Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước

công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước Loài người đang bước vào giai đoạn văn minh mới - văn minh trí tuệ. Điều đó về khách quan làm cho vai trò của con người tăng lên đối với tiến trình phát triển của xã hội, loài người “ đi ”phía trước bằng cái đầu của mình. Phát triển kinh tế - xã hội là quy luật tồn tại của xã hội loài người, mà bất cứ một quốc gia nào cũng phải đặt nó lên hàng đầu, một trong những vấn đề quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội đó là quá trình công nghiệp hoá đất nướ

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1621 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c, tuy nhiên việc nhìn nhận và thực hiện quá trình công nghiệp hoá như thế nào, còn phải tuỳ thuộc và thực trạng của từng quốc gia. Bối cảnh thời đại đem lại cho nước một vận hội, đồng thời đặt nước ta trước một thử thách nghiệt ngã, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, trở thành nước tiên tiến hoà nhập vào dòng biến hoá chung của nhân loại bước vào giai đoạn văn minh mới hay là bị tụt lại phía sau, thua kém ngày càng xa so với các nước khác? Lối thoát đã được vạch ra, đó là thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhưng chiếc chìa khoá mở cửa đi vào khai thác tiềm năng của đất nước để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá là con người. Nhìn từ một phía con người Việt Nam đã từng chịu đựng một cuộc sống gian khổ dưới một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu... con người còn bị trói buộc bởi muôn vàn sợi dây vô hình của nền sản xuất nhỏ với trình độ học vấn dưới mức trung bình... con người trở thành chủ thể tự giác xây dựng đất nước trên cơ sở một trình độ dân trí được nâng cao trí tuệ, nâng con người Việt Nam lên ngang tầm thời đại - Nhìn từ một phía khác, con người Việt Nam mang trong mình lòng tự hào, ý thức tự lực tự cường, dân tộc được mở rộng và nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước, tâm lý gắn bó cộng đồng... đã tạo cho con người Việt Nam thói quen lao động cần cù,chịu đựng gian khổ,lạc quan nhạy cảm với cái mới, nắm bắt được cái mới và tái tạo cái mới phù hợp với thời đại. Bởi vậy, việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của con người. Việt nam đã tiến hành công nghiệp hoá,từ những năm 60. Nhưng chiến tranh tàn khốc và hậu quả của nó để lại, cộng với những khó khăn vốn có của đất nước, mà quá trình công nghiệp hoá của đất nước ta vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Do vậy hiện nay trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì việc tiến hành công nghiệp hoá kết hợp với hiện đại hoá là một giải pháp đứng đắn nhất, hiệu quả nhất và nó mang tính tất yếu để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Phương thức sản xuất là cách thức mà con người dùng để làm ra của cải vật chất. Đó là nhân tố quyết định tính chất, kết cấu của xã hội, quyết định sự vận động và phát triển của xã hội. Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử. Khi các phương thức sản xuất mới ra đời thay thế phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng có sự thay đổi căn bản: từ kết cấu kinh tế, đến kết cấu giai cấp từ các quan điểm tư tưởng xã hội đến tổ chức xã hội. Xã hội loài người biết đến 5 phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao và tương ứng với nó là 5 xã hội cũng kế tiếp với nhau từ thấp đến cao. Mỗi phương thức sản xuất đều có cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng với nó. Cơ sở vật chất kỹ thuật là toàn bộ những tư liệu lao động và đối tượng lao động ở một trình độ kỹ thuật nhất định mà xã hội đó sử dụng để tiến hành sản xuất. Cùng với sự phát triển của sản xuất thì cơ sở vật chất kỹ thuật càng ngày càng được hoàn thiện và trở nên hiện đại. Các xã hội trước Chủ nghĩa Tư Bản đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật càng ngày càng được hoàn thiện và trở nên hiện đại. Các xã hội trước Chủ nghĩa Tư Bản đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật đó là trình độ sản xuất thủ công, lạc hậu. ở chủ nghĩa tư bản cơ sở vật chất kỹ thuật của nó là nền nông nghiệp cơ khí hoá với trình độ khoa