Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước

LỜI NÓI ĐẦU Qua 20 năm đổi mới Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta xác định thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm đặt lên hàng đầu để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Việt Nam vốn xuất phát là một nước nông nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu, vốn để phát triển kinh tế thiếu

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thốn. Để có thể hoàn thành được nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá chúng ta đã tích cực mở cửa, hội nhập với nền kink tế thế giới. Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá Việt Nam vốn là một nước đi sau có thể lợi dụng được nguồn vốn trong chu chuyển quốc tế, tận đụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ các nước tư bản. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chính là điều kiện tiên quyết để giải quyết những vấn đề nêu trên. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đảm bảo nguyên tắc cùng có lợi giữa Việt Nam và chủ đầu tư, tăng ngân sách quốc gia, tránh cho nước ta trở thành con nợ của các nước tư bản bị phụ thuộc về kinh tế chính trị. Vấn đề đặt ra đó là chúng ta phải đánh giá đúng đắn về vai trò, vị trí của FDI trong việc phát triển kinh tế từ đó đề ra những chủ trương, chính sách thu hút FDI một cách hợp lí, hiệu quả và có định hướng. Em cảm thấy đề tài là một vấn đề mang tính thời sự và sát với thực tiễn. Chính vì vậy em quyết định chọn đề tài này cho bài tiểu luận của mình Vì thời gian có hạn và khả năng hiểu biết về FDI còn chưa được sấu sắc nên bài tiểu luận không thể tránh khỏi được những sai sót và hạn chế. Em kính mong thầy cô có thể đưa ra những đánh giá và ý kiến quý báu để em có thể hoàn thành được bài tiểu luận của mình được hoàn thiện hơn. I. QUAN NIỆM VỀ FDI VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ 1. Quan niệm về FDI 1.1 Theo quan điểm của đầu tư quốc tế: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư dài hạn của công ty hay cá nhân nước này vào nước khác bằng cách thiết lập các cơ sở sản xuất kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý các cơ sỏ sản xuất kinh doanh này 1.2 Theo quan điểm thương mại quốc tế: Đầu tư trực tiếp nướcngoài xuất hiện khi một công ty đàu tư các nguồn lực vào các hoạt động kinh doanh bên ngoài quốc gia mà công ty đó đang hoạt động 2. Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế tại Việt Nam 2.1 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng và là một trong những điều kiện tiên quyết dể Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 2.2 Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp một phần quan trọng vào ngân sách nhà nước. 2.3 Hoạt động đầu tư nước ngoài góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới, công nghệ mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới, làm cho nền kinh tế nước ta chuyển biến theo kinh tế thị trường hiện đại. 2.4 Hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. 2.5 Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới. Noa là một trong những phương thức đưa hàng hoá sản xuất tại Việt Nam xâm nhập thị trường nước ngoài một cách có lợi nhất. II. TÌNH HÌNH FDI TỪ NĂM 1988 ĐẾN NAY. 1. Đánh giá chung về tình hình FDI. Sau 20 năm đổi mới, tính từ khi luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987 cho tới tháng 2 năm 2008 Việt Nam đã thu hút được hơn 9500 dự án đầu tư nước ngoài với số tổng vốn đăng kí khoảng 98 tỉ USD. Trong số này hiện có 8590 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn lên tới 83 tỉ USD. Vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài đến nay ước chừng khoảng 40 tỉ USD chiếm trên 20% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1996-2000 và duy trì ở mức 17-18% tổng vốn đàu tư từ năm 2001 đến nay. Số vốn thực qua các giai đoạn ngày cang tăng trên số vốn đăng kí: từ năm 1991-1995 số vốn thực hiện là 6.5178 tỉ USD chiếm 36.9% số vốn đăng kí; từ năm 1996-2000 số vốn thực hiện 12.9448 tỉ USD chiếm 49.3%; từ năm 2000-2006 số vốn thực hiện đạt 13.852 tỉ USD chiếm 66.8% số vốn đăng kí. Đầu tư Việt Nam trong 20 năm qua có thể nhìn nhận qua 3 giai đoạn phát triển: 1988-1996, 1996-2000 và 2000-2007. Giai đoạn 1988-1996 đây là giai đoạn tăng về số lượng của dự án đầu sau cải cách mở cửa mà đỉnh cao là năm 1996 với tổng số vốn đăng kí đạt kỉ lục 8.6 tỉ USD. Trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng bình quân hang năm vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 50%/năm. