Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Lời nói đầu Sau khi độc lập, hoàn toàn thống nhất đất nước, đất nước ta tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo con đường Xã Hội Chủ Nghĩa. Nền kinh tế nước ta áp dụng quá cứng nhắc theo mô hình của Liên Xô và Trung Quốc. Việc áp dụng đó mắc quá nhiều sai lầm dẫn đến nền kinh tế nước ta chậm phát triển. Điều tất yếu là phải thay đổi phương hướng phát triển kinh tế, xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, phát triển, trở thành một nước có nền kinh tế công nghiệp hoá, hiên đại hoá. Trên cơ sở đổi

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mới tư duy, những năm gần đây nền kinh tế hoá tập trung ở nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường, và đã đạt được nhiều thàh tựu đáng kể. Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế Việt nam đã có những bước tiến vượt bậc và tiếp tục trên đà phát triển. Tuy nhiên việc thực hiện không hề dễ dàng, nhất là đối với các DNNN. Chuyển sang nền kinh tế thị trường có nghĩa là DN phải tự hoạt động để tồn tại, đứng cững trên thị trường. Đồng thời điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, hiệu quả kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước đã bộc lộ đầy đủ những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút và khủng hoảng, Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để cấu trúc lại sở hữu nhà nước và cải cách khu vực kinh tế nhà nước nhằm nâng cao vai trò, hiệu quả của nó. Theo tinh thần nghị quyết đại hội VI và VII của đảng vấn đề này đã được đưa ra thảo luận. Nhiều nhà kinh tế học, lý luận học nghiên cứu kỹ lưỡng và đưa ra những giải pháp cơ bản, phù hợp với tình hình kinh tế nước ta hiện nay. Đó là tiến hành CPH các DNNN- đây là một trong những giải pháp có tính chất chiến lược “Tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nhằm đa dạng sở hữu, đưa yếu tố cạnh tranh làm động lực tăng hiệu quả kinh doanh và xác lập một mô hình hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường.” Xét trên một mức độ quan trọng của chiến lược này. Em quyết định chọn tiểu luận “ Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam”. Với tư cách là một công trình khoa học nhỏ. Vì vậy trong khuôn khổ bài viết này em chỉ xin đề cập một vài suy nghĩ liên quan đến đề tài. Trong quá trình làm bài em có sưu tầm các tài liệu ở các sách tham khảo và trên nhưng tạp chí kinh tế. Em xin cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Minh Hiếu đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình hoàn thành bài viết. Phần I. Khái quát CHUNG về công ty cổ phần I/ Khái niệm Trong nửa đầu thế kỷXIX, nề kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ. Nhất là sau khi cách mạng công nghiệp hoá đã đạt nhiều thành công trong ứng dụng và sản xuất. Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, ngày càng có nhiều những dự án đầu tư phát triển. Tuy nhiên vốn đầu tư của các chủ doanh nghiệp lại có hạn, thiếu vốn làm cho chủ doanh nghiệp không thể thực hiện những dự án lớn. Ngay cả chinh phủ cũng vậy, những dự án không lồ cũng khiến cho các nhà chức trách đau đầu vì ngân sach không đủ. Vì vậy họ nghĩ ra cách quyên góp vốn bằng cách huy động vốn rỗi rãi của công chúng. Thực tế có rất nhiều ngươi có khả năng tham gia đầu tư. Nhưng họ còn e ngại, có thể là không biết làm thế nào để kinh doanh với số tiên họ có. Do đó họ buộc phải nghĩ ra một hình thức mới thu hút đầu tư của công chúng, và công ty cổ phần là hình thức phù hợp nhất. Công ty cổ phần có đủ những yêu cầu đặt ra để có thể giải quyết vấn đề làm thế nào thu hút đầu tư của công chúng. Khác với tất cả các hình thức đã có, công ty cổ phần phát hành chứng chỉ đầu tư. Công ty bán cổ phiếu cho những người có nhu cầu đầu tư. Với số cổ phiếu trong tay , họ trở thàng một trong những người chủ sở hữu doanh nghiệp. Và họ được hưởng lợi nhuận từ phần trăm doanh thu của công ty theo giá trị