học kỹ thuật cao. Cơ sở của bất kỳ một phương thức sản xuất nào đều là một hệ thống các yếu tố vật chất kỹ thuật của lực lượng sản xuất mà suy đến cùng thì tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình vận động và phát triển của mỗi hình thái kinh tế xã hội. Xây dựng cơ sở vật kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đó là nền đại công nghiệp cơ khí hoá cân đối và hiện đại dựa trên trình độ khoa học công nghệ ngày càng phát triển cao, nó tiếp thu nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật do chủ nghĩa tư bản để lại và nó có một đặc điểm: Nó có khả năng phát triển một cách vô hạn vì nó dựa trên chế độ xã hội công hữu, nó có khả năng cải tạo về mặt kỹ thuật đối với tất cả các nghành kinh tế khác trong đó có nghành nông nghiệp, có một cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hoá sản xuất và lao động ở mức cao. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một quy luật chung phổ biến đối với tất cả các nước trên thế giới. Tuy nhiên tuỳ từng nước khác nhau do điểm xuất phát không giống nhau nên cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại sẽ khác nhau. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển và chủ yếu là nông nghiệp, với cơ sở vật chất kỹ thuật thô sơ, nghèo nàn thủ công là chủ yếu thì quá trình công nghiệp hoá là bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Việc thực hiện và hoàn thành tốt quá trình công nghiệp hoá có ý nghĩa đặc biệt to lớn, có tác dụng về nhiều mặt đối với Việt Nam là làm thay đổi căn bản kỹ thuật công nghệ sản xuất, tăng năng xuất lao động, thực hiện xã hội hoá sản xuất về mặt kinh tế xã hội, tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao góp phần nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của mọi người trong xã hội. Mối quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp, đòi hỏi phông ngừng nâng cao vai trò của nhà nước, nâng cao khả năng tích luỹ, mở rộng phát triển ngành nghề mới, giải quyết tốt nhu cầu xã hội. Tất cả các nhiệm vụ này chỉ có thể thực hiện tốt trên cơ sở thực hiện đầy đủ và đúng đắn quá trình công nghiệp hoá. Tạo điều kiện trang bị vũ khí, cơ sở vật chất cho quốc phòng, tạo ra tiềm lực quốc phòng lớn góp phần bảo vệ an ninh, chính trị ổn đinh, giữ nguyên bờ cõi tổ quốc. Tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt vấn đề phân công lao động và hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học công nghệ. Hiện nay ở Việt nam ta qúa trình công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá là bước đi tất yếu từ nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn hiện đại. Công nghiệp hoá nói chung là cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất để cải tạo căn bản kinh tế và công nghệ sản xuất từ đó tăng năng xuất lao động thực hiện xã hội hoá về mặt kinh tế và kỹ thuật. Công nghiệp hoá ở Việt Nam ta là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đó là quá trình biến một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại. Trong điều kiện ngày nay, đó là việc sử dụng những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ vào sản xuất với điều kiện lợi dụng tư thế của nước đi sau biết đi tắt đón đầu để rút ngắn sự chênh lệch về độ phát triển, đẩy lùi nguy cơ lạc hậu giữa nước ta trên thế giới. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là: Nền kinh tế nước ta hiện nay còn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn chiếm tỷ trọng nhỏ, tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thua quá xa nhiều nước trong khu vực. Vì vậy muốn không bị tụt hậu xa hơn nữa, muốn ổn định mọi mặt để đi lên và phát triển thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Cái tất yếu ấy mọi người dễ dàng nhận biết song dựa vào đâu để đảm bảo thực hiện nó cho hiệu quả và không phải trả giá quá đắt thì không lại quá dễ dàng, bởi vì từ chỗ thấy được những tất yếu, không cẩn thận lại dễ sa vào duy ý trí như đã từng xảy ra trước đây hoặc trái lại, nếu chỉ thấy khó khăn, bất lợi, thiếu điều kiện rồi cam chịu tụt hậu thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế khoa học và công nghệ. Với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày nay nó