Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

Phần mở đầu Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, Đảng ta luôn xác định thành phần kinh tế nhà nước phải nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, điều tiết các thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN. Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, khu vực kinh tế nhà nước đã được sắp xếp lại và có nhiều chuyển biến tích cực, giảm được gần một nửa số doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp địa phương nhỏ bé hoạt động không hiệu quả. Số lớn doanh nghiệp còn lại được tổ chức lại và

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từng bước phát huy quyền tự chủ kinh doanh làm ăn năng động và có hiệu quả. Nhìn chung, kinh tế nhà nước được đổi mới một bước cơ bản, đã và đang phát huy vai trò chủ đạo với nội dung thực chất hơn theo yêu cầu của cơ chế mới, góp phần thực hiện mục tiêu giữ vững ổn định và từng bước phát triển kinh tế - xã hội do đại hội Đảng VI - VII và VIII đề ra. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước vẫn còn nhiều khó khăn, bên cạnh một số doanh nghiệp đã thích ứng với cơ chế mới làm ăn có hiệu quả, có lãi. Còn lại hầu hết các doanh nghiệp đều làm ăn thua lỗ, không tương xứng với số vốn mà nhà nước bỏ ra, nhiều doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ bị phá sản gây gánh nặng cho ngân sách nhà nước và ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế quốc dân. Do đó, nhu cầu hiện nay cần phải tìm ra những giải pháp hữu hiệu, tìm bước khắc phục những hạn chế trên. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong quá trình tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, nó không những khắc phục được những khó khăn nêu trên mà còn có khả năng tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đây là yếu tố cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, đã được Đảng và Nhà nước ta để ra từ rất sớm sau đổi mới (từ những năm 92) tới nay đã được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện đã vấp phải nhiều khó khăn, khiến cho nó không tiến triển kịp với yêu cầu và kế hoạch đề ra. Việc bài viết này đưa ra đề tài “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam ” với mục đích tìm hiểu và có thể đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy nhanh bánh xe cổ phần hóa theo đúng mục tiêu đã định - Một vấn đề bức bách đang đặt ra hiện nay. Với kết cấu và nội dung như trên bài viết đề cập tới những nội dung chủ yếu sau: 1. Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta từ khi đổi mới đến nay. 2. Phân tích những nguyên nhân dẫn tới thực trạng cổ phần hóa ở nước ta diễn ra một cách chậm chạp và khó khăn. 3. Kiến nghị một số giải pháp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và nỗ lực của bản thân nhưng do trình độ và thời gian có hạn, bài viết không thể tránh khỏi những sai sót nhất định, rất mong được độc giả góp ý kiến, sửa chữa. Em xin chân thành cảm ơn thầy Mai Hữu Thực đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Hà Nội, tháng 2năm 2001 Sinh viên Ngô Hữu Tâm B. Phần nội dung I/ Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - Những vấn đề lý luận chung I.1. Cổ phần hóa là gì? Khái niệm cổ phần hóa: Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một công việc rất mới mẻ, đầy khó khăn và phức tạp đối với chính phủ, nhà nước. Song đây lại là giải pháp cơ bản để cải cách xắp xếp lại các DNNN ở nước ta hiện nay. Khi bàn về vấn đề cổ phần hóa, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau. Ta có thể khái quát thành ba nhóm ý kiến khác nhau. Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng: “Thực chất cổ phần hóa là tư nhân hóa”. Theo quan điểm này họ cho rằng cổ phần hóa là quá trình chuyển DNNN sang hình thức công ty cổ phần có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác”. Nhóm ý kiến thứ hai lại cho rằng “Cổ phần hóa là nhằm xác định chủ sở hữu cụ thể đối với doanh nghiệp”. Theo họ, trước đây khi doanh nghiệp còn là DNNN thì việc xác định chủ sở hữu là không rõ ràng, khi doanh nghiệp đó chuyển thành công ty cổ phần thì các cổ đông chính là chủ sở hữu của công ty cổ phần. Nhóm ý kiến thứ ba thì cho rằng “Thực chất cổ phần hóa là quá trình xã hội hóa doanh nghiệp nhà nước”. Nhìn chung, mỗi nhóm quan điểm trên đây đã đưa ra được một vài khía cạnh nào đó về vấn đề cổ phần hóa. Để có một cái nhìn tổng quan về vấn đề cổ phần hóa DNNN, ta có thể hiểu “Cổ phần hóa DNNN là qua chuyển toàn bộ hoặc một phần tài sản, vốn và quyền quản lý DNNN sang các thành phần kinh tế khác dưới dạng công ty cổ phần”. * Công ty cổ phần - hình thức kinh doanh phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần gắn liền với quá trình phát triển của nền sản xuất hàng hóa- nền kinh tế thị trường. Quá trình hình thành và phát triển công ty cổ phần trải qua các giai đoạn sau: Hình thái kinh doanh một chủ: Đây là hình thái phổ biến thống trị trong nền sản xuất hàng hóa nhỏ và trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do. Phương thức kinh doanh này có đặc điểm, người sở hữu đồng thời là người lao động và người đó chỉ có thể làm giàu bằng lao động của chính mình, do vậy sự phát triển sản xuất có được rất chậm chạp, quy mô mở rộng từ từ tùy theo sự phát triển của thị trường địa phương và khu vực. Hình thái kinh doanh chung vốn. Khi sản xuất phát triển, quy mô ngày càng mở rộng đòi hỏi cần có nguồn vốn đầu tư lớn dẫn tới sự ra đời hình thức kinh doanh chung vốn. Xét về mặt lịch sử, đó là bước tiến hóa trong chế độ tín dụng từ phương thức kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn sang phương thức kinh doanh chủ yếu dựa vào góp vốn. Vì vậy, xét về mặt sở hữu, hình thái kinh doanh chung vốn là điểm xuất phát của hình thái công ty cổ phần với tư cách là sự chung vốn của nhiều người cùng tham gia kinh doanh, cùng chia xẻ lợi nhuận và rủi ro theo tỉ lệ góp vốn. Hình thái công ty cổ phần: Sự ra đời và phát triển ngày càng mạnh mẽ của chế độ tín dụng, hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính đã dẫn tới sự ra đời của công ty cổ phần, giúp cho các công ty này mở rộng và xâm nhập ngày càng mạnh mẽ ra hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Sự ra đời và phát triển của các công ty cổ phần đánh dấu sự chuyển hướng nền kinh tế từ trạng thái vay mượn chủ yếu qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính. Các công ty cổ phần là nguồn cung cấp sản phẩm cho sự phồn vinh của thị trường này. Đối lại, sự thịnh vượng của thị trường tài chính tạo điều kiện cho các công ty cổ phần sinh sôi nảy nở. Qua việc phân tích về quá trình hình thành công ty cổ phần ở trên ta thấy sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thị trường. Đổi lại, các công ty cổ phần đã đóng vai trò lịch sử hết sức to lớn trong sự phát triển nền kinh tế thị trường TBCN. Nó có vai trò cơ bản sau: - Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập chung tư bản các công ty cổ phần ra đời làm xuất hiện nhiều xí nghiệp có quy mô và nguồn vốn khổng lồ mà với tư bản riêng lẻ không thể nào thiết lập được. - Là kết quả của sự vận động tách biệt hai mặt của sở hữu, biểu hiện ở mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh. Công ty cổ phần ra đời cho phép mở rộng quy mô sản xuất nhanh chóng mà không bị giới hạn bởi tích lũy của từng tư bản riêng biệt, đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất. - Ngoài ra, sự phát triển của công ty cổ phần đã trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội, đối lập với tư bản tư nhân. Đó chính là sự thủ tiêu tư bản với tư cách sở hữu tư nhân trong khuôn khổ của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. I.2. Điều kiện tiến hành cổ phần ở các DNNN Cổ phần hóa là một nội dung của đa dạng hóa sở hữu, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu của một đơn vị kinh tế quốc doanh nhằm đạt tới hiệu quả kinh tế cao hơn. Cổ phần hóa