Cơ sở khoa học hình thành mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của VN trong chiến lược phát triển kinh tế - Xã hội

Lời nói đầu Thế giới hiện nay đang diễn ra mạnh mẽ xu hướng toàn cầu hoá khu vực hoá, đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài xu hướng hội nhập đó. Cùng với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, việc xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là hai mặt quan trọng của quá trình phát triển kinh tế, vậy nên việc dự báo và lập kế hoạch tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế để phục vụ thực hi

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cơ sở khoa học hình thành mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của VN trong chiến lược phát triển kinh tế - Xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện các mục tiêu, chính sách vĩ mô của nhà nước. Từ mục tiêu tăng trưởng kinh tế người ta mới hình thành nên các mục tiêu nhiệm vụ khác chẳng hạn như mục tiêu về nguồn lao động, mục tiêu giáo dục đào tạo, nhu cầu vốn đầu tư phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng. Một cơ cấu kinh tế hợp lý của một quốc gia cho phép người ta đánh giá trình độ phát triển kinh tế của quốc gia đó. Do vậy việc xác định mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia trong tương lai nói chung và của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói riêng là điều vô cùng cần thiết và quan trọng. Từ những lý do trên nên em đã lựa chọn đề tài “Cơ sở khoa học hình thành mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010” để làm bài đề án môn học Dự báo phát triển kinh tế xã hội. Đây là một vấn đề đòi hỏi kỹ năng kinh nghiệm lớn, khả năng phân tích thực tiễn cao, cho nên với trình độ còn hạn chế của mình em nghĩ rằng bài nghiên cứu sẽ không tránh khỏi sai sót, hơn nữa lại gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập tài liệu nên em rất mong nhận được sự góp ý, thông cảm của các thầy cô giáo và các bạn. Cuối cùng, em xin trân trọng cảm ơn thầy giáo, tiến sỹ Lê Huy Đức đã hướng dẫn em nghiên cứu đề tài này. Hà nội, tháng 12 năm 2002. I. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế 1.1. Khái niệm Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia tăng) về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do vậy, để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế (tính toàn bộ hay bình quân theo đầu người) của thời kỳ sau đó với thời kỳ trước. Đó là toàn bộ mức tăng phần trăm(%) hay tuyệt đối hàng năm,hay bình quân trong một giai đoạn. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế 1.2.1. Các nhân tố kinh tế Đây là các luồng đầu vào mà sự biến đổi của nó trực tiếp làm biến đổi đầu ra. Có thể biểu diễn mối quan hệ đó bằng hàm số: Y=f(Xi) Trong đó: Y là sản lượng còn Xi (i=1,2,3…) là các biến số đầu vào thể hiện các nhân tố kinh tế trực tiếp tạo ra giá trị sản lượng. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các biến số đó đều chịu sự điều tiết của quan hệ cung cầu. Một số luồng đàu vào (biến số đầu vào) thì ảnh hưởng tới mức cung, một số thì ảnh hưởng tới mức cầu. Sự cân bằng cung cầu do giá cả thị trường điều tiết, sẽ tác đọng ngược trở lại các luồng vào và dẫn đến kết quả của sản xuất, đó là sản lượng của nền kinh tế (biến số đầu ra) (sơ đồ sau) Hình sau cho biết,các biến số đóng vai trò của các nhân tố quyêt định tổng mức cung(A), mà sự biến đổi vật chấtvà giá trị của nó tạo thành tổng sản lượng của nền kinh tế. Đó là các yếu tố của nền sản xuất. Còn các biến số quyết định dến tổng mức cầu(B) thực chất đó là các đữ kiện ảnh hưởng đến kết quả sản lượng, thông qua sự cân bằng về cung cầu (E). Sơ đồ Biến số đầu vào Tổng Sản Phẩm Quốc Nội (GDP) -Vốn sản xuất -Lao động -Tài nguyên -Khoa học công nghệ -Quản lý tổ chức -Qui mô sản xuất …. Cầu -Mức thu nhập -Giá tiêu dùng -Các chính sách kinh tế Cung a Sơ đồ mối quan hệ các nhân tố kinh