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã tăng đáng kể từ mức 37 dự án với số vốn đăng kí năm 1988 là 342 triệu USD lên 326 dự án với tổng số vốn lên tới 8640 triệu USD năm 1996 Tuy nhiên, kể từ năm 1997đến năm 2000 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam lien tục giảm. Trong giai đoạn này, vốn ĐTTTNN giảm trung bình khoảng 24%/năm. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã giảm đáng kể từ mức vốn đầu tư đăng kí khoảng 8.6 tỉ USD năm 1996 xuống còn 1.9 tỉ USD năm 2000. Ngoài ra trong giai đoạn này có một xu hướng rất đáng lo ngại đó là số dự án và vốn đầu tư giải thể tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước.Tổng số vốn đầu tư giải thể giai đoạn 1997-2000 khoảng 5.26 tỉ USD so với 2.69 tỉ USD của 8 năm trước đó cộng lại Giai đoạn từ năm 2000 đến nay đánh dấu giai đoạn phục hồi của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam sau một giai đoạn tụt dốc nghiêm trọng 1997-2000. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng lên không ngừng từ 3.1 tỉ USD năm 2001 lên 12 tỉ USD năm 2006, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã đạt mức kỷ lục 20.3 ti USD năm 2007 Nguồn Niên giám thống kê năm 2006 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo đối tác đầu tư Phần lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đến từ các nước Châu Á như: Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Malaixia, Thía Lan,… Tính từ năm 1988-2006 vốn đăng kí của các nước này chiếm khoảng 68.8% tổng số vốn đăng kí đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Phần còn lại là vốn đầu tư của các nước Châu Âu chiếm khoảng 22.2% và các nước đến từ Châu Mỹ, Châu Đại Dương chiếm khoảng 9%. Theo Niên giám thống kê năm 2006 về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam: Đài Loan là nước dẫn đầu với số vốn lên tới 9.502 tí USD, tiếp theo là Hàn Quốc với 9.2519 tỉ USD, Nhật Bản với 8.3976 tỉ USD, Hồng Kông với 6.400 ti USD. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền Châu Á năm 1997 luồng vốn đàu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (đặc biệt là các nước chiếm tỉ trọng lớn) giảm một cách đáng kể nhưng từ năm 2000 vốn đầu tư trực tiếp đã phục hồi và tăng lên nhanh chóng qua các năm. Một xu hướng rất khả quan cho Việt Nam đó là không những các nước Châu Á đầu tư vào Việt Nam mà ngày càng có nhiều công ty, tập đoàn lớn ở Châu Âu và Hoa Kỳ coi Việt Nam là một điểm đến là một môi trường đầu tư lý tưởng. Việt Nam ngày càng được mhiều nước trên thế giới như một nước có nền kinh tế năng động, tăng trưởng với tốc độ cao. Mặt khác việc chúng ta gia nhập tổ chức WTO đã làm tăng lên uy tín của Việt Nam trong giới đầu tư quốc tế. Với một môi trường chính trị ổn định cùng với những chính sách thu hút đầu tư có hiệu quả đầu tư trực tiếp vào Việt Nam hứa hẹn sẽ mang lại những kết quả khả quan trong những năm tiếp theo. 3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo ngànhkinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành như: công nghiệp chế biến. công nghiệp chế tạo, công nghiệp khai thác mỏ, sản xuất phân phối điện khí đốt và nước, xây dựng khách sạn, văn phòng nhà ở cho thuê, phát triển cơ sở hạ tầng. Tính đến năm 2006 cả nước đã thu hút được 78.2482 tỉ USD trong đó công nghiệp đạt 47.3834 tỉ USD chiếm 60.55% tổng số vốn đăng kí, ngành xây dựng đạt 5.8147 tỉ USD chiếm 7.43%, ngành nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản đạt 3.854 tỉ USD chiếm 4.93%, ngành dịch vụ đạt 21.197 tỉ USD chiếm 27.09% 3.1 Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng Từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 Việt Nam đã chú trọng thu hút vốn đầu tư vào ngành công nghiệp và xây dựng. Trong những năm 90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (ii) sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (iii) sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao. Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến giá trị của toàn ngành. Tính đến hết năm 2007 lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đã thu hút được 5.745 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng kí trên 50 tỉ USD chiếm 66,8% số dự án 61% số vốn đăng kí và 68.5% số vốn thực hiện. số thứ tự Chuyên ngành số dự án vốn đầu tư triệu USD Vốn đã thực hiện triệu USD 1 Công nghiệp dầu khí 38 3,861 514 2 Công nhgiệp nhẹ 2,542 13,268 3,639 3 Công nghiệp nặng 2,404 23,976 7,040 4 Công ngiệp thực phẩm 310 3,621 2,058 5 Xây dựng 451 5,301 2,146 Tông 5,745 50,027 15,397 3.2 Đầu tư trực tiếp trong lĩnh vực dịch vụ Nhà nước ta đã có những chính sách nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ ngay từ khi Luật đầu tư ban hành. Nhờ vậy mà một số ngành dịch vụ như bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch và kinh doanh bất dộng sản đã phát triển