kinh tế quốc doanh hiện nay đang trở thành bức thiết và Nhà nước ta coi đó là chủ trương lớn trong chính sách cải cách kinh tế đất nước. Khái niệm chung về cổ phần hóa và mục tiêu của nó đã được giới thiệu trên nhiều báo chí. Trong bài này, chúng tôi xin đề cập đến những điều kiện và bước đi tiến hành cổ phần hóa. Nói chung về nguyên tắc, các DNNN đăng ký kinh doanh theo nghị định 388/HĐBT đều có thể tiến hành cổ phần hóa. Tuy nhiên trong điều kiện nước ta hiện nay, với mục tiêu đã nêu ở trên, những doanh nghiệp có đủ các yếu tố sau đây sẽ là đối tượng tốt để thực hiện cổ phần hóa. Thứ nhất là, nhưng doanh nghiệp có quy mô vừa (không quá lớn, mà cũng không quá nhỏ). Quá lớn khó tìm đủ cổ đông. Quá nhỏ mang tính chất “không bõ công”. Thế nào là quy mô vừa? Việc phân loại ở mức tương đối. Vận dụng kinh nghiệm của các nước vào nước ta cho thấy để tiến hành cổ phần hóa có hiệu quả đối với các doanh nghiệp, cần bảo đảm: - Vốn cổ phần không dưới 500 triệu đồng - Số người mua cổ phiếu (số cổ đông) cho phép bán hết cổ phiếu của doanh nghiệp. Điều này đặt ra vấn đề khi tiến hành cổ phần hóa phải dự tính được số lượng cổ phiếu bán ra cần thiết. Thứ hai, các đơn vị kinh tế quốc doanh không nằm trong danh mục nhà nước cần đầu tư 100% vốn. Thứ ba, Những DNNN làm ăn có lãi thực, hoặc trước mắt tuy không có lãi, gặp khó khăn, song có thị trường ổn định và phát triển, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Có mấy lý do để chọn đơn vị làm ăn có lãi và có tương lai hứa hẹn để cổ phần hóa. Một là nếu làm ăn thua lỗ thì sẽ không ai mua khi bán. Người mua cổ phần hy vọng vào tính sinh lợi của đồng vốn trong tương lai của doanh nghiệp. Tương lai đầy hứa hẹn sẽ có sức hấp dẫn đối với những người muốn trở thành cổ đông của doanh nghiệp. Hai là, để có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh hơn nữa. hạn chế tối đa rủi ro đối với đồng vốn của những người lao động nghèo góp lại. Ba là, cho phép nhà nước thu hồi được vốn để đầu tư vào những nhu cầu thiết yếu khác. Bởi vì doanh nghiệp có lãi mới có người bỏ tiền ra mua. Nhờ đó nhà nước mới rút được vốn. Tức là thực hiện được cổ phần hóa. Cần phải thấy rằng, bước đầu thực hiện cổ phần hóa DNNN nên xuất phát từ những doanh nghiệp làm ăn có lãi. Khi công việc này trở nên bình thường thì yếu tố cơ bản nhất để thực hiện thành công cổ phần hóa là những doanh nghiệp. - Có phương án sản xuất - kinh doanh hiệu quả, đầy triển vọng, có khả năng tạo ra được lợi nhuận cao (tính sinh lợi của đồng vốn cao). - Giá bán phù hợp. I.3. Khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay I.3.1. Vai trò kinh tế của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế quốc dân Khu vực kinh tế nhà nước được hiểu là khu vực kinh tế bao gồm “những doanh nghiệp do nhà nước nắm toàn bộ hoặc một phần sở hữu và nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình ra quyết định của doanh nghiệp” Kinh tế nhà nước có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và đã trở thành một bộ phận quan trọng thiết thực trong cơ cấu kinh tế của mỗi nước. Tuy nhiên, tùy đặc điểm của mỗi nước mà khu vực kinh tế nhà nước có phạm vi và vài trò khác nhau. ở các nước tư bản phát triển. Dựa vào học thuyết kinh tế của Keynes để thực hiện một hệ thống chính sách can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế nhằm điều tiết chukỳ phát triển. Khu vực kinh tế nhà nước ở các nước tư bản phát triển tuy chỉ chiếm tỷ trọng thấp trong nền kinh tế quốc dân nhưng đã có đóng góp quan trọng và duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định trong thời kỳ dài của những năm 1960-1970. ở các nước xây dựng nền kinh tế XHCN. Theo mô hình kinh tế chỉ huy và kế hoạch hóa tập trung đã vận dụng học thuyết Mác - Lênin để thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà nhà nước là đại điện, coi đó là nền tảng kinh tế để xóa bỏ sự phân hóa giàu nghèo, bất công trong xã hội do cơ chế thị trường và chế độ tư hữu gây ra và