Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa & vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta

A. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua kinh tế rất sôI động, các nước nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đua kinh tế nước mình phát triển. Muốn vậy các nước không còn con đường nào khác là phảI thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá (CNH,HĐH) . đặc biệt đối với nước ta, một nước đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) thi việc tạo ra cơ sở vật chấtkĩ thuật cho CNXH là không thể thiếu được nên việc thực hiện CNH,HĐH ở nước ta là điều tất yế

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1391 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa & vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, phát triển kinh tế la quy luật khách quan của tồn tại và phát triển của xã hội loài người, bất kì nước nào , bất kì giai đoạn nào, không kể nước đó giàu hay nghèo thì các nước đều có mục tiêu giống nhau là phát triển mạnh kinh tế nước mình, và trong giai đoạn hiện nay đẻ thực hiện mục tiêu của minh , tất nhiên là các nước đều phảI CNH,HĐH đất nước. Vấn đề khách quan giữa các nước là nội dung, cách thức phát triển có sự khác nhau và thực tế chỉ có một số ít nước thành công trong việc CNH. Đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật của nên sản xuất lớn hiện đại là nền công nghiệp hiện đại, cần đối , dựa trên trình độ khoa học công nghệ kỹ thuật ngày càng cao. Đêr có cơ sở vật chất kỹ thuật như vậy, nước ta là một nước đang phát triển cần thiết phải tiến hành CNH,HĐH đất nước. Đại hội Đảng VI của Đảng ta đã xác định đây là thời kì phát triển mới –thời kì “đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước” định hướng phát triển nhằm mục tiêu “Xây dựng đất nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ , phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được nâng cao, quốc phòng , an ninh vững chắc,dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”. Vì vậy phảI là rõ tính quan trọng của quá trình CNH,HĐH trong sự nghiệp xây dưng CNXH ở nước ta như thế nào cho đúng với vai trò của CNH,HĐH trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. để góp phần làm rõ những mặt trên của quá trình CNH,HĐH đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay, em xin đưa ra một số ý kiến của mình về : “CNH,HĐH và vai trò cua nó đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta”. B. NỘI DUNG 1. TẤT YẾU PHẢI CNH, HĐH ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CNXH Ở NƯỚC TA Như chúng ta đã biết tất cả các nước khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH đèu phảI xây dưng cơ sơ vật chất kỹ thuật cho CNXH. Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chủ nghĩa tư bản , do vậy để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH thì không còn con đường nào kháclà phải tiến hành CNH,HĐH. Vậy CNH,HĐH là gì?, thực chất của nó ra sao? 1.1. Thực chất của CNH,HĐH . 1.1.1. CNH,HĐH là quá trình trang bị va trang bị lại công nghệ hiên đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện cach mạng khoa học kỹ thuật phát triển , trang bị và trang bị lại cho các ngành phảI gắn liền với hiện đại hoá. điều đó có nghĩa là xây dựng xã hội công bằng văn minh , cảI biến các ngành kinh tế , các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại đẻ làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội , cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Xet trên góc độ kinh tế kỹ thuật , HĐH là cái đích vươn tới của quá trìng công nghiệp hoá. Nhưng sự vươn lên về trinh độ công nghệ lại bị ràng buộc bởi các yêu cầu đảm bảo hiệu quả kinh tế –xã hội . nếu xét trên toàn cục HĐH chỉ la phương tiện , điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá. Quá trình công nghiệp hoá của bất kì nước nào trên thế giới cũng đều phảI gắn liền hoàn toàn với quá trinh trang bị và tranh bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. 