một cách nhanh chóng nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản bao gồm: xây dựng căn hộ,văn phòng, khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp chiếm 42% trong khi du lịch khách sạn chiếm 24%, giao thông vận tải chiếm 18% stt Chuyên ngành số dự án Vốn đầu tư triệu USD vốn thực hiện triệu USD 1 GTVT, bưu điện 208 4,287 721 2 Du lịch khách sạn 223 5,883 2,401 3 Xây dựng văn phòng, căn hộ bán và cho thuê 153 9,262 1,892 4 Phát triển khu đô thị mới 9 3,477 283 5 Kinh doanh hạ tầng KCN, KCX 28 1,406 576 6 Tài chính ngân hàng 66 897 714 7 Văn hoá y tế giáo dục 271 1,248 367 8 dịch vụ khác 954 2,145 445 tổng 1912 28,605 7,399 Năm 2007 mặc dù đầu tư trực tiếp vào nước ngoài vào Việt Nam vẫn tập trung vào công nghiệp nhưng đã có một sự chuyển dịch đầu tư lớn vào dịch vụ: công nghiệp (50,6%), dịch vụ (47,7%) tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án đầu tư lớn (xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi giải trí) 3.3 Đầu tư trực tiếp nước trong lĩnh vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp Mặc dù Việt Nam đã tạo nhiều điều kiện cho đầu tư vào nông nghiệp nhưng vì nhiều nguyên nhân mà ngành này vẫn chỉ thu hút được một lượng nhỏ vốn đầu tư nước ngoài trong đo phải đặc biệt kể đến là sự rủi ro cao khi đầu tư vào lĩnh vực này. Tính đến hết năm 2007 lĩnh vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng kí 4.4 tỉ USD, đã thực hiện 2,52 tỉ USD chiếm 10.8 % số dự án và 5.37% tổng số vốn đăng kí và 6.9% số vốn thực hiện ( giảm từ 7.4% năm 2006) Chế biến nông sản chiếm tỉ trọng lớn nhất 53,71% tổng số vốn đăng kí của ngành(mía, đường, gạo, xay xát bột mì, sắn) tiếp theo đến là trồng rừng và chế biến lâm sản chiếm 24.67% tông số vốn đăng kí của ngành; chăn nuôi và chế biến thức ăn gia chiếm 12.7%. Cuối cùng là trông trọt với 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với số vốn đăng kí là 450 triệu USD Cho đến nay đã có 50 quốc gia đầu tư vào lĩnh vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp tại Việt Nam trong đó chủ yếu là các nước châu Á (Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông,...) chiếm 60%; Châu Âu chỉ chiếm có 19% (Pháp 8% và Bríhtish Virgin Island 11%). Hoa kỳ và một số nước có nền nông nghiệp phát triển vẫn chưa thật sự đầu tư vào Việt Nam. Thực tế thì đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này chỉ tập trung ở khu vực phía Nam (Đông Nam Bộ 54%, Đồng bằng sông Cửu Long 13%, Duyên hải Nam Trung Bộ 15%). Miền Bắc thu hút rất ít vốn đầu tư thậm chí đồng bằng sông Hồng cũng chỉ có 5% stt Chuyên ngành số dự án vốn đăng kí vốn thực hiện 1 Nông, lâm nghiệp 803 4,014 1,856 2 thuỷ sản 130 450 169 4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo địa phương. Qua 20 thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương “trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận. Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD). Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu (159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của Vùng; Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký của Vùng Ngoài một số địa phương vốn có ưu thế trong thu hút vốn ĐTNN (Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hải Phòng, Quảng Ninh) một số địa phương khác (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Yên, Hà Tây..) do yếu tố tích cực của chính quyền địa phương nên việc thu hút vốn ĐTNN đã chuyển biến mạnh, tác động tới cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Năm 2004 công nghiệp có vốn ĐTNN chiếm 86% giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, 81% của tỉnh Vĩnh Phúc, 70% của tỉnh Đồng Nai, 65% của tỉnh Bình Dương, 46% của Thành phố Hải Phòng, 35% của Thành phố Hà Nội và 27% của thành phố Hồ Chí Minh. Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng (113 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Quảng Nam (15 dự án với tổng vốn đăng ký 1,1 tỷ USD) đã có nhiều tiến bộ trong thu hút vốn ĐTNN, nhất là đầu tư vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế, bước đầu đã góp phần giảm tình trạng “cháy” buồng, phòng cho khách du lịch, nhưng nhìn chung vẫn còn dưới mức nhu cầu và tiềm năng của vùng. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn ĐTNN còn khiêm tốn như vùng Đông Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng (93 dự án với tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh khu vực Tây Nguyên nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn ĐTNN còn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4% về vốn đăng ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước. Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện địa lý-kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế tại các địa bàn này còn rất thấp. III. Nhận xét và đánh giá về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. 1. Thành tựu và kết quả đạt được Chúng ta không thể không thừa nhận những kết quả to lớn mà đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã mang lại cho công cuộc phát triển kinh tế. Điều đó được thể hiện rõ qua những tác động tích cực mà đối với nền kinh tế Việt Nam trong 20 đổi mới. 1.1 Vốn đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng và cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Trong 20 năm qua khu vực vốn đầu tư đã tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể, đặc biệt là phải kể đến giá trị xuất khẩu, đóng góp một phần quan trọng vào tổng thu nhập quốc dân. Từ mức đóng góp 6.3% vào GDP giai đoạn 1991-1995 thì đến năm 1996-2000 mức đóng góp đã tăng lên 10.3%của GDP; năm 2005 mức đóng góp đã đạt 14.65; năm 2006,2007 mức đóng góp đã lên tới 17%. Nếu trong giai đoạn 1991-1995 tổng giá trị doanh thu mới đạt 4,1 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 30% tổng doanh thu) thì trong thời kỳ 1996-2000 tổng giá trị doanh thu đã đạt 27,09 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 10,59 tỷ USD, chiếm 39% tổng doanh thu), tăng gấp 6,5 lần so với 5 năm trước. Trong giai đoạn 2001-2005 tổng giá trị doanh thu đạt 77,4 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 34,6 tỷ USD, chiếm 44,7% tổng doanh thu), tăng gấp 2,8 lần so với 5 năm 1996-2000. Trong hai năm 2006, 2007 tổng giá trị doanh thu đạt 69 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 28,6 tỷ USD, chiếm 41% tổng doanh thu. Tuy những năm đầu thi hành Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng cũng đã tích cực đóng góp vào ngân sách nhà nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân sách tăng dần qua các năm và bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005 (đạt 1,29 tỷ USD, tăng 39,5% so với năm trước và chiếm 12% tổng thu ngân sách nhà nước, vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (10%). Giai đoạn 1991-1995 do chính sách ưu đãi, khuyến khích ĐTNN của Nhà nước ta nên các doanh nghiệp ĐTNN đóng góp ngân sách còn hạn chế 115 triệu USD, nhưng con số này đã tăng hơn 10 lần trong thời kỳ 1996-2000 (đạt 1,49 tỷ USD). Lý do một số doanh nghiệp ĐTNN đã qua thời gian hưởng chính sách ưu đãi thuế của nhà nước. Giai đoạn 2001-2005 khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách hơn 3,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần 5 năm trước. Năm 2006 con số trên đạt 1,4 tỷ USD, bằng cả 5 năm 1996-2000. Năm 2007, ước tính thu ngân sách đạt 1,576 tỷ USD, tăng 7% so với năm trước. Đây thực sự là một nguồn thu vô cùng quan trọng để chính phủ Việt Nam tái đầu tư phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân 1.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động đồng thời nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006). Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ thể tỷ trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và 2005. Đặc biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..) tỷ lệ này đạt đến 65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn. ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi, 25% hàng may mặc. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất đồng bộ, hiện đại khắp cả nước sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên thiên và phát huy được những lợi thế so sánh của Việt Nam. 1.3 Đầu tư nước ngoài thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ vào Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Có thể nói hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh nhập khẩu những công nghệ tiên tiến vào Việt Nam trong những năm qua. Chính nhờ những công nghệ này mà ngành công nghệ thông tin, viễn thông, khai thác thăm dò dầu khí, hoá chất, chế tạo điện tử, ôtô, xe máy đã đạt được những bước tiến vượt chỉ trong một thời gian ngắn. Nhiều tập đoàn công nghệ cao trên thế giới đã đầu tư vào Việt Nam như Intel với 1tỉ USD năm 2006, Canon, Panasonic, Rightech, LG... Trong lĩnh vực Nông-lâm-ngư nghiệp ĐTNN đã tạo ra nhiều sản phẩm mới chất lượng cao, nhiều giống cây con mới. Hầu hết doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều áp dụng những công nghệ quản lý tiên tiến trên thế giới tư đó các doanh nghiệp Việt Nam có thể học hỏi được những kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực sự đã tạo ra một tác động lan toả trong nền kinh tế thúc đẩy sự cạnh tranh và đổi mới công nghệ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. 