tế của sự tăng trưởng kinh tế Thực chất của việc tiếp cận đến nguồn gốc của tăng trưởng là giới hạn gia tăng sản lượng. Điều đó đưa tới một vấn đề trung tâm của sự cạnh tranhtrong các lý thuyết tăng trưởng mà cho đến nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất, đó là sự giới hạn của tăng trưởng là do cầu hay cung? Biến số nào đóng vai trò giới hạn của sự gia tăng sản lượng? Các nhà kinh tế đặt nền móng cho các học thuyết kinh tế cổ điển nói riêng và học thuyết kinh tế nói chung như A.Smith, J.Baptiste Say,D.Ricardo cho đến A.Marshall và ngay cả Karl Marx cũng đều xây dựng các lí thuyết dựa trên quan điểm nghiêng về cung chứ không phải là cầu. Trong một giai đoạn nhất định (ngắn hạn) sự khan hiếm tài nguyên (nguồn đầu vào) hay sự thiếu cung, luôn luôn là giới hạn của sự tăng trưởng, nhất là khi sức sản xuất còn ở mức thấp giống như ở các nước chưa phát triển. J.Batiste Say đã nêu: ”Qui luật của các thị trường tiêu thụ” với quan điểm “cung sẽ tạo ra cầu của chính nó”. Sự tăng thu nhập của các hộ gia đình do bán các tư liệu sản xuất và sức lao động là cơ sở để tạo ra sức mua- cầu mới của chu kỳ sau, chính là sự tăng cung ở kỳ trước. Karl Marx cũng nói rằng chỉ có sản xuất sản phẩm mới, mới tạo ra nhu cầu mơí, như vậy mức sản lượng được cân bằng do chính cung tạo ra. Theo trường phái kinh tế học hiện đại, mà xuất phát từ J.Maynard- Keynes (trong “lý thuyết chung về hữu nghiệp, lợi ích và tiền” 1936) thì mức sản lượng và việc làm là do cầu quyết định. Ngày nay kinh tế học vĩ mô cho rằng trong thời kỳ nhất định (ngắn hạn) tương ứng với mức giá và tiền lương nhất định, sản lượng của nền kinh tế luôn ở dưới mức tiềm năng. Tức là nền kinh tế còn các nguồn lực tiềm tàng- công nhân thất nghiệp tự nhiên, vốn tích luỹ lớn, công suất máy móc chưa sử dụng hết,…Trong trường hợp đó cung không phải là vấn đề giới hạn. Các hãng vui lòng cung ứng sản lượng theo yêu cầu. Do vậy tổng sản lượng thực chất chỉ phụ thuộc vào tổng cầu. Mặc dù các giả định đưa ra đều phù hợp với thực tế các nước đã phát triển và sự phân tích được chứng minh chặt chẽ, được hầu hết các nhà kinh tế học hiện đại đồng tình. Song có lẽ điều đó khó có thể chứng minh được ở những nền kinh tế còn chưa có thể đáp ứng được nhu cầu cơ bản của đất nước. Có lẽ mỗi quan điểm trên có giá trị trong mỗi hoàn cảnh và điều kiện riêng. “Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế học vĩ môvà kinh tế học phat triển là những khả năng cung của các nền kinh tế đã phát triển và đang phát triển, đạc biệt là khả năng cùng về tư liệu sản xuất”(S.S.Park) đã từ sự phát triển của Hàn Quốc- một nước đang phát triển kinh tế đã đi lên hoà nhập vào khối các nước công nghiệp mới (NIC), cũng nêu rõ quan điểm “kinh tế học phát triển nên tập trung vào công việc tạo ra và mở rộng cung, chứ không phải tạo cầu”. Xuất phát từ thực tế ở các nước đang phát triển cung chưa đáp ứngđược cầu, việc gia tăng sản lượng phải bắt nguồn từ sự gia tăng trong đầu vào của các yếu tố sản xuất theo quan hệ hàm số giữa sản lượng với vốn, lao động, đất đai và nguyên liệu, kĩ thuật và công nghệ. Hàm sản xuất trên nói lên sản lượng tối đa có thể sản xuất được tuỳ thuộc vào lượng đầu vào trong điều kiện trình độ kỹ thuật và công nghệ nhất định. Mỗi một yếu tố (biến số) có vai trò nhất định trong việc tạo ra sự gia tăng sản lượng, do trình độ phát triển kinh tế mỗi nơi, mỗi lúc quyết định. -Vốn sản xuất là một bộ phận tài sản quốc gia được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất hiện tại cùng với các yếu tố sản xuất khác, để tạo ra sản phẩm hàng hoá (đầu ra). Nó bao gồm các máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà kho và cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Trong điều kiện năng suất lao động không đổi, thì tăng tổng số vốn sẽ làm tăng thêm sản lượng, hoặc trong khi số lao động không đổi, tăng vốn bình quân đầu người lao