tính băng phần trăm số cổ phần họ nắm giữ. Công ty cổ phần được ra đời. Công ty cổ phần là loại công ty được thành lập do nhiều người bỏ vốn ra. Tiền vốn được chia thành các cổ phần bằng nhau, người hùn vốn với tư cách là các cổ đông sẽ mua một số cổ phần đó. Cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số tiền cổ phần mình đã xuất vốn và cổ đông được quyền tự do sang nhượng lại cổ phần thông qua việc mua bán các cổ phiếu. Việt Nam cũng áp dụng mô hình công ty cổ phần trong nền kinh tế. Công ty CP được trình bày trong luật kinh tế như sau: * Công ty cổ phần là công ty trong đó: - Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là bảy. - Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu. - Cổ phiếu được phát hành có thể có ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng lập viên, của thành viện hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có ghi tên. - Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu có ghi tên chỉ được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của hội đồng quản trị. - Công ty cổ phần được tự do đặt tên. Trên bảng hiệu, hoá đơn, quảng cáo, báo cáo, tài liệu, giấy tờ giao dịch khác của chúng tôi đều phải ghi tên kèm theo các chữ "công ty cổ phần " và vốn điều lệ. Để thu hút vốn của công chúng, nhà nước cũng tiến hành CPH các doanh nghiệp nhà nước. Tại đại hội đảng lần thứ VI, VII, Nhà nước ta xác định cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một phần tất yếu trong tình hình mới để tiến hành thúc đẩy phát triển kinh tế dất nước. Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước, đồng thời là giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế và nâng cao hiệu quả kinh tế. II cấu trúc Tổ chức quản lý công ty của công ty cổ phần * Bản điều lệ công ty (Charter) - Tư cách pháp nhân của công ty cổ phần thể hiện trong điều lệ công ty. Bản điều lệ này do các cơ quan quản lý nhà nước quy định các nét căn bản. - Điều lệ công ty là một bản cam kết các tất cả các cổ đông về thành lập và hoạt động của công ty được thông qua tại đại hội đồng thành lập. - Luật công ty ở nước ta quy định điều lệ công ty cổ phần phải có các nội dung sau đây: Hình thức mục tiêu, tên gọi, trụ sở, thời gian hoạt động của công ty. Họ tên các sáng lập viên (nếu có) Vốn điều lệ, trong đó ghi rõ trị gia phần vốn góp bằng hiện vật hoặc bằng bản quyền sở hữu công nghiệp. Phần góp vốn của mỗi thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với công ty cổ phần. Thể thức hoạt động và thông qua quy định của đại hội cổ đông. Cơ cấu quản lý và kiểm soát của công ty. Các loại quỹ, mức giới hạn các quỹ được lập tại công ty. Thể lệ quyết toán và phân chia lợi nhuận. Các trường hợp sát nhập, chuyển đổi hình thức, giải thể công ty và thể thức thanh lý tài sản của công ty. Một trong những nội dung quan trọng nhất của Điều lệ công ty là hình thành cơ cấu quản lý và kiểm soát công ty. Theo thông lệ quốc tế về quản lý công ty cổ phần và kiểm soát của công ty cổ phần được thể hiện * Đại hội đồng cổ đông: là cơ quan quyết định cao nhất mọi vấn đề có liên quan đến sự tồn tại và hoạt động của công ty. Đại hội đồng cổ đông bao gồm các loại sau: + Đại hội đồng thành lập được triệu tập để tiến hành các thủ tục thành lập, thảo luận và thông qua điều lệ công ty. + Đại hội đồng bất thường được triệu tập để sửa đổi điều lệ công ty hoặc thảo luận những vấn đề khẩn cấp như khó khăn về tài chính, cần thay đổi chiến lược kinh doanh, chấn chỉnh hoạt động của Hội đồng quản trị và ban kiểm soát... + Đại hội đồng thường được tiến hành hàng năm từ một đến hai lần thường là cuối năm hoặc bất kỳ lúc nào mà hội đồng quản trị hoặc kiểm soát viên cảm thấy cần thiết, để giải quyết các công việc thuộc hoạt động kinh doanh của công ty. Thành phần tham dự đại hội đồng cổ đông thường là các cổ đông có đủ số vốn cổ phần hoặc số vốn góp quy định cho một đại biểu của đại hội. Những cổ đông không đủ số cổ phần hoặc số