Con người trong sự nghiệp CNH-HĐH

Lời nói đầu. Như mọi người đều biết, bất kỳ quốc gia nào muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao mức sống người dân, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật lên trình độ cao... đủ sức sánh vai với các cường quốc năm châu thì điều tất yếu cần thiết phải trải qua là tiến hành Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Đất nước ta đang trên đà đổi mới, mục tiêu chính là phấn đấu đến năm 2000 cơ bản hoàn thành chiến lược Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa , đưa nước ta ngang tầm với trình độ của các n

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Con người trong sự nghiệp CNH-HĐH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước phát triển. Thật ra, sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa đã được Đảng ta đề xướng từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III - tháng 9/1960, mặc dù đã đạt được những thành tích đáng kể, song nước ta hiện nay mới chỉ thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và bước vào thời kỳ phát triển moứi, chứ vẫn chưa rút ngắn được khoảng cách tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Hiện nay, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo trên thế giới, với thu nhập bình quân đầu người chưa vượt quá 250USD/năm, trong khi đó con số này ở Mỹ là 19.700USD/người/năm. Vậy do đâu mà việc tiến hành Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa ở nước ta lại gặp nhiều khó khăn đến vậy?. Có phải chăng một trong những nguyên nhân của vấn đề này là do việc sử dụng nguồn lực con người trong quá trình phát triển chưa hợp lý?. Bởi vậy con người là nhân tố trung tâm của mọi hoạt động phát triển. Mọi hoạt động đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của con người và cũng chỉ có con người mới có thể làm được những công việc cực kỳ khó khăn và gian khổ ấy. Vì vậy, việc tìm hiểu vấn đề con người trong sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa là hết sức quan trọng, đòi hỏi phải hiểu rõ bản chất, vai trò, vị trí của con người trên mọi phương diện và đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển con người trong giai đoạn Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa hiện nay, có như vậy mới phát huy được đến mức tối đa vai trò quyết định của con người trong quá trình phát triển. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét vấn đề trên! mở đầu Như đã nói, việc nghiên cứu vấn đề con người trong Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của mọi cấp, mọi thành viên trong xã hội. Sở dĩ vấn đề đó lại được quan tâm một cách đặc biệt như vậy là vì nhiều lý do, song có thể nhắc đến một số lý do chủ yếu: Hiện nay, do yêu cầu của quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa đất nước và việc phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững thì việc đi lên bằng nguồn lực con người được coi là động lực chủ yếu, quyết định sự phát triển. Sự phát triển không có mục đích tự thân, toàn bộ những chính sách phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta trong những năm trước mắt và lâu dài là sự thể hiện nhất quán quan điểm phát triển kinh tế- xã hội của CNXH: Con người là trọng tâm của sự phát triển. Do đó, các chính sách phát triển đất nước phải hướng cụ thể vào mục tiêu tổng quát là phát triển con người, xuất phát từ con người, do con người và vì con người, Đảng ta luôn nhấn mạnh rằng “Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội thực chất là chiến lược phát triển con người, phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm đích cao nhất của mọi hoạt động”. Vì lẽ đó mà hàng ngày, hàng giờ trên hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo, tạp chí.v.v..đều có những bài viết sâu sắc đề cập đến vấn đề con người mà chúng ta đang quan tâm. Mục tiêu chính của Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa là tạo ra tiềm lực to lớn đủ khả năng tiến tới thủ tiêu nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, hay nói chung là tất cả đều nhằm phục vụ con người, coi con người là yếu tố trung tâm số một của mọi hoạt động. Vì thế nên mọi phương tiện thông tin đại chúng đều chĩa mũi nhọn vào vấn đề con người, trong giai đoạn hiện nay. Có giải quyết tốt vấn đề đó với những chính sách về người lao động hợp lý thì mới có được những thành công của sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa. Có thể nói đó là vấn đề số một quyết định đến vận mệnh của nước ta, trong những năm tới. Đặc biệt là trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, việc nhận thức rõ bản chất của vấn đề con người trong Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Ngoài ra, việc chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu còn do bản thân tâm đắc, từ trước đến nay đã quan tâm được ít nhiều. Trong nội dung tiểu luận này, trước hết chúng ta nên hiểu thế nào về phạm trù con người, phạm trù Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa, sau đó mới nghiên cứu vấn đề con người trong Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa và vận dụng ở Việt Nam ta. Cuối cùng là những định hướng, giải pháp phát triển nguồn lực con người đồng thời khắc phục những điểm yếu kém trong việc sử dụng người lao động trong Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa hiện nay. nội dung a- cơ sở lý luận Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, muốn thành công trong sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa đều phải kết hợp lợi thế vốn có của mình với những thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại của nhân loại. Chính trí tuệ, trình độ học vấn của con người là chìa khoá vạn năng để mở cửa kho trong vấn đề này, giúp các nước tiếp cận với nền văn minh khoa học thế giới. Quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa ở một nước nào đó diễn ra nhanh hay chậm, thành công hay thất bại đều phụ thuộc chặt chẽ vào dân nước đó và trình độ của họ. Nhưng con người là gì ? Đó là một câu hỏi mà từ xưa đến nay đã có khá nhiều khái niệm về con người một cách thần bí. I/ phạm trù con người 1. khái niệm con người Trải qua các thời kỳ lịch sử “con người” được hiểu một cách rất khác nhau. Triết học cổ đại coi con người là tiểu vũ trụ, trong bản chất của con người là trong bản chất của vũ trụ, con người là tác phẩm diệu kỳ của tạo hoá, là vật cao quý nhất của đất trời, là chúa tể của muôn loài, chỉ phục tùng duy nhất một đấng thần linh, con người được chia làm hai phần: phần hồn và phần xác. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng phần hồn là do thượng đế sinh ra, tồn tại vĩnh viễn, thể xác là nơi cư ngụ của linh hồn. Khi con người chết thể xác mất đi còn linh hồn lại lìa khỏi thể xác đi tìm nơi cư ngụ mới. Chủ nghĩa duy vật cho rằng không có linh hồn bất tử, phần xác chi phối và quyết định phần hồn, khi thể xác mất đi thì linh hồn cũng mất theo. Triết học thế kỷ 15- 18 phát triển quan niệm triết học về con người trên cơ sở KHTN đã phục hưng và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy vật máy móc coi con người là một bộ máy vận động theo quy luật cơ học, con người duy vật đề cao vai trò sáng tạo của lý tính con người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên, của hoàn cảnh. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi con người là hiện thân của cảm giác, con người sinh ra (Becơli). Chủ nghĩa duy tâm khách quan coi con người là hiện thân của ý niệm (Platon- Hêghen), nhưng Hêghen đã có công lớn là đưa ra những quy luật về sự hình thành và phát triển của tư duy đối với mọi cá nhân trong xã hội. Nhìn chung, các quan niệm trên đều xem xét con người một cách trìu tượng, họ đã tuyệt đối hoá phần hồn hoặc phần xác, xem xét chúng một cách tách rời cô lập và trìu tượng chúng thành trong bản chất con người. Do đó họ đã đi đến những kết luận và những cách lý giải cực đoan phiến diện. Mặt khác, họ cũng chưa chú ý đầy đủ đến bản chất xã hội của con người, mặc dù đã có những quan điểm đã đề cập tới (Hêghen, Phoiơbăc), nhưng chưa khái quát được mặt xã hội trong con người. Chủ nghĩa Mác đã thừa kế và khắc phục những hạn chế đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong lịch sử để đưa tới quan niệm về con người hiện thực, con người hoạt động thực tiễn, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên- xã hội. Như vậy, triết học Mác- Lênin xem xét con người như là một thực thể sinh vật và xã hội, vì vậy, con người tồn tại và phát triển tuân theo tổng hợp các quy luật sinh học và quy luật xã hội. 2/ quan niệm hiện đại của mác về con người và trong bản chất của nó a/ Con người là một thực thể sinh học xã hội Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, con người tự nhiên là con người sinh học