b - Đề nghị Trung ương hướng dẫn và giải thích một số điểm sau: + Trường hợp DN CPH mà Nhà nước vẫn tiếp tục giữ vốn Nhà nước trong Cty CP (không phải cổ phần chi phối), khi chỉ có một nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mua cổ phần của Cty, thì nhà đầu tư đó cũng được mua tối đa 30% vốn điều lệ; trong khi cá nhân và pháp nhân trong nước chỉ được mua tối đa 10-20%. +Theo Thông tư 132/1999/TT-BTC ngày 15/11/1999 của Bộ tài chính: "Kết quả xác định giá trị DN do cơ quan tài chính công bố"; vậy trong trường hợp này do cơ quan tài chính địa phương công bố hay trình Bộ tài chính quyết định? Như vậy có khác gì thủ tục công bố giá trị DNNN CPH? Tài Liệu Tham Khảo Uỷ ban chứng khoán nhà nước Thời báo kinh tế Việt Nam , số 32 Diễn đàn DN số 15 – 17. Công báo Chính phủ 7/1998 Tạp chí CN số 14 , 8/1999 Ban đổi mới quản lí DN trung ương Tìm hiểu luật kinh tế , NXB Thống kê 11/1995 Thời báo kinh tế Việt Nam 7/1998 - 6/2001 www.vir.com.vn(chứng khoán) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35399.doc
Tài liệu liên quan