vốn góp quy định cho một đại biểu của đại hội thì có thể tập hợp lại cho đủ điều kiện để cử người đại diện tham dự đại hội đại biểu cổ đông. *Hội đồng quản trị (Board of Directors) Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cao nhất có trách nhiệm tập thể trong việc quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần trong phạm vi luật pháp. Số lượng thành viên hội đồng quản trị về nguyên tắc do đại hội cổ đông quyết định và phụ thuộc vào quy mô phát triển sản xuất kinh doanh của công ty - Công ty cổ phần nhỏ có lượng thành viên hội đồng quản trị từ 3 đến 7 người. - Công ty cổ phần trung bình có lượng thành viên hội đồng quản trị từ 9 đến 13 người. -Công ty cổ phần lớn có lượng thành viên hội đồng quản trị từ 15 đến 17 người. Trong từng thời kỳ các công ty cổ phần có thể thay đổi số lượng thành viên hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công ty thay mặt những người chủ sở hữu (cổ đông) để giải quyết mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty được đại hội cổ đông uỷ nhiệm. Những vấn đề vượt quá quyền hạn và chức năng của mình thì hội đồng quản trị phải trình lên đại hội cổ đông. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước đại hội cổ đông về những sai phạm trong quản lý, vi phạm điều lệ, vi phạm luật pháp gây thiệt hại cho công ty. Do đó, hội đồng quản trị cần phải gồm những thành viên có trình độ chuyên môn và quản lý giỏi, am hiểu các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, quản lý, pháp luật thì mới hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời mỗi thành viên hội đồng quản trị phải có một số lượng cổ phiếu tối thiểu. Số cổ đông này phải là những cổ phiếu có ghi tên, không được chuyển nhượng trong suốt thời gian tại chức và trong hạn hai năm, kể từ ngày thôi giữ chức thành viên hội đồng quản trị. Đứng đầu hội đồng quản trị là chủ tịch hội đồng quản trị (Chairman). Chủ tịch hội đồng quản trị được bầu ra theo hai cách sau: -Cách 1: Đại hội đồng cổ đông bầu ra hội đồng quản trị gồm một số thành viên do điều lệ công ty quyết định, sau đó các thnàh viên Hội đồng quản trị lựa chọn trong số họ để bầu ra một người làm chủ tịch Hội đồng quản trị. -Cách 2: Đại hội đồng cổ đông trực tiếp bầu ra chủ tịch Hội đồng quản trị và các thành viên Hội đồng quản trị. Chủ tịch Hội đồng quản trị là người được các cổ đông uỷ quyền thực hiện các chức năng và quyền hạn của chủ sở hữu đối với công ty, toàn quyền đứng ra bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của công ty, là người đại diện công ty trước pháp luật và các cơ quan nhà nước. Nhiệm kỳ của chủ tich Hội đồng quản trị trùng với nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị. Thành viên Hội đồng quản trị được hưởng lương hoặc thù lao khác theo quyết định của đại hội đồng cổ đông. *Ban kiểm soát: Đây là bộ phận dự án đại hội cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra hoạt động của Hội đồng quản trị nhằm bảo vệ lợi ích của các cổ đông - những người sở hữu đối với công ty. Theo thông lệ chung ban kiểm soát có từ 5 - 7 thành viên do một trưởng ban đứng đầu và chịu trách nhiệm tổ chức và điều hành hoạt động của ban. Các kiểm soát viên có nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Kiểm tra sổ sách kế toán, tài sản, của bảng tổng kết năm tài chính của công ty và triệu tập đại hội đồng cổ đông khi xét thấy cần thiết. - Trình đại hội đồng cổ đông báo cáo thẩm tra các bảng tổng kết năm tài chính của công ty. - Báo cáo những sự kiện tài chính bất thường xảy ra, nhận xét ưu khuyết điểm trong quản lý tài chính của Hội đồng quản trị. Kiểm soát viên được hưởng thù lao do đại hội đồng cổ đông quyết định và chịu trách nhiệm trước đại hội đồng cổ đông về những sai phạm của mình. Để đảm bảo tính khách quan trong quá trình thực thi nhiệm vụ, luật công ty quy định " Kiểm soát viên không thể đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc (Tổng giám đốc _ công ty; không thể là vợ hoặc chồng hoặc người thân thuộc trực hệ ba đời của các thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc ( tổng giám đốc ) công ty ". *Cổ đông Cổ đông là chủ sở hữu một phần công ty nên có quyền tham gia quản lý công ty thông qua bầu cử ra Hội đồng quản trị và ban kiểm soát của công ty. Ngoài ra, các cổ đông còn được hưởng những quyền lợi sau: - Được hưởng cổ tức (lãi cổ phần ) tỉ lệ với số cổ phần mà họ nắm giữ, với điều kiện là các khoản lãi cổ phần đó đã được Hội đồng quản trị công bố hợp pháp, việc công bố này là quyền hành chỉ dành cho Hội đồng quản trị. - Được chia xẻ theo tỉ lệ tương ứng số tài sản còn lại sau khi đã trả nợ nếu công ty bị giải thể. - Được quyền đăng ký mua những cổ phiếu mới phát hành thêm về sau, trước khi chúng được đem bán rộng rãi trong công chúng. III Vai trò của công ty cổ phần Các công ty cổ phần, trong đó chủ yếu là các công ty được hình thành từ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã có vai trò không nhỏ trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nước ta. Cổ phần hóa đã đáp ứng phần nào những yêu cầu bức thiết của công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi, giải toả những khó khăn trong ngân sách Chính phủ, khuyến khích người lao động đống góp tích cực và có trách nhiệm sức lực, trí tuệ của họ cho hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp. Công ty cổ phần ra đời và phát triển đã tháo gỡ khó khăn cho ngân sách nhà nước, đồng thời huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ, việc đảm bảo nền tài chính quốc gia vững mạnh là yêu cầu cực kỳ bức thiết. Ngân sách nhà nước không chỉ cần được phân bổ một cách hợp lý, có lợi cho việc tái cơ cấu nền kinh tế quốc dân mà tài sản nhà nước cũng cần được sử dụng nhằm mang lại hiệu quả đầu tư tối đa. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã giúp chính phủ giải quyết phần nào những đòi hỏi trên. Chính phủ không những có thể điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách khống chế số cổ phiếu bán ra hoặc những biện pháp khác mà còn được hưởng cổ tức từ kết quả kinh doanh của công ty. Tài sản của doanh nghiệp nhà nước nhờ cổ phần hóa thu hồi lại sẽ được phân bố cho những dự án quốc gia giàu tính khả thi hoặc đầu tư vào những ngành mang lại nhiều lợi ích kinh tế, xã hội quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Hơn nữa, các công ty cổ phần dưới quền điều hành của chủ nhân mới, với động lực mới trong quản lý doanh nghiệp, phương hướng hoạt động thay đổi theo hướng lấy hiệu quả kinh doanh làm mục tiêu, không ngừng củng cố sức mạnh cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ huy động thêm nhiều nguồn vốn nhà rỗi từ nhiều tầng lớp trong xã hội. Thực tế đã chứng minh rất rõ điều này. Vốn kinh doanh của công ty cổ phần cơ điện lạnh (Ree) tăng gần 3 lần, từ 16.295 triệu năm 1993 lên 49.921 triệu năm 1996. Trong năm 2000, tổng doanh thu của Ree đạt 299 tỷ đồng, tăng 17% so với năm 1999, lợi nhuận của công ty đạt 36,19 tỷ đồng. Ngay trong tháng 1/2001, công ty cổ phần kho vận giao nhận ngoại thương (Transimex Saigon) đạt doanh thu 4.183.306.187 đồng, lãi trước thuế 407.936.836 đồng. Các công ty cổ phần ở Việt Nam với khả năng tích luỹ vốn và thu hút các nguồn đầu tư khác nhau đã có thể dần dần đổi mới công nghệ, kỹ thuật, đồng thời tổ chức cơ cấu lao động theo hướng hợp lý hóa đã làm cho năng suất lao động của công ty tăng rõ rệt, sức sản xuất xã hội cũng tăng theo. Điều này chứng tỏ rằng, cùng với sự phát triển của công ty cổ phần, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta đang được cải thiện. Công ty cổ phần phát triển trong nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo ra một khối lượng việc làm đáng kể cho người dân. Thu nhập của người lao động trong các công ty cổ phần cao hơn khi còn là quốc doanh từ 1,5 đến 2 lần chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần, tăng khoảng 22 - 24%/năm. Hơn nữa, phía