mang bản chất tính sinh vật, cái sinh vật trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và quá trình tâm lý trong con người, là điều kiện quyết định sự tồn tại của con người. Chẳng hạn, đã là con người thì ai cũng phải trải qua các giai đoạn sinh trưởng, tử vong, ai cũng có nhu cầu ăn, ở, đi lại, sinh hoạt văn hoá, tình cảm hiểu biết. Song con người không phải là động vật thuần tuý vì họ biết tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu sinh học của mình và cộng đồng. Chính lao động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành và phát triển con người và ý thức của họ, tạo ra nền văn hoá vật chất và tinh thần. Có lao động con người mới được coi là sản phẩm của xã hội. Trong quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất, con người có mối quan hệ với tự nhiên (LLSX), đồng thời giữa con người cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau (QHSX). Chính vì con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng. Các quy luật tự nhiên tác động tạo nên phương diện sinh học con người. Các quy luật tâm lý ý thức, hình thành nên các mặt xã hội trong con người. Hệ thống quy luật trên cùng tác động vào con người tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh giữa cái sinh học và cái xã hội trong con người. Song con người không phải chịu sự chi phối một chiều của tự nhiên và xã hội mà họ hoàn toàn có thể tác động trở lại, cải tạo chúng cho phù hợp với mục đích và nhu cầu của mình. Nếu nhu cầu sinh học được thoả mãn tốt hơn thì cũng sẽ làm cho xã hội văn minh hơn. Vì thế, việc cải tạo tự nhiên và cải tạo trật tự xã hội nhằm tạo ra môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ngaỳ càng tốt hơn và trách nhiệm không của riêng ai mà là của toàn xã hội. Trong khi tiến hành sản xuất ra của cải vật chất con người tác động vào tự nhiên để cải tạo nó, ở đó con người được gọi là chủ thể cải tạo tự nhiên. Vậy con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, phụ thuộc vào tự nhiên, vừa tác động vào tự nhiên và ngày càng tìm mọi cách thống trị tự nhiên. Trong quá trình cải biến tự nhiên con người cũng đã làm ra lịch sử của mình, do đó con người không những là sản phẩm của tự nhiên- xã hội mà còn là chủ thể cải tạo tự nhiên xã hội , với hoạt động lao động sản xuất, con người đã sáng tạo ra trong toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần, với hoạt động cách mạng, con người viết thêm những trang sử mới cho chính mình. Mặc dù tự nhiên và xã hội là những mặt vận động theo những quy luật khách quan song quá trình hành động của con người luôn luôn tìm cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác động cuả quy luật cho phù hợp vơí nhu cầu và mục đích của mình, không thể có xã hội lịch sử và sự phát triển của xã hội, lịch sử nếu không có con người với tư cách là chủ thể lịch sử. b/ Bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội Con người muốn tồn tại và phát triển thì phải tiêu dùng một lượng nhu yếu phẩm cần thiết đảm bảo nhu cầu sinh học. Song những thứ ấy không phải là quà tặng của tạo hoá ban cho mà nó là sản phẩm của quá trình lao động của con người. Vì thế, quá trình sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động tất yếu của loài người. Chính lao động đã phân định danh giới giữa người với động vật khác, lao động là hoạt động xã hội, nên mọi sự khác biệt giữa con người và con vật đều là kết quả của cuộc sống con người trong xã hội. Phần “xác” là bộ phận sinh học trong con người cũng nhờ có lao động mà khác với con vật. Một cá thể sinh học muốn tồn tại và phát triển được thì nhất thiết phải sống trong xã hội và được xã hội đào luyện. Như vậy, cá nhân là một thực thể xã hội và bản chất của con người có tính lịch sử cụ thể. Vì lẽ đó mà bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, không chỉ tổng hoà các mối quan hệ trong hiện tại mà cả trong quá khứ. Qua tìm hiểu quan điểm của Mác về con người ta có thể rút ra rằng: Thứ nhất: Bản chất chung nhất và sâu sắc nhất của con người là tổng hoà các mối quan hệ giữa người và người trong xã hội diễn ra cả trong hiện tại và trong quá khứ. Thứ hai: Bản chất con người không phải là cố định, bất biến mà có tính lịch sử cụ thể. Thứ ba: Bản chất của con người nhất thiết phải xem xét trong mối quan hệ cá nhân và xã hội. Nói tóm lại, Mác cho rằng con người là một thực thể thống nhất biện chứng giữa cái sinh học và cái xã hội, cái xã hội không thể tách rời cái sinh học trong mỗi con người và ngược lại. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên- xã hội vừa là chủ thể cải biến tự nhiên và xã hội theo mục đích nhu cầu của mình. Ii/ thế nào là Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa 1. Khái niệm về Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa Từ trước đến nay đã có nhiều cách quan niệm về phạm trù Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa, ta hãy xem xét số quan điểm đó. Công nghiệp hoá hiểu theo nghĩa chung nhất là tiến hành trang bị kỹ thuật hiện đại cho mọi ngành kinh tế quốc dân nhằm mục tiêu chính là tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao mức sống người dân. Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành nền kinh tế trong đó công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa là một chiến lược phát triển kinh tế xã hội, khoa học - công nghệ trong một thời gian dài. Theo cách tiếp cận này, Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa được hiểu như là một chiến lược phát triển trong đó có phương hướng, mục tiêu của nền kinh tế mà không nêu được bản chất của Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa. Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa là quá trình cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất xã hội cao- cái quyết định nhất đối với sự tồn vong của một chế độ xã hội. Cách tiếp cận này phù hợp với định nghĩa về Công nghiệp hoá-Hiệnđại hóa của hội nghị lần thứ7 ban chấp hànhTW khoáVII: Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất xã hội cao. Đó là quan điểm mới nhất về Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa. Mặc dù có những khác nhau song nhìn chung mọi cách tiếp cận trên đây đều khẳng định rằng Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, đều từng bước hình thành QHSX mới tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cũng có thể nói thực chất của Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa là sự phát triển công nghiệp, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội (công nghiệp- nông nghiệp dịch vụ) từ trình độ thấp lên trình độ công nghệ hiện đại, lực lượng lao động sẽ chuyển dịch thích ứng về cơ cấu ngành nghề, về trình độ tay nghề và học vấn. Hiện đại hoá, về trình độ tay nghề và học vấn. Hiện đại hoá trong công nghiệp thường được hiểu ra công nghiệp sử dụng những yếu tố của công nghệ thuộc “đời chót” hoặc không tách xa “đời chót” là bao nhiêu. Công nghiệp hoá phải gắn với Hiện đại hóa và ngược lại, đó là hai mặt không thể tách rời của một cuộc Cách mạng và sâu sắc đó. Nói đến Hiện đại hoá là nói đến cả một quá trình lâu dài đầy gian khổ của việc cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn minh cao hơn, thể hiện đầy đủ hơn những giá trị chung mà nhân loại đang hướng tới. Đối với nước ta, đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội cải biến một xã hội công nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp gắn việc hình thành từng bướ c quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới. Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất kỹ thuật, về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng làm tăng năng suất lao động xã hội, làm nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ cải thiện môi trường sinh thái. Thật ra, phạm trù Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa đã được Đảng ta đề ra và lãnh đạo thực hiện trong nhiều năm nay, coi đó là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, nhưng điểm mới hiện nay là gắn Công nghiệp hoá với Hiện đại hóa với việc áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của thời đại đúng như C-Mác nói “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng ta sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”. Trên ý nghĩa đó, có thể coi công nghiệp là phương tiện chuyển tải công nghệ mới vào cuộc sống. Để làm được việc này điều quyết định là con người, với trí tuệ và năng lực ngày càng cao, tất cả là do con người và vì con người. 