1.4 ĐTNN góp phần gia tăng việc làm cho người lao động, nâng cao năng suất lao động và cải thiện nguồn nhân lực. Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. 1.5 ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN cao hơn tốc độ xuất khẩu bình quân của cả nước đóng góp vào sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 1996-2000 kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 10.6 tỉ USD (không kể dầu thô) chiếm 23% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2000 con số này đã là 25%; năm 2003 là 32%; năm 2005,2006,2007 thì kim ngạch xuất khẩu của khu vực này đã vượt trên con số 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. ĐTNN chiếm tỉ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử máy tính linh kiện, 42% da giày, 30% may mặc. Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn đa quốc gia mà hàng hoá sản xuất tại Việt Nam đã xâm nhập thị trường các nước trên thế một cách hiệu quả. Đặc biệt trong lĩnh vực du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn 4, 5 sao và nhiều khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí đạt tiêu chuẩn quốc tế góp phần tích cực vào việc thu hút khách du lịch và quảng bá thương hiệu Việt Nam đến với các quốc gia trên thế giới. Bên cạnh thông qua giao dịch và hệ thống thanh toán quốc tế mà hệ thống ngân hàng tài chính của Việt Nam ngày càng trở nên hoàn thiện và phát triển. ĐTNN giúp Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại chủ động hội nhập quốc tế. ĐTNN là nhân tố tích cực giúp xoá bỏ lệnh cấm vận của Hoa Kỳ đói với Việt Nam tạo điều kiện để đa phương hoá đa dạng hoá các mối quan hệ, hợp tác. Tính đến nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của nhiều tổ: ASEAN, APEC, ASEM, WTO. Nước ta đã kí kết 51 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với nhiều quốc gia đặc biệt là hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) và hiệp định tự do hoá, khuyến khích bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. 2 Mặt hạn chế Tuy đạt được nhiều kết quả quan trọng nhưng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam không thể tránh khỏi những tồn tại và hạn chế nhất định. 2.1 Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ: Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài. Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp. Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN. 2.2 Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được giải quyết kịp thời. Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động. Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp. ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN. 2.3 Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta. Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam. Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. 2.4 Tồn tại nhiều rào cản làm giảm vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Chính phủ khuyến khích và ưu đãi đối với ĐTNN nhưng trên thực tế lại xảy ra tình trạng phân biệt đối xử theo hướng bất lợi với các nhà đầu tư nước ngoài. Pháp luật không hạn chế hình thức đầu tư nhưng trong một số ngành, lĩnh thì hình thức đầu tư thực sự bị hạn chế. Có thể lấy ví dụ như Việt Nam mỗi năm phải nhập 4-5 triệu tấn clinker nhưng nhà nước lại chỉ cho phép việc mở rộng sản xuất đối với các xí nghiệp liên doanh có vốn pháp định của Việt Nam là 40%. Các tổng công ty lớn tham mưu cho các Bộ những chính sách và quy hoạch có lợi cho họ mang lại sự bất bình đẳng đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các cơ quan chức năng tham mưu Việt Nam vừa đá bóng vừa thổi còi nên thực hiện chức năng tham mưu kém. Các thay đổi bất thường trong chính sac hs thuế làm nản lòng các nhà đầu tư. Hiện nay thủ tục thẩm định, cấp Giấy phép đầu tư, điều chỉnh các giấy phép của các dự án còn rất phiền hà, phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều Bộ, Ban, Ngành và tốn nhiều thời gian. Bên cạnh đó còn có những rào cản mang tính xã hội như sự khác biệt về văn hoá, mâu thuẫn giữa lợi ích nhà nước và lợi ích nhà đầu tư, trình độ cán bộ yếu kém về mặt quản lý và lực lượng công nhân có tay nghề thấp. 3. Những vấn đề đang đặt ra. - Thực tế trong nhiều năm qua còn tồn tại nhiều chính sách bất hợp lý gây ảnh hưởng không nhỏ đối với ĐTNN vào Việt Nam. Nhà nước ta cần phải xây dựng được một hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện về ĐTNN và những chính sách ưu đãi phù hợp với thực tiễn đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư - Hệ thống cơ sở hạ tầng nước ta còn lạc hậu so với nhiều nước trong vực và trên thế giới chưa đáp ứng được nhu cầu phát tr._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7357.doc
Tài liệu liên quan