các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa cũng giải quết được tình trạng “vô chủ” của doanh nghiệp. Sự tách biệt quyền sở hữu với quyền quản lý, tổ chức trong công ty cổ phần đã đẩy lùi ý thức của người lao động cho rằng tài sản của doanh nghiệp nhà nước được coi là “tài sản chung”, mọi người đều có thể tuỳ tiện sử dụng mà không phải bận tâm. Các công ty cổ phần trở nên năng động hơn, hoạt động có hiệu quả hơn nhờ phương pháp và kinh nghiệm quản lý mới. Quyền lợi của người điều hành và lao động gắn liền với sự thành bại của doanh nghiệp, vì thế, tất cả các thành viên đều rất quan tâm đến công việc của mình, lao động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao, năng động và óc sáng tạo phong phú. Công ty cũng luôn phải thực hiện hạch toán kinh doanh một cách nghiêm túc, đồng thời quan sát kỹ những biến động của thị trường. Nói tóm lại, công ty cổ phần ra đời và phát triển đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong phương thức hoạt động của các doanh nghiệp nước ta. Công ty cổ phần đóng vai trò lớn trong việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi phục vụ cho đầu tư phát triển, nó cũng là cầu nối cho chúng ta tiếp thu những kinh nghiệp mới trong việc hợp lý hóa quản lý và tổ chức sản xuất. Vấn đề vốn được giải quyết đã tạo diều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, mặt khác nó đã cải thiện được một phần thu nhập cho người lao động. IV. Phân loại công ty cổ phần Một công ty cổ phần nói chung đều là công ty phát hành cổ phiếu để góp vốn theo những cổ phần có mệnh giá bằng nhau. Tuy nhiên, vì có những mức độ phát hành cổ phiếu rộng hay hẹp nên có những loại công ty cổ phần khác nhau: + Công ty cổ phiếu nội bộ: Là công ty cổ phần chỉ phát hành cổ phiếu trong số những người sáng lập ra công ty, những cán bộ công nhân viên trong công ty và các pháp nhân là những đơn vị trực thuộc những đơn vị trong cùng tập đoàn của đơn vị sáng lập. + Công ty cổ phiếu công cộng: là công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu rộng rãi trong công chúng, ngoài những đối tượng nội bộ như công ty cổ phần nội bộ. + Công ty cổ phần công cộng đã đăng ký vào thị trường chứng khoán có tổ chức (hay công ty cổ phần công cộng đã niêm yết): là công ty cổ phần công cộng có phát hành chứng khoán được đăng ký chứng khoán của họ vào danh mục chứng khoán giao dịch trên thị trường chứng khoán có tổ chức ( sở giao dịch chứng khoán ) và đã được chấp nhận. Phần II. cơ sở lý luận thực tiễn của cổ phần hoá (cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là sự lựa chọn tất yếu) Thông qua kết quả nghiên cứu của Tổng cục thông kê trung ương đã chỉ ra sự hoạt động yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước đang đứng trước thực trạng đáng buồn là: “ Trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, cho nên hiệu quả kinh tế là yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì doanh nghiệp nhà nước lại lâm vào tinh trạng sa sút nghiêm trọng”. DNNN đang rơi vào tinh trạng khủng hoảng. Nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và tất nhiên Nhà nước phải rút ngân sách bù lỗ. DNNN đã bộc lộ sự yếu kém của mình khi tham gia vào nền kinh tế thị trường. Vậy đâu là nguyên nhân của sự yếu kém này? Xuất phát từ thực tế khách quan, các doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc qúa nhiều vào sự bảo trợ của nhà nước. Hoạt động của DNNN chủ yếu dựa vào sự chỉ đạo của cấp trên, vì vậy nhưng thành viên trong DN sinh ra tính ỷ nại vào cấp trên. Doanh nghiệp là của nhà nước vì vậy kết quả kinh doanh thế nào cũng không ảnh hưởng trực tiếp tới họ. Do đó trách nhiệm của họ với DN cũng vì thế mà không nhiều. Hoạt động của họ không đạt hiêụ quả, năng suất tối ưu. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường thì Thông tin chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng, có thể nói nó quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp. Mỗi một bước đi của doanh nghiệp đều gắn liền với những thông tin thị trường, và trước những thông tin thay đổi hàng ngày hàng giờ thì doanh nghiệp cũng phải nắm bắt thông tin kịp thời để thích nghi với ngoại ứng. Thế nhưng hầu hết các quyết định của DNNN phải thông qua văn bản. Để có một văn bản điều chỉnh của lãnh đạo thì mất khá nhiều thời gian, khi mà văn bản đến nơi cần điều chỉnh thì thông tin ấy đã không mấy con giữ nguyên được giá trị ban đầu của nó nữa. Hơn nữa việc điều chỉnh cũng phức tạp hơn rất nhiều so với các DN tư nhân. bởi vậy DNNN không thực sự đạt hiệu quả tối ưu. Với các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) thì lại hoàn toàn khác, DNTN rất năng động, dễ thay đổi, thích nghi với những biến động của thị trường, cho nên hoạt động hiệu quả hơn nhiều. Cạnh tranh chính là động lực mạnh mẽ để phát triển, vì vậy số lượng và quy mô DNTN ngày càng phát triển. DNNN thì lại không được như vậy, tính cạnh tranh không phải là động lực chính để phát triển DN. DNNN hoạt động theo nhưng chỉ tiêu, kế hoạch đề ra sẵn với những quy mô được ấn định. Cơ cấu DNNN lại cứng nhắc cũng gây không ít khó khăn trong quá trình hoạt động, nó kìm hãm những sự năng động sáng tạo trong quản lý và kĩ thuật của bộ máy điều hành, bởi vậy không có nhiều những bước đột phá mang tính quyết định dẫn đến những thành công có thể thay đổi hoàn toàn bộ mặt của nền kinh tế. Vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào cơ cấu lại DNNN để có thể cải thiện tình hình hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Vấn đề này được các nhà kinh tế học nghiên cứu và đặt ra giải pháp cơ bản, phù hợp với tình hình kinh tế nước ta hiện nay. Muốn nâng cao hiệu quả phải nâng cao ý thức của mỗi thành viên, mỗi thành viên phải tự giác thực hiện. Việc thực hiện phải đem lại lợi ích nhất định cho mỗi thành viên. Làm thế nào để mỗi thành viên có một phần tài sản của mình trong DN và biến họ thành một trong những ông chủ sở hữu khiến họ có trách nhiệm hơn với hành vi của mình và tích cực hoạt động để có thể sinh lợi nhuận cho bản thân. Theo tinh thần nghị quyết của đại hội Đảng VI và VII, Đảng và nhà nước ta đã xác định: Tiến hành cổ phần hoá DNNN - Đây là giải pháp chiến lược lâu dài nhằm đa dạng chủ sở hữu, đưa yếu tố cạnh tranh làm động lực, tăng hiệu quả kinh doanh và xác lập mô hình hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. phần III: Tìm hiểu thực trạng tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Những đánh giá chung Tiến trình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn vừa qua Quá trình được chia thành 2 giai đoạn + Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995). Quyết định số 202/CT của Chủ tịch Thủ tướng Chính phủ được ban hành ngày 8/6/1992 về thực hiện thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Sau 4 năm thực hiện, nước ta đã chuyển được 5 doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần, bao gồm: ã Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ Giao thông vận tải(1993). ã Công ty Cơ điện lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh(1993). ã Xí nghiệp giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp(1994). ã Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An(1994). ã Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn(1995 + Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến nay. Ngày7/5/1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP xác định rõ giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu tiên cho người lao động trong doanh nghiệp, giúp Thủ tướng chỉ đạo công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ, các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác này. 1. Những thành tựu đạt được CPH là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần với mục đích huy động vốn trong dân, tạo ra sự năng động và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Thực tế quá trình CPH những năm