động, cũng sẽ làm gia tăng sản lượng. Tất nhiên trên thực tế sự biến thiên của yếu tố vốn không đơn giản như vậy, vì nó có liên quan đến các yếu tố khác như lao động kỹ thuật. -Lao động là yếu tố sản xuất. Nguồn sức lao động được tính trên tổng số người ở tuổi lao động và có khả năng lao động trong dân số. Nguồn lao động với tư cách là yếu tố đầu vào khác được tính bằng tiền, trên cơ sở giá cả lao động được hình thành do thị trường và mức tiền lương qui định. Là yếu tố sản xuất đặc biệt, do vậy lượng lao động không đơn thuần chỉ là số lượng (đầu người hay thời gian lao động) mà còn bao gồm chất lượng của lao động, người ta vẫn gọi là vốn nhân lực. Đó là con người bao gồm trình độ tri thức học vấn và những kĩ năng, kinh nghiệm lao động sản xuất nhất định. Do vậy những chi phí nhằm nâng cao trình độ người lao động- vốn nhân lực, cũng được coi là đầu tư dài hạn cho giáo dục- đào tạo lại thường được coi là đầu tư cho sự nghiệp xã hội. -Đất đai là yếu tố sản xuất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Mặc dù với nền kinh tế công nghiệp hiện đại, đất đai dường như không quan trọng. Song thực tế cũng không phải hoàn toàn như vậy. Kể cả sản xuất công nghioệp hiện đại, không thể không có đất đai. Do diện tích đất đai là cố định, người ta phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai bằng vốn đầu tư thêm lao đọng và vốn trên một đơn vị diện tích nhằm tăng thêm sản phẩm. Chính vì điều này đã làm vai trò của vốn nổi lên thêm và đất đai trở thành kém quan trọng. Nhưng như vậy không có nghĩa là lao động và vốn có thể thay thế hoàn toàn cho đất đai. Các tài nguyên khác cũng là đầu vào trong sản xuất: các sản phẩm từ trong lòng đất, từ rừng và biển, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú được khai thác sẽ làm tăng sản lượng một cách nhanh chóng, nhất là các nước đang phát triển. -Những thành tựu kĩ thuật và công nghệ mới là đầu vào đóng vai trò cực kì quan trọng bằng sự tiến bộ của các nước NIC trong mấy chục năm gần đây, do những thành tựu tiến bộ khoa học kĩ thuật đưa lại Những kĩ thuật và công nghệ mới ra đời là do sự tích luỹ kinh nghiệm trong lịch sử và đặc biệt là được tạo ra từ những tri thức mới- sự phát minh, đem áp dụng vào các qui trình sản xuất hiện tại. Sự chuyển nhượng và ứng dụng những phát minh tiến bộ kĩ thuật và công nghệ mới trong quá trình sản xuất, rõ ràng là một lợi thế lịch sử của các dân tộc, các nước kém phát triển. Vì những chi phí cho việc mua kĩ thuật và công nghệ mới ở các nước đã phát triển, rõ ràng là đỡ tốn kém thời gian và của cải hơn rất nhiều so với việc phải đầu tư để có những phát minh mới, phải đi từ đầu tư giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổng kết các tri thức kinh nghiệm và tự mày mò chế tạo rồi mới xó thể ứng dụng vào sản xuất. -Ngoài các yếu tố sản xuất, ngày nay người ta còn đưa ra một loạt các nhân tố kinh tế khác tác động tới tổng mức cung, như lợi thế do qui mô sản xuất, chất lượng lao động (hay yếu tố con người) và khả năng tổ chức quản lí. Những nhân tố tạo cung này rõ ràng đã làm tăng sản lượng. -Qui mô sản xuất thể hiện khối lượng sử dụng đầu vào. Trong khi tỷ lệ giữa các yếu tố sản xuất không đổi, các điều kiện khác như nhau. -Chất lượng lao động bao gồm những hiểu biết chung (trình độ văn hoá phổ thông); những kĩ năng kĩ thuật được đào tạo, kinh nghiệm và sự khéo léo tích luỹ trong lao động, ý thức tổ chức- kỉ luật và ý thức mong muốn đạt hiệu quả cao trong công việc. Để có đội ngũ những người lao động và kinh doanh giỏi, mà nhiều nhà kinh tế cho rằng đó là đọng lực để đạt được sự tăng trưởng cao, thì phải mcó đầu tư cao trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo và phải có thời gian. -Mỗi ngành, mỗi khu vực sản xuất vật chất có năng suất khác nhau. Sự đổi mới cơ cấu kinh tế vĩ mô làm cho các khu vực, các ngành có năng suất cao chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, tất yếu sẽ làm cho sản lượng tăng lên. Sự đổi mới trong cơ chế thể hiện ở sự bố trí lại nguồn lực cho cơ cấu mới, bố trí lại cơ cấu tích luỹ và tiêu dùng, và các biện pháp tạo cung, tạo cầu…Điều đó làm cho các nhân tố tích cực được nhân lên, giảm bớt một cách tương đối những chi phí, cũng đưa lại hiệu quả như một sự đầu tư. Như vậy tổ chức và quản lí kinh tế được coi như một nhân tố làm tăng thêm sản lượng. 