xây dựng một xã hội công bằng do nhân dân lao động làm chủ. ở các nước đang phát triển. Sau khi đã thoát khỏi chế độ thực dân kiểu cũ và giành được độc lập về chính trị, thì sự can thệp trực tiếp của nhà nước thông qua quốc hữu hóa các cơ sở kinh tế của tư bản nước ngoài và xây dựng các cơ sở công nghiệp quốc doanh trở nên rất phổ biến. Khu vực kinh tế nulà công cụ quan trọng để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế chống lại sự phát triển mạnh mẽ của CNTB với chế độ tư hữu được coi là nguyên nhân của sự nghèo khổ, bất bình đẳng, sự bóc lột và áp bức thực dân. Như vậy, sự tồn tại của kinh tế nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới và vai trò quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân chứng tỏ sự cần thiết khách quan của khu vực kinh tế này trong bối cảnh kinh tế hiện đại. Khi các hoạt động quản lý vĩ mô đòi hỏi nhà nước phải đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế. Có thể nói, khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò như một công cụ kinh tế của nhà nước, vừa thực hiện chức năng kinh tế vừa làm một phần chức năng xã hội, góp phần thực hiện sự tăng trưởng và ổn định nền kinh tế mỗi nước. ở nước ta, sau đại hội VI (1986) chúng ta đã chuyển từ cơ chế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Tuy nhiên Đảng ta luôn xác định kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. I.3.2. Thực trạng khu vực kinh tế nhà nước ở nước hiện nay Cũng giống như các nước XHCN, trước đây chúng ta thực hiệ mô hình kế hoạch hóa tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển kinh tế nhà nước bao trùm tàon bộ nền kinh tế quốc dân, làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, khu vực kinh tế nhà nước đã được phát triển một cách nhanh chóng rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế bất kể hiệu quả đích thực mà nó mang lại, trong đó phải kể đến sự ra đời tràn lan của các doanh nghiệp do cấp địa phương quản lý. Theo số liệu thống kê, đến ngày 1 tháng 1 năm 1990, cả nước có 12.084 doanh nghiệp nhà nước trong đó có 1.695 doanh nghiệp do trung ương quản lý, 10.389 doanh nghiệp do cấp địa phương quản lý. Khu vực kinh tế nucó số vốn trị giá khoảng 10 tỷ USD, chiếm 85% tổng giá trị tài sản toàn xã hội. Tuy nhiên, khu vực này chỉ mới tạo ra khoảng từ 30-38% giá trị tổng sản phẩm xã hội (GDP) và thu nhập quốc dân khoảng 25-30%. Hiện nay, tỷ trọng của kinh tế nhà nước trong tổng sản phẩm xã hội của từng ngành tương ứng là: xây dựng 76%; trồng rừng trong lâm nghiệp 35%; nông nghiệp 3%, trong các ngành bưu chính viễn thông, vận tải đường sắt, hàng không chiếm 100%, viễn dương chiếm 98%, đường bộ 80%. Trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp: dầu khí, điện than, khai thác quặng, hầu hết các ngành chế tạo, hóa chất cơ bản, xi măng, thuốc lá... Khu vực kinh tế nhà nước vẫn nắm chủ yếu. Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tín dụng, ngân hàng... hầu hết là do kinh tế nhà nước nắm giữ. Hàng năm, kinh tế nhà nước vẫn là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước (chiếm khoảng 60% đến 70% tổng thu ngân sách). Tuy nhiên, so với khối lượng vốn đầu tư và khoản trợ cấp ngầm qua tín dụng ưu đãi của ngân hàng, cũng như phần khấu hao cơ bản và một phần rất lớn thuế tiêu thụ đặc biệt cộng với các loại thuế gián thu khác đánh vào người tiêu dùng mà nhà nước thu qua doanh nghiệp thì mức độ đóng góp trên còn chưa tương xứng. Các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta được hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách nhà nước và do đó tất cả các hoạt động đều chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp của nhà nước. Do đó, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp dẫn tới hậu quả là hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều hoạt động hết sức kém hiệu quả. Có thể minh hoạ nhận xét này, qua mấy chỉ tiêu cụ thể sau: - Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một