2. Vai trò, vị trí của con người trong Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa Con người- yếu tố quyết định nhất của lực lượng sản xuất đã trở thành một mệnh đề bất hủ, nó khẳng định vai trò to lớn của nguồn lực con người trong phát triển. Trong các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất thì con người được khẳng định ở vị trí hàng đầu, thiếu nó sản xuất sẽ bị mất sinh khí và tất yếu dẫn đến vô hiệu quả. Đặc biệt hơn, trong giai đoạn Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa đất nước thì hơn bao giờ hết, nhân tố con người càng phải được đặt ở vị trí trung tâm. Nếu không có đội ngũ tri thức và đội ngũ công nhân lành nghề- lựclượng chủ yếu trong nguồn lao động- thì làm sao có được những thành tựu to lớn, tạo ra khối lượng vật chất khổng lồ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân loại. Vì thế mọi hoạt động phát triển đều nhằm vào mục đích chính là vì con người, do con người. Nếu không xuất phát từ con người, được tiến hành bởi con người và vì con người thì không có lý do gì mà khoa học cũng như một quá trình sản xuất nào đó có thể tồn tại được. Như vậy, con người vừa là xuất phát điểm, là lực lượng chủ đạo là mục đích của quá trình sản xuất. Tuy nhiên sự phát triển của lực lượng sản xuất , của yếu tố con người phải gắn liền với sự phát triển quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất chỉ có thể vận động và phát triển trong phương thức sản xuất với một quan hệ sản xuất song trùng. ở đây chúng ta chỉ khẳng định vai trò to lớn của con người trong Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa chứ tuyệt nhiên không tuyệt đối hoá nó và tách rời khỏi quan hệ sản xuất hiện thời. Sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa có thành công như ý muốn của chúng ta hay không điều đó phụ thuộc hầu hết vào con người và trình độ học vấn của họ. Vì thế chúng ta càng hiểu sâu sắc rằng nâng cao cả mặt bằng dân trí và đỉnh cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa đất nước. III/ vấn đề con người trong Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá 1. Về lý luận Khi khẳng định rằng tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người là thay thế lẫn nhau giữa các hình thức kinh tế xã hội, Mác đã nói tới việc lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự phát triển xã hội. Mác cho rằng xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội- bao gồm con người và những công cụ lao động do con người tạo ra. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con người chiếm lĩnh và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống chính con người và quyết định quan hệ giữa người với người trong sản xuất. Như phần trên đã nói, con người có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa, nếu không có con người thì thế giới làm sao phát triển được như ngày nay. Chỉ có con người trong quá trình lao động sản xuất mới có thể làm ra lịch sử của mình. Sản xuất ngày càng phát triển, tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng gia tăng. Việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc đó mang lại sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới- những con người có năng lực toàn diện đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Theo Mác, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà hơn nữa, nó còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử, từ đó Mác khẳng định rằng, sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội trước hết có nghĩa là phát triển sự phong phú của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân. Vì thế theo Mác, ý nghĩa lịch sử mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá con người, giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi sự tha hoá để con người được sống với cuộc sống đích thực của con người. Sự tác động của nhân tố con người có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử với tư cách là nguồn động lực có tầm quan trọng đặc biệt, nhân tố con người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, sáng tạo và hoàn thiện ngay chính cả bản thân mình, vừa đồng thời là chủ nhân sử dụng có hiệu quả mọi nguồn tài sản vô giá ấy. Trên bình diện đó, vai trò của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất không phải là toàn bộ nhân tố con người nói chung, vai trò của nhân tố con người lao động chỉ giới hạn trong khuôn khổ của sản xuất vật chất. Nói khác đi nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất được hiểu như là bộ phận năng động sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Vì nó mà phương tiện và công cụ sản xuất ngày càng được đổi mới, sản xuất phát triển với năng