1.2.2. Các nhân tố phi kinh tế Khi đề cập đến khái niệm phát triển kinh tế đã cho thấy, ngoài những tiêu chuẩn thông thường để đánh giá sự tiến bộ xã hội, mỗi quốc gia dân tộc có những quan niệm riêng về sự phát triển. Các nguồn lực không trực tiếp nhằm mục tiêu kinh tế nhưng gián tiếp có ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gọi chung là các nhân tố phi kinh tế. Đặc điểm chung của các nhân tố này là: - Không thể lượng hoá được các ảnh hưởng của nó, do vậy không tiến hành tính toán đối chiếu cụ thể được. - Các nhân tố này có phạm vi ảnh hưởng rộng và phức tạp trong xã hội, không thể đánh giá một cách tách biệt rõ rệt được và không có ranh giới rõ ràng. Dựa trên những tiêu chuẩn thông thường về sự phát triển đã nêu, dựa vào những sự hiện tượng phổ biến nhất mà các nước đều có những sự biểu hiện trong quá trình đi lên, người ta có thể thấy những nhân tố phi kinh tế tiêu biểu nhất, bao gồm: ỉ Cơ cấu dân tộc: ở đây đề cập đến các tộc người khác nhau cùng sống tạo nên một cộng đồng quốc gia. Cơ cấu này có thể phân chia theo chủng tộc, theo khu vực sinh sống lâu đời tạo nên sự khác biệt nhất định.Do điều kiện sống khác nhau, đã tạo ra sự khác nhau về trình độ tiến bộ văn minh về mức sống vật chất và về địa lí, vị trí chính trị-xã hội trong cộng đồng. ỉ Cơ cấu tôn giáo: vấn đề tôn giáo đi liền với vấn đề dân tộc, mỗi tộc người đều theo một tôn giáo. Trong một quốc gia có thể có rất nhiều tôn giáo. Mỗi đạo giáo có những quan niệm, triết lí tư tưởng riêng ăn sâu vào cuộc sống của dân tộc từ lâu đời, tạo ra những ý thức tâm lí xã hội riêng của dân tộc. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung có ảnh hưởng tới sự tiến bộ xã hội tuỳ theo mức độ, song có thể có sự hoà hợp, nếu có chính sách đúng đắn của chính phủ. ỉ Đặc điểm văn hoá xã hội: đây là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng nhiều tới quá trình phát triển của đất nước. Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển của mỗi quốc gia. Nói chung trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng lao động, của kĩ thuật và công nghệ, của trình độ quản liư kinh tế xã hội. Xét trên khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ bản của mọi nhân tố dẫn đến con đường phát triển. ỉ Thể chế chính trị- kinh tế –xã hội: ngày nay người ta ngày càng thừa nhận vai trò của thể chế chính trị xã hội như là một nhân tố trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, góp phần quyết định. Thể chế như một lực lượng đại diện cho ý chí của một cộng đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội theo lợi ích của cộng đồng đặt ra. Một thể chế chính trị ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại một thể chế không phù hợp, sẽ gây ra những cản trở, mất ổn định, thậm chí đi đến chỗ phá vỡ những quan hệ cơ bản làm cho nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hoặc gây ra xung đột chính trị,xã hội. Dù quan trọng đến đâu thể chế cũng chỉ tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng, tức là tạo ra những thuận lợi để hướng các hoạt động theo hướng có lợi và hạn chế các mặt bất lợi. 2. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 2.1. Khái niệm và vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế - Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành của nền kinh tế cùng các mối quan hệ chủ yếu về định tính và định lượng, ổn định và phát triển giữa các bộ phận ấy với nhau hay của toàn bộ hệ thống trong những điều kiện của một nền sản xuất xã hội trong hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu kinh tế không chỉ thể hiện ở quan hệ tỉ lệ mà quan trọng hơn là mối quan hệ tác động qua lại về nội dung bên trong của hệ thống kinh tế. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (ngành) là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngànhvà làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó. Chuyển dịch cơ cấu đem tính khách quan thông qua những nhận thức chủ quan của con người. Nội dung cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều lĩnh vực (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng); các ngành kinh tế quốc dân (công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, ytế, giáo dục,…); các thành phần kinh tế xã hội (Nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), và các vùng kinh tế. Vì vậy có thể chia cơ cấu kinh tế thành nhiều loại: cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu theo thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế kĩ thuật, cơ cấu quản lí,…Trong đó ba loại cơ cấu ngành, vùng lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế là những nội dung quan trọng nhất, phản ánh tập trung nhất trình độ phát triển của phân công lao động xã hội. Các bộ phận hợp thành của cơ cấu kinh tế có quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với nhau. Tính hợp lý của một cơ cấu kinh tế chính là sự hài hoà, ăn khớp giữa các bộ phận cấu thành, cho phép sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của xã hội phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Về mặt định lượng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là sự chuyển dịch cơ cấu đầu ra. Sự chuyển dịch đó phụ thuộc vào hai yếu tố: Năng suất lao động và qui mô sử dụng các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên và khoa học công nghệ. Từ đó cho thấy, hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế xét về mặt lượng thể hiện ở hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực trên phạm vi toàn nền kinh tế. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì tăng trưởng kinh tế và biến đổi cơ cấu kinh tế là hai mặt của phát triển của nền kinh tế. Giữa chúng có mối quan hệ qua lại như mối quan hệ tác đọng giữa lượng và chất. Cơ cấu kinh tế hợp lí thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cần thiết để hoàn thiện hơn nữacơ cấu kinh tế trong tương lai. Xét trên góc độ tác động đến quá trình phát triển,cơ cấu kinh tế có vai trò cụ thể: - Tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã được vạch ra trong chiến lượccủa đất nước cũng như của ngành và địa phương. - Khai thác đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả nhất các nguồn lực phát triển, phát huy lợi thế so sánh, cho phép tạo ra các cực tăng trưởng nhanh. - Tạo điều kiện mở đường, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy sự phân công lao động giữa các ngành, vùng lãnh thổ và các thành phần kinh tế. - Bảo đảm tăng cường sức mạnh về quốc phòng và an ninh góp phần quan trọng vào sự ổn định chính trị của đất nước. - Tạo điều kiện cho nền kinh tế nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của hai lực: thị trường và nhà nước. Đó là một quá trình vừa có kế hoạch vừa mang tính tự phát. Sự hình thành cơ cấu kinh tế của một nước chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan hết sức phức tạp. Có thể phân các nhân tố thành hai loại là nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. - Nhóm nhân tố khách quan bao gồm ba nhóm nhân tố chủ yếu sau đây: + Nhóm thứ nhất gồm các nhân tố về điều kiện tự nhiên như dự trữ tài nguyên, khoáng sản, nguồn nước, đất đai, nguồn năng lượng, khí hậu và địa hình,…Chính Các Mác đã viết: ”Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những đối tượng của tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định”. Vì vậy nền sản xuất xã hội và cơ cấu của nó nói riêng chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện tự nhiên. Thiên nhiên vừa là điều kiện chung của sản xuất xã hội, vừa làtư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đối với việc hình thành cơ cấu kinh tế mang tính trực tiếp. Tuy nhiên trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển hiẹn nay, việc đánh giá vai trò các nhân tố điều kiện tự nhiên cần tránh cả hai khuynh hướng đối lập: hoặc là quá lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên hoặc xem nhẹ vai trò của nó. Cả hai khuynh hướng đó đều không đúng đắn. Dưới sự thống trị của khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, tài nguyên thiên nhiên không phải là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển. Ngược lại nếu xem nhẹ yếu tố thiên nhiên sẽ hoặc không khai thác đầy đủ lợi thế so sánh để phát triển kinh tế hoặc là khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách lãng phí, phá hoại môi trường phát triển kinh tế lâu dài. + Nhóm thứ hai bao gồm các nhân tố kinh tế xã hội bên trong của đất nước như: nhu cầu thị trường, dân số và nguồn lao động, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ quản lý, hoàn cảnh lịch sử của đất nước. + Tiến bộ khoa học công nghệ có ảnh hưởng rất lớn đênswj biến đổi cơ cấu kinh tế. Trước hết nó làm thay đổi vị trí của các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Khoa học công nghệ cũng làm thay đổi vai trò của nguyên liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm, đòi hỏi có quan điểm mới trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. + Nhóm thứ ba bao gồm các nhân tố bên ngoài như quan hệ kinh tế đối ngoại và hợp tác phân công lao động quốc tế. Do sự khác nhau về điều kiện sản xuất ở các nước, đòi hỏi phải có sự trao đổi kết quả lao động với bên ngoài ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Trong trao đổi quốc tế mỗi nước đều phát huy lợi thế so sánh của mình trên cơ sở chuyên môn hoá vào các ngành, lĩnh vực có chi phí tương đối thấp. Chính chuyên môn hoá đã thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát triển và kết quả là làm biến đổi cơ cấu kinh tế. Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế hiện nay, cơ cấu kinh tế của một nước còn chịu sự tác động của cơ cấu kinh tế của các nước trong khu vực. Khái quát hoá sự tác động qua lại đó, các nhà kinh tế đã nêu lên một đặc trưng quan trọng về sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo kiểu làn sóng. Xu hưóng hội nhập quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên toàn thế giới. Các quốc gia đều có mối quan hệ về kinh tế, chính trị với nhau thông qua sự hợp tác đa phương, các tổ chức hợp tác như APEC, ASEAN, EU,…kinh tế đối ngoại phát triển kéo theo thương mại, đầu tư, hợp tác khoa học kỹ thuật- công nghệ phát triển theo. Xu hướng tự do hoá thương mại: thưong mại các nước cùng thâm nhập vào nhau, tước bỏ hàng rào thuế quan trong thương mai quốc tế. Tăng cường xuất khẩu, mở rộng nhập khẩu. Cạnh tranh quốc tế tăng lên ở môi trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu kinh tế phải thay đổi phù hợp để có hiệu quả. - Nhóm nhân tố chủ quan như quan điểm đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, cơ chế quản lý, chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tóm lại, các nhân tố qui định cơ cấu kinh tế của một nước hợp thành một hệ thống phức tạp, tác động nhiều chiều và ở những mức độ khác nhau. Do đó cần có quan điểm hệ thống, toàn diện và cụ thể khi phân tích và dự báo chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 2.3. Xu thế cơ bản trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. Trong quá trình tăng trưởng kinh tế, docác bộ phận hợp thành có tốc độ tăng trưởng không giống nhau, tất yếu dẫn đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước sự biến đổi của cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của hai lực: thị trường và chính phủ. Thị trường là nơi diễn racác mối quan hệ tác động qua lại giữa người tiêu dùng và các doanh nghiệp để xác định sản lượng và giá cả và thông qua giá cả thị trường thực hiện chức năngphân phối nguồn lực vaò các lĩnh vực, bộ phận của nền kinh tế. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý nền kinh tế, can thiệp vào nền kinh tế thông qua pháp luật, kế hoạch, chính sách và các đòn bẩy kinh tế nhằm đạt được mục tiêu đã xác định trước. Cơ cấu kinh tế được hình thành từ hai lực tác động đó tất yếu là một cơ cấu có tính hướng đích, hợp lý, hiệu quả, tính kế thừa và phát triển, tính hệ thống và tính mục tiêu. Cần nhấn mạnh rằng cơ cấu kinh tế hợp lý không chỉ biểu hiện về mặt số lượng mà quan trọng hơn là mối quan hệ chất lượng giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Tính hợp lý của một cơ cấu kinh tế chính là sự hài hoà, ăn khớp giữa các bộ phận cấu thành, cho phép sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của xã hội, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ trạng thái phát triển thấp sang trạng thái phát triển cao hơn. Trong quá trình đó,cơ cấu kinh tế chịu sự chi phối của các xu hướng có tính qui luật, xu thế phổ biến sau đây: - Trong điều kiện khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại phát triển, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, cơ cấu kinh tế các nước có thể và cần phải chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. - Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP có xu hướng tăng lên, còn tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm xuống mặc dù số lượng tuyệt đối vẫn không ngừng tăng lên. - Trong nội bộ công nghiệp, tỷ trọng trong các ngành công nghiệp chế biến tăng lên, cơ cấu sản xuất thay đổi theo chiều hướng chuyển từ ngành sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang ngành sản xuất sản phẩm chứa hàm lượngcao về vốn và khoa học công nghệ. - Trong nội bộ ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ nông thôn trong giá trị sản lượng tăng lên và tỷ trọng ngành nông nghiệp thuần tuý giảm xuống. Trong nội bộ nông nghiệp, tỷ trọng của giá trị sản lượng ngành chăn nuôi sẽ tăng lên và tỷ trọng giá trị sản lượng ngành trồng trọt giảm xuống tương ứng. - Xét về cơ câu thành phần, theo đà phát triển của thị trường bộ phận kinh tế tư nhân ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, do xu hướng tự do hoá kinh tế ngày càng mở rộng. Kinh tế nhà nước có thể giảm xuống về tỷ trọng song sẽ nắm phần lớn cơ sở hạ tầng và các ngành công nghiệp quan trọng có tính quyết định, then chốt trong nền kinh tế. - Theo khu vực lãnh thổ, sự phát triển kinh tế giữa các vùng sẽ đảm bảo tính chất hài hoà hơn, một mặt giảm bớt sự chênh lệch quá mức về trình độ phát triển, mặt khác sẽ xuất hiện các trung tâm công xưởng nhanh. Sự hình thành các khu công nghiệp tập trung như vậy là một tất yếu khách quan nhằm khai thác một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. II. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua 1. Tăng trưởng kinh tế và một số nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. 1.1. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát (chỉ số CPI) Sau 5 năm thực hiện đổi mới kinh tế nchủ yếu nhờ các biện pháp giải phóng sức sản xuất trong nước và mở cửa nền kinh tế, tận dụng nguồn lực bên ngoài, từ năm 1991 nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng với tốc độ khá cao, trung bình 7,67% hàng năm từ 1991-1999, mức kỷ lục là 9,54% năm 1995. Từ năm 1998, tăng tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm do nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là yếu kém về cơ cấu và thể chế cũng như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu á. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong những năm đầu 1990, Việt Nam đã khá thành công trong việc kiềm chế và kiểm soát lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,5% năm1991 xuống còn 0,1% năm 1999. Từ năm 1996, lạm phát dao động ở mức một con số góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế đã có chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng của khu vực nông lâm ngư nghiệp và tăng tỷ trọng của khu vực công nghiệp xây dựng, dịch vụ. Tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch cơ cấu GDP cìn chậm. Năm 2000, khu vực nông lâm ngư nghiệp trong GDP vẫn còn chiếm 24,3%, trong khi đóng góp của khu vực công nghiệp - xây dựng là 36,6% và của khu vực dịch vụ là 39,1% từ mức 23,5% và 36% tương ứng của năm 1991 Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế cũng có những chuyển dịch đáng lưu ý là: sau thời kỳ suy giảm từ năm 1986 đến 1991 tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước tăng nhanh từ 29,25% năm 1991 lên 39,2% năm 1993 sau đó giữ ổn định khoảng trên 40% từ 1994-1999, trong khi đó tỷ trọng vủa khu vực kinh tế quốc doanh trong nước trong GDP liên tục giảm từ 70,75% năm 1991 xuống còn 49,4% năm 1999. Tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn lớn và chưa khai thác cao cho tăng trưởng kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân tập trung chủ yếu ở sản xuất nông lâm ngư nghiệp, sản xuất công nghiệp và cung cấp dịch vụ với qui mô nhỏ và rất nhỏ. Từ năm 1994, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có vai trò ngày càng tăng trong phát triển kinh tế Việt Nam. Mặc dù từ năm 1998, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giảm mạnh, tỷ trọng của khu vực này trong GDP vẫn tăng, chiếm 9,82% năm 1998 và 10,4% năm 1999. Việt Nam đã trải qua thập kỷ 90 với những thành tựu khá ấn tượng về phát triển kinh tế, đồng thời xuất hiện những vấn đề mới đe doạ tới sự phát triển bền vững. Tăng trưởng kinh tế với tốc độ tương đối cao và giá cả ổn định là những tiên đề thuận lợi cho công cuộc đổi mới trong giai đoạn tới cũng như cho việc giải quyết các vấn đề xã hội nổi cộm như việc làm, thất nghiệp, nghèo đói,…sẽ được trình bày ở phần tiếp theo. 1.2. Đầu tư và tiết kiệm Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1990-2000 đạt khoảng 682.880 tỷ đồng, tăng liên tục từ 6.747 tỷ đồng năm 1990 lên 68.048 tỷ đồng năm 1995 và 120.600 tỷ năm 2000 (giá hiện hành). Tổng đầu tư xã hội so với GDP cũng tăng nhanh, từ 15,1% năm 1991 lên 28,3% năm 1997 – là mức cao nhất trong cả giai đoạn. Từ năm 1998, khi khủng hoảng tài chính châu á nổ ra, tỷ lệ này có xu hướng giảm chỉ còn 26,3% năm 1999, là một trong những nguyên nhân chính làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong hai năm 1998 và1999. Năm 2000 mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu tăng trở lạivới mức khoảng 6,7% so với mức 4,8% của năm 1999, nhưng tổng đầu tư xã hội ước tính đạt khoảng 27,2% so với GDP. Trong cơ cấu vốn đầu tư, vốn của tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ trọng lớn: năm 1990 vốn nhà nước chiếm 43,8%, vốn của tư nhânvà dân cư chiếm 41,5% và vốn FDI chiếm 14,7%. Năm 1995, tỷ lệ tương ứng là 38,3%, 29,4% và 32,3%. Từ năm 1998, tỷ trọng của vốn FDI có chiều hướng giảm mạnh, năm 2000 mặc dù có dấu hiệu tăng trở lại cũng chỉ đạt khoảng 18,6% của tổng đầu tư xã hội. Đầu tư của tư nhân trong nước không những còn ở mức thấp mà còn tăng chậm, kết hợp với xu hướng giảm của FDI đã ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng kinh tế, từ đó gây sức ép cho đầu tư tăng trưởngừ ngân sách Nhà nước. Tiết kiệm trong nước trên GDP tăng từ 2,9% năm 1990 lên 18,2% năm 1995, năm 1996 có giảm nhẹ và từ năm 1997 trở đi tăng liên tục, đạt 23,6% năm 1999, ước đạt 25% năm 2000. Trong cả thập kỷ 90, tỷ lệ tiết kiệm/GDP tăng liên tục, kích cầu đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này còn thể hiện rõ hơn qua tỷ lệ tổng đầu tư phát triển so._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35365.doc
Tài liệu liên quan