đồng thu nhập quốc dân thường cao gấp hai lần so với kinh tế tư nhân. Mức tiêu hao vật chất của các DNNN trong sản xuất cho một giá trị đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao cấp 1,3 lần so với mức trung bình trên thế giới. - Chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp nhà nước rất thấp và không ổn định. Trung bình khu vực kinh tế nhà nước chỉ có khoảng 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, 20% số sản phẩm kém chất lượng. Dó đó, hiện tượng hàng hóa ứ đọng với khối lượng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lưu động của toàn xã hội. - Hệ số sinh lời của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp. Ví dụ, hệ số sinh lời của vốn lưu động tính chung chỉ đạt 7%/năm trong đó ngành giao thông đạt 2%/năm, ngành công nghiệp đạt khoảng 3%/ năm, ngành thương nghiệp đạt 22%/năm. - Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước hết sức thấp. Cụ thể là trong mấy năm gần đây, hàng năm nhà nước giành vốn 70% vốn đầu tư ngân sách của toàn xã hội cho các doanh nghiệp nhà nước, tuy nhiên chúng chỉ tạo ra được từ 34%-35% tổng sản phẩm xã hội. Hơn nữa khu vực này lại sử dụng hầu hết lao động có trình độ đại học, công nhân kỹ thuật. - Số các doanh nghiệp thua lỗ chiếm tỉ trọng lớn. Theo số liệu thống kê thì trong số 12.084 cơ sở quốc doanh thì có tới 4.584 đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ, chiếm 34% tổng số các doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, quốc doanh trung ương có 501 cơ sở thua lỗ, bằng 29,6% số cơ sở trung ương quản lý; Quốc doanh địa phương có 4.083 cơ sở thua lỗ chiếm 39,95 số đơn vị do địa phương quản lý. Các số liệu trên cho thấy việc làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước đã gây tổng thất rất nặng nề cho ngân sách nhà nước và là một trong những nguyên nhân gây ra việc bội chi ngân sách trong những năm qua. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước là do cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp mấy chục năm qua. Trước đây do đất nước có chiến tranh, nền kinh tế được quản lý sẽ đảm bảo huy động ở mức cao nhất mọi tiềm lực cho kháng chiến thắng lợi mà không cần tính tới hiệu quả. Tuy nhiên, khi đất nước chuyển sang thời kỳ hòa bình thì việc kéo dài quá lâu cơ chế quản lý này đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và đẩy nền kinh tế tới khủng hoảng. Từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế nước ta đã thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Một số doanh nghiệp đã thích ứng được với cơ chế thị trường làm ăn có hiệu quả, nhưng phần lớn các doanh nghiệp nhà nước vẫn ở trong tình trạng làm ăn kém hiệu quả. Nguyên nhân chủ yếu là do tư tưởng bao cấp trong đầu tư vẫn còn rất nặng nề tất cả các doanh nghiệp được thành lập đều được cấp toàn bộ vốn từ ngân sách nhà nước, hàng năm trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi được giành cho các doanh nghiệp nhà nước vay. Dẫn tới thực trạng là việc thất thu vốn cho nhà nước; vấn đề nợ nần vòng vo mất khả năng thanh toán còn diễn ra khá nghiêm trọng; việc buông lỏng quản lý của nhà nước dẫn tới nạn tham nhũng, lãng phí diễn ra ở mức báo động, đời sống của cán bộ công nhân chậm được cải thiện. Từ đó làm suy yếu nghiêm trọng khu vực kinh tế nhà nước trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là các cơ sở kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Để đảm bảo vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và là công cụ đắc lực trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước, yêu cầu khách quan đặt ra cần phải đổi mới, sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước. I.4. Cổ phần hóa biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta. Xuất phát từ những kinh nghiệm, thực tiễn và quá trình nghiên cứu đặc điểm sản xuất kinh doanh của các DNNN ở nước ta. Chúng ta có thể đưa ra 3 phương pháp khắc phục những yếu kém