không không chỉ dừng lại ở tính chất hiện đại ở các yếu tố tư liệu sản xuất, mà còn ở kinh tế công nghệ sản xuất hiện đại, phương pháp sản xuất tiên tiến... nó biểu hiện ở việc tự động hoá sản xuất cao và việc đưa năng suất lao động lên gấp bội với tốc phát triển nhanh chóng của nhiều nước trên thế giới, với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, nó không chỉ bó hẹp trong một nghành, một nghề mà nó được thực hiện trên khắp tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm xã hội hoá về mặt sản xuất cũng như tất cả các phương diện khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì hai khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay nó gắn liền với nhau trong mọi quá trình hoạt động phát triển của đất nước. Ngay từ những năm 60, đảng nhà nước ta đã nhận rõ vai trò của việc công nghiệp hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế - xã hội. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9/1960),Đảng lao động Việt Nam đã nghị quyết “nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, ở miền bắc nước ta là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng “.Nhưng do cạnh tranh kéo dài đến năm 1975 nước ta mới hoàn toàn thống nhất vì vậy trong thời gian này quá trình công nghiệp hoá ở miền bắc vẫn chưa phát huy được tác dụng của nó trên các mặt của nền kinh tế xã hội. Sau năm 1975 nước ta tiếp tục quá trình công nghiệp hoá trên toàn bộ đất nước và từ đó đến nay nó đã đạt được. Bước đầu tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật trong các nghành kinh tế quốc dân nhất là trong công nghiệp. Một số nghành, một số công trình một số sản phẩm có tác dụng quan trọng đến sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân như: Điện, khai thác dầu mỏ, xi - măng, luyện kim, đã được chú trọng đầu tư và năng lực sản xuất tăng nhanh qua các năm. Thúc đẩy quá trình thay đổi và phát triển cơ cấu kinh tế từ giản đơn lạc hậu trì chệ kém hiệu quả dần dần tiến tới một cơ cấu có nhiều nghành nhiều thành phần. Tạo ra nguồn lao động và đội ngũ lãnh đạo dồi dào, với trình độ dân trí được nâng cao, tuy trong lao động có trình độ nghề nghiệp kỹ thuật ngày càng cao. Tuy trong công nghiệp trong GDP đã tăng từ 19%(1990) lên 19,7%(1991) và đến 22,6%(1992). ở nước ta quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá là nội dung chủ yếu, là con đường phát triển kinh tế xã hội với những thành tựu đã đạt được công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta có vai trò tác động thiết thực đến phát triển kinh tế xã hội về nhiều mặt. Về kinh tế đã duy trì phát triển kinh tế ngay cả trong những năm chiến tranh phá hoại ác liệt nhất và góp phần đưa nền kinh tế nước ta vượt qua tình trạng suy thoái đi vào thế ổn định và đang trên đà phát triển. Những năm 1986 và 1988 nền kinh tế nước ta diễn biến phức tạp và lộn xộn lạm phát ba con số, bội chi ngân sách lớn, liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông âu tan giã làm mất đi thị trường lớn và khoản viện trợ 1tỷ USD mỗi năm nền kinh tế nước ta tưởng như sụp đổ nhưng trong hoàn cảnh đó ta vẫn đứng vững do đổi mới cơ chế và chính sách làm cho: Nông nghiệp, Công nghiệp xuất khẩu phát triển, sản lượng và thu nhập đầu tư tăng lên, tăng thu nhập quốc dân bù đắp được thiếu hụt ngân sách do cắt viện trợ gây lên Năm 1990 thu nhập từ dầu mỏ là 170 triệu USD chiếm 1,8% GDP. Năm 1992 nguồn này tăng gấp đôi. đồng thời sản lưởng và thu nhậpdo xuất khẩu gạo, thiếc, thuỷ sản... cũng tăng lên. Như vậy có thể nói công nghiệp hoá đã góp phần làm cho nền kinh tế xã hội phát triển bằng sức lực của chính mình và ssưa nền kinh tế vĩ mô đi vào trạng thái ổn định, lạm phát giảm xuống còn 2 con số, thiếu hụt Ngân Sách giảm từ 6,5% GDP(1989)xuống 4%GDP(1910)và còn 1,2%(1991). Việc điều chỉnh Công Nghiệp Hoá theo hướng lấy: Nông Nghiệp làm nền tảng, coi Nông Nghiệp khớp với Nông Nghiệp chế biến là mặt trận hàng đầu, thực hịn chính sách mở cửa, phát triển kinh tế nhiều thành phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Bước đầu nó đã góp phần khởi động và giải phóng các nguồn lực của đất nước chưa được khai thác sử dụng đang còn tiềm ẩn trong đất. Về văn hoá: công Nghiệp