qua đã khẳng định, đây là một chủ trương đúng đắn và là giải pháp quan trọng để cơ cấu lại và nâng cao nền kinh tế. Được biết, tính đến cuối 2003 trên địa bàn cả nước đã CPH được khoảng trên 1490 doanh nghiệp. Riêng trong năm 2003, tính đến ngày 31/12/2003, cả nước thực hiện sắp xếp và chuyển đổi sở hữu được: 927 doanh nghiệp, trong đó CPH được: 537 doanh nghiệp; Sáp nhập: 154 doanh nghiệp; Hợp nhất: 48 doanh nghiệp; và 74 bộ phận doanh nghiệp. Nhìn chung, các doanh nghiệp sau CPH hoạt động tốt hơn trước "Theo báo cáo sơ bộ của hơn 200 công ty cổ phần hoạt động trên một năm cho thấy: doanh thu tăng 43%, lợi nhuận tăng hơn 100%, nộp ngân sách tăng 18%, lao động tăng 5% và thu nhập tăng 22%". Đặc biệt, có một số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động tốt hơn trước rất nhiều, đó là: Công ty cổ phần Tây Nam Đá mài - Tổng công ty Than Việt Nam: Chỉ tiêu Trước CPH 1999 2001 2002 (triệu đồng) Doanh thu 7.405 8.757 10.656 Lợi nhuận 16.548 39.185 50.295 Nộp ngân sách 172 749 863 Thu nhập(1000đ) 298 340 386 Lao động 1,533 1,686 1,759 Cổ tức(%) 10,8 38 40 Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (doanh thu tăng 5,4 lần, lợi nhuận tăng 11,2 lần, nộp ngân sách tăng 13,5 lần, lương tăng 2,9 lần), Công ty bông Bạch Tuyết (doanh thu tăng 1,6 lần, lợi nhuận tăng 2lần, lương tăng 1,2 lần), Công ty cổ phần cáp và viễn thông (doanh thu tăng 2,1 lần, lợi nhuận tăng 4,8 lần, nộp ngân sách tăng 2,8 lần)…Ngoài ra số lao động hiện đang làm việc trong các doanh nghiệp dự kiến CPH trong 3 năm 2001-2003 là 311.977 người, bằng 72,7% tổng số lao động trong các doanh nghiệp. Số lao động cụ thể cho từng năm như sau: Hình thức 2001 2002 2003 3 năm Tổng số lao động các DNNN CPH, giao, bán, khoán, cho thuê(người) 102.899 105.100 103.978 311.977 CPH 87.245 90.122 93.183 270.550 Giao, bán, khoán, cho thuê 15.654 14.978 10.795 41.427 Ngoài ra còn có rất nhiều DN đã CPH thành công. Công ty chế biến thức ăn gia súc Việt Phong từ 2,37 tỷ lên 4,8 tỷ gấp 2,02 lần; Xí nghiệp cung ứng và chế biến than Cao Bằng từ 0,853 tỷ lên 1,014 tỷ gấp 1,19 lần; Công ty cao su Sài Gòn từ 0,75 tỷ lần 1,28 tỷ gấp 1,7 lần... Năm 1990-1992 1992 -1995 1996 1997 1998 1999 2000 Số DNNN 0 7 6 7 100 250 155 Trong số 525 doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần (đến năm 2000) thì phần lớn là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Lĩnh vực Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ thương mại Giao thông vận tải Các lĩnh vực khác Tỷ lệ ( % ) 45,5 37,7 10,7 5 Đây thực sự là thành công về số lượng doanh nghiệp được CPH. Căn cứ vào các đề án tổng thể sắp xếp DNNN theo tinh thần của hội nghị Trung ương khóa IX, đến năm 2005 sẽ có khoảng 2033 DNNN được CPH. Nhìn vào con số các doanh nghiệp cần phải CPH và số doanh nghiệp đã được CPH, thì chặng đường 2 năm còn lại đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất cao mới có thể hy vọng hoàn thành được kế hoạch. Hơn nữa, hội nghị Trung ương khóa IX đã khẳng định thêm và yêu cầu cần tiếp tục đẩy mạnh tiến trình CPH. Đặc biệt, theo yêu cầu của hội nghị IX, sẽ mở rộng đối tượng DNNN cần được CPH. Nếu trước đây trong đề án, những doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn được duy trì, thì giờ đây một số doanh nghiệp sẽ được xem xét lại và cho thực hiện CPH để trở thành các doanh nghiệp đã sở hữu. Nếu như vậy, số doanh nghiệp sẽ phải CPH tăng lên nhiều, sức ép cho lộ trình CPH càng nặng và khó khăn hơn. Mặc dù chưa có công trình nào đánh giá một cách toàn diện song các đánh giá đã đưa ra đều cho thấy nhìn chung DNNN sau CPH hoạt động có kết quả và hiệu quả cao hơn so với trước khi CPH. Thành công rất lớn đối với các doanh nghiệp này là mục tiêu tăng vốn nhà nước, mục tiêu huy động thêm vốn xã hội để đầu tư phát triển sản xuất và kinh doanh đã thực hiện được. Cùng với quá trình CPH ngày càng có nhiều công nhân viên chức trở thành chủ nhân có sở hữu cổ phần ở các