Công tác khai thác sản phẩm an sinh giáo dục tại Bảo Việt nhân thọ Gia Lai

Lời nói đầu Từ khi mở của thị trường BHNT (1999) đến nay, trên thị trường BHNT Việt Nam đã có sự xuất hiện của các công ty BHNT có vốn đầu tư nước ngoài, làm cho sự cạnh tranh trên thị trường càng sôi động. Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh, các công ty BHNT không những phải có kế hoạch đầu tư hiệu quả mà cần phải tăng cường công tác khai thác một cách sâu rộng. Khâu khai thác là một trong những khâu quan trọng nhất trong tất cả các loại hình bảo hiểm đặc biệt là trong việc

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công tác khai thác sản phẩm an sinh giáo dục tại Bảo Việt nhân thọ Gia Lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khai thác sản phẩm BHNT.Sau thời gian thực tập tại công ty BHNT Gia Lai,nhận thức được điều này em đã quyết định chọn đề tài: " Công tác khai thác sản phẩm an sinh giáo dục tại Bảo Việt nhân thọ Gia Lai. ". Làm đề tài này cho chuyên đề thực tập của mình với mong muốn nâng cao kiến thức cho bản thân và góp phần nhỏ bé của mình cho công tác trên của công ty. Nội dung của đề tài được chia làm 3 phần: Phần I. Lý luận chung về Bảo Hiểm nhân thọ  Phần II. Thực trạng công tác khai thác sản phẩm an sinh giáo dục của công ty Bảo Hiểm nhân thọ tỉnh Gia Lai. Phần III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và đẩy mạnh công tác khai thác sản phẩm an sinh giáo dục tại Bảo Việt Nhân thọ Gia Lai. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo thạc sĩ Nguyễn Anh Thắng và phòng nghiệp vụ đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn để em hoàn thành đề tài này. Gia Lai ngày 16-04-2005. Sinh viên: Nguyễn Thị thuý Vân. B. Nội dung chương I. Lý luận chung về Bảo Hiểm nhân thọ I . Tổng quan về Bảo Hiểm nhân thọ 1.Lịch sử hình thành và phát triển bảo hiểm nhân thọ Cũng giống như các loại hình bảo hiểm khác. Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra (người được bảo hiểm bị chết, hoặc hết hợp đồng…), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác Bảo hiểm nhân thọ là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người. Đối tượng tham gia của Bảo hiểm nhân thọ là rất rộng và lịch sử ra đời của Bảo hiểm nhân thọ cũng rất sớm, cho đến nay nó đã được triển khai ở hầu hết các nước. Hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1583, do công dân London là ông William Gybbon tham gia. Phí bảo hiểm ông đóng lúc đó là 32 bảng Anh, khi ông chết năm đó người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh Năm 1759 công ty bảo hiểm ra đời đầu tiên ở Philadenphia (Mỹ). Công ty này cho đến nay vẫn còn hoạt động, nhưng lúc đầu chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở nước Anh được thành lập và bán BHNT cho mọi người dân. ở châu á các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay. Các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây đã triển khai BHNT. Công ty BHN ở Liên Xô cũ ra đời vào năm 1929 Capitar. Việt Nam trước đây công ty bảo hiểm Hưng-Việt ra đời vào năm 1958 đã tiến hành kinh doanh BHNT vào năm 1973. Xét một cách tổng thể thì trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985 doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 630,5 tỷ USD, năm 1989 đã lên tới 1210,2 tỷ USD và năm 1993 con số này đã lên tới 1647 tỷ USD, chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm. Hiện nay có 5 thị trường BHNT lớn nhất thế giới đó là: Mỹ, Nhật, Đức, Anh và Pháp. theo số liệu thống kê năm 1993, thì phí BHNT của năm thị trường này được thể hiện ở bảng sau: Tên nước Tổng doanh thu phí bảo hiểm (tỷ USD) Cơ cấu phí bảo hiểm (%) Nhân thọ Phi nhân thọ 1. Mỹ 522,468 41,44 58,56 2. Nhật 230,143 73,86 26,14 3. Đức 107,403 39,38 60,62 4. Anh 102,360 64,57 35,43 5. Pháp 84,303 56,55 43,65 Bảng 1. Cơ cấu phí BHNT của năm thị trường lớn nhất thế giới năm 1993. (Nguồn: Giáo trình kinh tế bảo hiểm) Sở dĩ BHNT phát triển rất nhanh doanh thu phí bảo hiểm ngày càng tăng bởi vì loại hình bảo hiểm này có vai trò rất lớn. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ không chỉ thể hiện trong từng gia đình và đối với từng cá nhân trong việc góp phần ổn định cuộc sống, giảm bớt khó khăn về tài chính khi gặp các rủi ro, mà còn thể hiện trên phạm vi toàn xã hội. Trên phạm vi xã hội, bảo hiểm nhân thọ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, huy động vốn trong nước từ những nguồn tiền mặt nhàn rỗi nằm trong dân cư. nguồn vốn này không chỉ có tác dụng đầu tư dài hạn mà còn góp phần thực hành tiết kiệm chống lạm phát và tạo công ăn việc làm cho người lao động. ở Việt Nam, Bảo hiểm nhân thọ có thể coi như được xuất hiện từ thời Pháp thuộc trước năm 1954, ở miền Bắc khi những viên chức làm việc cho Pháp được bảo hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm, các hợp đồng bảo hiểm này đều do các công ty bảo hiểm của Pháp thực hiện. Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 đã có công ty bảo hiểm Hưng Việt triển khai một số sản phẩm như Trường sinh, An sinh giáo dục. Nhưng công ty này chỉ hoạt động 1 đến 2 năm cho nên người dân Việt Nam chưa quan tâm gì về loại hình bảo hiểm này. Khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, nhận thức được tình hình trên, năm 1987 Bảo Việt đã tổ chức nghiên cứu đề tài :"Lý thuyết về Bảo hiểm nhân thọ và sự vận dụng thực tế vào Việt Nam " đã được Bộ tài chính công nhận là đề tài cấp Bộ. Đề tài đi sâu nghiên cứu phân tích tình hình triển khai BHNT trên thế giới và điều kiện thực tế của nền kinh tế Việt Nam. Với những điều kiện thực tế của nền kinh tế Việt Nam lúc đó ý nghĩa thực tiễn của đề tài chỉ dừng lại ở mức độ triển khai bảo hiểm sinh mạng của cá nhân có thời hạn 1 năm. Qua thực tế triển khai thí điểm các sản phẩm này ít có tính hấp dẫn do vậy ở thập kỷ 80 và nửa đầu thập kỷ 90 BHNT hầu như không được phát triển. Bước sang nửa cuối của thập kỷ 90 trở đi. Nền kinh tế nứơc ta có bước tăng trưởng đáng kể, điều đó được thể hiện qua bảng sau: Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tốc độ tăng trưởng 9.5 9.3 9.1 6.64 4.3 6.2 6.8 7.04 Bảng 2. Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoan 1995-2002 (Nguồn :Niên giám thống kê 2002) Với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và thu nhập quốc dân ngày càng cao điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai BHNT tại Việt Nam. Vào ngày 30/3/1996, Bộ tài chính ký quyết định cho phép Bảo Việt triển khai BHNT. Ngày 22/6/1996, Bộ tài chính ký quyết định 568/QĐ/TCCB cho phép công ty BHNT trực thuộc Bảo Việt bắt đầu triển khai hoạt động khai thác BHNT trên thị trường Bảo Hiểm Việt Nam. Và lúc đầu công ty BHNT này chỉ triển khai 2 loại hình BHNT là Bảo Hiểm có thời hạn 5 đến 10 năm và Bảo Hiểm An Sinh Gáo Dục. Đây có thể nói là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong Bảo Hiểm Việt Nam.Và đến nay BHNT Việt nam đã hoạt động được 8 năm và đã có những bước phát triển rất lớn. 2.Một số đặc điểm cơ bản về bảo hiểm nhân thọ. Bảo hiểm nhân thọ được định nghĩa như sau : “Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm mà trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm(hoặc người thụ hưởng quyền lơị bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra ( người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất đinh), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Bảo hiểm nhân thọ bao gồm có các loại hình bảo hiểm cơ bản đã nêu trên.Các loại hình bảo hiểm nhân thọ này có những nét đặc trưng khác với bảo hiểm phi nhân thọ. Hình thức Bảo hiểm Danh mục Bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm phi nhân thọ Phạm vi bảo hiểm Con người Con người, Tài sản, Trách nhiệm Thời gian tham gia 5,10.20 Thường là 1 năm Nhân tố ảnh hưởng phí bảo hiểm. - Số tiền bảo hiểm - Tỷ lệ lãi kỹ thuật - Xác suất tử vong - Xác suất rủi ro Số tiền