và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN. Đó là: - Tư nhân hóa - Liên doanh với nước ngoài - Cổ phần hóa Tư nhân hóa, là việc chuyển các doanh nghiệp từ tay nhà nước sang tay tư nhân thông qua bán. Như đã nói ở trên tư nhan hóa cũng là một trong những giải pháp khắc phục tình trạng thua lỗ của các DNNN và làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên qua kinh nghiệm của một số nước đã tiến hành, thì việc tư nhân hóa đều gặp phải những trở ngại sau: Các chính phủ chỉ muốn bán những xí nghiệp hoạt động không có hiệu quả, thua lỗ kéo dài với các điều kiện và giá cả do chính phủ đặt ra, nên không hấp dẫn người mua, do đó việc thực hiện kế hoạch tư nhân hóa gặp nhiều khó khăn và thường không đạt được dự tính mong muốn. Trong xã hội, thường chỉ có một số ít người mới có khả năng mua cỏ phần của các xí nghiệp hóa giá, vì vậy trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường. Khi mà môi trường pháp lý cũng như môi trường kinh doanh còn chưa hoàn thiện như ở nước ta thì thường dẫn tới tình trạng độc quyền hóa của một số ít người. ở các nước đang phát triển, do sự hạn chế về nguồn vốn trong nước nên các xí nghiệp hóa thường rơi vào các công ty tư bản độc quyền của các nước tư bản phát triển, tạo điều kiện cho tư bản nước ngoài thâm nhập sâu vào nền kinh tế làm cho nguồn tài nguyên, lao động bị vơ vét và bóc lột. Ngoài ra tư nhân hóa còn làm suy yếu đi khu vực kinh tế nhà nước. Do đó, trong hoàn cảnh kinh tế nước ta, thì việc tư nhân hóa là khâu phù hợp. Liên doanh với nước ngoài là hình thức liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước với các nhà tư bản nước ngoài. ở nước ta từ khi thực hiện chính sách mở cửa, hình thái này đã được phát triển nhanh chóng và đóng góp một phần đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiếnno đã bộc lộ những măt hạn chế trong quá trình triển khai. ở nước ta, để thấy được ưu thế hơn hẳn của hình thức cổ phần hóa với liên doanh với nước ngoài ta đi so sánh sự khác nhau của chúng. Công ty cổ phần Công ty liên doanh 1. Trong trường hợp cổ đông không đồng tình với phương án làm ăn của công ty, họ có thể bán cổ phần cho người khác, nhưng điều đó không ảnh hưởng tới hoạt động của công ty. 1. Nếu một trong hai bên liên doanh vì lý do gì đó mà rút vốn thì phương hướng kinh doanh của công ty lập tức bị sụp đổ. 2. Hoạt động của công ty không có thời gian hạn định. Đầu tư chỉ chấm dứt khi công ty bị phá sản. 2. Hoạt động của công ty có thời hạn định. Hết hạn các bên ký kết thu hồi vốn chấm dứt đầu tư. 3. Hội đồng quản trị do đại hội cổ đông bầu ra. Hội đồng quản trị cử ra ban giám đốc làm việc trực tiếp với công ty 3. Hội đồng quản trị là đại diện của hai bên liên doanh. 4. Mục đích đầu tư của cổ đông là thống nhất, họ muốn làm ăn lâu dài và muốn công ty ngày càng phát triển. 4. Mục đích đầu tư liên doanh của các bên là khác nhau. Các bên đều muốn hoàn vốn nhanh, chấm dứt liên doanh và chuyển vốn đầu tư vào lĩnh vực khác. Qua sự so sánh trên đây ta có thể thấy những ưu thế của cổ phần hóa so với tư nhân hóa như sau: - Cổ phần hóa có khả năng huy động vốn đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh. - Có sự thống nhất về mục tiêu giữa những người cùng góp vốn. - Có sự liên tục và không hạn định về thời gian hoạt động. - Có sự phân tán cao độ rủi ro mạo hiểm. Như vậy trong ba phương án trên, ta thấy cổ phần hóa là phương án tối ưu vừa nâng cao hiệu quả sản xuất vừa củng cố vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, phù hợp với đường lối xây dựng đất nước mà Đảng ta đã đề ra. Sở dĩ như vậy là vì cổ phần hóa DNNN ở nước ta hiện nay có vai trò quan trọng như sau: Nếu xét trên phạm vi doanh nghiệp: Cổ phần hóa tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động và thu hút vốn cho các DNNN. Các doanh nghiệp nhà nước hiện đang thiếu vốn nghiêm trọng. Trong khi đó nhà nước đang bội chi ngân sách, không thể và cũng không nên tiếp tục bao cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả như vậy. Cổ phần hóa sẽ huy động các nguồn vốn quản lý trong xã hội một cách nhanh chóng để phát triển sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nguồn vốn dồi dào trong dân cư sẽ đổ vào nơi có lợi nhuận cao, làm cho các doanh nghiệp cổ phần hóa ngày càng có nguồn vốn lớn để trang bị kỹ thuật, mở rộng sản xuất. Đồng thời nguồn vốn ngày càng được sử dụng tốt lại tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu liên tục. Các doanh nghiệp khi đã cổ phần hóa sẽ liên doanh được với các doanh nghiệp trong và ngoài nước từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn hơn nữa. - Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN. Trước đây, trong cơ chế quan liêu bao cấp, các DNNN được nhà nước bao cấp hoàn toàn, hoạt động dưới sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước do đó không phát huy được tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp dẫn tới thực trạng là hầu hết các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, trong các doanh nghiệp đã được hoạt động tự chủ hơn nhưng do buông lỏng quản lý dẫn tới tệ nạn tham nhũng, lãng phí ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, xã hội. Khi các doanh nghiệp nhà nước đã chuyển sang các công ty cổ phần đã khắc phục được những khuyết điểm trên. Để thấy rõ vấn đề ta thử xem xét cấu trúc quản lý và kiểm soát của công ty cổ phần qua sơ đồ sau: Đại hội cổ đông Ban kiểm soát Hội đồng quản trị Giám đốc điều hành Phó giám đốc điều hành Phó giám đốc điều hành Phó giám đốc điều hành Phòng chuyên môn Phòng chuyên môn Phòng chuyên môn Phòng chuyên môn Qua sơ đồ trên ta thấy cơ cấu hoạt động của công ty cổ phần là rất chặt chẽ, hội đồng quản trị sẽ bầu ra (hoặc đi thuê) ban giám đốc và thực hiện giám sát trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra còn có ban kiểm soát hoạt động độc lập do đại hội cổ đông bầu ra. Do đó các công ty cổ phần sẽ hoạt động một cách an toàn và hiệu quả. - Cổ phần hóa tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Trước đây do chưa coi trọng và chưa có cơ chế cụ thể để người lao động thực hiện quyền làm chủ về kinh tế. Từ đó quyền làm chủ chỉ dừng lại ở nguyên tắc, khẩu hiệu chứ không đi vào thực chất. Với việc cổ phần hóa DNNN tất cả các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp đều có thể tham gia mua cổ phần của công ty. Họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp, có trách nhiệm rõ ràng cụ thể thông qua lá phiếu biểu quyết tương ứng với số cổ phần sở hữu. Quyền lợi của họ gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh do đó tạo điều kiện thúc đẩy họ làm việc. Và điều quan trọng khác là họ có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý công ty. Đó là sự làm chủ thực sự của người lao động. Ngoài các vai trò trên của quá trình cổ phần hóa đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Xét trên phạm vi toàn xã hội, cổ phần hóa các DNNN còn có vai trò quan trọng trong việc cấu trúc lại nguồn vốn đầu tư của nhà nước, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia; thu hút tiềm năng vốn nhàn rỗi trong dân chúng, thúc đẩy quá trình hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa xuất phát từ vai trò to lớn đó ta có thể khẳng định cổ phần hóa là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhà nước trong quá trình tổ chức sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay. II/ Thực trạng quá trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta hiện nay. Kể từ khi có quyết định 202/CP của chính phủ ngày 8/6/1992 về việc cổ phần hóa doanh nghiệp, đến nay đã được hơn 6 năm. Trong quá trình cổ phần hóa có rất nhiều vấn đề nảy sinh cần giải quyết, tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chỉ đi vào nghiên cứu tiến trình cổ phần hóa DNNN và nêu ra các nguyên nhân dẫn đến tình trạng cổ phần hóa ở nước ta diễn ra một cách chậm chạp và khó khăn để từ đó đưa ra các biện pháp phù