Hoá- Hiện đại Hoá đã thúc đẩy kinh tế phát triển tạo được nguồn ngân Sách lớn có thể đầu tư tốt cho các hoạt động văn hoá. đồng thời Công nghiệp Hoá- Hiện Đại Hoá đã trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kiến thức về khoa học kỹ thuật đầy đủ hơn cho nghành giáo dục làm nâng cao chất lượng đào tạo. trình độ dân chí được phát triển. Bên cạnh đó đời sống của nhân dân được nâng cao nhờ Công Nghiệp Hoá -Hiện đại Hoá làm cho mọi người dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động về văn hoá. Đối với an ninh quốc phòng: Ngày nay Công Nghiệp Hoá-Hiện đại Hoá đang góp phần vào trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho các xí nghiệp quốc phòng, trang bị vũ khí, trang thiết bị hiện đại và nâng cao đời sống của cán bộ chiến sỹ trong lực lượng vũ trang nhân dân. Do đó tạo nên sức mạnh to lớn cho lực lượng vũ trang nhân dân bảo vệ vững chắc độc lập tổ quốc, an ninh, trật tự ổn định tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế xã hội. Đối với mối quan hệ quốc tế: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá dựa trên quan điểm mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá đa dạng hoá quan hệ với nước ngoài trong việc xây dựng nền kinh tế mở nước ta đã họp tác được nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là việc gia nhập hiệp hội các nước ASEAN năm 95 của nước ta đã đánh dấu 1 bước quan hệ hợp tác với nước ngoài. Có thể nói Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đã đưa nước ta hoà nhập với các nước trên thế giới về nhiều mặt của đời sống xã hội. Nội dung chính: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là 1 quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện cơ khí hoá nên sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ trên thế giới. cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ là sự phát triển mạnh mẽ vượt bậc của khoa học kỹ thuật và công nghệ trên thế giới. Còn công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là quá trình áp dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho những nước có nền kinh tế chưa phát triển, có nền sản xuất lạc hậu. Do vậy Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa chỉ tiến hành ở những nước kinh tế chưa phát triển cao và chỉ diễn ra trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội. Còn cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ nó được thể hiện ở tất cả các nước có nền công nghiệp hoàn chỉnh phát triển cao và được thể hiện mãi với trình độ ngày càng cao. Đối với nước ta trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu với nên sản xuất nhỏ, lao động thổ công còn phổ biến, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì quá trình ccnh và cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ đều có mục tiêu là thực hiện cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc đưa năng suất lao động lên cao gấp bội. Do đó hai quá trình này chúng được thống nhất là một, đó là sự thống nhất giữa xu thế phát triển khách quan và hành động chủ quan của thực tại, nó phù hợp với yêu cầu của quy luật kinh tế khách quan. Công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là việc xã hội và phát triển các nghành công nghiệp hiện đại, trong đó nghành then chốt là công nghiệp chế tạo cơ khí.Quy mô cơ cấu tỷ trọng các nghành đó phải phù hợp với diều kiện tiềm năng, yêu cầu của nền kinh tế và phù hợp với khả năng, trình độ tham gia vào phân cong lđ của nền kinh tế đất nước trong từng giai đoạn nhất định. Hội nghị lần thứ VII ban chấp hành TW đảng khoá VII đã nêu rõ nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là: “Quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sách sử dụng một phổ biến sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của cong nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao “. Sự công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cơ khí hoàn toàn bộ nền kinh tế quốc dân là quá trình lâu dài phải được thực hiện từng bước có trọng tâm trọng điểm. Trong bối cảnh quốc tế hoá đời sống kinh tế và do trình độ lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp, lao động dư thừa còn nhiều, vốn đầu tư còn hạn chế. Đảng ta đã chủ trương thực hiện chiến lược công nghiệp hoá ở nước ta theo các hướng. Kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội “đi tắt “, “đón đầu” hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiến lên của khoa học công nghệ thế giới. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật mới, thực hiện cơ khí hoá các nghành của nền kinh tế quốc dân, phải ghép đồng bộ những vấn đề như: Xây dựng nơi đi đến với quản lý, sử dụng để phát huy hiệu quả, kết quả chặt chẽ giữa tổ chức lại sản xuất với phâm công lao động trong từng đơn vị kinh tế, trên phạm vi toàn xã hội giữa tổ chức sản xuất và phương thức hoạt động của nền kinh tế được cơ khí hoá với cơ chế quản lý và hệ thống các cơ sở pháp luật. Thường về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước có hiệu quả hơn để khai thác tốt nhất các lợi thế so sánh về con người, tài nguyên thiên nhiên,vốn, kỹ thuật, công nghệ, cho sự phát triển. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũ, từng bước hình thành nên một cơ cấu kinh tế mới hợp lý. Cơ cấu kinh tế là tổng thể hưu cơ các mối quan hệ giữa các nghành, các vùng, các lĩnh vực kinh tế, các thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế thể hiện ở các tỷ lệ cân đối và phản ánh trạnh thái biến đổi của phân công lao động xã hội.Trong cơ cáu kinh tế đó, quan hệ giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ là các bộ phận quan trọng đặc biệt. Các mối quan hệ này được xem xét dưới nhiều góc độ như kỹ thuật công nghệ, quy mô và tốc độ phát triển. Xây dựng cơ cấu kinh tế mới hợp lý là giai cấp tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cả cơ cáu kinh tế đó phải đảm bảo yêu cầu: + Phản ánh đúng các, yêu cầu cảu quy luật khách quan, đặc biệt là các quy luật kinh tế. + Phải phù hợp với xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại trên thế giới hiện nay. + Phải phù hợp với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển. Vì vậy cơ cấu kinh tế đó phải là “ cơ cấu kinh tế mở “. + Đảm bảo cho phép tối ưu hoá việc sử dụng lợi thế so sánh về tài nguyên lao động và ưu thế của nước phát triển muộn về công nghiệp. Chỉ có như vậy mới cho phép khai thác tối đa hoá và có hiệu quả những tiềm năng vốn có, những tiềm năng vốn có của ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế cơ sở. Từ nền sản xuất nhỏ đi lên trong quá trình CôNG NGHIệP HOá để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại, thì việc tiến hành phân công lại lao động xã hội. Trong quá trình công nghgiệp hoá theo hướng lâu dài. Trên phạm vi cả nước cúng như từng nghành, từng cơ sở là tất yếu và được tuân theo các quy luật. + Tỷ lệ lao động trong nông nghiệp giảm xuống, trong công nghiệp ngày một tăng lên. + Tỷ lệ lao động trí óc ngày càng tăng và chiếm phần lớn trong tổng lao động xã hội. + Tốc độ tăng lao dộng trong các nghành phi sanbr xuất vật chất (nghành dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc đôj lao động trong các nghành sản xuất vật chất Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta gắn liền với việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư tạo ra tiềm lực to lớn cho quá trình sản xuất cơ sở hạ tầng ở nước ta. Bên cạnh đõ nhà nước đa xcó những chính sách hợp lý trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội đó là: Ưu tiên quy mô vừa và nhỏ để xây dựng một số công trình với quy mô lớn và thật cần thiết chú trongj đầu tư cân đối cho các vùng trọng điểm, gióa dục, y tế, văn hóa, thông tin, giao thông vận tải, các vùng kém phát triển (Vùng cao, biên giới, hải đảo....) EĐầu tư cân đối giữa cân đối công nghiệp và nông nghiệp taok ra sự phát triển đồng bộ giữa các vùng kinh tế với nhau từ đó phát huy đươck mọi nguồn lực cảu đất nước thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển nhanh chóng. Công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn liền với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế cũ kém hiệu quả sang cơ chế quản lý kinh tế mới hợp lý và có hiệu quả. + Cơ chế quản lý cũ: Nước ta từ năm 1957 đến năm 1986 nền kinh tế được vận hành theo cơ chế “ Kế hoạch hoá tập trung “ trong cơ chế này (nhất là thời kỳ đầu) quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đã