1.1.2 quá trình CNH,HĐH là quá trình bao trùm tất cả các ngành các lực lượng hoạt động của một nước . đây là một lẽ tất yếu vì nền kinh tế của mỗi nước là một thể thống nhất , chúng đều có mối liên hệ phổ biến với nhau, có sự tác động qua lại giữa các ngành , chúng tạo thành một thể thống nhất trong nền kinh tế quốc dân. bởi vậy quá trình công nghiệp hoá cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân và cơ cấu các ngành kinh tế. Xét tổng thể , cơ cấu kinh tế mỗi nước , được cấu thành bởi ba loại hình tổng hợp : công nghiệp , nông nghiệp , dịch vụ ma sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước trong quá trinh CNH,HĐH sẽ phảI trảI qua hai giai đoạn : từ cơ cấu nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ sang cơ cấu công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ . do vây CNH phảI là quá trinh bao trùm tất cả các ngành các lực lượng hoạt động của một nước thì từ đó mới đạt hiệu quả ,hoạt đông thực tiễn mới thành công. 1.1.3 quá trình CNH trong bât kỳ giai đoạn nào cung là quá trình kinh tế kỹ thuật và kinh tế xã hội . Thực hiện CNH,HĐH có kết quả sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu , thâp kém về kinh tế , đưa đất nước thoát khỏi “vòng luẩn quẩn” đồng thời cũng sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội , nâng cao dân trí, nưc sống của dân cư, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp . tức là thực hiện CNH,HĐH phảI luôn gắn liền giữa kinh tế kỹ thuật và kinh tế xã hội , ngoài việc cải biến kinh tế kỹ thuật thì CNH ,HĐH còn làm cho đời sống xã hội nâng cao, làm cho xã hoọi trở nên công bằng , văn minh và giàu mạnh. 1.1.4 CNH,HĐH là phương thức phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước. Trong mỗi hoạt động của con người đều có mục đích cả , vậy mục địch của CNH,HĐH của mỗi nước là đưa nền kinh tế của nước đó từ nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn hiện đại . Mục tiêu của mỗi nước đều muốn đưa nước mình trở thành một cường quốc kinh tế, đặc biệt trong thời kỳ khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão hiện nay thì nó không cho phép bất cứ nước nào được thoả mãn vơi những gì mình đang có và nó cũng yêu cầu mỗi nước phải tạo cho mình một nền kinh tế vững mạnh, để tránh tình trạng về thụt lùi về kinh tế so voei thế giới , đặc biệt là các nước kém và đang phát triển , trong đó có Việt Nam , để đặt được những mục tiêu đó thì các nước tất yếu phải có CNH,HĐH vì vậy CNH,HĐH là phương thức phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước . 1.2. Sư cần thiết phải tiến hành CNH,HĐH ở nước ta hiênj nay. CNH là cả một giai đoạn biến đổi về kinh tế kĩ thuật va kinh tế- xã hội . dựa trên cơ sở thay thế lao động thủ công bằng máy móc nhằm nâng cao hiệu suất lao động của toàn xã hội . Đó là giai đoạn phát triển mà mỗi quốc gia đều phải trải qua , đặc biệt là đối với những nước đang phát triển như nước ta hiện nay , muốn từ một nền công nghiệp lạc hậu tiến lên thành một nước công nghiệp tiên tiến . Để đưa đất nước phát triển thi tất nhiên , khách quan là phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại và có quy mô ,để tạo ra thế mạnh và sử dụng chúng có hiệu quả , đồng thời chúng ta cần phải có đội ngũ cán bộ , công nhân , tri thức đông đảo . Do đó CNH là quá trình mang tính quy luật để tạo ra cơ sở vật chất cho nền sản xuất lớn hiện đại , để chung ta xây xựng thành công CNXH. 1.2.1. Thực trang của nền kinh tế nước ta sau hai cuộc chiến tranh . Nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ khá lâu dài , sau khi kết thúc hai cuộc chiến tranh thi hậu quả của nó để lại cho đất nước ta khá nặng nề , cả về con người và vật chất. Chiến tranh đã tàn phá nền kinh tế nước ta , để lại hậu quả nặng nề ; cụ thể là như sau . Giai đoạn 1975- 1985 thì nền kinh tế phổ biến vẫn là một nền sản xuất nhỏ , cơ sở vật chât kỹ thuật còn nhỏ yếu , đại bộ phận lao động vẫn là lao động thủ công, phân công lao động kém phát triển , năng suất lao động rất thấp , tình trạng tổ chức và quản lý kinh tế còn thiếu chặt chẽ , nền kinh tế còn mất cân đối nghiêm trọng Giai đoạn 1985- 1995 : nền kinh tế vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu; công nghiệp còn nhỏ bé , kết cấu hạ tầng còn kém phát triển ; cơ sở vât chất chưa xây dựng được bao nhiêu ; vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế còn yếu. Nguyên nhân của những yếu kém trên một mặt là do hậu quả của nhiều năm trước để lại hay do chiến tranh để lại ; mặt khác là do những khuyết điểm của Đảng và quản lý của nhà nước. Vì vậy Đảng ta cần đề ra việc phải thực hiện CNH,HĐH để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu , nghèo nàn. Hiện nay chung ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu so với các nước tiên tiến trên thế giới , chưa có hệ thống công nghiệp phát triển ; tuy chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng chú ý và quan trọng ; nhưng vẫn chưa xây dựng được cơ sở vật chất đồng đủ cho CNXH. 1.2.2. Xu hướng biến động về kinh tế- chính trị trên thế giới hiện nay. Có thể nói tình hình chính trị trên thế giới hiện nay là hết sứ phức tạp , các nước quốc tế mà đứng đầu là đế quốc mỹ đang tìm mọi cách chống phá các nước XHCN và làm chủ thế giới , điều đó có nghĩa là nước nào không có một hệ thống chính trị vững chắc , và ổn định và có nền kinh tế phát triển độc lập tự chủ thì cũng như đồng nghĩa với nước đó bị lệ thuộc và bị chi phối bởi các nước đế quốc . Việc nay đặt ra cho nước ta một nhiệm vụ là phải xây dựng một hệ thống chính trị ổn định , một nền kinh tế phát triển độc lập tự chủ , và từng bước xây dựng cho được cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH , khẳng định tính độc lập tự chủ cho quốc gia, khẳng định con đường đi lên CNXH là hợp lý , phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người . Để đạt được những mục đích trên thì việc đầu tiên đối với nước ta, một nước đang phát triển , một nước XHCN , đồng thời cũng là một trong những nước nghèo trên thế giới , là phải CNH,HĐH để sớm đưa đất nước sớm thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước công nghiệp hiện đại . Sở dĩ chúng ta khẳng định nhiêm vụ trọng tâm và đầu tiên của chúng ta trong giai đoạn hiện nay và trong suốt quá trình xây dựng CNXH là phải CNH,HĐH vì thực tế cho thấy CNH,HĐH có những tác dụng to lớn của nó đối với bất kì quốc gia nào thực hiện thành công quá trình CNH,HĐH 1.2.3. Tác dụng của CNH,HĐH đến nền kinh tế của mỗi nước tiến hành quá trình đó. Nước nào thực hiện thành công quá trình CNH,HĐH thì tất yếu lúc đó sẽ phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày cang xa hơn về kinh tế với các nước trên thế giới, góp phần ổn định và nâng cao đời sống cho nhân dân; củng cố và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ, tạo công ăn việc làm, khuyến khích sự phát triển tự do của mỗi cá nhân; tạo đièu kiện vật chất cho việc củng cố và tăng trưởng an ninh quốc phòng; tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế đọc lập tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Ngoài ra đối với nước ta nó còn có vai trò: nâng cao vai trò của giai cấp công nhân, đảm bảo công bằng xã hội. CNH,HĐH có những tác dụng to lớn như vậy nhưng quan trọng để CNH,HĐH thành công không phải là nội dung của CNH,HĐH của mỗi nước, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước mà nội dung của quá trình CNH,HĐH ở mỗi nước là khác nhau. 2. THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH CNH,HĐH Ở NƯỚC TA. 2.1. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải phóng các lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã xác định ngày càng rõ quan điểm mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Quan điểm mới ấy là kết quả tổng kết thực tiễn, rút ra từ những bài học của mấy thập kỷ trước đây kết hợp với sự nghiên cứu, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm của thế giới và thời đại Cuối thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là hai quá trình tuy có phần lồng vào nhau nhưng về cơ bản vẫn tách biệt và nối tiếp nhau, mà là một quá trình thống nhất, có thể tóm tắt là công nghiệp hoá theo hướng hiện đại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá VII của Đảng ta (1994) chỉ rõ: “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Coi sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế- xã hội, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), khi thông qua đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta nhấn mạnh: “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Tại Đại hội này, Đảng ta cũng xác định rõ mục tiêu “phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Cùng với những thành tựu phát triển quan trọng đạt được sau 10 năm đổi mới, sự xác định rõ ràng hơn về chủ trương đã tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta đẩy mạnh CNH, HĐH. Kết thúc thế kỷ 20, bước vào thế kỷ 21, bối cảnh trong nước và quốc tế tiếp tục có những thay đổi mau chóng. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng nhận định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Trong bối cảnh ấy, nhận thức của Đảng ta về CNH, HĐH đất nước cũng có bước đổi mới quan trọng, cho rằng quá trình CNH, HĐH ở nước ta có thể được rút ngắn. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2001-2010 được thông qua tại Đại hội IX xác định: “Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát triển những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đảng ta đề ra mục tiêu “phấn đấu trong giai đoạn 2001-2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Điều này hứa hẹn mở ra những bước đột phá trong nhiều lĩnh vực kinh tế- xã hội, góp phần thực hiện “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. 2.2. Những đặc điểm chủ yếu của CNH, HĐH ở Việt nam CNH, HĐH ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những nét đặc thù này được thể hiện khái quát ở một số điểm sau đây: - Thứ nhất: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong các tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biết đổi về chất,… của các tác nhân tham gia quá trình. Mục tiêu của quá trình CNH, HĐH mang tính bao trùm rất cao, theo đó đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng mục tiêu sâu xa hơn là nước ta trở thành một nước “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. - Thứ hai: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ thực hiện xong CNH rồi mới tiến hành HĐH, mà phải thực hiện đồng thời và đồng bộ CNH và HĐH như một quá trình thống nhất. Về đại thể, riêng về mặt kinh tế, có thể nhìn nhận quá trình này từ hai mặt thống nhất với nhau: (i) thứ nhất, đó là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại, cũng có nghĩa là tạo lập nền tảng vật chất- kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của nền kinh tế; và (ii) thứ hai, đó là quá trình cải cách hệ thống thể chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, hội nhập. CNH gắn với HĐH là cách làm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới. - Thứ ba: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được “rút ngắn”. Việc cần được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Bên cạnh đó, bối cảnh mới trong nước cũng như trên thế giới cho phép nước ta có khả năng “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH. Về cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện được CNH, HĐH rút ngắn bao gồm hai mặt: (i) thứ nhất, đạt và duy trì một tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó (thực chất là tăng tốc để đuổi kịp); và (ii) thứ hai, lựa chọn và áp dụng một phương thức CNH, HĐH cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo kiểu phát triển tuần tự, để đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn (thực chất là lựa chọn con đường, bước đi và giải pháp CNH để đi nhanh tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà có thể thống nhất với nhau, và đang tiếp tục được làm rõ để định hình sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta. - Thứ tư: Ở nước ta, quá trình CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với việc từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong thời gian qua, tại không ít diễn đàn khoa học và công trình nghiên cứu, mối quan hệ hai chiều giữa CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức đã từng bước được làm rõ. Về đại thể, có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Hay nói cách khác, phát triển kinh tế tri thức tạo điều kiện cho việc thực hiện mô hình CNH, HĐH “rút ngắn” ở nước ta. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình CNH, HĐH tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đi vào kinh tế tri thức. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Từ những nét trên đây, có thể thấy nội dung cốt lõi về kinh tế của CNH, HĐH ở Việt Nam trong thời gian tới như sau: (1) Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định và bền vững; (2) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ; (3) Nắm bắt tri thức và công nghệ mới nhất để hiện đại hoá nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có; (4) Phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa trên tri thức, khoa học và công nghệ; và (5) Không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. 2.3. Những thuận lợi và khó khăn của quá trình CNH, HĐH Việt nam Bối cảnh trong nước và quốc tế ngày nay hàm chứa nhiều thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn đối với quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Những thuận lợi và khó khăn này tồn tại đan xen với nhau, có thể chuyển hóa cho nhau. Việc phân định một cách tương đối và nhận thức rõ những thuận lợi và khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định mục tiêu, nội dung và phương pháp tiến hành CNH, HĐH cũng như việc thực hiện các nhiệm vụ trong thực tế. Về đại thể, những thuận lợi và khó khăn được khái quát hóa ở một số điểm sau đây: 2.3.1. Thuận lợi - Thứ nhất: Sau 20 năm đổi mới, thế và lực kinh tế của nước ta đã thay đổi mạnh mẽ, thể hiện ở những cái “mới” như: + Cấu trúc kinh tế mới: Cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò và chức năng mới của Nhà nước, xã hội năng động hơn, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế- xã hội được kết nối chặt chẽ hơn. + Tiềm lực kinh tế mới: GDP tăng trưởng với tốc độ khá cao liên tục trong nhiều năm, với cơ cấu ngành biến đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. + Thế phát triển mới: Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng cấm vận kinh tế, quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế mở rộng, đã gia nhập ASEAN, ASEM, APEC, ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ và đang nỗ lực gia nhập WTO, v.v. + Động lực mới: Xuất hiện những động lực phát triển mới mạnh mẽ: cạnh tranh thị trường, sự mở rộng các cơ hội, sức mạnh của tinh thần dân tộc trong cuộc đua tranh phát triển. + Lực lượng- chủ thể phát triển mới: Năng lực của các chủ thể phát triển (Nhà nước, nhân dân, doanh gia, đội ngũ trí thức và quản trị) được nâng cao. Các yếu tố bên ngoài (vốn, công nghệ- kỹ thuật, tri thức, thị trường...trở thành lực lượng thúc đẩy phát triển quan trọng. - Thứ hai: Bối cảnh quốc tế với những xu hướng ưu trội bao gồm (i) toàn cầu hoá kinh tế, (ii) phát triển kinh tế tri thức, và (iii) hoà bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã và đang theo đuổi thực hiện chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Việc tham gia vào các quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa phương, hợp tác khu vực và quốc tế của nước ta góp phần phát huy hữu hiệu lợi thế so sánh của đất nước, thu hút được những nguồn lực dồi dào về vốn, công nghệ, tri thức, kỹ năng,… của thế giới cho công cuộc CNH, HĐH. Bên cạnh đó, việc tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế cũng tạo động lực cho việc đẩy mạnh những cải cách trong nước theo hướng hiện đại, phù hợp với khung khổ chung của quốc tế. - Thứ ba: Là một nước tiến hành CNH muộn, Việt Nam có thể tận dụng được những lợi thế của “nước đi sau”. Bên cạnh việc thu hút những nguồn lực vật chất và trí tuệ quan trọng như nêu trên, các nước đi sau như Việt Nam còn có thể học hỏi kinh nghiệm phong phú về CNH, HĐH của các nước đi trước. Với những kinh nghiệm đổi mới của chính bản thân mình, Việt Nam có điều kiện để học hỏi và sáng tạo liên quan đến nhiều khía cạnh của CNH, HĐH. Một lợi thế nữa của nước đi sau là nền kinh tế nước ta dễ chuyển đổi cơ cấu, vì không lệ thuộc nhiều vào những cơ sở vật chất đã có (các phí tổn không phải là quá lớn khi thay đổi những cái cũ cần thay đổi). Điều này tạo dễ dàng cho chúng ta bắt tay vào phát triển kinh tế theo các định hướng cơ cấu đã chọn lựa, bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế - Thứ tư: Nước ta có vị trí địa kinh tế thuận lợi, nằm ở trung tâm vùng kinh tế năng động Đông Nam Á, thuận lợi cho việc giao lưu và hội nhập quốc tế. Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú để phát triển một số ngành công nghiệp quan trọng. Đặc biệt, nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu trẻ và giá nhân công thấp, năng lực trí tuệ con người Việt Nam không thua kém các nước, tiếp thu nhanh các tri thức mới, dễ đào tạo, có khả năng sáng tạo. Bên cạnh đó, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng cho sự phát triển các khả năng sáng tạo. Những yếu tố trên tạo nên lợi thế quan trọng trong cạnh tranh quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để phát triển những ngành, những lĩnh vực hiện đại, có thể theo hướng rút ngắn. 2.3.2. Khó khăn - Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế chưa được đặt trên cơ sở đủ vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, lạc hậu và còn nghiêng về hướng nội, v.v. là những đặc tính của nền kinh tế nước ta sau 20 năm đổi mới. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta chỉ mới đang hình thành, chưa đồng bộ và chưa vận hành tốt, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng và chưa có tính khuyến khích cao, v.v. Nói một cách ngắn gọn, nền kinh tế nước ta còn đang phát triển (lạc hậu, nghèo) và đang chuyển đổi (thể chế mới chưa hoàn thiện trong khi thể chế cũ chưa hoàn toàn bị loại bỏ). Thực tế này là khó tránh khỏi đối với một quốc gia đang phát triển, có tính tạm thời và được khắc phục dần trong quá trình đổi mới, tuy nhiên nó đang là một trở ngại lớn đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay. Trong đó, thách thức đặt ra là nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. - Thứ hai: Tuy bối cảnh quốc tế thể hiện rõ ba xu thế ưu trội như nêu trên đây, song tình hình thế giới luôn luôn có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình toàn cầu hoá đặt nền kinh tế đất nước trước những khó khăn do cạnh tranh gay gắt, sự dễ bị tổn thương trước các cú sốc từ bên ngoài, và những ảnh hưởng “mặt trái” khác của kiểu toàn cầu hóa hiện nay. Nếu chúng ta không có chính sách, biện pháp để hạn chế và vượt qua những khó khăn trên, thì chúng có thể có những tác động mang tính “phá huỷ” ghê gớm, kéo lùi tiến trình phát triển của đất nước nhiều năm. - Thứ ba: Là nước tiến hành CNH muộn, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam gặp phải những khó khăn của “nước đi sau”. Khó khăn rõ nét là chúng ta thường phải ở thế bất lợi trong cạnh tranh quốc tế, do năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, hàm lượng vốn và trí tuệ trong sản phẩm không cao, lại thường bị động trong việc tuân thủ các luật lệ kinh tế quốc tế… Bên cạnh đó, trong quá trình CNH, HĐH, nước ta phải đối mặt với các vấn đề về tài nguyên- môi trường, dân số và công ăn việc làm ngày càng gay gắt. Mức độ suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với sự xuống cấp của môi trường sống là hệ quả của CNH, HĐH trên quy mô toàn cầu, nhưng người gánh chịu lại chủ yếu là các nước chậm phát triển, trong đó có nước ta, đó là một khó khăn không thể lường hết được. Bởi vì nó làm cho chi phí của công cuộc CNH, HĐH tăng lên đáng kể đồng thời làm giảm tính bền vững của quá trình này. Trong khi đó, sự gia tăng của dân số, của lực lượng lao động nhanh hơn tốc độ tăng việc làm gây ra áp lực lớn giải quyết công ăn việc làm. Ở nước ta, đây là một bài toán chưa có lời giải hữu hiệu. 3. TIẾN TRÌNH CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020 Trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010, Đảng