hợp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN. II.1. Cổ phần hóa DNNN ở nước ta - tốc độ chưa đáp ứng được yêu cầu. Tính tới ngày 1/9/1998, cả nước có 38 DNNN đã hoàn thành cổ phần hóa(*) Theo số liệu của Thời báo kinh tế 26/9/1998 , trong đó có 12 công ty đã đi vào hoạt động hơn một năm, có thể thấy, vốn điều lệ của các doanh nghiệp này tăng bình quân 19,06%, doanh thu tăng bình quân 46%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82%/năm, tỉ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu năm 1997 là 44% số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng 30%/năm, thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3%/năm. Tuy nhiên nếu đem so sánh với số lượng doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện nhà nước giữ lại 100% vốn và mục tiêu chuyển 150 DNNN thành công ty cổ phần năm 1998 thì quá trình này diễn ra quá chậm và không đồng đều giữa các ngành các địa phương. Để làm rõ vấn đề, chúng ta hãy xem xét tiến trình cổ phần hóa DNNN từ tháng 6/1992 tới nay. Quá trình cổ phần hóa DNNN được bắt đầu từ ngày 8/6/1992 khi chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng chính phủ) ban hành quyết định 203/CT về danh sách DNNN được chọn để chỉ đạo thí điểm thành công ty cổ phần gồm 7 doanh nghiệp: - Nhà máy xà phòng miền Nam - Nhà máy diêm thống nhất - Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc - Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình - Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng - Xí nghiệp sản xuất bao bì Hà Nội - Xí nghiệp may mặc Legamex thành phố HCM Kết quả sau 6 tháng triển khai thì chỉ có duy nhất xí nghiệp may mặc Legamex chuyển thành công ty cổ phần vào tháng 12/1992. Còn lại các doanh nghiệp khác thì hoặc là muốn rút lui hoặc là muốn chờ đợi, nhưng chưa có nào có văn bản đề nghị chính thức. Nguyên nhân cơ bản là do mục tiêu cổ phần hóa của doanh nghiệp của chính phủ chưa phù hợp. Một số vấn đề cơ bản về cơ chế chính sách chưa phù hợp. Một số vấn đề về cơ chế chính sách chưa phù hợp với thực tế khách quan, chưa khuyến khích được doanh nghiệp tham gia cổ phần hóa. Mặt khác có sự không đồng tình từ phía lãnh đạo doanh nghiệp và công nhân do có sự đụng chạm về quyền lợi, lợi ích vật chất và việc làm. Sau năm 1992, quá trình cổ phần hóa vẫn tiếp tục được triển khai, tuy nhiên tốc độ quá chậm. Trong 3 năm từ năm 1993-1995 chúng ta chỉ cổ phần hóa được thêm 5 doanh nghiệp nữa là: Đại lý LH vận chuyển (Tổng công ty hàng hải); Cơ điện lạnh (TP. HCM); Giầy Hiệp An (Bộ Công nghiệp); CB hàng xuât khẩu Long An; Công ty chế biến thức ăn gia súc (Bộ nông nghiệp). Từ năm 1996, tốc độ có tăng lên, năm 1996 ta cổ phần hóa được 6 DNNN, năm 1997 ta cổ phần hóa được 4 DNNN gồm khách sạn Sài gòn, CTCP Nam Đô (TP. HCM); xí nghiệp sơn Bạch Tuyết (TP. HCM). Năm 1998 ta đã cổ phần hóa được 17 doanh nghiệp. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai địa phương dẫn đầu về số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa trong cả nước. Cho tới năm 1998, thành phố HCM có 662 DNNN, cùng với việc chuẩn bị sẵp xếp lại DNNN việc cổ phần hóa một bộ phận DNNN cũng được đẩy mạnh. Từ khi có nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 của chính phủ về việc cổ phần hóa DNNN thành phố cho thấy: ngoài hai công ty: cơ điện lạnh, công ty ong mật đã thực hiện cổ phần hóa trong thời gian làm thí điểm, 7 doanh nghiệp đã chuyển sang công ty cổ phần, 3 doanh nghiệp đang ở giai đoạn thẩm tra giá trị doanh nghiệp, 15 doanh nghiệp đang xây dựng đề án. Cùng với thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội là nơi thực hiện sớm nhất chương trình cổ phần hóa các DNNN. Trong 3 năm đầu thành phố đã chọn xí nghiệp đồ mộc làm thí điểm. Từ cuối năm 1996 tới hết năm 1997 khi chính phủ ban hành nghị định 28/CP, thành phố đã có 10 doanh nghiệp triển khai cổ phần hóa, trong đó 5 doanh nghiệp ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0624.doc
Tài liệu liên quan