suất lao động và chất lượng cao, đời sống tinh thần và bộ mặt của xã hội có nhiều tiến bộ. Mác là người đầu tiên có công xây dựng nội dung khoa học của khái niệm lực lượng sản xuất. Theo Mác, lực lượng sản xuất được cấu thành bởi tư liệu sản xuất và người lao động, đồng thời Ông dự báo Cách mạng khoa học kỹ thuật cũng sẽ như một bộ phận trực tiếp của lực lượng sản xuất. Ngày nay, khoa học kỹ thuật đang phát triển như vũ bão, khoảng cách giữa các phát minh khoa học ngày càng rút ngắn lại, vì thế để ứng dụng có hiệu quả những thành tựu của khoa học kỹ thuật trên thế giới vào sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa thì đòi hỏi con người phải được trang bị những kiến thức, tri thức về khoa học tự nhiên đảm bảo con người có đủ trình độ để tiếp cận với những phát minh mới, vận dụng vào sản xuất. Vì thế hơn lúc nào hết, vai trò của con người trong thời đại Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa càng được khẳng định ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Đất nước thịnh hay suy, yếu hay mạnh phần lớn là phụ thuộc vào tri thức của con người nước đó. 2. Về mặt thực tiễn Lý luận như trên của Mác đã khẳng định vai trò tột đỉnh của nhân tố con người trong sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa. Nội dung của khái niệm lực lượng sản xuất do Mác vạch ra đã được cuộc sống khẳng định. Người lao động và tư liệu sản xuất là hai yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Thực tiễn đã chứng minh được rằng trong bất kỳ thời đại nào và bất cứ quốc gia nào chăng nữa thì hai yếu tố ấy đều có mối quan hệ biện chứng với nhau, dù khoa học kỹ thuật có hiện đại đến mấy, các phương tiện sản xuất có tinh thông và sắc bén thế nào đi nữa, nếu tách nó ra khỏi yếu tố người lao động thì quá trình sản xuất sẽ trở thành vô nghĩa và chắc chắn sẽ không thu được hiệu quả. Ngược lại nếu con người có kiến thức và trình độ cao nhưng không được tiếp cận với những tư liệu sản xuất mới, hiện đại thì hiệu quả chắc chắn cũng sẽ như đã nói ở trên. Trong quá trình phát triển sản xuất, không phải lúc nào con người cũng hiểu đúng về vị trí, vai trò của từng bộ phận trong cấu trúc của lực lượng sản xuất. Thực tế, có những lúc chúng ta đã tuyệt đối hoá vai trò của nhân tố con người, tách rời, cô lập với tư liệu sản xuất và coi nhẹ nó, nhưng ngược lại, có những lúc chỉ coi trọng vai trò và vị trí của công cụ và phương tiện sản xuất, xem con người trong lực lượng sản xuất như một yếu tố thụ động, phụ thuộc vào trình độ phát triển của tư liệu sản xuất. Sở dĩ có tình trạng này là do con người không hiểu được đúng vị trí của từng bộ phận trong lực lượng sản xuất, đặc biệt là không thấy được vai trò số một của nhân tố con người. Vì thế, trong sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa, đòi hỏi mỗi con người đều phải có nhận thức đúng đắn về cấu trúc của lực lượng sản xuất, phải thấy rõ được vị trí của bản thân đối với các tư liệu sản xuất, đồng thời thấy rõ được vai trò to lớn của những tư liệu sản xuất với trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại. Phải biết kết hợp chặt chẽ giữa con người với tư liệu sản xuất làm giảm đáng kể chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội, từ đó làm tăng mức thu nhập bình quân theo đầu người- chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá trình độ phát triển của một nước. Trên đây là vài nét chung nhất về mặt lý luận cũng như thực tiễn của vấn đề con người trong Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa. Để hiểu một cách sâu sắc hơn một bước nữa hãy cùng nhau đi sâu phân tích vấn đề này cụ thể ở nước ta. B- con người trong Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa ở Việt Nam i/ khái quát về đường lối của đảng Coi con người là vốn quý nhất, truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc đã được Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới với nhận thức và định hướng mới qua mỗi chặng đường Cách mạng. Đảng ta quan niệm rằng, trước hết con người phải được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công và phải được sống trong một đất nước hoà bình, độc lập, phải vươn lên làm chủ xã hội và điều quan trọng hơn cả là phải được tự do. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hơn bao giờ hết chúng ta cần hiểu biết sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người- chủ thể sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia. Đảng ta luôn lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động phát triển, vì thế đường lối của Đảng luôn chung thành với những lý tưởng mà Mác đã vạch ra. Ngày nay, Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa xã hội là xu hướng tất yếu mà nước ta phải trải qua, mục tiêu xuyên suốt của sự phát triển đó là vì con người. Đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười trong bài phát biểu:”Con người chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Tại hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng khoá VII đã nói rằng:”Tiêu chí ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới, là sự phát triển của con người”. Đồng thời Đồng chí còn chỉ rõ việc đánh giá tiến bộ kinh tế xã hội của một nước không phải chỉ ở tổng sản phẩm quốc dân như trước đây mà còn dựa trên cơ sở của những chỉ tiêu cơ bản là thu nhập, trình độ giáo dục và tuổi thọ của người dân. Không phải đến ngày nay chúng ta mới điều đó mà ngay từ buổi ban đầu tiến hành sự nghiệp cách mạng của mình. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định”Con người là vốn quý nhất, chăm lo phát triển cho hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất của chế độ xã hội ta”. Chăm lo hạnh phúc của mọi người, mọi nhà được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm. Quán triệt quan điểm đó cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta đã khẳng định:”Phương hướng lớn của chính sách xã hội là phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân, kết hợp tốt việc tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa, Đảng ta luôn lấy tư tưởng phát triển con người, của Mác làm nền tảng không có nghĩa là đặt phát triển kinh tế sau phát triển con người, mà là ở chỗ “Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Đảng đã chỉ rõ rằng một nước còn nghèo nàn lạc hậu như nước ta, để thoát khỏi tình trạng đó, trước hết chúng ta cần ưu tiên cho phát triển kinh tế. Trước đây, với căn bệnh chủ quan duy ý chí chúng ta đã làm như vậy và đã phạm sai lầm. Ngày nay, để tránh mắc lại những sai lầm đó, phát triển kinh tế không thể không xuất phát từ chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, từ tinh thần nhân văn sâu sắc và gắn liền với hiện đại hoá đời sống xã hội. Bởi lẽ, một trong những động lực để phát triển kinh tế chính là ở chỗ tạo ra sự cân đối hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với môi trường xã hội lành mạnh. Mục tiêu tối cao trong chiến lược phát triển của nước ta là hướng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội, mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi có sự kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế nhanh với việc cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội, đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng môi trường sống. Đó chính là cơ sở là nền tảng cho sự phát triển lâu bền, phát triển không chỉ vì thế hệ hôm nay mà còn vì sự sinh tồn và cơ hội phát triển cho thế hệ mai sau. Trên thực tế và trong quan niệm của mỗi chúng ta, con người ngày càng thể hiện rõ vai trò là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia. Bởi vậy, để đẩy mạnh sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa xã hội theo định hướng XHCN và đưa sự nghiệp Cách mạng lớn lao đó đến thành công ở nước ta, chúng ta không thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc. Không thể không phát triển con người Việt Nam, nâng cao đội ngũ những người lao động nước ta lên một tầm cao chất lượng mới. Hơn nữa, đó cần được coi là động lực mạnh mẽ nhất để giúp chúng ta mau chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và xây dựng xã hội ta thành một xã hội công bằng nhân ái, một xã hội thực sự tốt đẹp và tiến bộ, mang bản sắc dân tộc và hiện đại. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát triển nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa ở nước ta”. Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định “Con người là vốn quý nhất, chăm lo phát triển con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”. Trên thực tế, trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Đảng ta đã luôn luôn cố gắng làm nhiều việc theo hướng đó, chăm lo hạnh phúc của nhân dân. “Việc gì có lợi cho._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21141.doc