đạt được một số thành tựu đáng kể là: Xây dựng được một số khu công nmghiêpk quan trọng đưa được một số dân cư đi làm kinh tế mới góp phần vuiệc phân bố dân cư và nguồn lao động hợp lý, sử dụng được nhiều diện tích đất hoang hoá, huy động được một số vùng phát triển kinh tế nhưng do cơ chế này đã có những hạn chế: Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế, cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô bằng cục mệnh hành chính thông qua việc giao cho các cơ sở lên kếa hioạch các chỉ tiêu hết sức chi tiết, các cơ quan hành chính kinh tế (Bộ, tổng cục, các tổ) can thiệp rất sâu vào hoạt động sản xuất kinh daonh cảu các đơn vị kinh tế nhưng lại không chịu trách nhiệm trước quyết định cảu mình dẫn đến coi nhẹ các quan hệ hàng hoá tiền tệ, coi nhẹ hiệu quả kinh tế trong sản xuất, thực hiện bao cấp trên nhiều mặt (giá, vốn...) Bộ máy quản lý cồng kềnh khâu trung gian và kém hiệu quả, mặtk khác cơ cấu này gắn với cơ cấu kinh tế do chú trọng phát triển trên quy mô lớn, phát triển công nghiệp nặng và xem nhẹ nền công nghiệp về lâu cơ chế này không hợp lý với tốc độ phát triển cảu nèen kinh tế, không phát huy được mọi tiềm nằng của dất nước trên mọi lĩnh vực làm cho quá trình công nghiệp hoá trong thơì kỳ này diễn ra chậm và không phát huy được hiệu quả của nó. Cơ chế quản lý kinh tế mới. do cơ chế cũ có những hạn chế và sai lầm lớn dẫn đến tát yếu phải thay đổi cơ chế quản lý kinh tế cho phù hợp với sự nghgiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đúng như thực tiễn khách quan đặt ra năm 1986. Đảng ta đã quyết định đưa nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết cảu nhà nước đó là “ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vậnnn động thao cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước “ với cơ chế này nó đã phù hợp với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta trong gian đoạn hiện nay. Có thể nói quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta trong nmhững năm gần đây nó đã và đang thúc đẩy sự phát triển mọi mặt đời sống xã hội góp phần rút ngắn thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội cuả nước ta hiện nay Trong hoàn cảnh điều kiện nước ta và tình hình thế giới, để quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá dioễn ra nhanh chóng và theo đúng định hưỡng mà Đảng ta đã dể ra thì cần phải thực hiện tốt một số vấn đề sau: + Tạo nguồn vốn tích luỹ: Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là trang bị kỹ thuật công nghệ mới hiện đại cho các nghành kinh tế quốc dân. Để làm được điều đó cần tưới nguồn vốn lớn, do vậy nước ta cần có chính sách tạo ra nguồn vốn tích luỹ. Cần huy động nguồn vốn trong nước: Đay là nguồn vốn giữ vai trò chủ đạo, quyết định. Để có nguồn vốn lớn này Nhà nước cần phải: - Ban hành các chính sách để mọi người có thể đưa nguồn tiền nhàn rỗi của mình vào sản xuất, bằng cách nhà nước thay đổi các chính sách về tài chính, ngân hàng tín dụng hợp lý, khuyến khích nhân dân mua công trái xây dựng đất nước. - Triệt để tiết kiệm, coi tiết kiệm là quốc sách, tăng cường chống tham nhũng, lãng phí. - Nỗ lực nâng cao năng xuất lao động xã hội nói chung. - Tăng lượng lao động cho ácc nghành sản xuất lên. - Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào sản xuất. Có như vậy mới tận dụng được n guồn vốn nhàn dỗi cảu nhân dân vào sản xuất kinh doanh. Ngoài việc huy đo9ọng vốn trong nước, nhà nước ta cần tranh thủ nguồn vốn đầu tư bên ngoài - đây là nguồn vốn quan trọng, nhà nước ta thu hút nguồn vốn này bằng cách: - Có chính sách điều chỉnh nghuồn đầu tư hợp lý để các tư bản nước ngoài hăng hái liên kết, liên doanh đầu tư vào nước ta bằng ngoại tệ cũng như thông qua các công nghệ trang thiết bị kỹ thuật. - Mở rộng hơn nữa quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế để có thể vau được vốn từ các tổ chức đó. - Tranh thủ nguồn vốn ngoại tệ cảu bà con việt kiều ở nước ngoài. Sau khi tạo được nguồn vốn tích luỹ thì nhà nước cần nghiên cứu sử dụng nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Muốn vậy ta cần phải xác định đúng yêu cầu về đầu tư cảu các nghành thành phần kinh tế, cảu các khu vực, của các ngành kinh tế