bảo hiểm Chế độ bảo hiểm Số lần đóng phí Có thể đóng một lần hoặc định kỳ(tháng, quý Thường đóng phí một lần ngay sau khi ký hợp đồng Quyền lợi bảo hiểm Được chi trả tiền bảo hiểm trong những trường hợp: Chết Hết hạn hợp đồng Thương tật toàn bộ vĩnh viễn Chỉ được bồi thường tổn thất trong giới hạn hợp đồng khi có tổn thất xảy ra. Tính chất bảo hiểm Vừa mang tính rủi ro vừa mang tính tiết kiệm Chỉ mang tính rủi ro Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ rất phong phú, đa dạng và nó cũng chứa nhiều đặc trưng khác nhau: * Sự phức tạp trong các mối quan hệ giữa người ký, người được bảo hiểm và người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Các loại bảo hiểm khác ngoài bảo hiểm nhân thọ đều đề phòng các hậu quả của một sự cố không lường trước. Người ta cũng biết được ai là người được hưởng quyền lợi của hợp đồng chẳng hạn nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của sự cố. Đối với bảo hiểm nhân thọ, trong trường hợp tử vong, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm không phải là nạn nhân của sự cố. Người được bảo hiểm chết, người được hưởng là người có mối quan hệ thân thuộc với người bảo hiểm. Người ta thấy rằng điều này có hạn chế sự tự do của người được thừa hưởng, một số người khác cũng có thể được thừa hưởng từ người này. Các trường hợp như thế này có thể xảy ra đối với bảo hiểm trong trường hợp sống nhưng rất hiếm. Trong bảo hiểm nhân thọ các mối quan hệ giữa người ký, người được bảo hiểm và người được hưởng phức tạp và mang tính nguyên tắc hơn rất nhiều so với các loại hình bảo hiểm khác. * Bảo hiểm nhân thọ có tính đa mục đích: Trong khi các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ có một mục đích là bồi thường cho các hậu quả của một sự cố tiêu cực, không lường trước thì bảo hiểm nhân thọ lại có rất nhiều mục khác nhau: Tạo lập một quỹ trong tương lai để cho con cái học tập hay lập nghiệp, lập ra một quỹ hưu trí cho bản thân khi về già, để lại một khoản tiền cho người thân khi tử vong, giành khoản tiền để chi tiêu cho một mục đích trong tương lai. * Trong bảo hiểm con người nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng, hầu hết các trường hợp không áp dụng nguyên tắc bồi thường mà áp dụng nguyên tắc khoán vì: + Thứ nhất : Trong trường hợp tử vong, nhà bảo hiểm sẽ trả số tiền bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết. Nhưng không thể xác định được số tiền này một cách hoàn toàn khách quan bởi vì khái niệm giá cả không thể áp dụng cho con người được. Tính mạng của con người là vô giá. + Thứ hai : Một người được bảo hiểm muốn gia đình hay người thân của họ được hưởng một khoản tiền nhất định nào đó còn tuỳ thuộc vào thu nhập, hoàn cảnh gia đình của mình, họ có quyền ấn định khoản tiền bồi thường vào thời điểm ký hợp đồng với nhà bảo hiểm. Như vậy, bảo hiểm trong trường hợp tử vong không nhằm vào việc bồi thường một thiệt hại. Hơn nữa, trong nhiều loại hình bảo hiểm con người, biến cố dẫn đến nghĩa vụ của người bảo hiểm không có bản chất thiệt hại. Cho nên khái niệm thiệt hại không thể sử dụng trong bảo hiểm con người. Nhìn chung, bảo hiểm con người dẫn đến các khoản trợ cấp khoán mà số tiền được ấn định trước và tách biệt với khái niệm bồi thường. Đó là “Nguyên tắc khoán” được áp dụng trong hầu hết các loại hình bảo hiểm con người. Loại trừ trường hợp hoàn trả các khoản chi phí y tế, bị bệnh hoặc tai nạn, bảo hiểm ở đây mang tính chất bồi thường vì nhà bảo hiểm bồi thường cho người được bảo hiểm giá của sự chăm sóc thuộc trách nhiệm của anh ta. * Trong bảo hiểm nhân thọ không có sự thế quyền : Cùng một lúc khách hàng có thể tham gia nhiều loại hình bảo hiểm con người và nếu xảy ra sự cố nào đó thuộc phạm vi bảo hiểm của nhiều hợp đồng thì họ được nhận tất cả các khoản bồi thường từ các hợp đồng khác nhau. Người được hưởng quyền lợi từ bảo hiểm con người có thể đồng thời nhận được các khoản bồi thường từ các hợp đồng mà chính