DNNN đã CPH. Điều này đánh dấu thắng lợi bước đầu của tiến trình CPH DNNN. Mặt khác, Nghị định số 64/2002/NĐ-CP đề ra nhiều giải pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ CPH như không phân loại DNNN thuộc diện CPH, mở rộng đối tượng mua cổ phần, bỏ mức khống chế tỷ lệ mua so với tổng số cổ phần của doanh nghiệp, quy định rõ doanh nghiệp mà Nhà nước chiếm dữ 51% cổ phần trở lên vẫn là thành viên của Tổng công ty nhà nước, cho phép các doanh nghiệp thực hiện bán nợ hoặc chuyển nợ thành vốn cổ phần, nếu kinh doanh thua lỗ sẽ được Nhà nước hỗ trợ thông qua các giải pháp khoanh, giãn, xóa nợ, khuyến khích DNNN chuyển thành CTCP được hưởng ưu đãi về thuế, được tiếp tục thuê nhà xưởng, vật kiến trúc hoặc ưu tiên mua lại theo mặt bằng giá thị trường, được sử dụng quỹ hỗ trợ CPH để thanh toán trợ cấp thôi việc, mất việc, người lao động được giảm 30% giá cổ phần, người lao động nghèo sẽ được mua cổ phần ưu đãi trả chậm trong 10 năm, được phép chuyển nhượng các cổ phần ưu đãi sau 3 năm doanh nghiệp chuyển sang CTCP, bỏ mức khống chế về tổng số giá trị ưu đãi theo tỷ lệ phần trăm trên giá vốn Nhà nước… Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng trình Chính Phủ xem xét bản dự thảo Nghị định về việc thí điểm CPH các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, mặc dù còn nhiều ý kiến bàn về Nghị định số 64/2002/NĐ-CP song có thể nói với Nghị định này số lượng CTCP sẽ tăng lên nhanh chóng và nếu chỉ xét về số lượng CTCP sẽ chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong nền kinh tế quốc dân. 2. Những hạn chế Theo đánh giá chung của nhiều chuyên gia kinh tế, quá trình CPH ở nước ta trong những năm qua có những tồn tại như: * CPH mang tính gượng ép, tốc độ CPH chậm Trong những năm đầu, việc thử nghiệm CPH kéo dài. Những năm gần đây, khi đã có chỉ đạo đẩy mạnh CPH, quá trình CPH lại mang tính bắt buộc. Các bộ, ngành, các doanh nghiệp thường né tránh CPH, buộc phải CPH theo tiêu chí, theo kế hoạch. Các kế hoạch CPH của các năm chưa bao giờ thực hiện được. * Các doanh nghiệp được CPH và lượng CPH nhỏ Đa số doanh nghiệp được CPH là các doanh nghiệp nhỏ. Chẳng hạn, trong 460 DNNN đã CPH trong giai đoạn 1992-2000, vốn Nhà nước được đánh giá lai khi CPH là 1920 tỷ đồng. Khi CPH, Nhà nước giữ lại 792 tỷ đồng, phần còn lại 1.128 tỷ đồng được bán cho người lao động trong và ngoài doanh nghiệp. Tính trung bình, vốn của các doanh nghiệp CPH là 4,17 tỷ. Các doanh nghiệp CPH có vốn quá nhỏ, không phù hợp với loại hình công ty cổ phần là loại hình chỉ phát huy thế mạnh khi doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn. * Mức độ CPH không cao Trong tổng số các doanh nghiệp được CPH, lượng doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối theo định hướng, theo quy định và cả ngoài quy định là rất lớn. Khi nhà nước giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp CPH tiếp tục là một DNNN và các ưu thế của công ty cổ phần khó có thể được phát huy. Căn cứ theo các đề án tổng thể sắp xếp DNNN đã được phê duyệt, trong số 2.033 DNNN được CPH (tính đến năm 2005), thì có 1.028 doanh nghiệp có cổ phần Nhà nước chi phối (chưa bao gồm đề án của tổng công ty Điện lực Việt Nam và Tổng công ty Dầu khí Việt Nam). Nhưng trên thực tế, con số này sẽ lớn hơn nhiều. Bởi theo quy định hiện hành, các DNNN khi tiến hành CPH nếu không bán hết được số cổ phần thì số cổ phần này được tính vào phần vốn của Nhà nước trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, theo Chỉ thị 01/2003/CT-TTG, Nhà nước giữ 51% cổ phần khi bán cổ phần lần đầu đối với các DNNN khi CPH có vốn trên 5 tỷ đồng, sản xuất kinh doanh có lãi, không tính đến các yếu tố về ngành, lĩnh vực kinh doanh. Với hai tiêu chí trên hầu hết các DNNN thuộc bộ, ngành, Tổng công ty và nhiều DNNN thuộc các địa phương đều nằm trong diện Nhà nước nắm cổ phần chi phối khi t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35541.doc
Tài liệu liên quan