trong nước + Phát triển mạnh mẽ việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật: Có chính sách hợp lý về việc phát triển công nghệ: Nhà nước cần khuyến khích sự sáng tạo cảu các nhà khoa học, coi trọng và phát huy sáng kién của mọi tầng lớp lao động. Tạo lập thị trường để sản phẩm của hạot động khoa học công nghệ được trả giá đúng mức về lưu thông như một dạng hàng hoá đặc biệt, cần thực hiênbj tốt pháp lệnh vè quyền bảo hộ sở hưu công n ggiệp; phấp lệnh chuyển giao công nghệ, áp dụng các các chính sách kinh tế thúc đẩu doang nghgiệp ứng dụng các công nghệ tiên tiến thích hợp. Có chính sách khuyến khích đoioí với công n ghệ mới áp dụng lần đầu tiên ở nướ ta. Dành phần vốn cho các công tác nghiên cứu, ứng dụng triển khai và đổi mới công nghệ tại các daonh nghiệp. + Tăng cường công tác thăm dò điều tra các nguồn tài nguyên: Nhà nước cần đẩy mạnh việc tòim kiếm, thăm dò, đáng giá nguồn tài nguyên của đất nước. Công átc này hết sức quan trọng và đòi hỏi phải được quan tâm thích đanág vì nó có nhiệm vụ cung cấp các số liệu, tình hình cụ thể về các nguồn tài nguyên cảu đất nước, để từ đó giữa chính phủ và các nhà hoạch định chính sách xây dựng nên các kế hoạch khai thác, bảo vệ, sưr dụng và tái tạo các nguồn tài nguyên của đất nước đạt hiệu quả cao tạo ra nguồn lực lớn cho đất nước. + Phát triển nguồn nhân lực và sử dụng nó có một cách hiệu quả: Nhà nước cần phát triển hệ thống giáo dục một cách hợp lý đáp ứng được yêu cầu của xã hội, thực hiện xã hội hoá đào tạo. Cần đầu tư thích đáng khuyến khích động viên mọi nhà, mọi tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế tham gia tích cực vào việc phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo và đào tạo.Nhà nước phải ưu tiên đào tạo các nghành mũi nhọn, có kế hoạch đưa người đi đào tạo ở nước ngoài. Tất cả đều nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh vqà công nhân lành nghề, trình độ dân chí được nâng cao. Nhà nước cần phải bố chí sử dụng, đãi ngộ hợp lý lực lượng lao động đã và sẽ được đào tạo ưu tiên các tài năng trẻ để từ đó phát huy được tốt nguồn lực con người. Những điều kiện tiền đề trên nếu được thực hiện tốt sẽ giúp cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đạt được kết quả cao thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Tuân theo quy luật chung cảu xã hội loài người Việt Nam ta đã tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhằm làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ phù hợp với quan hệ sản xuất từ đó xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc ở trình độ cao và không ngừng phát triển. Đó là xây dưnhgj cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội làm cho kiến trúc thượng tầng tác động cúng chiều với quy luật vận dộng của cơ sở hạ tầng tạo ra tiềm lực kinh tế lớn lao của đất nước. Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta nó đã nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ của con người cũng như của cơ sở vật chất kỹ thuật tác động trược tiếp tới quá trình cơ khí hoá hiện đại hoá nền sản xuất, làm dịch chuyển cơ chế cũ từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới cân đối và hợp lý, phân công lại lao động xã hội, điều chỉnh cơ cấu đầu tư cả về quy mô lẫn chất lượng và chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế cho phù hợp với nó. Do vậy trong những năm gần công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta đã làm cho kinh tế xã hội đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Tạo đà vững chắc co công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Điều đó chứng tỏ công nghiệp hoá là biện pháp đúng đắn nhất, hiệu quả nhất và là quá trình tất yếu không thể thiếu được đối với tất cả các nước tiến lên chủ nghĩa xã hội nhất là ở nước ta trong giao đoạn hiện nay. Xét về lâu dài công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cho chủ nghĩa cộng sản – một xã hội giầu mạnh nhất, công bằng nhất văn minh nhất dựa trên tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lê nin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại ở nước ta trong tương lai./. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0201.doc
Tài liệu liên quan