họ tham gia và khoản bồi thường của người gây ra thiệt hại. Trong trường hợp này, không có sự khiếu nại của nhà bảo hiểm (nhà bảo hiểm bồi thường cho các hợp đồng do người bị tai nạn tham gia) đối với người thứ ba (người gây ra thiệt hại) và nhà bảo hiểm của anh ta. Trong trường hợp duy nhất trong bảo hiểm: bảo hiểm nhân thọ cho phép cùng một lúc hai sự cố đối lập nhau là “tử vong” và “sống”. * Trong bảo hiểm nhân thọ không áp dụng nguyên tắc đóng góp: Nguyên tắc này chỉ áp dụng đối với bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm thiệt hại. Theo nguyên tắc này thì công ty bảo hiểm khi đã đền bù cho người được bảo hiểm có quyền gọi các công ty bảo hiểm khác chia sẻ tổn thất trong trường hợp: -Loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khác, chính điều này đã tạo ra cho nó có những đặc điểm riêng và ảnh hưởng đến công tác tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh. 3. Vai trò và tác dụng của bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm nhân thọ có rất nhiều tác dụng khác nhau đối với đời sống kinh tế xã hội. Có thể khái quát những tác dụng chủ yếu của bảo hiểm nhân thọ như sau: 3.1 Đối với mỗi cá nhân, gia đình và doanh nghiệp: - BHNT thể hiện sự quan tâm, lo lắng của người chủ gia đình đối với người phụ thuộc, của cha mẹ đối với con cái. Đồng thời góp phần giảm bớt khó khăn về mặt tài chính cho gia đình khi không may người chủ gia đình gặp rủi ro. Tham gia bảo hiểm nhân thọ cũng có nghĩa là tiết kiệm thường xuyên có kế hoạch. Trong điều kiện kinh tế phát triển và ổn định những gia đình có thu nhập và chi tiêu ở mức cao thì trích một khoản tiền mua bảo hiểm nhân thọ nó không ảnh hưởng lớn đến toàn bộ quá trình chi tiêu trong tháng của gia đình và như vậy hàng tháng họ còn tiết kiệm được một khoản tiền nhất định. Khoản tiền tiết kiệm được thực chất đã tạo lập được một nguồn quỹ nhất định cho gia đình, góp phần tạo quỹ giáo dục con cái và có tiền để chi dùng khi nghỉ hưu. Đối với mỗi cá nhân và gia đình, bảo hiểm nhân thọ còn giúp được các vấn đề sau : + Trường hợp không may bị chết thì gia đình có một khoản tiền để chi trả cho các khoản nợ, các khoản chi phí mai táng chôn cất, chi phí về viện phí và khám chữa bệnh. + Sự bảo trợ những người phụ thuộc. Nhiều người mua bảo hiểm nhân thọ với mục đích cung cấp tài chính cho những người phụ thuộc khi không may họ gặp rủi ro, chi phí về sinh hoạt, nuôi dưỡng và chăm sóc con cái, cung cấp khoản tiền trợ cấp cho các thành viên trong gia đình trong thời gian họ tìm kế sinh nhai khác hoặc có thêm thu nhập. + Chi phí giáo dục: Cái chết của người cha hoặc người mẹ đang làm việc có thể đồng nghĩa với việc giảm nguồn ngân sách của gia đình và do đó ảnh hưởng đến tương lai của con cái. Bảo hiểm nhân thọ sẽ giúp cho gia đình họ có thể yên tam và tích luỹ được khoản tiền đảm bảo cho sự học hành của con cái. Cha mẹ cũng có thể tham gia bảo hiểm dài hạn hoặc bảo hiểm hỗn hợp có thời hạn, có lãi để đáp ứng tiền học phí cho con cái học đại học ngay cả khi họ không còn sống. + Có nguồn thu nhập khi về hưu: Trên thế giới có rất nhiều chương trình quốc gia được thiết lập để đảm bảo cho các cá nhân có nguồn thu nhập khi về hưu. Mặc dù vậy, số thu nhập này thường không đủ bảo đảm cuộc sống của một người về hưu. Bởi vậy nguồn thu nhập này được thêm vào bằng hợp đồng hưu trí cá nhân. Nhiều người mua bảo hiểm hỗn hợp trong những năm họ đang làm việc để có thu nhập thêm khi về hưu. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ lâu dài đảm nhiệm hai vai trò: - Thứ nhất: Bảo hiểm rủi ro cho người được bảo hiểm trong suốt thời gian làm việc sau đó, tiền tiết kiệm được tích luỹ có thể sử dụng làm nguồn thu nhập khi về hưu. - Thứ hai: tạo nguồn thu nhập từ đầu tư. Hiện nay có rất nhiều đối tượng có tiền nhàn rỗi và muốn đầu tư theo phương thức dàn trải rủi ro. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tích luỹ tiết kiệm để sử dụng cho mục đích tiết kiệm cá nhân có thể đáp ứng yêu cầu này. Trong một khoảng thời gian, sự tích luỹ các khoản tiền kiệm có thể thành một khoản tiền lớn và đồng thời vẫn được bảo đảm khi rủi ro. Mặc dù tỷ lệ lãi suất được trả có thể thấp hơn lãi suất của một số loại hình đầu tư khác nhưng nó có những ưu việt mà một số loại hình đầu tư khác không có đó là: - Số bảo hiểm mỗi lần phải đóng là tương đối nhỏ, nên phù hợp với nhiều đối tượng hơn. - Người tham gia không phải mang tiền đi đầu tư, mà nhân viên của công ty bảo hiểm đến tận nhà thu. - Bảo hiểm nhân thọ không ngừng mang tính tiết kiệm mà còn mang tính chất rủi ro. Bảo hiểm nhân thọ hỗ trợ khó khăn về tài chính cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm khi người được bảo gặp rủi ro bằng một khoản tiền lớn ngay cả khi họ mới kịp tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ. - Chính sách thuế thu nhập của các loại hình bảo hiểm nhân thọ ưu việt hơn các loại hình đầu tư khác. - Đảm bảo tính chất tích luỹ một khoản tiền lớn với số tiền tiết kiệm nhỏ và thường xuyên. - Thứ ba: Đảm bảo cho hoạt động kinh doanh bình thường. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cá nhân có thể đảm bảo trả một khoản tiền để công việc kinh doanh vẫn tiếp tục trong trường hợp tử vong của chủ doanh nghiệp đối tác hoặc những người chủ chốt. Một số doanh nghiệp có thể mua bảo hiểm nhân thọ để đảm bảo một số chế độ đãi ngộ cho người làm công. - Thứ tư: Bảo hiểm cho các cá nhân chủ chốt. Nếu như trong gia đình người chủ gia đình là trụ cột của những người phụ thuộc, họ là thành viên quan trọng tạo dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Thì trong một doanh nghiệp người chủ chốt quyết định sự thành bại hay tồn vong của doanh nghiệp ấy. Sự thành bại ấy phụ thuộc vào trình độ, kiến thức chuyên môn và sự cống hiến của những người chủ chốt có thể ảnh hưởng nặng nề đến thu thập cuả doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thì bảo hiểm nhân thọ còn góp phần nâng cao sức khỏe của nhân dân vì trong quá trình kinh doanh, để đạt được hiệu quả cao công ty luôn tìm cách bảo vệ sức khỏe cũng như tính mạng của người được bảo hiểm nhằm tối thiểu hoá rủi ro. 3.2. Đối với nền kinh tế Với chức năng huy động số lượng tiền nhỏ từ nhiều cá nhân nhằm hình thành một quỹ bảo hiểm tập trung để đầu tư vào nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Công ty bảo hiểm, đặc biệt là công ty bảo hiểm nhân thọ , đã trở thành một tổ chức, một nhà đầu tư chuyên nghiệp chủ chốt trên thị trường vốn của nhiều nước. Tổng đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ Mỹ lên tới 1.408 tỷ USD năm 1990, 1.551 tỷ USD năm 1991, 1.839 tỷ năm 1993 và 1.977 tỷ USD năm 1994 đứng thứ ba sau các ngân hàng thương mại và các quỹ tương hỗ. Đầu tư của các công ty nhân thọ Pháp là 2.638 tỷ Franc năm 1995 và 3089 tỷ Franc năm 1996. Nếu trong một thời kỳ dài trên thế giới, hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ được xem như là một hoạt động bổ trợ nhằm gia tăng thêm lợi nhuận ngoài phần lợi nhuận từ hoạt động bảo hiểm. Thì ngay từ khi loại hình bảo hiểm nhân thọ được đưa ra thị trường, đầu tư đã trở thành một hoạt động hết sức quan trọng, không thể tách rời và có thể nói nó quyết định đến sự sống còn của công ty bảo hiểm nhân thọ. Đầu tư bảo hiểm nhân thọ càng thể hiện vai trò quyết định hơn trong giai đoạn: Toàn Đảng, toàn dân thực hiện chủ trương “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ văn minh” như nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ ra, nước ta cần nhiều nguồn vốn cho đầu tư phát triển song phải thực sự thấu suốt tư tưởng chỉ đạo của Đảng “Vốn trong nước là quyết định, vốn bên ngoài là quan trọng”. Bên cạnh nhiều hình thức huy động vốn khác thì bảo hiểm nhân thọ là một trong những biện phát huy động tiền nhàn rỗi trong dân cư có hiệu quả. Cụ thể những người tham gia bảo hiểm nhân thọ sẽ đóng phí bảo hiểm theo hình thức “bỏ ống” hàng tháng, quý, năm và hợp đồng bảo hiểm sẽ kéo dài 5,10, 20 năm thậm chí đến lúc họ qua đời. Với thời gian bảo hiểm dài hạn như vậy, sẽ hình thành nên các quỹ dài hạn được tích tụ từ nguồn phí bảo hiểm nhân thọ của những người tham gia chưa dùng đến để góp phần đầu tư cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Không những thế bảo hiểm nhân thọ còn góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước, cơ quan xí nghiệp. Trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách phải chi ra một khối lượng khá lớn để trợ cấp cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro. Ngay ở mỗi xí nghiệp cũng luôn có một quỹ đề phòng cho các trường hợp rủi ro như bệnh tật, tai nạn, bệnh nghề nghiệp cho nhân viên họ. Ngày nay, mỗi cá nhân mua bảo hiểm nhân thọ là một cách tự bảo vệ mình chủ động đối phó với rủi ro, đồng thời còn tạo ra một khoản tiền tiết kiệm. Sự giúp đỡ của ngân sách hay các tổ chức sử dụng lao động chỉ mang ý nghĩa động viên chứ không có vai trò quyết định. Như vậy, nếu bảo hiểm nhân thọ phát huy được thế mạnh của mình sẽ góp phần thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân vào phát triển nền kinh tế. Bảo hiểm nhân thọ có mục đích đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, góp phần thực hiện kế hoạch tài chính của mỗi gia đình, bổ xung vào quỹ hưu trí của mỗi cá nhân và phúc lợi của cộng đồng. Khi các công ty bảo hiểm nước ngoài vào kinh doanh tại Việt Nam, vốn đầu tư ban đầu của họ sẽ là nguồn tham gia vào thị trường vốn và cung cấp cho các dự án phát triển kinh tế. 3.3. Đối với xã hội Bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo lập nên một phong cách tập quán sống mới. Tham gia bảo hiểm nhân thọ thể hiện nếp sống đẹp, đó là tự biết lo lắng cho tương lai của người thân, đồng thời giáo dục cho con em mình về đức tính tiết kiệm, cần cù và sống có trách nhiệm với người khác. Bảo hiểm nhân thọ cũng như các loại hình bảo hiểm khác. nó cũng góp phần vào giải quyết một số vấn đề xã hội như góp phần xoá đói giảm nghèo, bù đắp những tổn thất, bất hạnh trong cuộc sống và góp phần giải quyết gánh nặng trách nhiệm cho xã hội đối với người lao động về hưu và người già. Bên cạnh đó, bảo hiểm nhân thọ còn góp phần to lớn vào việc giải quyết việc làm cho xã hội. Bảo hiểm nhân thọ là nghành thu hút nhiều lao động hơn cả vì nó cần có một mạng lưới nhân viên đại lý, khai thác bảo hiểm, tài chính kế toán… rất lớn. Vì vậy, việc phát triển bảo hiểm nhân thọ sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Đặc biệt là trong tình hình hiện nay khi vấn đề thất nghiệp đang trở thành vấn đề bức xúc được cả xã hội quan tâm thì sự phát triển bảo hiểm nhân thọ là một giải pháp rất có ý nghĩa 4. Các loại hình Bảo hiểm nhân thọ cơ bản. Trong thực tế hiện nay, có 3 loại hình Bảo hiểm nhân thọ cơ bản : Bảo hiểm trong trường hợp tử vong Bảo hiểm trong trường hợp sống Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp Ngoài ra người ta còn áp dụng các điều khoản bổ sung cho các loại hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ cơ bản như. Bảo hiểm tai nạn Bảo hiểm sức khoẻ Bảo hiểm không nộp phí khi bị thương tật Bảo hiểm cho người đóng phí ...... . Thực chất các điều khoản bổ sung không phải là Bảo hiểm nhân thọ ,vì không phụ thuộc vào sinh mạng, cuốc sống và tuổi thọ của con người, mà là Bảo hiểm cho các rủi ro khác có liên quan đến con người. Nhưng đôi khi người tham gia Bảo hiểm vẫn thấy rất cần thiết phải tham gia để bổ sung cho các hợp đồng cơ bản. 4.1. Bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp tử vong Đây là loại hình phổ biến nhất trong Bảo hiểm nhân thọ và được chia thành hai nhóm . a. Bảo hiểm tử kỳ . Được ký kết Bảo hiểm cho cái chết xẩy ra trong thời gian quy định của hợp đồng . Nếu cái chết không xẩy ra trong thời gian đó thì người được bảo hiểm không nhận được bất kỳ một khoản phí nào từ số phí Bảo hiểm đã đóng . Ngược