ta đã xác định mục tiêu tổng quát là “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa xác định được cụ thể các tiêu chí quan trọng khi nước ta trở thành một nước công nghiệp để làm đích hướng tới. Nếu theo tiêu chí của các nước đã hoàn thành CNH, HĐH thì nước ta khó có thể đạt tới vào năm 2020. Bên cạnh đó, các bước đi của cả quá trình CNH, HĐH cũng chưa được làm rõ. Khi chúng ta chủ trương thực hiện CNH, HĐH “rút ngắn”, thì việc nghiên cứu và hoạch định các chặng đường CNH, HĐH từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo là đặc biệt cần thiết và có ý nghĩa then chốt. Phần này phác họa một cách đại thể những mục tiêu, nhiệm vụ CNH, HĐH chủ yếu của các chặng đường từ nay đến năm 2010 và từ năm 2010 đến 2020. 3.1. Chặng đường đến năm 2010 Tính đến nay, chúng ta đã thực hiện được gần một nửa chặng đường của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010. Tuy chưa có tổng kết cụ thể, nhưng nhìn chung chúng ta có khả năng hoàn thành những mục tiêu kinh tế và xã hội được đề ra tại Phương hướng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2001-2005. Những kết quả đạt được cho đến nay tạo điều kiện và tiền đề quan trọng cho chặng đường CNH, HĐH đến năm 2010. Trong 5 năm tới, nước ta tập trung tạo chuyển biến cơ bản về năng lực nội sinh về khoa học-công nghệ và công nghiệp của đất nước, tiếp tục nâng cao vị thế trong hội nhập và chủ trương mở rộng hội nhập quốc tế, định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp. Cụ thể hơn, những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là: - Thứ nhất: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao tích lũy trong nước. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo đó cơ cấu ngành và lĩnh vực tạo được hiệu quả cao và bền vững, cơ cấu kinh tế theo vùng tạo được sự hài hòa giữa vùng động lực phát triển và các vùng khác, các vùng khó khăn có thể tự lực phát triển và cơ bản hết đói nghèo. Trong nền kinh tế, hình thành một số ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn; khoa học và công nghệ có cơ sở tốt để chủ động tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài và tự tạo được đáng kể công nghệ tiên tiến của nước ta; giáo dục và đào tạo phát triển hình thành đội ngũ lao động và quản lý có trình độ đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế ở mức cao hơn. - Thứ hai: Định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ cấu, thể chế đồng bộ, hoàn chỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực ở một vị thế tốt hơn, cân bằng lợi ích và mở rộng hội nhập ngoài khu vực. Hoàn chỉnh đồng bộ các kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội để đáp ứng yêu cầu phát triển của chặng đường tiếp theo. - Thứ ba: Tạo sự chuyển biến rõ rệt về đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân: no đủ, lành mạnh, yên vui, có nhiều yếu tố văn minh, hiện đại; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức trung bình cao trong so sánh quốc tế. Giải quyết tốt hơn, toàn diện hơn các vấn đề xã hội; cơ bản xóa nghèo, tạo nhiều việc làm, tạo điều kiện để đi tới thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và khoảng cách về mức sống giữa các tầng lớp dân cư. Tựu trung lại, kết thúc chặng đường này, quá trình CNH, HĐH đất nước đã định hình nên cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh tế, để nước ta đi nhanh hơn, mạnh hơn, vững chắc hơn trong chặng đường tiếp theo (2010-2020). 3.2. Chặng đường từ năm 2010 đến 2020 Trong chặng đường này, nước ta đã hội đủ nhiều điều kiện mang tính tiền đề về kết cấu hạ tầng, khung thể chế, nguồn nhân lực, năng lực nội sinh, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế để tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2020. Cụ thể, những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là: - Thứ nhất: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Đẩy mạnh chuyển dịch và nâng cấp cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH có hiệu quả và bền vữ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0483.doc
Tài liệu liên quan