lại ,nếu cái chết xẩy ra trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng ,thì người Bảo hiểm phải có trách nhiệm thanh toán số tiền Bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi Bảo hiểm được chỉ định . * Đặc điểm . Thời hạn Bảo hiểm xác định Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời Múc phí Bảo hiểm thấp vì không phải lập lên quỹ tiết kiệm cho người được bảo hiểm. * Mục đích . Nhằm bảo đảm cho các chi phí mai táng, chôn cất Bảo chợ cho gia đình và người thân trong mốt thời gian ngắn Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của người được Bảo hiểm . Bảo hiểm tử kỳ còn được đa dạng hoá thành các loại hình sau: Bảo hiểm tử kỳ cố định: Có mức phí Bảo hiểm và số tiền Bảo hiểm không thay đổi trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng .Mức phí thấp nhất và người Bảo hiểm không thanh toán khi hết hạn hợp đồng . Hợp đồng hết hiệu lực nếu sau ngày gia hạn hợp đồng không nộp phí Bảo hiểm . Loại này chủ yếu nhằm thanh toán cho các khoản nợ tồn đọng trong trường hợp người được Bảo hiểm bị tử vong. Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục: Loại này có thể tái tục vào ngày kết thúc hợp đồng và không yêu cầu có thêm bằng chứng nào về sức khoẻ của người được Bảo hiểm, nhưng có sự giới hạn về độ tuổi (thường độ tuổi tối đa là 65 tuổi). Tại lúc tái tục, phí Bảo hiểm tăng nên vì độ tuổi của người được bảo hiểm tăng lên. Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi: Đây là loại hình Bảo hiểm tử kỳ cố định nhưng cho phép người được Bảo hiểm có sự lựa chọn có thể chuyển đổi một phần hay toàn bộ hợp đồng đang có hiệu lực thành một hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ trọn đời hay Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp tại một thời điểm nào đó khi hợp đồng đang còn hiệu lực. Phí Bảo hiểm được tính dựa trên Bảo hiểm nhân thọ trọn đời hay Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp . Bảo hiểm nhân thọ tử kỳ giảm dần: Đây là loại hình Bảo hiểm mà có một bộ phận của số tiền Bảo hiểm giảm hàng năm theo một mức quy định . Bộ phận này giảm tới 0 vào cuối kỳ hạn hợp đồng . Đặc điểm của loại này là: - Phí Bảo hiểm dữ lại ở mức cố định - Phí thấp hơn Bảo hiểm tử kỳ cố định Giai đoạn nộp phí ngắn hơn toàn bộ thời hạn hợp đồng để tránh việc thanh toán vào cuối thời hạn của hợp đồng khi mà số tiền bảo hiểm còn rất nhỏ. Bảo hiểm nhân thọ tử kỳ tăng dần: Loại này được phát hành nhằm giúp người tham gia bảo hiểm có thể ngăn chặn được yếu tố lạm phát của đồng tiền. Có nghĩa là số tiền Bảo hiểm thực trong hợp đồng bị giảm do đồng tiền tụt giá trong một khoảng thời gian. Để ngăn chặn có thể tăng số tiền Bảo hiểm theo một tỷ lệ % được lập hàng năm hoặc đưa ra hợp đồng ngắn hạn sau đó tái tục với một số tiền Bảo hiểm tăng dần. Bảo hiểm thu nhập gia đình: Loại hình Bảo hiểm này nhằm đảm bảo thu nhập cho một gia đình khi không may người trụ cột trong gia đình bị chết. Quyền lợi bảo hiểm mà gia đình nhận được sau cái chết của người trụ cột có thể là: Nhận được toàn bộ (trọn gói). Nhận được từng phần dần dần cho đến khi hết hạn hợp đồng. Nếu như người được bảo hiểm còn sống cho đến khi hết hạn hợp đồng thì người được bảo hiểm cũng như gia đình sẽ không nhận được bất kỳ một khoản thanh toán nào từ công ty Bảo hiểm . Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng nên: Loại hình Bảo hiểm này cũng nhằm tránh yếu tố lạm phát của đồng tiền. Đảm bảo các khoản thanh toán của công ty Bảo hiểm cho gia đình khi không may người được bảo hiểm bị chết. tương ứng với số tiền Bảo hiểm khi ký hợp đồng. Bảo hiểm nhân thọ tử kỳ có điều kiện: Điều kiện ở đây là việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực hiện khi người được bảo hiểm bị chết, đồng thời người thụ hưởng quyền lợi Bảo hiểm được chỉ định trong hợp đồng Bảo hiểm phải còn sống . b.Bảo hiểm trọn đời. * Đặc điểm : + Số tiền Bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết + Thời hạn Bảo hiểm không xác định phí Bảo hiểm có thể đóng định kỳ hay đóng một lần . + Phí Bảo hiểm cao hơn so với Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn. Vì rủi ro chết chắc chắn sẽ xảy ra, nên số tiền bảo hiểm chắc chắn sẽ phải trả + Bảo hiểm nhân thọ trọn đời là loại hình Bảo hiểm dài hạn, phí đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình Bảo hiểm do đó tạo nên một khoản tiết kiệm cho người thụ hưởng Bảo hiểm vì chắc chắn người bảo hiểm sẽ chi trả số tiền Bảo hiểm. * Mục đích: + Đảm bảo chi phí mai táng, chôn cất + Đảm bảo thu nhập để ổn định cuộc sống cho gia đình. + Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau. 4.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống Thực chất của loại hình Bảo hiểm này là người Bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong suốt khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia Bảo hiểm. Nếu người tham gia Bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ khoản tiền nào. * Đặc điểm: + Cấp định kỳ cho người được Bảo hiểm trong thời gian nhất định hoặc cho đến khi chết. + Phí Bảo hiểm đóng một lần. + Nếu trợ cấp định kỳ cho đến khi chết thì thời gian không xác định * Mục đích: + Đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay cao tuổi sức yếu. + Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cáI khi về già. + Bảo trợ mức sống trong suốt những năm tháng còn lạI của cuộc đời 4.3. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp . Loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cả trong trường hợp người bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới. * Đặc điểm: + Số tiền Bảo hiểm được trả khi hết hạn hợp đồng hoặc người được bảo hiểm bị tử vong trong thời hạn hợp đồng còn hiệu lực. +Thời hạn Bảo hiểm xác định thường là: 5 năm , 10 năm, 20 năm ….. + Phí Bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời gian Bảo hiểm + Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí Bảo hiểm và cũng có thể được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia. * Mục đích: + Đảm bảo cuộc sống cho gia đình và người thân . + Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ. + Dùng làm vật thế chấp để khởi nghiệp kinh doanh ….. 4.4. Các điều khoản Bảo hiểm bổ sung . Khi triển khai các loại hình Bảo hiểm nhân thọ , nhà Bảo hiểm còn nghiên cứu , đưa ra các điều khoản bổ sung để đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá của khách hàng , có các đIều khoản bổ sung sau đây được vận dụng : + Điều khoản bổ sung Bảo hiểm lằm viện và phẫu thuật: Có nghĩa là nhà Bảo hiểm cam kết trả các phí lằm viện và phẫu thuật khi người được bảo hiểm bị ốm đau và thương tật. Tuy nhiên, nếu người được bảo hiểm tự gây thương tích, tự tử, mang thai và sinh nở …thì không được hưởng quyền lợi Bảo hiểm. Mục đích của điều khoản này là nhằm trợ giúp người tham gia giảm nhẹ gánh nặng chi phí trong điều trị phẫu thuật, đặc biệt là trong trường hợp ốm đau bất ngờ. + Điều khoản bổ sung Bảo hiểm tai nạn: Nhằm trợ giúp thanh toán chi phí trong điều trị thương tật, từ đó bù đắp sự mất mát hoặc giảm thu nhập do bị chết hoặc thương tích của người được bảo hiểm. Điều khoản này có đặc điểm là Bảo hiểm khá toàn diện các hậu quả tai nạn như: Người được bảo hiểm bị tàn phế, thương tật toàn bộ, thương tích tạm thời, tai nan sau đó bị chết. Những trường hợp tự thương, tai nạn do nghiện rượu, ma tuý … đều không được hưởng quyền lợi Bảo hiểm . + Điều khoản bổ sung Bảo hiểm sức khoẻ: Thực chất điều khoản Bảo hiểm này là nhà Bảo hiểm sẽ cam kết thanh toán khi người được bảo hiểm bị các chứng bệnh hiểm nghèo như: Đau tim. Ung thư. Suy gan. Suy thận . Suy hô hấp. Mục đích tham gia Bảo hiểm ở đây nhằm có được những khoản tài chính nhất định để trợ giúp thanh toán các khoản chi phí y tế lớn góp phần giải quyết, lo liệu các nhu cầu sinh hoạt trong thời gi._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36785.doc